















Preview text:
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG THPT CHUYÊN LÊ HỒNG PHONG TRÀO PHÚNG TRONG THƠ
CỦA TRẦN TẾ XƯƠNG
Thực hiện: Nhóm 3 - Lớp 11CĐV.1
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2024 1 MỤC LỤC
TÌM HIỂU THƠ TRÀO PHÚNG CỦA TRẦN TẾ XƯƠNG 3
1. Trần Tế Xương, nhà thơ trào phúng 3
2. Các mảng đề tài lớn của thơ trào phúng Trần Tế Xương 4
3. Đặc điểm thơ trào phúng của Trần Tế Xương 5
3.1. Giai đoạn đầu: Tự cười mình 5
3.2. Giai đoạn sau: Cười đời 5
3.3. Khái quát nội dung về các tác phẩm thơ trào phúng của Trần Tế Xương 6
3.4. Phân tích đối tượng, biểu hiện, mức độ trong một số tác phẩm thơ trào phúng của Tú Xương 8
3.5. Phân tích ý nghĩa giá trị trong một số tác phẩm thơ trào phúng của Trần Tế Xương 12 3.6. Sơ kết vấn đề 14
4. Di sản và đóng góp 14 5. Kết luận 15 5.1. Tài liệu tham khảo 16 2
TÌM HIỂU THƠ TRÀO PHÚNG CỦA TRẦN TẾ XƯƠNG
Tóm tắt: Trần Tế Xương là một trong những nhà văn tiêu biểu của nước ta vào cuối
thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Ông đã để lại cho nền văn học Việt Nam những tác phẩm
đặc sắc, đặc biệt là những bài thơ trào phúng. Với ngòi bút tài tình và giọng văn hóm
hỉnh, Trần Tế Xương đã khéo léo châm biếm những mặt xấu của con người và xã hội
đương thời, vẽ nên một bức tranh sinh động về xã hội Việt Nam lúc ấy. Bên cạnh đó,
những câu thơ của ông cũng thể hiện được nỗi niềm của một con người tài hoa trước
bất công cuộc đời. Các bài thơ trào phúng của Trần Tế Xương không chỉ đơn thuần là
những tiếng cười, mà còn là tiếng nói phản kháng làm thức tỉnh ngộ nhận, lương tri của con người.
Từ khóa: Trần Tế Xương, thơ trào phúng, châm biếm, xã hội đương thời
Đề tài: Đề tài trào phúng trong thơ của Trần Tế Xương.
Câu hỏi nghiên cứu:
1. Thơ trào phúng của Trần Tế Xương phản ánh gì về xã hội lúc bấy giờ?
2. Tác giả còn viết về thể loại trữ tình, một người sống tình cảm như vậy trào
phúng có phải là một cách phản kháng của Trần Tế Xương nhưng bị xã hội vùi dập không?
Giả thuyết nghiên cứu: Thơ trào phúng của Trần Tế Xương là một bức tranh châm
biếm, hài hước nhưng không kém phần hiện thực, phản ánh những bất công, thói xấu,
và sự mục nát của xã hội đương thời. Qua đó, nhà thơ không chỉ muốn lên án các hiện
tượng tiêu cực mà còn mong muốn đánh động ý thức của người dân. Mặt khác, với
xuất phát điểm là một người có tâm hồn trữ tình, phong cách trào phúng có thể được
xem là một hình thức phản kháng đầy sáng tạo của Trần Tế Xương trước sự áp bức và
bất công trong xã hội. tiếng nói phê phán của ông có thể đã bị xã hội phong kiến lúc
bấy giờ vùi dập, khiến nỗi niềm của ông trở nên day dứt, khắc khoải hơn, tạo nên một
nét riêng biệt trong phong cách thơ trào phúng của ông.
1. Trần Tế Xương, nhà thơ trào phúng 3
Trần Tế Xương (1870 - 1907), tên thật là Trần Duy Uyên, quen gọi là Tú
Xương, là một trong những nhà thơ có tài năng sáng tác tuyệt vời, để lại cho kho tàng
văn học Việt Nam nhiều tuyệt tác vĩ đại. Ông được Nguyễn Công Hoan ví như "bậc
thần thơ thánh chữ”. Mặc dù có nhiều di sản thơ ca đáng quý nhưng cuộc đời ông lại
chỉ gắn liền với thi cử, tính ra có tất cả tám lần. Sau ba lần hỏng thi mãi đến lần thứ tư
khoa Giáp Ngọ (1894) ông mới đậu tú tài, nhưng cũng chỉ là tú tài thiên chủ (lấy
thêm). Về sự nghiệp văn học, Tú Xương đã sáng tác trên 100 bài thơ, chủ yếu là thơ
Nôm, bao gồm nhiều thể thơ như thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, lục bát và một
số bài văn tế, phú, câu đối,. .Có thể kể đến một số tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp
sáng tác của Tế Xương như "Vịnh khoa thi Hương”, "Giễu người thi đỗ”, "Ông cò”,
"Phường nhơ”,. . Phong cách nghệ thuật trong giọng thơ của ông là sự kết hợp hài hòa
giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình, trong đó trữ tình là gốc. Bức tranh
hiện thực xám xịt trong thơ Tế Xương phản ánh một hiện thực thối nát, rác rưởi và
đau buồn của xã hội thực dân - nửa phong kiến. Ông dùng giọng văn châm biếm sâu
cay, để đả kích bọn thực dân phong kiến, bọn quan lại làm tay sai cho giặc, bọn bán rẻ
lương tâm chạy theo tiền bạc, bọn rởm đời lố lăng trong buổi giao thời.
Cuộc đời Trần Tế Xương, hay Tú Xương, là một minh chứng điển hình cho bi
kịch của người trí thức trong xã hội phong kiến suy đồi cuối thế kỷ XIX. Là một con
người tài năng, ông lại không thể phát huy khả năng của mình giữa bối cảnh xã hội lố
lăng, biến động. Sự thất bại liên tiếp trong sự nghiệp thi cử không chỉ khiến Tú Xương
rơi vào tình cảnh cô độc mà còn đẩy ông vào một cuộc sống đầy khó khăn, cả về vật
chất lẫn tinh thần. Mọi gánh nặng gia đình đều do bà Tú, vợ ông, gánh vác, khiến ông
phải mỉa mai chính bản thân trong thơ: “Nuôi đủ năm con với một chồng,” ông vừa tự
giễu cợt vừa bộc lộ nỗi đau sâu kín. Cuộc sống nghèo khó không chỉ xé nát cuộc đời
ông mà còn khiến ông trở thành nạn nhân của sự đểu cáng trong xã hội. Nhà cửa bị
chiếm đoạt, nợ nần đeo bám, và ông đành phải chịu đựng trong tủi hổ: “Nhà cửa giao
canh nợ phải bồi.” Bế tắc về lí tưởng, thiếu lòng tin vào bản thân và cuộc đời, luẩn
quẩn trong hành động, Tú Xương không biết làm gì hơn. Và nhà thơ non Côi sông Vị
ấy đã hoán cải những bi kịch xã hội cùng sự thất vọng cá nhân thành một chuỗi cười
dài trên bờ sông nhân thế. Đó chính là những nhân tố khách quan và chủ quan khiến
Trần Tế Xương ý thức hóa trào phúng hóa thơ mình.
2. Các mảng đề tài lớn của thơ trào phúng Trần Tế Xương.
Trần Tế Xương, cây bút trào phúng tiêu biểu cuối thế kỷ XIX, đã để lại dấu ấn
sâu đậm trong lòng người đọc bằng những vần thơ vừa hài hước, vừa sâu cay. Nét độc
đáo trong thơ ông là sự giao thoa tinh tế giữa tiếng cười giễu nhại và nỗi buồn man
mác của một lớp nhà nho lạc lõng giữa thời cuộc. Qua những câu thơ dí dỏm, chúng ta
không chỉ thấy được tài năng phong phú của Tú Xương mà còn cảm nhận được tâm
trạng phức tạp, đầy mâu thuẫn của ông trước những biến động của xã hội. 4
Trần Sĩ Tế, một nhà nghiên cứu uyên thâm, đã khẳng định vị trí độc tôn của
Trần Tế Xương trong dòng thơ trào phúng Việt Nam. Ông viết: "Nhà thơ non Côi,
sông Vị đã ghi công đầu trong nền thi ca trào phúng nước nhà. Cho đến cả ngày nay,
hệ thống trào phúng của ông hầu như chưa có ai vượt trội được. Nếu như Nguyễn Du
xứng danh là một thi bá trong ngành thơ tình cảm thì Trần Tế Xương đáng kể là một
thi hào trong ngành thơ trào phúng Việt Nam." Qua nhận định này, chúng ta thấy
được tầm vóc của Tú Xương trong lịch sử văn học, ông xứng đáng được sánh ngang
với những tên tuổi lớn như Nguyễn Du.
Ngoài ra, các bài viết như Tính chất và giá trị văn thơ trào phúng của Tú
Xương trong chuyên khảo Văn học trào phúng Việt Nam của Văn Tân; Tú Xương-
ông tổ thơ trào phúng Việt Nam của Vũ Đăng Văn ; Tú Xương- đỉnh cao của thơ trào
phúng Việt Nam của Lê Đình Kỵ… đều có đề cập đến nội dung trào phúng. Ông sáng
tác hơn 100 bài thơ trào phúng, chia thành 2 loại: Cười đời và Tự trào:
- Cười đời: Quan tại gia, Năm mới chúc nhau, Đất Vị Hoàng, Ông cò, Bỡn ông
phó bảng, Vịnh khoa thi hương,. .
- Tự trào: Ta chẳng ra chi, Hỏi mình, Thầy đồ dạy học, Hỏi đùa mình, Cảm
hứng, Thói đời, Than thân chưa đạt, Tết dán câu đối, Tự cười mình (I) và (II),. .
3. Đặc điểm thơ trào phúng của Trần Tế Xương.
3.1 Giai đoạn đầu: Tự cười mình
Sau khi rớt lần thi Hương đầu tiên vào năm 1885, Trần Tế Xương đã vô cùng
chán nản, thất vọng và tỏ ra bất mãn với hệ thống thi cử lúc bấy giờ. Ông đã tự giễu
cợt bản thân bằng giọng điệu chua chát pha chút hài hước trong những tác phẩm mang
phong cách thơ trào phúng tiêu biểu của mình. Những bài thơ này mang tính chất trào
phúng, phê phán cũng như tự cười mình. Một số tác phẩm tiêu biểu trong giai đoạn này gồm: -
Bài “Thi hỏng”: Đây là tác phẩm thể hiện rõ sự chán chường và khinh thường
bản thân của ông. Tuy giọng điệu buồn bã nhưng sự châm biếm là điều không
thể thiếu trong thơ của ông.
- Bài “Than”: Như cái nhan đề ông đặt cho bài, Trần Tế Xương than thở về
những nỗi bất công về sự không công bằng trong thi cử. Ông đã thuật lại khi
chứng kiến cảnh những kẻ kém tài nhưng nhờ quan hệ địa vị nên được ưu ái.
- Bài “Nợ khoa cử”: Cười đời là thế nhưng cũng có những lúc ông cảm thấy
mình như bị trói buộc vào con đường khoa cử. Trần Tế Xương đã ví von bản
thân như kẻ ngoại lai, lạc lối trên con đường này. 5
3.2. Giai đoạn sau: Cười đời
Chuyện học hành thi cử của Tế Xương vô cùng lận đận. Ông bắt đầu thi từ lúc
15 tuổi nhưng thi hỏng liên tục, mãi tới năm 24 tuổi mới đỗ tú tài, chưa kể ông còn
trượt cử nhân 5 khoa liền. Tế Xương là một con người tài hoa nhưng thi mãi không
đậu khiến ông tự chê cười bản thân vì cho rằng mình là một kẻ dốt nát, đồng thời trỗi
dậy cái nhìn châm biếm về xã hội và hệ thống giáo dục đương thời. Lúc đó sự trang
nghiêm của những người làm quan đã bị lu mờ bởi những bổng lộc của thực dân Pháp, tồn tại vô số 6
các thói xấu như: mua quan bán tước, tham lam,. .Ông đã thể hiện sự chán ghét của
mình qua các bài thơ trào phúng.
- Bài “Vịnh khoa thi Hương”: Tác phẩm là cảnh tả thực và sự châm biếm của Tế
Xương về kì thi Hương vô cùng hỗn loạn, khi tính chất trang nghiêm của kì thi bị làm
lu mờ bởi sự nhếch nhác của cả sĩ tử và quan lại. Bên cạnh đó, bài thơ cũng là sự mỉa
mai đối với các viên Toàn quyền Pháp khi thực dân Pháp xâm lược nước ta.
- Bài “Quan tại gia”: Thể hiện sự xem thường của Tế Xương đối với những kẻ
mang danh là đỗ đạt vinh quy nhưng chẳng làm được việc gì có ích. Điều đó cũng cho
thấy sự mục nát của xã hội đương thời, cũng như phê phán những người vốn dĩ là trụ
cột tương lai mà chỉ biết hưởng thụ, dựa dẫm vào người khác.
3.3. Khái quát nội dung về các tác phẩm thơ trào phúng của Trần Tế
XươngTú Xương cùng những tác phẩm của ông được liệt vào hàng những tác phẩm
mở đầu cho một luồng gió mới, đại diện cho tâm tư, tình cảm của lớp người mới,
những thị dân sống ở thế kỷ XX, đặc biệt được thể hiện qua mảng thơ trào phúng. Ông
đã thẳngthắn vạch trần sự tha hoá của tầng lớp chức quyền bị mê hoặc bởi ma lực của
đồng tiền, cười đời và cười mình.
- Bài thơ “Mùa nực mặc áo bông”: Ông có một tấm áo bông rất đẹp nhưng lại ít
quần áo khác. Dù trời nóng đến mấy, khi tiếp khách, ông vẫn phải cố nhét mình vào
chiếc áo ấy vẽ nên một hình ảnh vừa hài hước vừa trớ trêu, phản ánh sự nghèo túng
nhưng không kém phần lạc quan của nhà thơ.
- Bài thơ “Tự cười mình”: Tác phẩm tự họa lại chính bức chân dung của tác giả.
Tế Xương tự nhận mình là kẻ chẳng có địa vị gì, đần độn, suốt ngày ngơ ngẩn, ở nhà
vô công rồi nghề, được vợ hầu hạ, sống bằng tiền lương của vợ, mà có lúc vênh vênh tự đắc.
- Bài thơ “Năm mới chúc nhau”: Thể hiện sự châm biếm, giễu cợt, khinh ghét
lối sống lố lăng kệch cỡm của những kẻ giàu sang, hãnh tiến đang nhắm mắt làm ngơ
trước cảnh đời nô lệ, dân chúng lầm than. Bài thơ như một tiếng chuông cảnh tỉnh,
phê phán với một thái độ thẳng thắn.
- Bài thơ “Bỡn Tri Phủ Xuân Trường”: Không chỉ là một bức tranh châm biếm
về quan lại thời xưa mà còn là bài học đắng ngắn về ưu tiên sai lầm của con người, đặt
câu hỏi về ý nghĩa của sự thành công và hạnh phúc trong cuộc sống.
- Bài thơ “Bợm già”: Bài thơ giễu cợt một tay bợm đóng nhiều vai, thầy lang,
thầy bói, thầy dùi. Tên này thường luồn lọt vào các công sở để xui nguyên giục bị kiện nhau.
- Bài thơ “Quan tại gia”: Bài thơ là một ví dụ về chuyện những kẻ dốt nát lại
được làm quan, việc thi cử và thái độ ngạo mạn của bọn thực dân được ông chế giễu một cách sâu cay. 7
- Bài thơ “Vịnh Khoa thi hương”: Bài thơ miêu tả chi tiết về khoa thi Hương, kì
thi, cảnh tượng đi thi của các sĩ tử, quan trường, những ông to bà lớn tại trường thi.
Với hình ảnh sĩ tử lôi thôi vai đeo lọ, quan trường miệng thét loa, lọng cắm rợp trời,
váy lê quét đất. Một hiện thực xã hội lúc bấy giờ vô cùng đau buồn, nhốn nháo, nhố
nhăng, nhưng cũng trữ tình thấm thía bao cay đắng, tủi nhục.
- Bài thơ “Đất Vị Hoàng”: được xem là một tác phẩm tiêu biểu thuộc thể loại
trào phúng. Trong bài thơ này, Tú Xương khéo léo sử dụng ngôn ngữ châm biếm để
phê phán tầng lớp quan lại, những kẻ sống giả tạo và những người chạy theo tiền tài
mà bỏ qua các giá trị đạo đức.
- Bài thơ “Ba cái lăng nhăng”: là lời tự trào hài hước của Tú Xương về chính
cuộc sống của ông. Trong tác phẩm, tác giả thẳng thắn nhìn nhận bản thân, bị đẩy vào
hoàn cảnh trở nên vô dụng dưới sự ảnh hưởng của xã hội đương thời. Ông tự giễu
mình là kẻ "ăn bám vợ," đam mê rượu, trà và cả thú vui với phụ nữ. Tuy nhiên, qua
việc châm biếm bản thân, Tú Xương cũng gián tiếp lên án xã hội phong kiến mục nát
đã tạo nên những bi kịch ấy.
- Bài thơ “Ông cò”: được xem là một tác phẩm trào phúng đặc sắc. Trong bài
thơ này, Tú Xương sử dụng ngôn ngữ châm biếm sắc bén để phê phán tầng lớp quan
lại, những kẻ sống giả dối và chạy theo đồng tiền mà không màng đến đạo đức.
- Bài thơ “Đi hát mất ô”: Bài thơ “Đi Hát Mất Ô” trong nhiều tác phẩm thơ ca,
tập thơ của Trần Tế Xương thuộc danh mục thơ Tú Xương một trong những nhà thơ
Việt Nam vĩ đại và tiêu biểu. Bài thơ mang nét trào phúng đặc sắc, là tiếng cười giễu
cợt sâu cay một bộ phận trong xã hội thối nát đương thời.
3.4. Phân tích đối tượng, biểu hiện, mức độ trong một số tác phẩm thơ trào
phúng của Tú Xương
Một trong những tác phẩm bộc lộ rõ nét nghệ thuật thơ trào phúng của Trần Tế
Xương chính là bài thơ “Vịnh Khoa Thi Hương”. Ông là một trong hàng vạn sĩ tử dự
khoa thi Hương Đinh Dậu. Trần Tế Xương là người tham dự, cũng là người chứng
kiến tất cả về hiện thực đau buồn, nhố nhăng của khoa thi năm ấy. Từ nỗi đau của
người hỏng thi mà ông ngẫm về cái nhục của sĩ tử, của trí thức, của nhân tài đất Bắc.
Nỗi đau nhục về mất nước như ngưng đọng uất kết lại thành tiếng thở dài, lời than và
có cả những dòng lệ tuôn rơi… Hai câu đề đã tái hiện được không khí, bối cảnh chung
và một nét mới của khoa thi Đinh Dậu:
“Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà” 8
Việc thi cử ngày xưa là của vua, của triều đình nhằm mục đích kén chọn kẻ sĩ
tài giỏi, chọn nhân tài ra làm quan phò vua, giúp nước. Nhưng bây giờ đã thuộc về
“nhà nước”, tức thực dân Pháp xâm lược. Việc thi cử vẫn còn thi chữ Hán và theo lệ
cũ “ba năm mở một khoa” song đã cuối mùa. Và, kẻ chủ xướng là “nhà nước” - là
chính phủ bảo hộ. Hai từ “nhà nước” đứng ở ngay đầu bài thơ như một lời mỉa mai về
sự thoái vị của triều đình phong kiến trong việc tổ chức thi cử. Sự châm biếm, mỉa mai
ngay từ hai câu đề chính là lời thông báo về tính chất trào phúng của bài thơ. Câu thơ
thứ hai nêu lên tính chất hỗn tạp, nhốn nháo của kỳ thi “Trường Nam thi lẫn với
trường Hà”. Không có gì hứa hẹn sự trang nghiêm cần có của những kì thi như thế này.
Hai câu đề thể hiện thái độ mỉa mai, châm biếm kín đáo và cũng bộc lộ một nỗi buồn
sâu lắng trong tâm hồn tác giả.
Nghệ thuật trào phúng của bài thơ không chỉ được thể hiện qua sự mỉa mai,
châm biếm về sự mục nát của triều đình phong kiến mà còn được bộc lộ rõ nét hơn
thông qua các câu thơ mang tính hài hước ở hai câu thực:
“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa”
Hai câu thơ là hai nét vẽ, hai cảnh hài hước khác nhau nhưng có cùng điểm
chung chính là “cái chua chát”. Ở nét vẽ thứ nhất, tác giả đảo ngữ hai chữ “lôi thôi”
lên đầu câu thơ gây ấn tượng nhếch nhác đáng buồn “vai đeo lọ”. Tú Xương chủ yếu
không quan sát sĩ tử mà đập vào mắt là dáng vẻ lôi thôi của họ. Nét vẽ thứ hai cũng
thật tài tình: “Ậm oẹ quan trường miệng thét loa”, nhà thơ không nghe nội dung lời
nói của quan trường mà nghe thấy âm thanh méo mó, kì dị của tiếng loa phát ra. “Ậm
oẹ” cho thấy bộ nạt nộ, hăm doạ. Trường thi không còn là chốn tôn nghiêm nền nếp
nữa, quá lộn xộn, quá ồn ào, khác nào cảnh họp chợ. Sĩ tử thì lôi thôi nhếch nhác, mất
đi cái vẻ nho nhã thư sinh. Quan trường, giám thị, cũng chẳng còn cái phong thái
nghiêm trang, trịnh trọng vốn có.
Bức tranh biếm họa về ông Tây và mụ đầm được tô đậm rõ nét ở hai câu luận,
châm biếm cái nhục của hàng vạn sĩ tử Bắc hà, không thể nào kể đến:
“Lọng cắm rợp trời, quan sứ đến
Váy lê quét đất, mụ đầm ra” 9
Với thủ pháp tiểu đối và bình đối, Trần Tế Xương đã miêu tả rõ cảnh đón tiếp
đại diện của thực dân xâm lược. Cờ cắm rợp trời đối với quan sứ đến. Cờ cắm rợp trời
tưởng để đón ai hoá ra để đón tiếp dành cho “quán sứ”, lũ cướp đất nước ta, một nghi
lễ cực kỳ long trọng. Đó là nỗi đau mất nước. Nhưng cái nét nghệ thuật trào phúng ở
hai câu luận không phải là ở sự mỉa mai, châm biếm, mà đặc sắc ở chỗ Trần Tế
Xương dùng hình ảnh “Cờ” đối với “váy”, “quan” đối với “mụ”, “rợp trời” đối với
“quét đất”, nhằm hạ bệ sự trang trọng của tên quan sứ. Ẩn lấp sau câu chữ là giọng
cười, lối cười, hương cười, sắc cười của câu thơ Tú Xương kế thừa được cái cười dân
tộc trong ca dao, trong chèo, tuồng cổ.
Bài thơ có 8 câu thì 6 câu đầu vừa hiện thực vừa trào phúng, còn hai câu kết
thực sự là nguồn mạch trữ tình như được chiết xuất ra từ những điều mắt thấy tai
nghe, từ những nhố nhăng, lôi thôi, lộn xộn trong ngoài, trên dưới nơi trường Nam năm Đinh Dậu:
“Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”
Câu thơ như một lời than, trong lời kêu gọi, nhắn nhủ của một nhà nho hướng
đến những sĩ tử, những tri thức đất Bắc và tất cả người Việt một lần nữa nhìn lại thực
trạng cay đắng của đất nước. Ba tiếng “nào ai đó” phiếm chỉ, càng cho lời kêu gọi trở
nên thấm thía, lay động thức tỉnh. Chữ “ngoảnh cổ” gợi tả một thái độ, một tâm thế
không thể cam tâm sống nhục mãi trong đời nô lệ. Trong thơ trào phúng của Trần Tế
Xương, không chỉ là những hình ảnh mỉa mai, châm biếm, đả kích, mà còn là sự tồn
tại rõ nét của những lời nhắn nhủ tiết thương. Phải biết đau nỗi đau của đất nước. Phải
biết nhục trong nỗi nhục nô lệ. Phải biết “ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”.
Ngoài ra, bài thơ "Quan tại gia" cũng nổi bật như một bức tranh sinh động phản
ánh hiện thực xã hội đương thời, đặc biệt là bộ mặt thật của tầng lớp quan lại. Qua
những câu thơ ngắn gọn, hàm súc, nhà thơ đã phơi bày những thói hư tật xấu, sự tha
hóa của quyền lực, đồng thời khẳng định giá trị đích thực của con người.
Hình ảnh người quan trong bài thơ được khắc họa một cách sinh động và trào
phúng. Bề ngoài, họ là những người có học thức, đạo đức, với những hình ảnh quen
thuộc như "một ngọn đèn xanh, mấy quyển vàng". Tuy nhiên, đằng sau vẻ ngoài ấy lại
là một thực tế hoàn toàn khác. Cuộc sống của họ xa hoa, hưởng thụ, với "bốn con làm
lính, bố làm quan". Thay vì lo lắng cho dân, họ lại chỉ biết đến việc "Câu thơ, câu phú,
sưu cùng thuế", biến văn chương thành công cụ để trục lợi cá nhân. Thái độ thờ ơ, vô
trách nhiệm của họ được thể hiện rõ nét qua câu thơ "Nước quạt chưa xong, con nhảy
ngựa, Trống hầu vừa dứt, bố lên thang". 10
Tú Xương đã sử dụng bút pháp trào phúng một cách tài tình để bóc trần bộ mặt
thật của những kẻ có quyền có thế. Ông đã chế giễu sự phù phiếm, xa hoa của họ, lên
án những hành vi tham nhũng, vô trách nhiệm. Tú Xương đã sử dụng một loạt các
biện pháp nghệ thuật để xây dựng hình ảnh người quan một cách chân thực và sinh
động. Biện pháp đối lập được sử dụng một cách nhuần nhuyễn khi tác giả đặt cạnh
nhau những hình ảnh đối lập nhau: "Một ngọn đèn xanh, mấy quyển vàng" - vẻ ngoài
đạo mạo, trí thức với thực tế sống buông thả, xa hoa. Biện pháp phóng đại được sử
dụng để nhấn mạnh sự thái quá trong hành vi của người quan, như việc "Câu thơ, câu
phú, sưu cùng thuế" hay "Nước quạt chưa xong, con nhảy ngựa". Ngôn ngữ bình dân,
hài hước cũng góp phần tạo nên tính trào phúng của bài thơ, giúp người đọc dễ dàng
hình dung ra một cách sinh động cuộc sống của tầng lớp quan lại. Qua đó, nhà thơ đã
góp phần làm sáng tỏ bản chất của chế độ phong kiến, nơi mà quyền lực được lạm
dụng để phục vụ cho lợi ích cá nhân.
Qua những câu thơ hóm hỉnh, dí dỏm, tác giả không chỉ tự nhìn nhận lại bản
thân mà còn phản ánh một cách sâu sắc những vấn đề của xã hội đương thời trong bài “Tự cười mình”
Đầu tiên, đối tượng tự trào chính là chính tác giả. Tú Xương không ngần ngại
"bóc trần" những khuyết điểm của bản thân Mở đầu bài thơ, “phỗng sành” xuất hiện
với một ngoại hình vô hồn - mắt thao láo, mặt xanh xao. Cách miêu tả này khiến nhân
vật trông trơ trẽn và thiếu sinh khí như một bức tượng gốm vô tri, chỉ biết nhìn đời
một cách thờ ơ. Từ ngữ “thao láo” và “xanh” cũng cho thấy không có chiều sâu trí tuệ
hay sức sống, chỉ biết ngắm nhìn và phô diễn mà không suy nghĩ.
“Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành
Mắt thời thao láo, mặt thời xanh”
Không chỉ là kẻ vô hồn, nhân vật này còn bộc lộ bản chất của một kẻ nịnh hót,
thiếu khí chất, thậm chí lố bịch khi phải "vuốt râu nịnh vợ":
“Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó,
Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh.”
Hành động “vuốt râu nịnh vợ” cho thấy đây là một kẻ yếu đuối, nhu nhược,
hoàn toàn phụ thuộc vào vợ. Từ “nịnh vợ” diễn tả hình ảnh của một kẻ không có chí
hướng, thậm chí phải chịu dựa dẫm, nhờ vả người phụ nữ bên cạnh mình. Còn “quắc
mắt khinh đời” thì lại tương phản, cho thấy thái độ kẻ cả, tự cao tự đại, thể hiện rằng
nhân vật này coi thường những người xung quanh dù bản thân chẳng có gì xứng đáng. 11
Nhân vật “phỗng sành” này còn sa đọa trong thói ăn chơi, trác táng, tiêu biểu cho một
lối sống hời hợt, thiếu trách nhiệm:
“Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ,
Rượu chè trai gái đủ tam khoanh.”
Hai câu này nhấn mạnh sự chìm đắm của phỗng sành trong những thú vui sa
đọa: bài bạc, rượu chè, và trác táng. Hắn là kẻ ăn chơi “cao nhất xứ,” đồng nghĩa với
việc người này đã đạt đến đỉnh cao của sự lãng phí, khoe khoang. Việc gọi ra những
thói quen này không chỉ là sự miêu tả đơn thuần, mà còn là lời phê phán sâu sắc một
tầng lớp người trong xã hội thừa tiền nhưng thiếu tinh thần học hỏi và đạo đức. Điều
đáng nói hơn, đối tượng này không chỉ vô dụng mà còn đầy ảo tưởng về bản thân:
“Thế mà vẫn nghĩ rằng ta giỏi,
Cứ việc ăn chơi, chẳng học hành.”
Động từ “nghĩ rằng ta giỏi” thể hiện sự tự cao ngạo mạn. Đây là chi tiết nhấn
mạnh tính cách lố bịch của ông cũng như phê phán thói tự đắc, mặc dù sống đời ăn
chơi trác táng, thiếu học thức và thiếu giá trị thật sự.
Bên cạnh đó, Tú Xương còn gián tiếp phê phán những tầng lớp xã hội khác.
Ông châm biếm những kẻ giàu có, sống xa hoa, không màng đến công nợ:
“Cho hay công nợ là như thế
Mà vẫn phong lưu suốt cả đời”
Ngoài ra, hình ảnh "Ngựa xe chẳng thấy lúc nào ngơi" là một hình ảnh phóng
đại, nhấn mạnh sự giàu sang, phú quý của những người này, phác họa nên bức tranh
sinh động về một cuộc sống hưởng thụ, vô lo vô nghĩ của kẻ giàu.
Giọng điệu của bài thơ vừa hài hước, vừa mỉa mai sâu cay, thể hiện rõ ràng sự
khinh bỉ của Trần Tế Xương đối với những kẻ sống dựa vào người khác, thiếu bản
lĩnh và học thức nhưng lại tự mãn, kiêu căng. Sự châm biếm đạt đến cao trào ở đoạn
cuối khi tác giả đưa ra hình ảnh thể hiện sự nhếch nhác và đáng thương:
"Còn dăm ba chữ nhồi trong bụng,
Khéo khéo không mà nó cũng rơi."
Hành động “nhồi trong bụng” cho thấy rằng vốn tri thức của kẻ này hết sức hạn
hẹp, chỉ có vài “chữ” mà cũng “khéo khéo không mà nó cũng rơi.” Tác giả như muốn
phê phán những kẻ kiến thức không chắc chắn, mà có thể bị mất đi bất cứ lúc nào. 12
Để đạt được hiệu quả nghệ thuật cao, Tú Xương đã sử dụng nhiều biện pháp
nghệ thuật khác nhau. Ngôn ngữ của ông bình dân, gần gũi, giàu hình ảnh, tạo nên
những câu thơ hài hước, dí dỏm. Các hình ảnh phóng đại, biếm họa được sử dụng một
cách khéo léo để làm nổi bật những khuyết điểm, tạo ra tiếng cười sảng khoái. Giọng
điệu tự giễu xuyên suốt bài thơ giúp người đọc cảm thấy gần gũi, thân thiện với tác
giả.3.5. Phân tích ý nghĩa giá trị trong một số tác phẩm thơ trào phúng của Trần Tế Xương
Bài thơ "Vịnh khoa thi Hương" của Trần Tế Xương vừa ghi lại khung cảnh
nhập trường và lễ xướng danh của kỳ thi Hương, vừa phản ánh hiện thực xã hội đầy
biến động, nhốn nháo của thời kỳ giao thời. Qua cảnh nhập trường, hình ảnh các sĩ tử
với "vai đeo lọ" xuất hiện không phải để thể hiện tinh thần hiếu học, mà trái lại, mang
dáng vẻ lôi thôi, chật vật. Lễ xướng danh, vốn là nghi thức trang trọng nhằm tôn vinh
người đỗ đạt, nay lại trở thành một cảnh tượng lố bịch, phản ánh sự suy thoái của nền
giáo dục và khoa cử đương thời. Những danh vọng cao quý một thời giờ đây chỉ còn
là thứ hư danh, không phản ánh đúng tài năng hay phẩm chất của người học. Nhà thơ
đã bộc lộ tâm trạng đau đớn, chua xót khi chứng kiến sự mất nước, cảnh nước nhà rơi
vào tay thực dân Pháp, và những giá trị đạo đức, tinh hoa của dân tộc bị lãng quên.
Bài thơ “Quan tại gia” phê phán thói quan liêu, tham nhũng, ông đã châm biếm
sâu sắc thói “nghỉ phép” hình thức của quan lại. Thực chất, việc nghỉ phép không phải
để về quê an dưỡng mà để tiếp tục hành hạ dân lành. Bài thơ còn sử dụng giọng điệu
giễu cợt để nhắc tới một thực trạng cay đắng trong xã hội đương thời. Thông qua đó,
ông lột tả được sự thối nát của bộ máy nhà nước. Cách dùng từ của Trần Tế Xương
cũng rất “đời”, ông tận dụng những hình ảnh quen thuộc để làm bật lên sự mỉa mai.
Sự phê phán của ông không chỉ dừng lại ở cá nhân mà còn ở cả cơ chế khoa cử, nơi
đồng tiền và quyền lực được đề cao hơn cả thực tài.
Sự tự trào trong bài thơ "Tự cười mình" mang tính chất đa chiều. Một mặt, nó
thể hiện sự khiêm tốn, lòng tự trọng của tác giả. Tú Xương không ngại đối diện với
những khuyết điểm của bản thân, từ đó rút ra bài học cho mình. Mặt khác, sự tự trào
còn mang tính chất phê phán xã hội. Qua việc châm biếm những thói hư tật xấu, tác
giả đã góp phần thức tỉnh lương tri của con người. Việc Tú Xương chọn cách tự trào
để phản ánh hiện thực xã hội là một cách thức thông minh và hiệu quả. Bằng cách tự
giễu bản thân, ông đã tạo ra một khoảng cách an toàn để phê phán những vấn đề xã
hội. Bài thơ đã đặt ra một giá trị nhân văn sâu sắc khi đề cao việc học hỏi, rèn luyện tri
thức, và phê phán lối sống phô trương, vô trách nhiệm, là một lời cảnh tỉnh, nhắc nhở
về ý nghĩa và giá trị của một cuộc sống có ý thức về bản thân và trách nhiệm với xã hội. 13
Cả ba tác phẩm trên mang một giá trị nghệ thuật trào phúng sâu sắc, là tiếng
nói phản kháng của Trần Tế Xương trước những thói hư tật xấu, trước sự suy đồi đạo
đức của xã hội phong kiến cuối thế kỷ XIX. Những thi phẩm với giọng thơ châm biếm,
không chỉ phê phán mạnh mẽ, mô tả sự suy thoái của chế độ phong kiến mà còn bày tỏ
sự bất lực và chua xót trước sự thay đổi khắc nghiệt của thời cuộc. Bài thơ “Vịnh khoa
thi Hương”, “Quan tại gia”, “Tự cười mình” không chỉ có ý nghĩa trong việc phê phán
thực trạng xã hội lúc bấy giờ mà còn để lại những bài học sâu sắc. Tiếng cười trong
thơ của Trần Tế Xương không chỉ là tiếng cười giải trí mà còn là tiếng cười thức tỉnh.
Nó giúp cho người đọc nhận ra những bất công trong xã hội, những thói hư tật xấu để
cùng nhau đấu tranh và thay đổi.
3.6. Sơ kết vấn đề
Thơ trào phúng của Trần Tế Xương cung cấp một cái nhìn sâu sắc và chi tiết về
xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, khi hệ thống phong kiến đang bộc lộ rõ sự suy thoái,
bất lực trong quản lý, và lối sống sa đọa của tầng lớp quan lại. Ba bài thơ tiêu biểu –
“Vịnh Khoa Thi Hương,” “Quan tại gia,” và “Tự cười mình” – là minh chứng cho
năng lực quan sát tinh tường và bút pháp trào phúng sắc sảo của Tú Xương. Trong
“Vịnh Khoa Thi Hương,” tác giả phê phán sự suy đồi của kỳ thi Nho học, mô tả một
hệ thống giáo dục đầy bất cập, nơi mà sự gian lận và vô trách nhiệm của quan chức đã
làm hỏng giá trị thi cử. “Quan tại gia” là một tác phẩm trào phúng về hiện thực quan
lại, những kẻ xem trọng quyền lợi cá nhân hơn trách nhiệm xã hội, tạo ra một hệ thống
quan liêu tha hóa. Cuối cùng, “Tự cười mình” thể hiện nỗi bất lực của chính tác giả,
khi bản thân ông – một nhà Nho có học thức và lý tưởng – cũng trở thành nạn nhân
của một xã hội đầy rẫy những bất công và hạn chế. Ba bài thơ này vừa là lời tố cáo
trực diện, vừa mang tính nghiên cứu xã hội học khi phơi bày các khía cạnh khác nhau
của xã hội phong kiến và sự tha hóa của tầng lớp quan lại thời bấy giờ.
Dù nổi bật với phong cách trào phúng, Trần Tế Xương cũng sáng tác nhiều bài
thơ trữ tình, thể hiện tâm hồn nhạy cảm, giàu tình cảm với gia đình và quê hương. Sự
kết hợp này cho thấy trào phúng của Tú Xương không chỉ đơn thuần là tiếng cười mỉa
mai mà còn là phương thức phản kháng có ý thức của một người trí thức trước sự bất
công và bế tắc xã hội. Tuy nhiên, tiếng nói phản kháng của ông không được xã hội
đương thời tiếp nhận, thậm chí còn bị vùi dập, vì những kẻ hưởng lợi từ sự bất công
này không muốn thay đổi. Qua “Tự cười mình,” Tú Xương không chỉ châm biếm thực
trạng mà còn giễu cợt chính sự bất lực của bản thân, khi ông không thể chống lại dòng
chảy của xã hội. Trào phúng trong thơ ông vì thế mang tính chất bi kịch của một
người trí thức ý thức được sự băng hoại của thời đại nhưng không thể tác động, thể
hiện một kiểu phản kháng đầy mâu thuẫn giữa tình yêu và nỗi thất vọng với xã hội
phong kiến Việt Nam cuối thế kỷ XIX. 14
4. Di sản và đóng góp
Trần Tế Xương, với tài năng trào phúng độc đáo, đã để lại cho hậu thế một di
sản văn học vô cùng quý giá. Thơ ông là bức tranh sinh động về xã hội đương thời,
phản ánh chân thực cuộc sống của người dân. Ngôn ngữ bình dân, hình ảnh hài hước,
dí dỏm đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho thơ ông. Không chỉ vậy, Trần Tế Xương
còn là người tiên phong trong việc đưa yếu tố hiện thực vào thơ ca, mở ra một hướng
mới trong thơ ca Việt Nam.
Tác phẩm của ông thường chạm đến các vấn đề nhân văn, tình yêu thương, và
bao gồm cả sự lo âu về cảnh ngộ của con người trong xã hội đầy biến đổi. Trần Tế
Xương đã trở thành một nhà thơ vĩ đại và đáng kính trong lịch sử văn học Việt Nam,
để lại di sản văn chương vĩnh cửu cho thế hệ sau. Tác phẩm của ông vẫn tiếp tục sống
mãi trong lòng người và được trân trọng ca ngợi cho tầm ảnh hưởng văn học sâu sắc
mà ông đã để lại. (NguyễnVănNgọc,TừđiểntácgiảViệtNam,NXBGiáodục,2005) 5. Kết luận
Đúng như đặc điểm của nghệ thuật thơ trào phúng, các tác phẩm của Trần Tế
Xương sử dụng những bức tranh hài hước, châm biếm, nhằm mỉa mai nhiều thực trạng
xã hội đáng lên án lúc bấy giờ. Từ đây, tác động mạnh mẽ đến ý thức và hành động của con người.
Thơ trào phúng của Trần Tế Xương đặc biệt ỡ chỗ, các tác phẩm có tính trữ
tình mãnh liệt, bộc lộ rõ nét sự phản kháng đầy sáng tạo của ông trước những áp bức,
bất công của xã hội đương thời.
Các tác phẩm thơ trào phúng của Trần Tế Xương không chỉ mang lại những giá
trị nghệ thuật trào phúng to lớn, mà còn để lại những di sản và đóng góp vĩ đại cho
nền thơ ca Việt Nam. Từng vấn đề trong các tác phẩm của ông đều chạm đến tình yêu
thương, những vấn đề nhân văn nhất trong xã hội.
5.1 Tài liệu tham khảo
1. ht ps://thieuhoa.com.vn/blog/tho-trao-phung-cua-tu-xuong#ge-h2-
2. Kiều văn, “Thơ ca Tú Xương”:
ht p:/ tailieudientu.lrc.tnu.edu.vn/Upload/Collection/brief/brief_4639_11718_V HTT0107.pdf 15
3. Nguyễn Thị Kim Bài, QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI
TRONG THƠ NÔM CỦA NGUYỄN KHUYẾN VÀ TÚ XƯƠNG, Đại học Đà
Nẵng: http:/ tailieuso.udn.vn/bitstream/TTHL_125/3816/2/Tomtat.pdf
4. Nguyễn Thị Phương Thảo, VÀI NÉT CHÂN DUNG TRẦN TẾ XƯƠNG
TRONG THƠ TỰ TRÀO, Đại học Hải Phòng:
ht ps:/ vjol.info.vn/index.php/dhhp/article/download/82623/70421/
5. Trần Thanh Mại, Trong Giòng Sông Vị, Tủ sách NHỮNG MẢNH GƯƠNG
TÂN VIỆT: https://heyzine.com/flip-book/c129d657cf.html#page/1
6. Bài thơ “Tự cười mình”: ht ps:/ vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BB%B1_c %C6%B0%E1%BB%9Di_m%C3%ACnh
7. ht ps:/ baonamdinh.vn/channel/5093/202008/ky-niem-150-nam-ngay-sinh-nha-
tho-tran-te-xuong-5-9-1870-5-9-2020-nha-tho-tran-te-xuong-mot-nhan-cach- van-hoa-2539412/
8. Ngô Thị Kiều Oanh (2013). Chất trào phúng trong thơ Nguyễn Khuyến và Tú
Xương từ Tạp chí Khoa học ĐHSP TP.HCM, số 46, trang 76 - trang 82. - HẾT - 16
Document Outline
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜ
- Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2024
- TÌM HIỂU THƠ TRÀO PHÚNG CỦA TRẦN TẾ XƯƠNG
- Câu hỏi nghiên cứu:
- 1.Trần Tế Xương, nhà thơ trào phúng
- 2.Các mảng đề tài lớn của thơ trào phúng Trần Tế Xươ
- 3.Đặc điểm thơ trào phúng của Trần Tế Xương.
- 3.1Giai đoạn đầu: Tự cười mình
- 3.2.Giai đoạn sau: Cười đời
- 3.3.Khái quát nội dung về các tác phẩm thơ trào phúng
- 3.4.Phân tích đối tượng, biểu hiện, mức độ trong một s
- 3.5.Phân tích ý nghĩa giá trị trong một số tác phẩm th
- 3.6.Sơ kết vấn đề
- 4.Di sản và đóng góp
- 5.Kết luận
- 5.1Tài liệu tham khảo
- - HẾT -