Truyện Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ Ngữ văn 9
1. Nội dung "Chuyện người con gái Nam Xương"
Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, nh đã thuỳ mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp.
Trong làng có chàng Trương Sinh, mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về.
Song Trương Sinh có nh đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức. Nàng cũng giữ gìn khuôn
phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà. Cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì
xảy ra việc triều đình bắt lính đi đánh giặc Chiêm. Trương tuy con nhà hào phú nhưng không có
học, nên phải ghi trong sổ lính đi vào loại đầu. Buổi ra đi mẹ chàng có dặn rằng:
- Nay con phải tạm ra tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy hội công danh từ xưa ít gp, nhưng trong
chỗ binh cách phải biết giữ mình làm trọng, gặp khó nên lui, lường sức mà ến, đừng nên tham
miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có như thế,
mẹ ở nhà mới khỏi lo lắng vì con được.
Chàng quỳ xuống đất vâng lời dạy. Nàng rót chén rượu đầy ễn chồng mà rằng:
- Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê
cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rối. Chỉ e việc quân khó liệu, thế
giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà
mùa dưa chín quá kì, khiến cho ện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ,
lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, tng liễu rủ bãi hoang, cũng sợ không có cánh hồng bay
bổng.
Nàng nói đến đây, mọi người đều ứa hai hàng lệ. Rồi đó, ệc ễn vừa tàn, áo chàng đành rứt.
ớc mắt cảnh vật vẫn còn như cũ, mà lòng người đã nhuộm mối nh, muôn dặm quan san!
Bấy giờ, nàng đương có mang, sau khi xa chồng vừa đầy tuần thì sinh ra một đưa con trai, đặt
tên là Đản. Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che
kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được. Bà mẹ cũng vì nhớ con mà dần
sinh ốm. Nàng hết sức thuốc than lễ bế thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn.
Song bệnh nh mỗi ngày một trầm trọng, bà biết không sống được, bèn trối lại với nàng rằng:
- Ngn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà không
gắng ăn miếng cơm miếng cháo đặng cùng vui sum họp. Song, làm tham vô cùng mà vận trời
khó tránh. Nước hết chuông rền, số cùng khí kiệt. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc
sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi không biết sống chết thế nào không
thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con
cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ.
Bà cụ nói xong thì mất. Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha
mẹ đẻ của mình.
Qua năm sau, giặc ngoan cố chịu trói, việc quân kết thúc. Trương Sinh về tới nhà, được biết mẹ
đã qua đời, con vừa học nói. Chàng hỏi mồ mẹ, rồi bế đứa con nhỏ đi thăm; đứa trẻ không chịu,
ra đến đồng, nó quấy khóc, Sinh dỗ dành:
- Nín đi con, đừng khóc. Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi.
Đứa con ngây thơ nói:
- Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư! Ông lại biết nói chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín
thin thít.
Chàng ngạc nhiên gạn hỏi. Đứa con nhỏ nói:
- Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi
cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.
Tính chàng hay ghen, nghe con nói vậy, đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không
có gì gỡ ra được.
Về đến nhà, chàng la um lên cho hả giận. Vợ chàng khóc mà rằng:
- Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thoả nh chăn gối, chia phôi vì
động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một ết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng,
ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày
tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.
Chàng vẫn không n. Nhưng nàng hỏi chuyện kia do ai nói ra, thì lại giấu không kể lời con nói;
chỉ lấy chuyện bóng gió này nọ mà mắng nhiếc nàng, và đánh đuổi đi. Họ hàng làng xóm bênh
vực và biện bạch cho nàng, cũng chẳng ăn thua gì cả. Nàng bất đắc dĩ nói:
- Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy,
mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu
xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.
Đoạn rồi nàng tắm gội sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:
- Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, ếng chịu nhuốc
nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ ết, trinh bạch gìn lòng,
vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá,
lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp
mọi người phỉ nh.
Nói xong nàng gieo mình xuống sông mà chết. Chàng tuy giận là nàng thất ết, nhưng thấy nàng
tự tận cũng động lòng thương, m vớt thây nàng, nhưng chẳng thấy tăm hơi đâu cả. Một đêm
phòng không vắng vẻ, chàng ngồi dưới ngọn đèn khuya, chợt đứa con nói rằng:
- Cha Đản lại đến kia kìa!
Chàng hỏi đâu. Nó chỉ bóng chàng ở trên vách:
- Đây này!
Thì ra, ngày thường, ở một mình, nàng hay đùa con, trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản. Bấy giờ
chàng mới tỉnh ngộ, thấu nỗi oan của vợ, nhưng việc trót đã qua rồi!
Cùng làng với nàng, có người tên là Phan Lang, khi trước làm đầu mục ở bến đò Hoàng Giang,
một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh đến kêu xin tha mạng. Sáng dậy, Phan Lang thấy
có người phường chài đem vào biếu một con rùa mai xanh, sực nghĩ đến chuyện mộng, bèn
đem thả con rùa ấy. Cuối đời Khai Đại nhà Hồ, quân Minh mượn ếng đưa Trm Thiêm Bình về
ớc, phạm vào cửa ải Chi Lăng, nhân dân trong nước, nhiều người sợ hãi phải chạy trốn ra
ngoài bể, không may đắm thuyền đều chết đuối cả. Thây Phan Lang dạt vào một cái động rùa ở
hải đảo, có người đàn bà là Linh Phi trông thấy nói rằng:
- Đây là vị ân nhân cứu sống ta thuở xưa.
Linh Phi bèn lấy khăn dấu mà lau, lấy thuốc thần mà đổ, một chốc Phan Lang liền tỉnh lại. Phan
trông thấy cung gấm đền dao thật nguy nga lộng lẫy, mà chưa biết mình đã lọt vào cung nước
của rùa thần. Linh Phi bấy giờ mình mặc áo gấm dát ngọc, chân đi giày có vân nạm vàng, cười
bảo Phan Lang rằng:
- Tôi là Linh Phi trong động rùa, vợ vua biển Nam Hải, nhớ hồi còn nhỏ đi chơi ở bến sông bị
người phường chài bắt được, ngẫu nhiên báo mộng, quả được nhờ ơn. Gặp gỡ ngày nay, há
chẳng phải lòng trời xui khiến cho tôi có dịp đền ơn trnghĩa?
Phi bèn đặt yến ở gác Triêu Dương để thết đãi Phan Lang. Dự ệc hôm ấy có vô số những mĩ
nhân, quần áo thướt tha, mái tóc búi xễ. Trong số đó, có một người mặt chỉ hơi điểm qua một
chút son phấn trông rất giống Vũ Nương. Phan có ý nhìn trộm, nhưng không dám nhận. Tiệc
xong, người đàn bà ấy nói với Phan Lang rằng:
- Tôi với ông vốn người cùng làng, cách mặt chưa bao, đã quên nhau rồi ư?
Bấy giờ Phan mới nhận đích người ấy là Vũ Nương và gạn hỏi duyên cớ. Nàng nói:
- Tôi ngày trước không may bị người vu oan, phải gieo mình xuống sông tự tử. Các nàng ên
trong cung nước thương tôi vô tội, r một đường nước cho tôi thoát chết, nếu không thì đã vùi
vào bụng cá, còn đâu mà gặp ông.
Phan nói:
- Nương Tử nghĩa khác Tào Nga, hờn không Tinh Vệ mà phải ôm mối hận gieo mình xuống nước.
Nay thóc cũ không còn, thóc mới vừa gặt, há lại không tưởng nhớ đến quê hương ư?
Nương nói:
- Tôi bị chồng ruồng rẫy, thà già ở chốn làng mây cung nước, chứ còn mặt mũi nào về nhìn thấy
người ta nữa!
Phan nói:
- Nhà cửa ên nhân của nương tử, cây cối thành rừng, phần mộ ên nhân của nương tử, cỏ gai
rợp mắt. Nương tử dù không nghĩ đến, nhưng ên nhân còn mong đợi nương tử thì sao?
Nghe đến đây, Vũ Nương ứa nước mắt khóc, rồi quả quyết đổi giọng mà rằng:
- Có lẽ không thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi, để mang ếng xấu xa. Phải chăng, ngựa Hồ
gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam. Cản vì nỗi ấy, tôi tất phải m về có ngày.
Hôm sau, Linh Phi lấy một cái túi bằng lụa a, đựng mười hạt minh châu, sai sứ giả Xích Hỗn
đưa Phan ra khỏi nước. Vũ Nương nhân đó cũng đưa gửi một chiếc hoa vàng mà dặn:
- Nh nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút nh xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở
bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về.
Lúc đến nhà, Phan đem chuyện kể lại với họ Trương. Ban đầu Trương không n. Nhưng khi nhận
được chiếc hoa vàng, chàng mới sợ hãi mà nói:
- Đây quả là vật dùng mà vợ tôi mang lúc ra đi.
Chàng bèn theo lời, lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Rồi quả thấy Vũ Nương
ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán,
võng lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện.
Chàng vội gọi, nàng vn giữa dòng mà nói vọng vào:
- Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ nh chàng, thiếp chẳng
thtrvề nhân gian được nữa.
Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất.
2. Đôi nét về tác giả Nguyễn Dữ
Nguyễn Dữ, còn được gọi là Nguyễn T(năm sinh và năm mất chưa rõ), là một nhân vật
đáng chú ý.
Ông sinh và lớn lên tại huyện Trường Tân, hiện thuộc huyện Thanh Miện, tỉnh Hải
Dương.
Ông là một trong những học trò xuất sắc của Tuyết Giang Phu T - Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Ông sống vào thế kỉ XVI, một thời kỳ đầy biến động khi triều đình nhà Lê đang trải qua
những khủng hoảng. Các tập đoàn phong kiến Lê, Mạc Trịnh đấu tranh tranh giành
quyn lực, gây nên cuộc nội chiến kéo dài.
Nguyễn Dữ là một người có kiến thức rộng và tài năng, tuy nhiên chỉ từng làm quan
trong một năm ri quyết định về quê chăm sóc mẹ già và viết sách. Ông sống ẩn dật,
giống như nhiều trí thức đương thời khác
3. Giới thiệu về Chuyện người con gái Nam Xương
3.1 Hoàn cảnh sáng tác
"Chuyện người con gái Nam Xương" là một trong hai mươi truyện trong tuyển tập
"Truyền kỳ mạn lục".
"Truyền kỳ mạn lục" là một tác phẩm viết bằng chữ Hán, ghi chép những câu chuyện kỳ
lạ được truyền tải. Tác phẩm này chịu ảnh hưởng của truyện truyền kỳ Trung Quốc, một
thể loại truyện thường có yếu tố kỳ lạ, phi thực tế. Tuy nhiên, điểm khác biệt là Nguyễn
Dữ đã khai thác các truyện cổ dân gian, truyền thuyết lịch sử và sử thi của Việt Nam để
tạo ra tác phẩm riêng của mình.
Nhân vật chính trong truyện thường là những người phụ nữ bất hạnh, khao khát hạnh
phúc nhưng bị các thế lực tàn ác và cả xã hội khắc nghiệt đẩy vào hoàn cảnh khó khăn,
bất công và bất hạnh.
Bố cục Truyện được chia thành 3 phần:
Phần 1: Từ đầu đến "lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình". Miêu tả cuộc sống của Vũ Nương
sau khi được gả cho Trương Sinh.
Phần 2: Tiếp theo đến "nhưng việc trót đã qua rồi". Trình bày sự hiểu lầm của Trương Sinh dẫn
đến sự oan khuất của Vũ Nương.
Phần 3: Các phần còn lại. Tường thuật về quá trình Vũ Nương được giải oan.
3.2 Tóm tắt truyện ngắn gọn
Mẫu 1
Thị Thiết, một cô gái từ quê hương Nam Xương, có nh nh dịu dàng và tốt đẹp, đã nhận
được sự yêu mến của Trương Sinh và được anh ta xin về làm vợ bằng cách tặng mẹ của cô một
trăm lạng vàng. Biết rằng chồng mình có nh đa nghi, Vũ Nương đã cố gắng giữ gìn phép lịch sự.
Trong thời gian đó, đất nước đang trong nh trạng chiến tranh và Trương Sinh phải đi lính. Vũ
Nương ở nhà chăm sóc con và nuôi dạy cháu, cũng như lo lắng cho mẹ già sau khi mẹ chồng qua
đời. Khi Trương Sinh trở về, anh ta đưa con ra mộ để thăm mẹ và hiểu lầm rằng Vũ Nương có
mối quan hệ với người khác. Vì bị oan khuất, Vũ Nương không thể xóa sạch sự nghi ngờ và tự tử
bằng cách nhảy xuống sông. Một đêm nọ, Trương Sinh ôm con ngồi trước đèn và nhìn vào cái
bóng của mình, ông nhận ra rằng đó là đứa con của mình và thấy mình đã hiểu lầm vợ mình,
nhưng đã quá muộn. Một người đàn ông tên là Phan Lan, người đã được Linh Phi cứu khi đang
trong nguy hiểm, nh cờ gặp Vũ Nương ở thủy cung. Phan Lan trở vthế giới thực và đưa một
bông hoa vàng cùng lời nhắn từ Vũ Nương cho Trương Sinh. Trương Sinh tổ chức lễ giải oan bên
bến sông Hoàng Giang. Vũ Nương hiện ra giữa dòng nước, ngồi trên một chiếc kiệu hoa và biến
mất.
Mẫu 2
Nương là một cô gái quê Nam Xương, không chỉ xinh đẹp mà còn có tư duy lịch sự tốt. Điều
này khiến Trương Sinh, một chàng trai trong làng, yêu mến và cầu hôn cô bằng cách tặng mẹ
của cô một trăm lạng vàng. Trong cuộc sống hôn nhân, vì biết chồng mình dễ ghen tức, Vũ
Nương luôn cố gắng sống đúng quy tắc để gia đình hòa hợp. Tuy nhiên, sau khi Trương Sinh đi
lính, chỉ vì một câu nói ngây thơ của đứa trẻ mà anh ta bắt đầu nghi ngờ và trở nên ghen tuông.
Dù Vũ Nương đã cố gng giải thích, nhưng không có hiệu quả. Cô quyết định m cái chết để
chứng minh sự trong sạch của mình. Sau khi hiểu rõ mọi chuyện, Trương Sinh hối hận nhưng đã
quá muộn. Anh tổ chức lễ giải oan cho vợ và Vũ Nương hiện lên và biến mất trong một sự thc
hư không định rõ.
3.3 Ý nghĩa nhan đề
"Truyền kì mạn lục" gồm hai mươi truyện, trong đó đa phần các truyện được khởi đầu bằng từ
"chuyện" hay "câu chuyện". "Chuyện người con gái Nam Xương" cũng không ngoại lệ. Tuy
nhiên, đây không phải là một yếu tố thừa, mà qua đó, người đọc hiểu rằng đây là câu chuyện về
một người con gái ở Nam Xương. Nhà văn Nguyễn Dữ đặt cụm từ "người con gái" trong êu đề
tác phẩm để nhấn mạnh nhân vật trung tâm của truyện là một phụ nữ.
Tuy vậy, ông lại đặt một cách khéo léo "người con gái Nam Xương", chứ không phải "Chuyện
người con gái Vũ Nương" hay "Chuyện người con gái Vũ Thị Thiết", nhằm khẳng định rằng đây
không chỉ là câu chuyện riêng của Vũ Nương. Đó còn là câu chuyện chung của những người phụ
nữ trong xã hội cổ đại. Cuộc sống của Vũ Nương chỉ đại diện cho số phận của phụ nữ trong thời
đại đó. Qua nhân vật này, nhà văn cũng truyền tải những giá trị nhân văn cao quý. Đầu ên là sự
tôn trọng những ước mơ đúng đắn và khát vọng cao đẹp như hạnh phúc và sự công bằng trong
xã hội. Tiếp theo là lòng thương xót và đồng cảm sâu sắc của tác giả đối với số phận của phụ nữ.
Không chỉ vậy, nhà văn còn lên án, phê phán, và tố cáo xã hội phong kiến đã vi phạm quyền sống
của con người. Cuối cùng, nhà văn khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ. Đây thc
sự là một nhan đề mang nh chung chung cao.

Preview text:

Truyện Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ Ngữ văn 9
1. Nội dung "Chuyện người con gái Nam Xương"
Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thuỳ mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp.
Trong làng có chàng Trương Sinh, mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về.
Song Trương Sinh có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức. Nàng cũng giữ gìn khuôn
phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà. Cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì
xảy ra việc triều đình bắt lính đi đánh giặc Chiêm. Trương tuy con nhà hào phú nhưng không có
học, nên phải ghi trong sổ lính đi vào loại đầu. Buổi ra đi mẹ chàng có dặn rằng:
- Nay con phải tạm ra tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy hội công danh từ xưa ít gặp, nhưng trong
chỗ binh cách phải biết giữ mình làm trọng, gặp khó nên lui, lường sức mà tiến, đừng nên tham
miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có như thế,
mẹ ở nhà mới khỏi lo lắng vì con được.
Chàng quỳ xuống đất vâng lời dạy. Nàng rót chén rượu đầy tiễn chồng mà rằng:
- Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê
cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rối. Chỉ e việc quân khó liệu, thế
giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà
mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ,
lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng.
Nàng nói đến đây, mọi người đều ứa hai hàng lệ. Rồi đó, tiệc tiễn vừa tàn, áo chàng đành rứt.
Nước mắt cảnh vật vẫn còn như cũ, mà lòng người đã nhuộm mối tình, muôn dặm quan san!
Bấy giờ, nàng đương có mang, sau khi xa chồng vừa đầy tuần thì sinh ra một đưa con trai, đặt
tên là Đản. Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che
kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được. Bà mẹ cũng vì nhớ con mà dần
sinh ốm. Nàng hết sức thuốc than lễ bế thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn.
Song bệnh tình mỗi ngày một trầm trọng, bà biết không sống được, bèn trối lại với nàng rằng:
- Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà không
gắng ăn miếng cơm miếng cháo đặng cùng vui sum họp. Song, làm tham vô cùng mà vận trời
khó tránh. Nước hết chuông rền, số cùng khí kiệt. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc
sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi không biết sống chết thế nào không
thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con
cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ.
Bà cụ nói xong thì mất. Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình.
Qua năm sau, giặc ngoan cố chịu trói, việc quân kết thúc. Trương Sinh về tới nhà, được biết mẹ
đã qua đời, con vừa học nói. Chàng hỏi mồ mẹ, rồi bế đứa con nhỏ đi thăm; đứa trẻ không chịu,
ra đến đồng, nó quấy khóc, Sinh dỗ dành:
- Nín đi con, đừng khóc. Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi. Đứa con ngây thơ nói:
- Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư! Ông lại biết nói chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít.
Chàng ngạc nhiên gạn hỏi. Đứa con nhỏ nói:
- Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi
cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.
Tính chàng hay ghen, nghe con nói vậy, đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được.
Về đến nhà, chàng la um lên cho hả giận. Vợ chàng khóc mà rằng:
- Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thoả tình chăn gối, chia phôi vì
động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng,
ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày
tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.
Chàng vẫn không tin. Nhưng nàng hỏi chuyện kia do ai nói ra, thì lại giấu không kể lời con nói;
chỉ lấy chuyện bóng gió này nọ mà mắng nhiếc nàng, và đánh đuổi đi. Họ hàng làng xóm bênh
vực và biện bạch cho nàng, cũng chẳng ăn thua gì cả. Nàng bất đắc dĩ nói:
- Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy,
mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu
xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.
Đoạn rồi nàng tắm gội sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:
- Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc
nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng,
vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá,
lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.
Nói xong nàng gieo mình xuống sông mà chết. Chàng tuy giận là nàng thất tiết, nhưng thấy nàng
tự tận cũng động lòng thương, tìm vớt thây nàng, nhưng chẳng thấy tăm hơi đâu cả. Một đêm
phòng không vắng vẻ, chàng ngồi dưới ngọn đèn khuya, chợt đứa con nói rằng:
- Cha Đản lại đến kia kìa!
Chàng hỏi đâu. Nó chỉ bóng chàng ở trên vách: - Đây này!
Thì ra, ngày thường, ở một mình, nàng hay đùa con, trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản. Bấy giờ
chàng mới tỉnh ngộ, thấu nỗi oan của vợ, nhưng việc trót đã qua rồi!
Cùng làng với nàng, có người tên là Phan Lang, khi trước làm đầu mục ở bến đò Hoàng Giang,
một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh đến kêu xin tha mạng. Sáng dậy, Phan Lang thấy
có người phường chài đem vào biếu một con rùa mai xanh, sực nghĩ đến chuyện mộng, bèn
đem thả con rùa ấy. Cuối đời Khai Đại nhà Hồ, quân Minh mượn tiếng đưa Trầm Thiêm Bình về
nước, phạm vào cửa ải Chi Lăng, nhân dân trong nước, nhiều người sợ hãi phải chạy trốn ra
ngoài bể, không may đắm thuyền đều chết đuối cả. Thây Phan Lang dạt vào một cái động rùa ở
hải đảo, có người đàn bà là Linh Phi trông thấy nói rằng:
- Đây là vị ân nhân cứu sống ta thuở xưa.
Linh Phi bèn lấy khăn dấu mà lau, lấy thuốc thần mà đổ, một chốc Phan Lang liền tỉnh lại. Phan
trông thấy cung gấm đền dao thật nguy nga lộng lẫy, mà chưa biết mình đã lọt vào cung nước
của rùa thần. Linh Phi bấy giờ mình mặc áo gấm dát ngọc, chân đi giày có vân nạm vàng, cười bảo Phan Lang rằng:
- Tôi là Linh Phi trong động rùa, vợ vua biển Nam Hải, nhớ hồi còn nhỏ đi chơi ở bến sông bị
người phường chài bắt được, ngẫu nhiên báo mộng, quả được nhờ ơn. Gặp gỡ ngày nay, há
chẳng phải lòng trời xui khiến cho tôi có dịp đền ơn trả nghĩa?
Phi bèn đặt yến ở gác Triêu Dương để thết đãi Phan Lang. Dự tiệc hôm ấy có vô số những mĩ
nhân, quần áo thướt tha, mái tóc búi xễ. Trong số đó, có một người mặt chỉ hơi điểm qua một
chút son phấn trông rất giống Vũ Nương. Phan có ý nhìn trộm, nhưng không dám nhận. Tiệc
xong, người đàn bà ấy nói với Phan Lang rằng:
- Tôi với ông vốn người cùng làng, cách mặt chưa bao, đã quên nhau rồi ư?
Bấy giờ Phan mới nhận đích người ấy là Vũ Nương và gạn hỏi duyên cớ. Nàng nói:
- Tôi ngày trước không may bị người vu oan, phải gieo mình xuống sông tự tử. Các nàng tiên
trong cung nước thương tôi vô tội, rẽ một đường nước cho tôi thoát chết, nếu không thì đã vùi
vào bụng cá, còn đâu mà gặp ông. Phan nói:
- Nương Tử nghĩa khác Tào Nga, hờn không Tinh Vệ mà phải ôm mối hận gieo mình xuống nước.
Nay thóc cũ không còn, thóc mới vừa gặt, há lại không tưởng nhớ đến quê hương ư? Vũ Nương nói:
- Tôi bị chồng ruồng rẫy, thà già ở chốn làng mây cung nước, chứ còn mặt mũi nào về nhìn thấy người ta nữa! Phan nói:
- Nhà cửa tiên nhân của nương tử, cây cối thành rừng, phần mộ tiên nhân của nương tử, cỏ gai
rợp mắt. Nương tử dù không nghĩ đến, nhưng tiên nhân còn mong đợi nương tử thì sao?
Nghe đến đây, Vũ Nương ứa nước mắt khóc, rồi quả quyết đổi giọng mà rằng:
- Có lẽ không thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi, để mang tiếng xấu xa. Phải chăng, ngựa Hồ
gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam. Cản vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày.
Hôm sau, Linh Phi lấy một cái túi bằng lụa tía, đựng mười hạt minh châu, sai sứ giả Xích Hỗn
đưa Phan ra khỏi nước. Vũ Nương nhân đó cũng đưa gửi một chiếc hoa vàng mà dặn:
- Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở
bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về.
Lúc đến nhà, Phan đem chuyện kể lại với họ Trương. Ban đầu Trương không tin. Nhưng khi nhận
được chiếc hoa vàng, chàng mới sợ hãi mà nói:
- Đây quả là vật dùng mà vợ tôi mang lúc ra đi.
Chàng bèn theo lời, lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Rồi quả thấy Vũ Nương
ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán,
võng lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện.
Chàng vội gọi, nàng vẫn ở giữa dòng mà nói vọng vào:
- Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng
thể trở về nhân gian được nữa.
Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất.
2. Đôi nét về tác giả Nguyễn Dữ
 Nguyễn Dữ, còn được gọi là Nguyễn Tự (năm sinh và năm mất chưa rõ), là một nhân vật đáng chú ý.
 Ông sinh và lớn lên tại huyện Trường Tân, hiện thuộc huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
 Ông là một trong những học trò xuất sắc của Tuyết Giang Phu Tử - Nguyễn Bỉnh Khiêm.
 Ông sống vào thế kỉ XVI, một thời kỳ đầy biến động khi triều đình nhà Lê đang trải qua
những khủng hoảng. Các tập đoàn phong kiến Lê, Mạc Trịnh đấu tranh tranh giành
quyền lực, gây nên cuộc nội chiến kéo dài.
 Nguyễn Dữ là một người có kiến thức rộng và tài năng, tuy nhiên chỉ từng làm quan
trong một năm rồi quyết định về quê chăm sóc mẹ già và viết sách. Ông sống ẩn dật,
giống như nhiều trí thức đương thời khác
3. Giới thiệu về Chuyện người con gái Nam Xương
3.1 Hoàn cảnh sáng tác
 "Chuyện người con gái Nam Xương" là một trong hai mươi truyện trong tuyển tập "Truyền kỳ mạn lục".
 "Truyền kỳ mạn lục" là một tác phẩm viết bằng chữ Hán, ghi chép những câu chuyện kỳ
lạ được truyền tải. Tác phẩm này chịu ảnh hưởng của truyện truyền kỳ Trung Quốc, một
thể loại truyện thường có yếu tố kỳ lạ, phi thực tế. Tuy nhiên, điểm khác biệt là Nguyễn
Dữ đã khai thác các truyện cổ dân gian, truyền thuyết lịch sử và sử thi của Việt Nam để
tạo ra tác phẩm riêng của mình.
 Nhân vật chính trong truyện thường là những người phụ nữ bất hạnh, khao khát hạnh
phúc nhưng bị các thế lực tàn ác và cả xã hội khắc nghiệt đẩy vào hoàn cảnh khó khăn, bất công và bất hạnh.
Bố cục Truyện được chia thành 3 phần:
Phần 1: Từ đầu đến "lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình". Miêu tả cuộc sống của Vũ Nương
sau khi được gả cho Trương Sinh.
Phần 2: Tiếp theo đến "nhưng việc trót đã qua rồi". Trình bày sự hiểu lầm của Trương Sinh dẫn
đến sự oan khuất của Vũ Nương.
Phần 3: Các phần còn lại. Tường thuật về quá trình Vũ Nương được giải oan.
3.2 Tóm tắt truyện ngắn gọn Mẫu 1
Vũ Thị Thiết, một cô gái từ quê hương Nam Xương, có tính tình dịu dàng và tốt đẹp, đã nhận
được sự yêu mến của Trương Sinh và được anh ta xin về làm vợ bằng cách tặng mẹ của cô một
trăm lạng vàng. Biết rằng chồng mình có tính đa nghi, Vũ Nương đã cố gắng giữ gìn phép lịch sự.
Trong thời gian đó, đất nước đang trong tình trạng chiến tranh và Trương Sinh phải đi lính. Vũ
Nương ở nhà chăm sóc con và nuôi dạy cháu, cũng như lo lắng cho mẹ già sau khi mẹ chồng qua
đời. Khi Trương Sinh trở về, anh ta đưa con ra mộ để thăm mẹ và hiểu lầm rằng Vũ Nương có
mối quan hệ với người khác. Vì bị oan khuất, Vũ Nương không thể xóa sạch sự nghi ngờ và tự tử
bằng cách nhảy xuống sông. Một đêm nọ, Trương Sinh ôm con ngồi trước đèn và nhìn vào cái
bóng của mình, ông nhận ra rằng đó là đứa con của mình và thấy mình đã hiểu lầm vợ mình,
nhưng đã quá muộn. Một người đàn ông tên là Phan Lan, người đã được Linh Phi cứu khi đang
trong nguy hiểm, tình cờ gặp Vũ Nương ở thủy cung. Phan Lan trở về thế giới thực và đưa một
bông hoa vàng cùng lời nhắn từ Vũ Nương cho Trương Sinh. Trương Sinh tổ chức lễ giải oan bên
bến sông Hoàng Giang. Vũ Nương hiện ra giữa dòng nước, ngồi trên một chiếc kiệu hoa và biến mất. Mẫu 2
Vũ Nương là một cô gái quê Nam Xương, không chỉ xinh đẹp mà còn có tư duy lịch sự tốt. Điều
này khiến Trương Sinh, một chàng trai trong làng, yêu mến và cầu hôn cô bằng cách tặng mẹ
của cô một trăm lạng vàng. Trong cuộc sống hôn nhân, vì biết chồng mình dễ ghen tức, Vũ
Nương luôn cố gắng sống đúng quy tắc để gia đình hòa hợp. Tuy nhiên, sau khi Trương Sinh đi
lính, chỉ vì một câu nói ngây thơ của đứa trẻ mà anh ta bắt đầu nghi ngờ và trở nên ghen tuông.
Dù Vũ Nương đã cố gắng giải thích, nhưng không có hiệu quả. Cô quyết định tìm cái chết để
chứng minh sự trong sạch của mình. Sau khi hiểu rõ mọi chuyện, Trương Sinh hối hận nhưng đã
quá muộn. Anh tổ chức lễ giải oan cho vợ và Vũ Nương hiện lên và biến mất trong một sự thực hư không định rõ.
3.3 Ý nghĩa nhan đề
"Truyền kì mạn lục" gồm hai mươi truyện, trong đó đa phần các truyện được khởi đầu bằng từ
"chuyện" hay "câu chuyện". "Chuyện người con gái Nam Xương" cũng không ngoại lệ. Tuy
nhiên, đây không phải là một yếu tố thừa, mà qua đó, người đọc hiểu rằng đây là câu chuyện về
một người con gái ở Nam Xương. Nhà văn Nguyễn Dữ đặt cụm từ "người con gái" trong tiêu đề
tác phẩm để nhấn mạnh nhân vật trung tâm của truyện là một phụ nữ.
Tuy vậy, ông lại đặt một cách khéo léo "người con gái Nam Xương", chứ không phải "Chuyện
người con gái Vũ Nương" hay "Chuyện người con gái Vũ Thị Thiết", nhằm khẳng định rằng đây
không chỉ là câu chuyện riêng của Vũ Nương. Đó còn là câu chuyện chung của những người phụ
nữ trong xã hội cổ đại. Cuộc sống của Vũ Nương chỉ đại diện cho số phận của phụ nữ trong thời
đại đó. Qua nhân vật này, nhà văn cũng truyền tải những giá trị nhân văn cao quý. Đầu tiên là sự
tôn trọng những ước mơ đúng đắn và khát vọng cao đẹp như hạnh phúc và sự công bằng trong
xã hội. Tiếp theo là lòng thương xót và đồng cảm sâu sắc của tác giả đối với số phận của phụ nữ.
Không chỉ vậy, nhà văn còn lên án, phê phán, và tố cáo xã hội phong kiến đã vi phạm quyền sống
của con người. Cuối cùng, nhà văn khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ. Đây thực
sự là một nhan đề mang tính chung chung cao.