TOP 32 bài mẫu Tóm tắt tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân | Văn mẫu 12
Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nền văn học hiện thực. Tác phẩm vừa cho thấy hiện thực của cuộc sống nghèo khổ của nhân dân, đồng thời đã phản ánh lên được giá trị nhân đạo rất sâu sắc. Vậy sau đây là 32 mẫu tóm tắt Vợ nhặt dễ hiểu nhất mời các bạn theo dõi.
Preview text:
Văn mẫu lớp 12: Tóm tắt Vợ nhặt
Tóm tắt văn bản Vợ nhặt
Tràng sống với mẹ già trong một căn nhà rách rưới ở xóm Ngụ cư. Hằng ngày, Tràng
đi kéo xe bò thuê. Một hôm, khi kéo xe thóc Liên Đoàn lên tỉnh, Tràng đã gặp thị.
Nhờ một câu hò vu vơ lúc mệt nhọc, thị đã chạy tới kéo xe giúp Tràng. Đến lần gặp
mặt thứ hai, thị trông xanh xao và tiều tụy đi nhiều vì cái đói. Tràng đã mời thị ăn một
chặp bốn cái bánh đúc dù Tràng cũng không có đủ tiền ăn. Thị theo Tràng về nhà và
gặp mẹ Tràng. Thị cùng mẹ dọn dẹp sân vườn, bữa cơm đón nàng dâu của bà cụ Tứ và
anh cu Tràng là một nồi cháo cám mà cả ba gọi khéo là chè khoán. Cuối truyện là hình
ảnh lá cờ đỏ hiện lên trong óc Tràng, như là mở ra một cánh cửa mới cho tương lai sau
này của các nhân vật. Vợ nhặt tóm tắt
Tràng - một người dân nghèo khổ sống cùng với mẹ già ở xóm ngụ cư. Một ngày nọ,
trên đường kéo xe bò vào dốc tỉnh, Tràng tình cờ gặp gỡ với Thị. Chỉ với câu đùa và
bốn bát bánh đúc, Thị đã đồng ý theo làm vợ và theo Tràng về nhà. Khi về đến nhà, bà
mẹ của Tràng ban đầu rất ngạc nhiên, sau đó là đón nhận người đàn bà khốn khổ ấy
làm con dâu với một sự thương cảm sâu sắc. Sáng hôm sau, Tràng bỗng cảm thấy
mình đổi khác. Anh cảm thấy mình có trách nhiệm hơn. Bữa cơm đầu tiên của nàng
dâu mới chỉ có vài món ăn đơn giản và một nồi cháo cám mà bà mẹ nói đùa đó là chè
khoán. Miếng cám chát, nghẹn cổ nhưng Tràng vẫn cùng vợ hướng về một cuộc sống
đổi khác. Cuộc trò chuyện về tiếng trống thúc thuế kết thúc và trong óc Tràng hiện ra
đám người đói phá kho thóc và lá cờ đỏ bay phấp phới.
Tóm tắt bài Vợ nhặt
Trong lúc xóm ngụ cư xơ xác, tiêu điều trong nạn đói, vào một buổi chiều tà, Tràng -
một người nông dân nghèo, luống tuổi, thô kệch, lại dở hơi, ở xóm ngụ cư - dẫn về
nhà một người phụ nữ - người vợ nhặt. Tràng gặp người vợ nhặt đang trong hoàn cảnh
đói rách cùng đường. Với một câu nói đùa và mời ăn bốn bát bánh đúc, Tràng được
người phụ nữ này ưng thuận theo anh về nhà. Mẹ Tràng (bà cụ Tứ) đón nhận người
Văn mẫu lớp 12: Tóm tắt Vợ nhặt
con dâu trong tâm trạng buồn vui, lo âu, hi vọng khó tách bạch nhưng không hề tỏ ra
rẻ rúng người phụ nữ đã theo không con mình. Đêm tân hôn của họ diễn ra trong
không khí chết chóc, tủi sầu từ xóm ngụ cư vọng tới. Sáng hôm sau, Bà cụ Tứ và cô
dâu mới xăm xắn dọn dẹp, quét tước trong ngoài. Trước cảnh ấy, Tràng cảm thấy
mình gắn bó và có trách nhiệm với cái nhà của mình và thấy mình nên người. Trông
người vợ đúng là một người phụ nữ hiền hậu đúng mực, không còn vẻ gì chao chát
chỏng lỏn như lần đầu gặp nhau. Cụ Tứ hồ hởi đãi hai con vài bát cháo loãng và một
nồi chè cám. Qua lời kể của người vợ, Tràng hiểu được Việt Minh và trong óc Tràng
hiện lên hình ảnh đám người đói kéo nhau đi phá kho thóc Nhật, phía trước là một lá cờ đỏ bay phấp phới.
Tóm tắt Vợ nhặt của Kim Lân
Tràng sống cùng với mẹ già ở xóm ngụ cư. Ít lâu nay, anh xe thóc Liên đoàn lên tỉnh.
Mỗi khi qua cửa nhà kho lại thấy mấy chị con gái ngồi ở đây. Một lần, trên đường kéo
cái xe bò thóc vào dốc tỉnh, anh gặp gỡ với thị. Chỉ với bốn bát bánh đúc, thị đã đồng
ý làm vợ, rồi theo anh về nhà. Về đến nhà, bà cụ Tứ - mẹ của Tràng vô cùng ngạc
nhiên khi nhìn thấy một người đàn bà lạ ở trong nhà. Sau khi biết rõ sự tình, người mẹ
nghèo khổ ấy đã hiểu ra, và chấp nhận nàng dâu mới. Sáng hôm sau, Tràng thức dậy
và thấy mọi thứ xung quanh thay đổi. Bản thân anh cũng cảm thấy cần có bổn phận
phải lo cho vợ con. Bữa ăn đầu tiên của nàng dâu mới mới thật thảm hại: chỉ có độc
một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon
lành. Họ vừa ăn vừa nói đến chuyện tương lai. Bà cụ Tứ còn mang lên món chè khoán
mà thực chất là cháo cám mà theo lời bà là khối nhà chẳng có mà ăn. Tiếng trống thúc
thuế vang lên khiến Tràng nhớ đến đám người đói phá kho thóc và lá cờ đỏ bay phấp phới.
Tóm tắt bài Vợ nhặt Tóm tắt mẫu 1
Tràng là anh thanh niên ngụ cư nghèo khổ, làm nghề kéo xe bò kiếm sống. Anh vốn ế
vợ từ lâu nhưng đột nhiên lại "nhặt" được vợ một cách dễ dàng chỉ bằng vài câu hò
Văn mẫu lớp 12: Tóm tắt Vợ nhặt
đùa và bốn bát bánh đúc. Trên đường về, Tràng vừa ngượng ngùng vừa hãnh diện vì
lấy được vợ. Người dân xóm ngụ cư ai nấy đều ngạc nhiên khi thấy có người đàn bà lạ
theo Tràng, rồi lại lo lắng cho anh vì đã đèo bòng thêm một miệng ăn giữa nạn đói
khủng khiếp. Trước việc con trai lấy vợ, bà cụ Tứ ban đầu rất ngạc nhiên, khi hiểu ra
câu chuyện, bà vừa xót xa vừa mừng tủi và chấp nhận cô vợ nhặt là dâu con trong nhà.
Sáng hôm sau, Tràng hạnh phúc như vừa ở giấc mơ đi ra. Anh nhận thấy sự đổi thay
quang quẻ của ngôi nhà dưới bàn tay của mẹ và vợ. Tràng cảm động, cảm thấy gắn bó
với ngôi nhà và thấy mình nên người. Trong bữa sáng đón nàng dâu mới, cả nhà
Tràng ăn uống rất đầm ấm, cô vợ ra dáng là người phụ nữ hiền thảo chứ không chao
chát, chỏng lỏn như hai lần đầu gặp gỡ. Bà cụ Tứ không chỉ nói toàn chuyện vui,
chuyện làm ăn mà còn vui vẻ bưng lên nồi "chè khoán". Nhưng cả ba người đều im
lặng hờn tủi ngay khi gợt miếng đầu tiên vào miệng bởi "chè khoán" thực ra là nồi
cám chát xít. Giữa lúc ấy, người con dâu nghe thấy tiếng trống thúc thuế bèn kể
chuyện người đói ở Thái Nguyên, Bắc Giang vùng dậy phá kho thóc Nhật. Câu
chuyện ấy làm hiện lên trong đầu Tràng hình ảnh đoàn người đói đi trên đê Sộp và lá cờ đỏ bay phấp phới. Tóm tắt mẫu 2
Anh cu Tràng là người đàn ông xấu xí, thô kệch sống ở xóm Ngụ cư. Diện mạo xấu xí,
gia cảnh khó khăn khiến Tràng khó có thể lấy vợ trong hoàn cảnh thường, càng khó
hơn khi nạn đói bùng nổ. Thế nhưng trước sự ngỡ ngàng của người dân xóm ngụ cư,
bà cụ Tứ và chính bản thân Tràng, Tràng đã lấy được vợ. Thị chấp nhận theo Tràng
sau khi ăn hết bốn cái bánh đúc và mấy câu đùa của anh Tràng. Biết gia cảnh nghèo
khó của mẹ con Tràng nhưng Thị không bỏ đi mà chỉ nén sự thất vọng trong tiếng thở
dài. Buổi sáng đầu tiên về nhà chồng, Thị đã cùng bà cụ Tứ dọn dẹp nhà cửa, dọn cỏ
trong vườn và chuẩn bị bữa cơm gia đình. Không khí bữa ăn nghẹn lại vì miếng cháo
cám chát bứ nơi cổ, bà cụ Tứ động viên các con cố gắng làm ăn. Để làm dịu đi không
khí đang trầm lại, Thị kể chuyện Việt Minh phá kho thóc, cuối truyện hình ảnh lá cờ
đỏ như mở ra con đường tương lai cho anh Tràng: đi theo cách mạng.
Tóm tắt Vợ nhặt siêu ngắn
Văn mẫu lớp 12: Tóm tắt Vợ nhặt Tóm tắt mẫu 1
Truyện xoay quanh tình huống nhặt được vợ của anh cu Tràng đầy hài hước nhưng
cũng cay đắng và nghẹn ngào. Chỉ với dăm bát bánh đúc và mấy câu hò bông đùa mà
một thanh niên nghèo khó đã được một người phụ nữ xa lạ theo không về nhà. Cuộc
sống của anh Tràng cũng như Thị cùng nhau bước sang một trang mới, tuy còn gặp
nhiều khó khăn, đến miếng ăn cái mặc hay sự chuẩn bị cho một đám cưới đều không
được vẹn toàn, nhưng ta vẫn thấy sáng lên trong tác phẩm một tình người ấm áp. Tóm tắt mẫu 2
Truyện lấy bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945, kể về nhân vật chính có tên là
Tràng, một chàng trai xấu xí nghèo khổ, làm nghề đẩy xe thóc thuê. Giữa lúc nạn đói
tràn đến xóm ngụ cư của hắn, Tràng đưa vợ về nhà, người vợ hắn “nhặt” được sau vài
ba bận nói đùa và bốn bát bánh đúc. Bà cụ Tứ , người mẹ giàu tình thương người, xót
cho cảnh ngộ người đàn bà, vừa mừng vừa tủi, bà chấp nhận nàng dâu mới. Cái liều
lĩnh của Tràng đã biến thành hạnh phúc, những con người nghèo khổ ấy cùng nương
tựa vào nhau và cùng hi vọng vào tương lai. Tác phẩm kết thúc bằng hình ảnh lá cờ
đỏ, niềm tin vào một tương lai tươi sáng hơn. Tóm tắt mẫu 3
Trong một buổi chiều tà xơ xác với cái đói, Tràng dắt người vợ nhặt về. Bọn trẻ con
thấy thế lớn tiếng trêu "chông vợ hài". Thị e thẹn đi theo sau Tràng, từ một người đàn
bà kém duyên, đanh đá, nay Thị đã biết e thẹn, ngại ngùng khi đi theo Tràng về làm
vợ. Thị theo Tràng về nhà chỉ sau hai lần gặp gỡ, hoàn cảnh của truyện thật éo le cho
thấy cái đói đã khiến số phận con người trở nên rẻ rúm hơn bao giờ hết. Khi theo
Tràng về nhà, Thị gặp bà cụ Tứ và cùng mẹ dọn dẹp, quét tước sân vườn. Chính nhờ
tình yêu thương con người trong lúc khó khăn của hai mẹ con Tràng đã cưu mạng Thị,
khiến cho thị vừa được yêu thương, vừa có một mái ấm hạnh phúc. Tóm tắt mẫu 4
Văn mẫu lớp 12: Tóm tắt Vợ nhặt
Anh Tràng là người đàn ông xấu xí, nghèo khổ sống cùng với người mẹ già xóm ngụ
cư. Tràng sống bằng nghề kéo xe bò thuê, trong một lần kéo xe bò thóc lên tỉnh, Tràng
gặp Thị- người đàn bà giúp Tràng đẩy xe thóc. Trong lần gặp gỡ thứ hai, sau những
lời trách móc của Thị, bữa ăn vội vàng và những lời nói đùa vu vơ của anh Tràng, Thị
đã chấp nhận theo không Tràng về làm vợ. Thị theo Tràng về nhà, sáng sớm hôm sau
Thị cùng mẹ chồng dọn dẹp nhà cửa, sân vườn, bữa cơm ngày đói nghẹn đắng với chè
khoán (cháo cám) nhưng không khí hài hòa, ấm áp. Trong bữa cơm, Thị kể về Việt
Minh phá kho thóc Nhật chia cho dân nghèo. Trong đầu anh Tràng hiện lên hình ảnh
lá cờ đỏ và hình ảnh đám người đói đi trên đê khộp.
Tóm tắt tác phẩm Vợ nhặt ngắn gọn Tóm tắt mẫu 1
Năm 1945, nạn đói khủng khiếp xảy ra lan tràn khắp nơi trên cả nước, người chết như
rạ, người sống cũng dật dờ như những bóng ma. Tràng là chàng trai xấu xí thô kệch, ế
vợ, Tràng sống ở xóm ngụ cư. Anh làm nghề kéo xe bò thuê và sống cùng người mẹ
già. Một lần kéo xe thóc Liên đoàn lên tỉnh Tràng đã quen với một cô gái. Vài ngày
sau gặp lại, Tràng không còn nhận ra cô gái ấy, bởi vẻ tiều tụy, đói rách làm cô đã
khác đi rất nhiều. Tràng đã mời cô gái một bữa ăn, cô gái liền ăn một lúc bốn bát bánh
đúc. Sau một câu nói nửa thật, nửa đùa, cô gái đã theo anh về nhà làm vợ. Việc Tràng
nhặt được vợ đã làm cả xóm ngụ cư ngạc nhiên, nhất là bà Cụ Tứ (mẹ của Tràng)
cũng không nổi bàng hoàng ngạc nhiên và lo lắng nhưng rồi bà cụ cũng đã hiểu ra và
chấp nhận người con dâu ấy. Trong bữa cơm” đón nàng dâu mới, họ chỉ với một bữa
cháo kèm theo là nồi cháo cám bà cụ tứ dành cho nàng dâu nhân bữa cơm đón nàng
dâu mới với tấm lòng độ lượng, bao dung. Tác phẩm kết thúc ở chi tiết vào buổi sáng
hôm sau tiếng trống thúc thuế dồn dập, quạ đen bay vù như mây đen. Thị nói về
chuyện Việt Minh phá kho thóc Nhật và Tràng nhớ lại hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới hôm nào.
Xem thêm: Phân tích Vợ nhặt Tóm tắt mẫu 2
Văn mẫu lớp 12: Tóm tắt Vợ nhặt
Tràng là một người đàn ông nghèo khổ, cơ cực ở xóm ngụ cư. Một ngày kia, trong
buổi chiều, trong không khí thê thảm, ảm đạm vì đói, Tràng dẫn về một người phụ nữ.
Đó là vợ anh – người vợ nhặt. Tràng đã bắt gặp vợ tương lai của mình đang cảnh đói
rách, mời ăn bốn bát bánh đúc kèm theo lời nói đùa vui. Bà mẹ già của Tràng đón
nhận người đàn bà khốn khổ ấy làm con dâu trong mối đau đớn và thương cảm. Tràng
cảm thấy con người mình đổi khác. Từ chút đùa đến thoáng lo, bây giờ Tràng thấy
niềm vui thành người có trách nhiệm, dù đêm đầu tiên của đôi vợ chồng qua đi trong
không khí khét lẹt mùi chết chóc và tiếng hờ khóc ai oán. Bà mẹ nghèo đãi hai con ít
cháo và nồi chè đặc biệt. Miếng cám chát, nghẹn cổ nhưng Tràng vẫn cùng vợ hướng
về một cuộc sống đổi khác. Trong óc anh hiện ra đám người đói phá kho thóc và lá cờ đỏ bay phấp phới. Tóm tắt mẫu 3
Giữa lúc xóm ngụ cư xơ xác, tiêu điều trong nạn đói đầu năm 1945, vào một buổi
chiều tà, Tràng- một người nông dân nghèo, luống tuổi, thô kệch, lại dở hơi- dẫn một
người phụ nữ về nhà. Vì đang lâm cảnh ngộ đói rách cùng đường nên chỉ qua vài lần
gặp gỡ với một vài câu nói đùa, rồi cắm đầu ăn một chặp hết bốn bát bánh đúc do
Tràng “chiêu đãi”, người phụ nữ này ưng thuận theo không anh về nhà. Mẹ Tràng (bà
cụ Tứ) đón nhận người con dâu trong tâm trạng vừa buồn vừa mừng, vừa lo âu, vừa hi
vọng nhưng không hề tỏ ra rẻ rúng người phụ nữ đã theo không con mình. Đêm tân
hôn của họ diễn ra trong không khí chết chóc, tủi sầu từ xóm ngụ cư vọng tới. Sáng
hôm sau, một buổi sáng mùa hạ, nắng chói lói. Bà cụ Tứ và cô dâu mới xăm xắn dọn
dẹp, quét tước trong ngoài. Trước cảnh ấy, Tràng cảm thấy mình gắn bó và có trách
nhiệm với cái nhà của mình và thấy mình nên người, trông người vợ đúng là một
người phụ nữ hiền hậu đúng mực, không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như lần đầu
gặp nhau. Bà cụ Tứ hồ hởi đãi hai con vài bát cháo loãng và một nồi chè cám. Qua lời
kể của người vợ, Tràng dần dần hiểu được Việt Minh và trong óc Tràng hiện lên hình
ảnh đám người đói kéo nhau đi phá kho thóc Nhật, phía trước là một lá cờ đỏ bay phấp phới. Tóm tắt mẫu 4
Văn mẫu lớp 12: Tóm tắt Vợ nhặt
Tràng là chàng trai xấu xí sống với mẹ ở xóm ngụ cư. Giữa nạn đói khủng khiếp, anh
phải làm nghề kéo xe thóc thuê lên tỉnh để lấy tiền trang trải qua ngày. Ở đây, qua vài
câu nói bông đùa và bốn bát bánh đúc, anh với cô thị đanh đá chỏng lỏn đã trở thành
vợ chồng với nhau mà không cưới hỏi hay yêu đương gì. Cô thị theo không anh về
làm vợ, trên đường về khác với vẻ đanh đá thường thấy, khi bị trêu, cô thị tỏ ra
ngượng ngùng. Về đến nhà, cô khép nép khác thường. Khi bà cụ Tứ - mẹ anh Tràng
về đến nhà, bà vừa ngạc nhiên, sững sờ vì có người gọi mình là mẹ; vừa đau buồn, tủi
hổ, xót thương vì con mình lấy vợ đúng lúc khó khăn nhất không biết có qua nổi giai
đoạn này không và người ta lấy con mình vì cái đói, cái khổ. Gạt đi những giọt nước
mắt đau buồn, bà động viên các con yêu thương nhau và lạc quan hơn trong cuộc
sống. Cuộc sống từ khi có nàng dâu thay đổi hoàn toàn, sự bừa bộn của căn nhà được
dọn dẹp sạch sẽ, ngăn nắp, tươm tất. Bữa ăn đầu tiên khi về nhà chồng của cô thị chỉ
vỏn vẹn là rau chuối và cám lợn, mọi người ăn trong nghẹn ngào, không ai nói với ai
câu nào. Cô thị kể những mẩu chuyện người đi phá kho thóc Nhật cho anh Tràng và
bà cụ Tứ, tưởng chừng chỉ là những câu chuyện vô thưởng vô phạt nhưng nó lại là
chìa khóa, mở ra trong đầu anh Tràng lá cờ của Đảng và một cuộc sống mới trong
tương lai hứa hẹn sẽ tốt đẹp và no đủ hơn hiện tại.
Xem thêm: Phân tích giá trị nhân đạo Vợ Nhặt Tóm tắt mẫu 5
Người chết như ngả dạ, người sống dật dờ như những bóng ma trong cái nạn đói
khủng khiếp năm 1945. Anh cu Tràng - nhân vật chính của truyện hiện lên với hình
ảnh "xấu xí thô kệch", lại ế vợ và là người dân trong xóm ngụ cư. Tràng gặp thị - một
người đàn bà đỏng đánh, kém duyên. Nhờ lòng thương người, Tràng đãi thị ăn một
chặp bốn cái bánh đúc. Thị theo Tràng về nhà làm vợ, gặp bà cụ Tứ - mẹ của Tràng.
Bà cụ Tứ tuy rất ngạc nhiên khi Tràng dắt vợ về nhưng bà cũng thấu hiểu và thấy
thương cho người con gái ấy. Khi về làm vợ Tràng, thị đã thay đổi, trở thành một
người biết chăm lo cho gia đình chứ không còn đỏng đảnh như trước kia. Anh cu
Tràng cũng thay đổi, anh thấy lo cho tương lai sau này và có những suy nghĩ sâu xa
hơn về cuộc sống. Ba mẹ con Tràng, Thị và bà cụ Tứ cùng nhau ăn nồi cháo cám rất
Văn mẫu lớp 12: Tóm tắt Vợ nhặt
vui vẻ, còn gọi đùa rằng đó là chè khoán. Trong lúc trò chuyện, thị có nhắc tới chuyện
Việt Minh phá kho thóc Nhật, lúc này trong óc Tràng hiện lên hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới. Tóm tắt mẫu 6
Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân trích trong tập Con chó xấu xí. Chuyện kể
về số phận của một chàng trai với cái tên là Tràng. Trong thời buổi nạn đói hoành
hành của những năm 1945 đã làm hơn 2 triệu người chết, đâu đâu cũng là sự chết chóc
mà chàng trai tên là Tràng lại cưới vợ (hay nói đúng hơn là nhặt được vợ). Tràng được
tác giả miêu tả là một anh chàng rất xấu trai, ăn nói cộc lốc, thô kệch, ấy thế mà lại lấy
được vợ. Khi nghe tin anh Tràng cưới vợ thì cả xóm nơi Tràng ở đều ngạc nhiên và lo
lắng cho anh, đặc biệt là mẹ của anh mà mọi người gọi bà là bà cụ Tứ lúc vui lúc buồn
không biết tại sao? Khi con trai của bà cưới vợ mà bà chẳng có gì hơn ngoài lời chúc
đến vợ chồng anh là hãy sống tốt. Bữa cơm ăn mừng cho sự xuất hiện của nàng dâu
mới, bà cụ kể toàn những chuyện vui, bà hi vọng rằng tương lai của hai đứa con mình
sẽ tươi sáng, “nồi chè khoán” do chính tay bà nấu tuy chát đắng nhưng thể hiện được
sự quan tâm của bà tới hạnh phúc của con. Đang trong cuộc vui của gia đình mừng
nàng dâu mới thì có tiếng trống thúc thuế dồn dập, trong đầu Tràng nghĩ tới lá cờ Việt
Nam bay phất phới cùng nhiều người đi cướp kho thóc của giặc để chia cho dân
nghèo. Đó là tinh thần đoàn kết của người dân cùng khổ trong chiến tranh và họ vẫn
luôn hi vọng rằng sẽ có một tương lai tươi sáng hơn đang chờ đón họ phía trước. Tóm tắt mẫu 7
Câu chuyện kể về những năm 1945 khi nạn đói khủng khiếp đang hoành hành. Những
con người thiếu ăn sống vật vờ và chết đói. Hoàn cảnh bi đát như vậy nhưng Tràng
chàng trai bề ngoài xấu xí đã có vợ, họ gặp nhau đều là những người cùng chung cảnh
ngộ. Ai nấy đều bất ngờ trong khi mẹ Tràng (bà cụ Tứ) đón nhận người con dâu tâm
trạng vừa mừng, vừa lo âu nhưng không hề tỏ ra rẻ rúng người phụ nữ đã theo con
mình. Bà cầu chúc và hi vọng hai đứa sẽ có cuộc sống tốt đẹp hơn. Ngày hôm sau bà
cụ Tứ và cô dâu dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ. Tràng thấy vậy càng hiểu mình phải có
trách nhiệm với nhà và với người vợ mới. Bà cụ Tứ chuẩn bị bữa ăn cho gia đình hai
Văn mẫu lớp 12: Tóm tắt Vợ nhặt
con vài bát cháo loãng và một nồi chè cám, tuy đơn sơ nhưng lại vô cùng vui vẻ, ấm
áp. Tiếng trống dồn dập vang lên và trong đầu Tràng hiện lên hình ảnh người dân bị
đói đang kéo nhau đi phá kho thóc Nhật chia cho người nghèo, phía trước đó là lá cờ
đỏ bay phấp phới trong gió. Tóm tắt mẫu 8
Tràng nhân vật xuất hiện trong một hoàn cảnh đặc biệt, khi nạn đói xuất hiện, anh
sống cùng mẹ già và phải kiếm ăn qua ngày. Tuy xấu xí, thô kệch nhưng hiền lành tốt
bụng, trong một lần kéo xe Tràng giúp đỡ cô gái và cô gái này tình nguyện theo Tràng
về nhà làm vợ. Sự việc Tràng có vợ khiến cả xóm xôn xao, người mẹ vui mừng nhưng
cũng đầy lo âu. Còn Tràng lúc đầu đắn đo nhưng sau đó cũng mặc kệ, lúc này khao
khát hạnh phúc trong anh còn lớn hơn nỗi sợ về đói khát. Bữa ăn đầu tiên của gia đình
đó là nồi cháo cám đắng ngắt, bà kể chuyện vui cho hai vợ chồng và mong rằng con
mình sẽ có tương lai tốt đẹp hơn. Đối với Tràng anh cảm thấy sự mới mẻ, khác lạ và ý
thức được trách nhiệm, bổn phận của mình đối với gia đình. Tiếng trống dồn dập liên
tục đã cắt ngang bữa ăn, người dân đi phá kho thóc cứu đói cho nhân dân và xa xa đó
là lá cờ của cách mạng bay phấp phới. Tóm tắt mẫu 9
Trong nạn đói khủng khiếp năm 1945, anh cu Tràng là một người xấu xí, thô kệch, lại
còn là dân xóm ngụ cư. Tràng sống với mẹ già trong một căn nhà rách rưới. Hằng
ngày, Tràng đi kéo xe bò thuê. Một hôm, khi kéo xe thóc Liên Đoàn lên tỉnh, Tràng đã
gặp thị. Nhờ một câu hò vu vơ lúc mệt nhọc, thị đã chạy tới kéo xe giúp Tràng. Đến
lần gặp mặt thứ hai, thị trông xanh xao và tiều tụy đi nhiều vì cái đói. Tràng đã mời thị
ăn một chặp bốn cái bánh đúc dù Tràng cũng không có đủ tiền ăn. Thị theo Tràng về
nhà và gặp mẹ Tràng. Thị cùng mẹ dọn dẹp sân vườn, bữa cơm đón nàng dâu của bà
cụ Tứ và anh cu Tràng là một nồi cháo cám mà cả ba gọi khéo là chè khoán. Cuối
truyện là hình ảnh lá cờ đỏ hiện lên trong óc Tràng, như là mở ra một cánh cửa mới
cho tương lai sau này của các nhân vật. Tóm tắt mẫu 10
Văn mẫu lớp 12: Tóm tắt Vợ nhặt
Cụ Tràng ở xóm ngụ cư, làm nghề kéo xe bò chở thuê. Đã nhiều tuổi, thô kệch, có
tính vừa đi vừa nói lảm nhảm như kẻ dở hơi. Bà cụ Tứ mẹ hắn nghèo khổ. Hai mẹ con
ở trong một mái nhà tranh vắng teo, rúm ró. Trận đói kinh khủng đang diễn ra, người
chết đói như ngả rạ. Một lần kéo xe thóc Liên đoàn lên tỉnh, hắn hò một câu vượt dốc
hết mình. Một cô gái ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, liếc mắt cười tít. Lần thứ hai,
Tráng gặp lại thị, trông khác hẳn, thị gầy sọp hẳn đi, áo quần tả tơi như tổ đỉa. Một vài
câu trách móc, mời chào, thị ăn một chập 4 bát bánh đúc do Tráng đãi. Mua một cái
thúng và 2 hào dầu, Tràng dẫn thị về nhà ra mắt mẹ. Xóm ngụ cư ngạc nhiên khi thấy
một người đàn bà xa lạ đi theo Tráng họ bàn tán, có phần lo ngại. Trong nhá nhem tối,
bà cụ Tứ gặp và nói chuyện với nàng dâu mới. Lần đầu nhà Tráng có dầu thắp đèn.
Tiếng ai hờ khóc người chết đói ngoài xóm lọt vào. Sáng hôm sau, bà mẹ chồng và
nàng dâu mới quét dọn trong nhà ngoài sân. Bữa cơm – cháo cám – đón nàng dâu
mới. Bà cụ Tứ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu, nói toàn chuyện
vui, toàn chuyện sung sướng sau này. Lại một buổi sáng. Tiếng trống thúc thuế dồn
dập. Quạ đen bay vù như mây đen. Thị nói về chuyện Việt Minh phá kho thóc Nhật.
Tràng nhớ lại lá cờ đỏ bay phấp phới hôm nào. Tóm tắt mẫu 11
Truyện ngắn Vợ nhặt xoay quanh cuộc sống của người lao động là anh Tràng - người
nông dân nghèo, lại là dân ngụ cư, làm nghề kéo xe thuê. Trong cảnh đói khát miền
trần gian như biến thành miền địa ngục, cõi âm như hòa với cõi trần, cõi trần mấp mé
bờ vực của cõi âm, Tràng đã nhặt được cô vợ ngoài tỉnh. Hình ảnh Tràng dẫn cô vợ
nhặt về ra mắt làm cả xóm ngụ cư và bà cụ Tứ- mẹ chàng phải ngạc nhiên. Trong
hạnh phúc đôi lứa nên duyên còn nỗi lo rằng đến với nhau giữa những ngày trời đất
tối sầm vì đói liệu có nuôi nổi nhau không. Người đàn bà Tràng đưa về nhà chỉ vừa
gặp có hai lần khi đưa thóc lên tỉnh, cũng đang trong cảnh đói nghèo và chờ việc. Chỉ
vài câu hỏi với một câu bông đùa mà chị đã theo Tràng về làm vợ. Chị cũng như bao
kiếp người xóm ngụ cư, đói, khổ đến nỗi chẳng có một cái tên nhưng chẳng vì thế mà
mẹ con Tràng khinh biệt nàng dâu mới. Bà cụ tứ thấy con trai dẫn vợ về mà ngạc
nhiên đến không tin vào tai, vào mắt mình. Bà lo lắng cho đôi lứa đến với nhau mà
lòng ngổn ngang, vừa lo lắng, vừa vui mừng trước hạnh phúc lớn lao bất ngờ. Tràng
Văn mẫu lớp 12: Tóm tắt Vợ nhặt
từ lúc có vợ thì luôn lạc quan, thấy cuộc sống có niềm vui, có ý nghĩa, đáng
sống.Truyện kết thúc bằng tiếng trống thúc thuế ngoài đình và những hình ảnh lá cờ
đỏ tung bay, đoàn người đói rủ nhau đi phá kho thóc Nhật ẩn hiện trong đầu Tràng.
Tóm tắt truyện Vợ Nhặt đầy đủ nhất Tóm tắt mẫu 1
Vợ nhặt là một truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân, in trong tập Con chó xấu xí. Tác
phẩm ban đầu có tên là Xóm ngụ cư, viết ngay sau Cách mạng tháng Tám. Bản thảo
sau này được viết lại.
Cái đói tràn xuống chợ, trẻ con ủ rũ, người lớn dật dờ, lặng lẽ. Tràng bông dắt người
đàn bà xa lạ ấy về. Trẻ con có đứa gào lên "chông vợ hài", người lớn bàn tán, những
khuôn mặt u tối của họ như rạng rỡ lên. Về đến cái nhà vắng teo, bà cụ Tứ, mẹ Tràng
về muộn; Tràng loanh quanh hết ra lại vào. Người đàn bà theo Tràng trong hoàn cảnh
không ngờ. Hai lần gặp, và câu đùa với bốn bát bánh đúc người đàn bà ăn một chập và
cái "chặc lưỡi" của Tràng.
Bà cụ Tứ về, Tràng reo lên, bà ngạc nhiên. Thấy trong nhà có người đàn bà, lại chào
bà là u, bà càng ngạc nhiên. Được Tràng giải thích, bà nín lặng. Bao nỗi niềm xáo trộn
trong lòng bà. Nói chuyện với con dâu, bà khóc. Tràng bật lửa thắp đèn, bà vội lau
nước mắt mùi đống rấm và tiếng hờ khóc ở những nhà trong xóm có người chết vẳng tới.
Sáng hôm sau, Tràng dậy muộn. Từ trong nhà đến ngoài sân đều đổi thay, gọn gàng,
sạch sẽ. Tràng thấy có bổn phận với vợ và yêu cái nhà mình hơn. Bữa ăn chỉ có rau
chuối rối chấm muối với mỗi người hai lưng bát cháo lõng bõng. Bà cụ Tứ nói toàn
những chuyện vui vẻ. Bà mừng con dâu mới bằng nồi cháo cám mà bà gọi vui là "chè
khoán". Tiếng trống thúc thuế ngoài đình nổi lên. Bà cụ Tứ lại khóc. Trong óc Tràng
bỗng hiện lên lá cờ đỏ và đoàn người trên đê Sộp đi phá kho thóc. Tóm tắt mẫu 2
Văn mẫu lớp 12: Tóm tắt Vợ nhặt
“Vợ nhặt” – nằm trong tập truyện “Con chó xấu xí”, một truyện ngắn xuất sắc của nhà
văn Kim Lân viết sau cuộc Cách mạng tháng tám. Truyện giống như một bản cáo
trạng tố cáo những tội ác của bọn thực dân Pháp, bọn phát xít đồng thời cũng phản
ánh, tái hiện lại cuộc sống thê thảm của nhân dân ta trong nạn đói 1945. Truyện mang
tính nhân văn sâu sắc khi khắc hoạ thành công hình ảnh những người nông dân dù
hoàn cảnh nghiệt ngã nào cũng sống vượt lên, ra sức yêu thương đùm bọc lẫn nhau khi khó khăn, đói khổ.
“Vợ Nhặt” là câu chuyện kể về năm 1945, khi nạn đói khủng khiếp xảy ra khắp nơi,
người chết chất đống không chỗ chôn, người sống thì như những bóng ma, dật dờ, gầy
rộc người. Và nhân vật chính là Tràng, một người đàn ông xấu xí, dáng người thô
kệch, ế vợ, sống ở xóm ngụ cư. Tràng làm nghề kéo xe bò kiếm sống qua ngày nuôi mẹ già – bà cụ Tứ
Trong dịp kéo xe thóc cho Liên đoàn, Tràng có quen biết một cô gái nhưng vài ngày
sau trận đói, gặp lại Tràng không thể nào nhận ra cô gái trước ấy nữa, bởi vẻ tiều tụy,
hốc hác của cô. Tràng mời cô gái ăn bánh đúc và sau một câu nói nửa đùa nửa thật, cô
gái xa lạ này đã theo anh về làm vợ. Khi Tràng dắt người đàn bà xa lạ về, cả xóm ngụ
cư ngạc nhiên, những khuôn mặt u tối bổng rạng rỡ lên.
Mẹ Tràng – bà cụ Tứ về muộn, khi thấy trong nhà có người con gái lạ, lại kêu bà là u,
bà rất ngạc nhiên. Được Tràng giải thích, trong lòng bà xuất hiện bao nỗi niềm, ngỡ
ngàng có, buồn có nhưng cũng vui và hi vọng hơn. Bà nói chuyện với con dâu không
hề tỏ thái độ khinh rẻ người phụ nữ đã theo không con trai mình về. Rồi bà khóc. Đêm
tân hôn của họ diễn ra lặng lẽ trong không khí thê lương với mùi rơm rạ và tiếng khóc
vẳng tới từ những gia đình trong xóm của người chết.
Sáng hôm sau, một buổi sáng mùa hạ với ánh nắng chói lói. Tràng thức dậy muộn. Bà
cụ Tứ và cô dâu mới đã dọn dẹp quét tước gọn gàng sạch sẽ từ trong nhà đến ngoài
sân. Tràng thấy vui và cảm thấy mình phải có bộ phận với vợ, có trách nhiệm với gia
đình hơn. Nhìn vợ, Tràng thấy đúng là một người phụ nữ hiền hậu đúng mực, không
còn cái vẻ gì chao chat như ở lần đầu hai người gặp nhau. Và cụ Tú chuẩn bị bữa ăn
với rau chuối rối chấm muối, hai lưng bát cháo lỏng và nồi chè cám. Trong bữa cơm,
Văn mẫu lớp 12: Tóm tắt Vợ nhặt
bà cụ chỉ toàn kể những chuyện vui vẻ, vợ Tràng kể cho anh nghe về Việt Minh, anh
dần hiểu. Bổng tiếng trống thúc thuế ngoài đình nổi lên giục giã làm trong đầu Tràng
hiện lên hình ảnh một lá cờ đỏ bay phấp phới cùng đoàn người trên đê Sộp đang đi phá kho thóc.
Người dân nghèo đã được thắp ngọn lửa hi vọng vào một tương lai tươi sáng hơn từ
con đường cách mạng cứu nước Tóm tắt mẫu 3
Chuyện kể về số phận của một chàng trai với cái tên là Tràng. Trong thời buổi loạn
lạc, nạn đói hoành hành, đó là thời điểm của những năm 1945 đã làm hơn 2 triệu
người chết, đâu đâu cũng là sự chết chóc. Trong hoàn cảnh như vậy mà chàng trai tên
là Tràng lại cưới vợ (hay nói đúng hơn là nhặt được vợ). Nhân vật Tràng ở đây được
tác giả miêu tả là một anh chàng rất xấu trai, ăn nói cộc lốc, thô kệch, ấy thế mà lại lấy
được vợ. Khi nghe tin anh Tràng cưới vợ thì cả xóm nơi Tràng ở đều ngạc nhiên và lo
lắng cho anh, đặc biệt là mẹ của anh mà mọi người gọi “bà là bà cụ Tứ” lúc này lúc
vui lúc buồn không biết tại sao? Khi con trai của Bà cưới vợ mà Bà chẳng có gì hơn
ngoài lời chúc đến vợ chồng anh là hãy sống tốt.
Bữa cơm ăn mừng cho sự xuất hiện của nàng dâu mới, Bà cụ kể toàn những chuyện
vui, Bà hy vọng rằng tương lai của hai đứa con mình sẽ tươi sáng, với “nồi chè khoán”
do chính tay Bà nấu, tuy chát đắng nhưng thể hiện được sự quan tâm của Bà tới hạnh
phúc của con. Đang trong cuộc vui của gia đình mừng nàng dâu mới thì có tiếng trống
thúc thuế dồn dập, trong đầu Tràng nghĩ tới lá cờ Việt Nam bay phất phơ và cùng
nhiều người đi cướp kho thóc của giặc để chia cho dân nghèo. Đó là tinh thần đoàn kết
của người dân cùng khổ trong chiến tranh và họ vẫn luôn hy vọng rằng sẽ có một
tương lai tươi sáng hơn đang chờ đón họ phía trước Tóm tắt mẫu 4
“Vợ nhặt” là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, được in vào năm 1962. Tác phẩm có
tiền thân là “xóm ngụ cư” nhưng ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, tác
Văn mẫu lớp 12: Tóm tắt Vợ nhặt
phẩm bị mất bản thảo, đến khi hòa bình lập lại năm 1954, Kim Lân dựa trên cốt truyện
cũ để viết truyện ngắn này.
Cái đói đã bắt đầu tràn xuống xóm ngụ cư, trẻ con ủ rũ, người lớn dật dờ, lặng lẽ y
như những bóng ma. Giữa lúc ấy, Tràng dắt người đàn bà xa lạ về nhà. Trẻ con trong
xóm gào lên “chồng vợ hài”. Người lớn ngạc nhiên bàn tán, những khuôn mặt u tối
của họ bỗng rạng rỡ lên. Về đến gian nhà vắng teo, rúm ró, xiêu vẹo, Tràng trong tâm
trạng nóng ruột chờ bà cụ Tứ; người đàn bà xa lạ kia ngồi ở mép giường cũng trong
tâm trạng buồn, lo lắng. Trời chạng vạng tối, cụ Tứ về rất ngạc nhiên khi có người đàn
bà lạ trong nhà lại chào mình bằng u. Được Tràng giải thích, bà nín lặng, bao nỗi niềm
xáo trộn trong lòng, xót xa, ai oán, buồn tủi xen lẫn cả niềm vui rồi mở rộng trái tim
đón lấy thị, nhận là con dâu. Đêm hạnh phúc của vợ chồng Tràng diễn ra trong cảnh
chết chóc, tan tác và thê lương. Sáng hôm sau, Tràng dậy muộn và nhận ra quang cảnh
nhà cửa có sự thay đổi thay, đống quần áo rách được đưa ra phơi, đống rác ở đầu ngõ
đã được hót sạch, ang nước khô đã được kín đầy. Cảnh vật ấy làm cho Tràng thấm
thía, có cảm giác phấn chấn và có trách nhiệm bổn phận với gia đình. Bữa cơm đầu
tiên đón nàng dâu mới là một lùm rau chuối thái rối, muối trắng, bát cháo lõng bõng
và một nồi chè khoán. Trong bữa cơm, cụ Tứ nói toàn chuyện vui và khi nghe tiếng
thúc thuế nổi lên, bà cụ lại khóc, còn trong Tràng bỗng hiện lên lá cờ đỏ và đoàn
người trên đê đi phá kho thóc của Nhật. Tóm tắt mẫu 5
Thái Bình, Nam Định những năm 1945 là nơi mà nạn đói hoành hành nhất. Người
chết ngã ra như rạ, không buổi nào người ta đi chợ, đi làm đồng mà không gặp ba bốn
cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí nồng mùi ẩm thối từ xác chết bốc ra.
Giữa cái cảnh tối sầm vì đói khát, Tràng – một anh chàng tính khù khờ, ngu ngơ dắt
về một cô vợ. Bọn trẻ thường ngày đùa giỡn với anh hôm nay cũng không dám đến
gần vì trông anh hôm nay thấy lạ và khác thường quá. Cô vợ này của Tràng là Thị.
Hai người kết duyên với nhau bằng vài câu nói đùa và bốn bát bánh đúc. Mẹ Tràng
thấy con mang một cô gái về bảo là vợ trong lòng mà nửa vui nửa buồn. Giữa cái thời
đói này người ta còn không dám mơ tới ngày mai chứ nói chi lấy vợ – mang thêm một
Văn mẫu lớp 12: Tóm tắt Vợ nhặt
cái miệng ăn về nhà. Bà chấp nhận nhưng trong lòng đầy lo âu rối bời. Sáng hôm sau,
nhà của anh trông thật lạ. Gọn gàng và sạch sẽ hơn hẳn. Cả nhà ngồi cùng nhau ăn
sáng bằng nồi cháo lõng bõng, nhưng không khí trong nhà thật vui, cho đến khi nồi
cháo lõng hết nhẵn, dù mẹ Tràng có nhanh trí đem nồi chè khoáng lên thì cũng chỉ là
chè từ cám. Từ đó không ai nói với ai câu nào, vì ai cũng hiểu vị chát đầu lưỡi là thật
và nó đã đem họ về thực tế. Họ không có lương thực. Một hồi trống thúc thuế vội vã
dồn dập, Thị thắc mắc tại sao làng này vẫn còn đóng thuế, làng Thị người ta đã phá
kho thóc của Nhật chia cho dân rồi. Tràng đang nghĩ đến những người phá kho thóc
của Nhật, trong đầu vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Tóm tắt mẫu 6
Câu chuyện trong tác phẩm Vợ nhặt xảy ra tại thời điểm nạn đói vào năm 1945 đang
xảy ra và cướp đi sinh mạng của hàng triệu người đã chết đói vì thiếu lương thực.
Hoàn cảnh lúc bấy giờ rất thê lương, đến ăn cũng không đủ không nói đến những nhu cầu cơ bản khác.
Trong hoàn cảnh đó chàng trai tên là Tràng với ngoại hình xấu xí, thô kệch lại cưới
được vợ mà đó lại là vợ nhặt. Khi nghe tin Tràng cưới vợ cả xóm đều ngạc nhiên và
cả lo lắng, nhất là mẹ của Tràng, bà cụ Tứ vui buồn lẫn lộn, vui khi con trai xấu xí,
thô kệch đã có vợ nhưng vô cùng lo lắng khi lại có thêm một miệng ăn trong khi hoàn
cảnh thiếu ăn. Khi con có vợ bà chỉ đến chúc phúc khuyên vợ chồng hãy sống tốt.
Ngày hôm sau nhờ con dâu mới mà nhà cửa đều gọn gàng sạch sẽ. Bữa cơm gia đình
lại có thêm sự xuất hiện của nàng dâu mới, bà cụ trò chuyện vui vẻ và hi vọng tương
lai của hai đứa sẽ tươi sáng, cả nhà chỉ có “nồi chè khoán” do chính tay cụ Tứ nấu
nhưng không khí lại rất vui vẻ, nồi chè tuy chát đắng khó ăn những thể hiện được tấm
lòng người mẹ yêu thương và mong muốn con mình được hạnh phúc.
Đang trong bữa ăn vui vẻ thì tiếng trống thúc thuế vang lên, lúc này chàng trai Tràng
nghĩ tới lá cờ đỏ đang tung bay phất phơ và nhiều người đang đi phá kho thóc chia cho dân nghèo. Tóm tắt mẫu 7
Văn mẫu lớp 12: Tóm tắt Vợ nhặt
Nước ta trong thời điểm năm 1945 nạn đói hoành hành và rất nhiều người chết.
Những con người sống không bằng chết, vật vờ đi kiếm ăn. Trong xóm nhỏ có anh
Tràng bề ngoại xấu xí, sống cùng mẹ già hàng ngày Tràng đi kéo xe bò thuê cho
người khác. Dù lớn tuổi nhưng ước mơ về một cô vợ thật quá xa xỉ khi cái ăn không
có thì làm sao nghĩ đến hạnh phúc lứa đôi. Trong một lần kéo xe, Tràng quen và giúp
đỡ một cô gái đang đói, hai người nhanh chóng kết thân. Tràng dẫn cô gái này về làm vợ.
Việc Tràng dẫn cô gái vừa mới quen về làm vợ khiến cả làng vô cùng ngạc nhiên,
nhưng họ cũng lo lắng cho gia đình của Tràng bởi tình cảnh nghèo đói rất khó khăn,
bởi lúc này thêm người là thêm miệng ăn.
Bà cụ Tứ lúc này buồn vui đan xen, bà vui vì con có vợ nhưng buồn và lo lắng khi
không biết lấy gì để kiếm sống qua ngày. Bữa ăn đầu tiên đó là nồi cháo cám nhưng
bà gọi là chè. Cô con dâu hiểu được tấm lòng của người mẹ và hoàn cảnh gia đình
cùng mẹ dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, tươm tất. Tràng cảm thấy mình là con người mới và
trách nhiệm với gia đình hơn.
Từ đằng xa tiếng trống nổi lên, hình ảnh xuất hiện đó là những người dân đi phá kho
thóc cứu đói, lá cờ bay trong gió mang lại niềm hi vọng về tương lai mới. Tóm tắt mẫu 8
Năm 1945, khắp cả nước diễn ra nạn đói khủng khiếp, cướp đi mạng sống của biết bao
nhiêu người. Người sống cũng dật dờ như những bóng ma. Trong ngôi làng ở xóm
ngụ cư, có anh cu Tràng là một người xấu xí, thô kệch, sống cùng với mẹ già.
Tràng làm nghề kéo xe bò thuê, cái nghèo bủa vây nên đến giờ anh vẫn chưa có vợ.
Một lần, khi anh kéo xe lên tỉnh đã quen một cô gái. Sau vài lần tán tỉnh, mời cô gái
kia một chặp bánh đúc, cô gái liền theo anh về làm vợ. Việc anh cu Tràng dắt một cô
vợ về xóm ngụ cư khiến ai ai cũng đều ngạc nhiên. Trong cái thời buổi đói kém, nay
sống mai chết vì miệng ăn, việc dắt thêm một người về càng khiến thêm gánh nặng.
Văn mẫu lớp 12: Tóm tắt Vợ nhặt
Bà cụ Tứ là mẹ anh Tràng, ban đầu bà có vẻ rất ngạc nhiên nhưng rất nhanh sau đó là
những cảm xúc buồn vui xen lẫn. Bà thương đứa con dâu này, ngay cả một miếng trầu
hỏi cưới cũng không có, dắt không về làm vợ người ta. Trong bữa cơm đón nàng dâu
mới là một nồi cháo cám mà bà cụ Tứ luôn miệng nói là chè khoán đấy. Cô con dâu
cũng nhìn thấy hoàn cảnh ấy, cùng mẹ chồng xăm xăm dọn dẹp, thu dọn ngôi nhà lụp
xụp để hi vọng nhìn thấy một tia sáng sủa phía trước.
Tiếng trống thúc thuế ngoài đình nổi lên, và qua lời kể của người vợ, anh Tràng dần
dần hiểu được và có khát vọng được thay đổi cuộc sống. Hình ảnh đám người đói kéo
nhau đi phá kho thóc Nhật, phía trước là một lá cờ đỏ bay phấp phới là biểu hiện cho
sự thay đổi về suy nghĩ đang diễn ra trong đầu anh cu Tràng. Tóm tắt mẫu 9
Vợ nhặt là tác phẩm kể về nhân vật Tràng sống trong nạn đói năm 1945, một thời kì
khủng khiếp, người chết chất đống còn người sống thì như những bóng ma. Tràng,
một người nông dân nghèo, xấu xí, ế vợ lại dở hơi, làm nghề kéo xe bò thuê và nuôi
một người mẹ già. Một hôm, Tràng dẫn về nhà một người phụ nữ đang lâm vào hoàn
cảnh đói rách cùng đường.
Tràng có vợ vô cùng đột ngột và bất ngờ, chỉ từ một câu nói đùa, và bữa ăn là bốn bán
bánh đúc, người phụ nữ đó đã ưng thuận theo Tràng về mà không cần bất kì cái gì. Mẹ
Tràng- bà cụ Tứ và cả cái xóm ngụ cư vô cùng ngạc nhiên. Bà cú Tứ đón nhận người
con dâu với một tâm trạng buồn có, lo có nhưng cũng vừa vui, vừa hi vọng, chấp nhận
mà không một lời trách hay tỏ thái độ chê bai người phụ nữ đó.
Buổi sáng đầu tiên đón con dâu, bà cụ Tứ chuẩn bị một bữa cháo kèm theo là nồi chè
cám nhưng trong đó là cả một tấm lòng của người mẹ già. Nhìn cảnh người phụ và mẹ
dọn dẹp, quét tước và bữa cơm gia đình, Tràng như trở thành một người đàn ông có
trách nhiệm hơn và thấy gắn bó với gia đình hơn. Tiếng trống thúc thuế vang lên, cùng
lời kể về Việt Minh của vợ, trong đầu Tràng hiện lên hình ảnh người người cùng nhau,
kéo nhau đi phá kho thóc Nhật, và lá cờ đỏ bay phấp phới khắp nơi. Tóm tắt mẫu 10
Văn mẫu lớp 12: Tóm tắt Vợ nhặt
Vợ nhặt là truyện ngắn lý tưởng nhất của nhà văn Kim Lân. Lấy bối cảnh đất nước
trong nạn đói lịch sử năm 1945, nhà văn mô tả cảnh ngộ cơ cực của người nông dân
Việt Nam và tình người rét mướt giữa con người sở hữu con người.
Truyện mở ra vào 1 buổi chiều tối sầm lại vì đói khát. Anh Tràng, nhân vật chính của
truyện dẫn theo 1 người nữ giới về xóm ngụ cư. bộ mặt anh ta thì tươi tắn phởn phở,
rất là khoái trá trong khi người phụ nữ đi bên cạnh thì ngượng ngập khá cúi đầu rén e
thẹn. Lũ con nhỏ và người dân trong xóm cư ngụ thì chạy cả ra để xem vì lạ quá và
bàn tán. Và loại sự bàn tán đó theo bước chân hai người đi về dưới bến tức thị về đến tận ngôi nhà của họ.
khi dẫn thị vào ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró bên mảnh vườn mọc đầy các búi cỏ dại
lổn nhổn thì Tràng và thị bỗng nhiên cộng thấy ngượng nghịu rồi cùng thấy sờ sợ. Rồi
sau ấy thì cảm giác sung sướng lấn lướt đi gần như và trong phút giây sung sướng đấy
thì Tràng nhớ lại câu chuyện mình đã nhặt được vợ như thế nào. khởi đầu đấy là khi
anh chàng kéo xe bò lên dốc thức giấc, nhọc quá hò một câu cho đỡ mệt “Muốn ăn…với anh”.
ngay tức khắc sở hữu một người nữ giới đang ngồi nhặt hạt rơi hạt vải ở trước những
kho thóc đã lon xon chạy lại đẩy xe cho anh, cười tít. tới lần gặp thứ hai ở chợ tỉnh
giấc thì người phụ nữ này sầm sập chạy đến xỉa xói Tràng quên lời hứa hẹn, mạnh bạo
đòi được ăn. Sau ấy được anh Tràng hào phóng đãi 4 bát bánh đúc không ngờ thị theo về thật.
đến lúc này, thấy thị đang ngồi giữa nhà mình Tràng vẫn thấy ngỡ ngàng chừng như
không phải thế. Sau đó bà cụ Tứ-mẹ Tràng trở về. Anh giới thiệu vợ sở hữu mẹ một
phương pháp rất trân trọng và trìu mến. Và bà mẹ sau các khoảnh khắc mà xúc cảm
vui buồn mừng tủi lẫn lộn thì bà lão đã mở rộng vòng tay đón cô con dâu mới.
Sáng hôm sau thì ko khí gia đình rất là vui vẻ đầm ấm: Mẹ chồng nàng dâu quét dọn
nhà cửa, rồi sắp cơm để ăn. Tràng cũng vui vẻ nô nức muốn tham gia vào việc sang
sửa căn nhà này. Trong bữa cơm đón dâu mới họ bắt đầu trò chuyện về tương lai rất
hứng khởi, rất tin tưởng.
Văn mẫu lớp 12: Tóm tắt Vợ nhặt
Mấy hôm sau, sở hữu tiếng trống thúc thuế vang lên dập dồn làm người nữ giới mới
về khiến cho dâu cảm thấy rất lạ. Chị đó kể đến chuyện ở mạn Thái Nguyên bắc
Giang người ta không đóng thuế nữa đâu, người ta còn phá kho thóc của Nhật để chia
cho người đói. thông báo đó đã khơi dậy ở Tràng một hướng đi mới cho thế cuộc của
mình cũng như là hướng đi mới cho các người dân cày đang chết dần chết mòn vì nạn
đói 1945 vì ách áp chế của thực dân Pháp, phát xít Nhật và phong kiến tay sai.
Lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945, truyện ngắn “Vợ nhặt” đã khắc họa cuộc sống ngột
ngạt, bức bối cùng chiếc nghèo khó, bần cộng của quần chúng. Cái đói đã hiện hữu
thành hình, thành màu, thành mùi, thành vị làm cho con người bị dồn đến mức các con
phố cùng, đẩy họ tới bên bờ vực của dòng chết. Tác phẩm biểu đạt niềm thương cảm
sâu sắc của nhà văn trước các cảnh sóng cùng cực của người nông dân, song song qua
đó, ông cáo giác tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật, đề đạt khát vẳng sống, khát
vẳng hạnh phúc và niềm tin vào tương lai tươi sáng của con người. Tóm tắt mẫu 11
Truyện ngắn Vợ Nhặt là một câu chuyện kể về năm 1945 khi nào đói khủng khiếp
hoành hành ở khắp nơi trên đất nước nó đã cướp đi hàng vạn sinh mạng của nhân dân
ta một khung cảnh đau thương xác người chất đống không chỗ chôn những người
sống thì nhớ những bóng ma đầy rẫy quạ và lũ động vật ăn xác chết.
Trong truyện nhân vật chính là Tràng một chàng trai xấu xí thô kệch, ế vợ sống ở xóm
ngụ cư, làm nghề kéo xe bò kiếm sống qua ngày nuôi mẹ già là bà cụ Tứ.
Trong một lần kéo sợi tóc cho liên đoàn Tràng có quen một cô gái hai người vô tình
quen nhau bắt chuyện rồi sau một thời gian Tràng lại gặp lại cô gái ấy một lần nữa
nhưng lúc này không nhận ra cô gái bởi sự hốc hác gầy guộc của cô. Tràng đã mời cô
ăn bánh đúc và sau một câu nói đùa cô gái xa lạ ấy đã theo anh về làm vợ.
khi Tràng rất dẫn cô gái lạ về nhà cả hàng xóm và mọi người xung quanh đều ngạc
nhiên, nhưng những khuôn mặt u tối của dân làng bỗng rạng rỡ lên bởi sự xuất hiện
của người đàn bà lạ.
Văn mẫu lớp 12: Tóm tắt Vợ nhặt
Mẹ chàng là bà cụ Tứ hôm ấy về muộn Khi thấy trong nhà có một hình bóng người
phụ nữ lạ và bà hỏi con trai được Tràng giải thích trong lòng Bà xuất hiện bao nỗi lo
nhưng có sự ngỡ ngàng và sự hy vọng cho cuộc đời của con trai mình cũng như người
đàn bà lạ. Bà nói chuyện với người con dâu nhưng cũng không hề khinh rẻ bởi cô đã
được con trai mình nhặt về làm vợ.
Trong không khí thế lương có mùi thơm của rạ cháy và tiếng khóc văng vẳng từ
những gia đình trong xóm có người chết một cảnh tượng u tối nhưng trong gia đình bà
cụ Tứ bây giờ như một một ánh đèn chói lên một tình yêu mới một sự sống mới sắp bắt đầu.
Đây như một sự khởi đầu sau những đau thương mất mát khó khăn khổ cực của những
con người với hoàn cảnh lạc trôi giữa một cuộc sống không biết sự sống và cái chết sẽ như thế nào.
Sáng hôm sau vào một buổi chiều hạ đầy nắng chói chang Tràng thức dậy bà cụ Tứ và
cô con dâu dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ từ ngoài vào trong. Tràng thấy vui và cảm thấy
mình phải có trách nhiệm với gia đình với vợ, nhìn vợ Tràng thấy cô ấy là một người
phụ nữ hiền hậu đúng mực không còn cái vẻ ngoài chua chát như lần đầu mới gặp.
Bà cụ Tứ đã chuẩn bị sẵn một bữa ăn rau chuối và hai bát cháo lỏng cùng nồi rau cám.
Trong bữa cơm bà cụ Tứ kể những câu chuyện vui vợ chàng kể cho nghe về Việt
Minh anh dần hiểu. Bổng tiếng trong thuế thúc giục ngoài đình làm cho chàng hiện
lên trong đầu là hình ảnh lá cờ sao vàng năm cánh với cùng đoàn quân đi đánh phá
kho thóc của bọn phát xít Nhật và bọn thực.
Như vậy câu chuyện kết thúc đó là sự mở đầu cho một một cuộc sống mới với những
niềm khát khao được sống được yêu thương niềm tin của sự hy vọng một tương lai
cách mạng tươi sáng cùng với con đường cứu nước của toàn thể nhân dân ta.