Trạng nguyên gì? Trạng nguyên đầu tiên của
Việt Nam ai?
Tại Việt Nam, khoa thi đầu tiên được gọi là" Thị nho học Tam trường" được tổ
chức vào thời vua Nhân Tông. Đến triều Nguyễn thì vẫn tổ chức khoa thi
nhưng không còn lấy danh hiệu Trạng nguyên nữa lấy danh hiệu Đình
nguyên. Để hơn về i viết này công ty Luật Minh Khuê sẽ gửi tới bạn đọc
bài viết sau:
Giáo dục từ trước cho đến hiện tại cùng quan trọng. Lĩnh vực này kim
chỉ nam cho sự phát triển bền vững của mọi quốc gia, dân tộc. Giáo dục
được coi trọng không chỉ thời đại 4.0 ta hãy nhìn lại từ thời phong kiến
cũng rất được coi trọng. Biểu hiện nhà nước phong kiến tổ chức rất
nhiều thi để chọn ra những nhân tài giúp đất nước. chức vị cao nhất khi
tham gia các thi đó chính đỗ Trạng nguyên. Trạng nguyên gì? vị
Trạng nguyên đầu tiên Việt Nam ai? Công ty Luật TNHH Minh Kh sẽ
gửi tới bạn đọc i viết sau đây.
1. Trạng nguyên gì?
Trạng nguyên một danh hiệu học vị tiến của người đỗ thứ hạng cao nhất
trong các khoa đình. Đây khoa cuối cùng khó nhất trong ba kỳ thi
các thí sinh sẽ phải trải qua đ lựa chọn người đỗ điểm cao nhất. Người đỗ
Trạng nguyên( tiến sĩ) tất cả người đ tiến đều sẽ phải vượt qua ba kỳ
thi: thi Hương, thi Hội thi Đình. Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa lần
lượt các danh hiệu dành cho các vị t nhất, nhìn, ba. triều đại phong kiến
Việt Nam, trạng nguyên tước vị cao nhất thuộc ban cố vấn cấp cao cho các
Hoàng đế Đại Việt.
2. Trạng nguyên đầu tiên của Việt Nam là ai?
Đây một câu hỏi gây ra nhiều tranh i đối với mọi người, nhiều ý kiến cho
rằng thời nhà Lý thời mà tổ chức diễn ra trước những kỳ thi để chọn người
tài nhất. trạng nguyên đầu tiên sẽ thuộc về thời nhà Lý. Tuy nhiên, đến
khoa thi thứ u o thời đại n Trần mới bắt đầu đặt danh hiệu Trạng
nguyên cho người đứng đầu bảng thi. Vì vậy, ông Nguyễn Quan
Quang chính xác Trạng nguyên đầu tiên của nước ta. Ông đỗ trạng
nguyên vào khoa thi Bính Ngọ năm 1247. Ông người con của Tam Sơn,
huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc( nay thuộc tỉnh Bắc Ninh). tài liệu ghi
chép thời nhà Trần, Nguyễn Quan Quang được coi một danh thần. Ông
được biết đến với nhiều giai thoại đỗ Tam nguyên sứ giả Đại Việt đối đáp
với tướng Mông Cổ. gia đình khó khăn, nhưng một con người ham
học, thông minh, học một biết mười, nhanh chóng lầu kinh thông sử nên
được thầy đồ rất coi trọng. Sau khi ra làm quan, gặp đúng lúc quân Mông Cổ
tiến đến biên giới chuẩn bị xâm lược Đại Việt. Vua Trần đã đề cửa Nguyễn
Quan Quang sang thương nghị với ớng Mông Cổ. Bằng kiến thức uyên
thâm của mình khiến tướng Mông Cổ khâm phục tài năng của mình.
Chính vậy, viên tướng Mông Cổ phải hoãn binh, không dám tiến quân sang
ngay.
Cũng theo giai thoại, bằng tài năng của mình, trạng nguyện Nguyễn Quan
Quang đã nhiều đóng góp to lớn trong công cuộc kháng chiến chống quân
Mông Cổ lần thứ nhất( 1258). Những cống hiến trên, vua nhà Trần đã phong
ông Bộc xạ( tương đương Tể tướng). Thời làm quan, một con người
liêm khiết, chính trực nên ông rất được lòng con dân các quan lại. Một con
người cả tài lẫn đức. Sau khi về già, ông cáo lão về quê hương, mở
trường dạy học. Nơi Nguyễn Quan Quang dạy học sau được người n quê
Bắc Ninh dựng lên một ngôi chùa gọi chùa Linh Khánh nhưng ngôi chùa
không còn nữa nhưng vẫn còn một cây hương đá tạc bào năm 169. Ngoài ra
ông được người dân lập đền trên núi Viềng, người dân đây thờ ông làm
Thành Hoàng, vào 22 tháng Chạp hằng năm người dân tổ chức" Tế phong
mã" để tưởng nhớ những công lao đóng góp to lớn của ông.
3. Một số Trạng nguyên qua các thời đại phong kiến Việt Nam
Nước ta 46 vị Trạng nguyên qua các triều đại phong kiến Việt Nam, 48
bảng nhãn, 2462 vị tiến sĩ, 266 phó bảng.
3.1. Một số trạng nguyên thời nhà Trần(9 vị)
- Nguyễn Quan Quang: đỗ trạng nguyên khoa Bính Ngọ(1247), ông quê Bắc
Ninh( n Trần)
- Nguyễn Hiền: đỗ trạng nguyên khoa Đinh Mùi, ông quê Nam Định( nhà Trần)
- Trần Quốc Lặc: đỗ trạng nguyên khoa Bính Thìn(1256), ông quê Hải
Dương( n Trần)
- Trần Cố: đỗ trạng nguyên khoa Bính Dần(1266), ông quê Quảng Bình( nhà
Trần)......
3.2. Một số trạng nguyên thời nhà (20 vị)
- Nguyễn Trực: đỗ trạng nguyên khoa Nhâm Tuất( 1442), ông quê Tây
nay thuộc Nội
- ơng Thế Vinh: đỗ trạng nguyên khoa Quý Mùi( 1463), ông quê Nam Định
- Nguyễn Giản Thanh: đỗ trạng nguyên khoa Mậu Thìn(1508), ông quê Bắc
Ninh
- Nguyễn Bỉnh Khiêm: đỗ trạng nguyên khoa Ất Mùi( 1535), ông quê Hải
Phòng
3.3. Một số trạng nguyên thời Trung Hưng (6 vị)
- Nguyễn Xuân Chính: đỗ trạng nguyên khoa Đinh Sửu( 1637), ông quê Bắc
Ninh
- Nguyễn Quốc Trinh: đỗ trạng nguyên khoa Hợi( 1659), ông quê Nội
- Đặng Công Chất: đ trạng nguyên khoa Tân Sửu( 1661), ông quê Hà Nội
- Trịnh Tuệ: đỗ trạng nguyên khoa Bính Thìn( 1736), ông quê Thanh Hóa ...
* Trạng nguyên đầu tiên của Trung Quốc Tôn Phục Già năm 622, Trạng
nguyên cuối cùng của Trung Quốc Lưu Xuân Lâm năm 1904.
4. Nghi thức ban thưởng cho tân Trạng nguyên (tiến sĩ)
Sau khi triều thần hành lễ, Tự ban mang bảng vàng đứng tựa về phía đông.
Xướng danh xong, tự ban dẫn các Tiến vào quỳ giữa ng đạo. Quan lễ
bộ sẽ đến giữa ngự đạo, quỳ xuống rồi đọc: Niên hiệu, năm, tháng, ngày, bọn
chúng tôi phụng sắc cho đỗ đệ nhất giáp tiến cập đệ( trạng nguyên, bảng
nhãn, thám hoa) mấy người họ, tên, đệ tam giáp đổng tiến xuất thân mấy
người, họ, tên. Sau khi đọc xong, phủ phục đứng dậy, lui ra đứng vào chỗ .
Quan lễ bộ cùng tự ban mang bảng vàng từ cửa bên tả sân rồng đi ra, trống
nhạc đi trước, các tiến đi theo sau, rước đến cửa nhà Thái học, vua,
chúa về nội phủ. Các quan văn lần lượt lui ra.
Ngay sau khi lễ xướng danh nghi thức trao ban mũ, áo, đai cho c tân tiến
sĩ. Tiếp đó nghi thức ban yến bộ lễ. Cuối cùng các tân tiến sẽ lạy tạ.
Trống chiên sẽ đánh rước các tân tiến về quê hướng để vinh quy bái tổ.

Preview text:

Trạng nguyên là gì? Trạng nguyên đầu tiên của Việt Nam là ai?
Tại Việt Nam, khoa thi đầu tiên được gọi là" Thị nho học Tam trường" được tổ
chức vào thời vua Lý Nhân Tông. Đến triều Nguyễn thì vẫn tổ chức khoa thi
nhưng không còn lấy danh hiệu Trạng nguyên nữa mà lấy danh hiệu là Đình
nguyên. Để rõ hơn về bài viết này công ty Luật Minh Khuê sẽ gửi tới bạn đọc bài viết sau:
Giáo dục từ trước cho đến hiện tại là vô cùng quan trọng. Lĩnh vực này là kim
chỉ nam cho sự phát triển bền vững của mọi quốc gia, dân tộc. Giáo dục
được coi trọng không chỉ có thời đại 4.0 mà ta hãy nhìn lại từ thời phong kiến
nó cũng rất được coi trọng. Biểu hiện là nhà nước phong kiến tổ chức rất
nhiều kì thi để chọn ra những nhân tài giúp đất nước. Và chức vị cao nhất khi
tham gia các kì thi đó chính là đỗ Trạng nguyên. Trạng nguyên là gì? Và vị
Trạng nguyên đầu tiên ở Việt Nam là ai? Công ty Luật TNHH Minh Khuê sẽ
gửi tới bạn đọc bài viết sau đây. 1. Trạng nguyên là gì?
Trạng nguyên là một danh hiệu học vị tiến sĩ của người đỗ thứ hạng cao nhất
trong các khoa đình. Đây là khoa cuối cùng và khó nhất trong ba kỳ thi mà
các thí sinh sẽ phải trải qua để lựa chọn người đỗ điểm cao nhất. Người đỗ
Trạng nguyên( tiến sĩ) và tất cả người đỗ tiến sĩ đều sẽ phải vượt qua ba kỳ
thi: thi Hương, thi Hội và thi Đình. Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa lần
lượt là các danh hiệu dành cho các vị trí nhất, nhìn, ba. Ở triều đại phong kiến
Việt Nam, trạng nguyên là tước vị cao nhất thuộc ban cố vấn cấp cao cho các Hoàng đế Đại Việt.
2. Trạng nguyên đầu tiên của Việt Nam là ai?
Đây là một câu hỏi gây ra nhiều tranh cãi đối với mọi người, nhiều ý kiến cho
rằng thời nhà Lý là thời mà tổ chức diễn ra trước những kỳ thi để chọn người
có tài nhất. Và trạng nguyên đầu tiên sẽ thuộc về thời nhà Lý. Tuy nhiên, đến
khoa thi thứ sáu vào thời đại nhà Trần mới bắt đầu đặt danh hiệu Trạng
nguyên cho người đứng đầu bảng thi. Vì vậy, ông Nguyễn Quan
Quang
chính xác là Trạng nguyên đầu tiên của nước ta. Ông đỗ trạng
nguyên vào khoa thi Bính Ngọ năm 1247. Ông là người con của xã Tam Sơn,
huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc( nay thuộc tỉnh Bắc Ninh). Có tài liệu ghi
chép thời nhà Trần, Nguyễn Quan Quang được coi là một danh thần. Ông
được biết đến với nhiều giai thoại đỗ Tam nguyên và sứ giả Đại Việt đối đáp
với tướng Mông Cổ. Dù gia đình khó khăn, nhưng vì là một con người ham
học, thông minh, học một biết mười, nhanh chóng lầu kinh thông sử nên
được thầy đồ rất coi trọng. Sau khi ra làm quan, gặp đúng lúc quân Mông Cổ
tiến đến biên giới chuẩn bị xâm lược Đại Việt. Vua Trần đã đề cửa Nguyễn
Quan Quang sang thương nghị với tướng Mông Cổ. Bằng kiến thức uyên
thâm của mình dã khiến tướng Mông Cổ khâm phục tài năng của mình.
Chính vì vậy, viên tướng Mông Cổ phải hoãn binh, không dám tiến quân sang ngay.
Cũng theo giai thoại, bằng tài năng của mình, trạng nguyện Nguyễn Quan
Quang đã có nhiều đóng góp to lớn trong công cuộc kháng chiến chống quân
Mông Cổ lần thứ nhất( 1258). Những cống hiến trên, vua nhà Trần đã phong
ông là Bộc xạ( tương đương Tể tướng). Thời làm quan, là một con người
liêm khiết, chính trực nên ông rất được lòng con dân và các quan lại. Một con
người có cả tài lẫn đức. Sau khi về già, ông cáo lão về quê hương, mở
trường dạy học. Nơi Nguyễn Quan Quang dạy học sau được người dân quê
Bắc Ninh dựng lên một ngôi chùa gọi là chùa Linh Khánh nhưng ngôi chùa
không còn nữa nhưng vẫn còn một cây hương đá tạc bào năm 169. Ngoài ra
ông được người dân lập đền trên núi Viềng, người dân ở đây thờ ông làm
Thành Hoàng, vào 22 tháng Chạp hằng năm người dân tổ chức" Tế phong
mã" để tưởng nhớ những công lao đóng góp to lớn của ông.
3. Một số Trạng nguyên qua các thời đại phong kiến Việt Nam
Nước ta có 46 vị Trạng nguyên qua các triều đại phong kiến Việt Nam, 48
bảng nhãn, 2462 vị tiến sĩ, 266 phó bảng.
3.1. Một số trạng nguyên thời nhà Trần(9 vị)
- Nguyễn Quan Quang: đỗ trạng nguyên khoa Bính Ngọ(1247), ông quê Bắc Ninh( nhà Trần)
- Nguyễn Hiền: đỗ trạng nguyên khoa Đinh Mùi, ông quê Nam Định( nhà Trần)
- Trần Quốc Lặc: đỗ trạng nguyên khoa Bính Thìn(1256), ông quê Hải Dương( nhà Trần)
- Trần Cố: đỗ trạng nguyên khoa Bính Dần(1266), ông quê Quảng Bình( nhà Trần).....
3.2. Một số trạng nguyên thời nhà Lê Sơ (20 vị)
- Nguyễn Trực: đỗ trạng nguyên khoa Nhâm Tuất( 1442), ông quê Hà Tây nay thuộc Hà Nội
- Lương Thế Vinh: đỗ trạng nguyên khoa Quý Mùi( 1463), ông quê Nam Định
- Nguyễn Giản Thanh: đỗ trạng nguyên khoa Mậu Thìn(1508), ông quê Bắc Ninh
- Nguyễn Bỉnh Khiêm: đỗ trạng nguyên khoa Ất Mùi( 1535), ông quê Hải Phòng
3.3. Một số trạng nguyên thời Lê Trung Hưng (6 vị)
- Nguyễn Xuân Chính: đỗ trạng nguyên khoa Đinh Sửu( 1637), ông quê Bắc Ninh
- Nguyễn Quốc Trinh: đỗ trạng nguyên khoa Ký Hợi( 1659), ông quê Hà Nội
- Đặng Công Chất: đỗ trạng nguyên khoa Tân Sửu( 1661), ông quê Hà Nội
- Trịnh Tuệ: đỗ trạng nguyên khoa Bính Thìn( 1736), ông quê Thanh Hóa ...
* Trạng nguyên đầu tiên của Trung Quốc là Tôn Phục Già năm 622, Trạng
nguyên cuối cùng của Trung Quốc là Lưu Xuân Lâm năm 1904.
4. Nghi thức ban thưởng cho tân Trạng nguyên (tiến sĩ)
Sau khi triều thần hành lễ, Tự ban mang bảng vàng đứng tựa về phía đông.
Xướng danh xong, tự ban dẫn các Tiến sĩ vào quỳ ở giữa ngự đạo. Quan lễ
bộ sẽ đến giữa ngự đạo, quỳ xuống rồi đọc: Niên hiệu, năm, tháng, ngày, bọn
chúng tôi phụng sắc cho đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ( trạng nguyên, bảng
nhãn, thám hoa) mấy người họ, tên, đệ tam giáp đổng tiến sĩ xuất thân mấy
người, họ, tên. Sau khi đọc xong, phủ phục đứng dậy, lui ra đứng vào chỗ cũ.
Quan lễ bộ cùng tự ban mang bảng vàng từ cửa bên tả sân rồng đi ra, trống
và nhạc đi trước, các tiến sĩ đi theo sau, rước đến cửa nhà Thái học, vua,
chúa về nội phủ. Các quan văn võ lần lượt lui ra.
Ngay sau khi lễ xướng danh là nghi thức trao ban mũ, áo, đai cho các tân tiến
sĩ. Tiếp đó là nghi thức ban yến ở bộ lễ. Cuối cùng các tân tiến sĩ sẽ lạy tạ.
Trống chiên sẽ đánh rước các tân tiến sĩ về quê hướng để vinh quy bái tổ.
Document Outline

  • Trạng nguyên là gì? Trạng nguyên đầu tiên của Việt
    • 1. Trạng nguyên là gì?
    • 2. Trạng nguyên đầu tiên của Việt Nam là ai?
    • 3. Một số Trạng nguyên qua các thời đại phong kiến
      • 3.1. Một số trạng nguyên thời nhà Trần(9 vị)
      • 3.2. Một số trạng nguyên thời nhà Lê Sơ (20 vị)
      • 3.3. Một số trạng nguyên thời Lê Trung Hưng (6 vị)
    • 4. Nghi thức ban thưởng cho tân Trạng nguyên (tiến