Tự luận chương 1 - Quản trị học đại cương | Đại học Bách Khoa Hà Nội

Tự luận chương 1 - Quản trị học đại cương | Đại học Bách Khoa Hà Nội. Tài liệu được biên soạn giúp các bạn tham khảo, củng cố kiến thức, ôn tập và đạt kết quả cao kết thúc học phần. Mời các bạn đọc đón xem!

TỰ LUẬN CHƯƠNG 1
Câu 1: Phân tích vai trò của nhà quản trị theo quan điểm Henrt Mintzberg và lấy ví
dụ?
3 nhóm vai trò:
a/ Quan hệ con người: Nhà quản trị trong doanh nghiệp luôn phải giao tiếp với cấp trên
và cấp dưới, đều phải giải quyết các mối quan hệ giữa con người với con người trong nội
bộ doanh nghiệp cũng như bên ngoài doanh nghiệp. Trong hoạt động giao tiếp, nhà quản
trị có những vai trò sau:
- Vai trò đại diện: Chào mừng khách, ký văn bản, luật lệ …
- Vai trò lãnh đạo: Phối hợp & kiểm tra thuộc cấp …
- Vai trò liên kết: Quan hệ với người khác trong & ngoài tổ chức …
b/ Truyền thông
- Xử lý thông tin: Thu thập, tiếp nhận, xử lý thông tin trước khi quyết định có xử
thông tin hay không và loại trừ những thông tin gây ảnh hưởng xấu đến tổ chức
- Người phổ biến: Chuyển tải các thông tin trong nội bộ tổ chức thông qua các
cuộc họp, điện thoại…
- Người phát ngôn: Cung cấp thông tin ra bên ngoài tổ chức thông qua các phương
tiện thông tin…
c/ Ra quyết định
- Người sáng tạo: Hành động như một người tiên phong, cải tiến các hoạt động của
tổ chức, phát triển các chương trình hành động
- Người điều khiển: Thực hiện các điều chỉnh cần thiết khi tổ chức đối mặt với
những khó khăn không tiên liệu trước, những cuộc khủng hoảng…
- Điều phối nguồn lực: Phân bổ ngân sách, nhân lực, thời gian …
- Nhà thương lượng: Thương lượng, đàm phán…
Câu 2: (Câu 4) Phân tích mối quan hệ giữa các cấp quản trị các kỹ năng quản
trị. Lấy ví dụ minh họa.
3 cấp bậc nhà quản trị:
a/ Quản trị viên cấp cao: Là nhà quản trị hoạt động ở bậc cao nhất trong doanh nghiệp, là
người chịu trách nhiệm về những thành quả cuối cùng của doanh nghiệp.
- Nhiệm vụ: Đưa ra các quyết định chiến lược, tổ chức thực hiện chiến lược để duy
trì và phát triển doanh nghiệp trong dài hạn.
- Các chức danh của nhà quản trị viên cấp cao: Chủ tịch hội đồng quản trị, phó chủ
tịch hội đồng quản trị, tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, giám đốc, phó giám
đốc…
b/ Quản Trị Viên Cấp Trung: nhà quản trị hoạt động ở các bộ phận tham mưu, các bộ
phận chức năng hoặc các cấp quản lý trung gian trong bộ máy quản trị doanh nghiệp.
- Nhiệm vụ: Đưa ra các quyết định chiến thuật, thực hiện các kế hoạch chính
sách của doanh nghiệp, phối hợp các hoạt động, các công việc để hoàn thành mục
tiêu chung.
- Các chức danh của nhà quản trị viên cấp trung gian: Trưởng phòng, phó phòng,
trưởng ban, phó ban, quản đốc phân xưởng, phó quản đốc phân xưởng…
c/ Quản Trị Viên Cấp Sở: nhà quản trị hoạt động cấp bậc cuối cùng trong hệ
thống tổ chức của doanh nghiệp.
- Nhiệm vụ: Đưa ra các quyết định tác nghiệp nhằm đốc thúc, hướng dẫn điều khiển
các công nhân viên trong các công việc sản xuất kinh doanh cụ thể hang ngày
nhằm thực hiện mục tiêu chung
- Các chức danh của nhà quản trị viên cấp trung gian: Tổ trưởng sản xuất, tổ trưởng
các tổ bán hàng, đốc công, trưởng ca…
Các kỹ năng quản trị:
Kỹ năng Nội dung
Tư duy
- Là khả năng tư duy hệ thống, biết phân tích mối liên hệ giữa các vấn đề
một cách logic, …
- Đây một kỹ năng rất khó đặc biệt hiểu mức độ phức tạp của
môi trường và biết cách giảm thiểu sự phức tạp đó xuống một mức có thể
đối phó được.
Chuyên môn
- những khả năng cần thiết để thực hiện một công việc cụ thể. bao
hàm sự hiểu biết thành thạo về một loại hình hoạt động đặc biệt, nhất
loại hình hoạt động liên quan đến phương pháp, các chu trình, các
thủ tục hay các kỹ thuật của lĩnh vực, chức năng
Nhân sự
- Là khả năng cùng làm việc, động viên, điều khiển con người và tập thể
trong doanh nghiệp, dù những người đó là thuộc cấp, đồng nghiệp ngang
hàng hay cấp trên.
- Là khả năng của nhà quản trị có thể điều hành một cách có hiệu quả với
cách một thành viên của nhóm động viên cố gắng hợp tác trong
nhóm mà nhà quản trị phụ trách hay lãnh đạo.
Mối quan hệ giữa ba cấp quản trị và nhà quản trị
Tất cả ba kỹ năng trên đều cần thiết đối với các nhà quản trị ở từng cấp quản trị, song
tầm quan trọng tương đối của kỹ năng chuyên môn, kỹ năng nhân sự, kỹ năng tư duy
cũng thay đổi tùy theo vai trò, trách nhiệm và vị trí khác nhau của nhà quản trị trong một
doanh nghiệp.
Tại các cấp thấp hơn, kỹ năng chuyên môn yếu tố tạo ra nhiều điểm ưu việt của
công nghiệp hiện đại. Vì vậy, kỹ năng chuyên môn có tầm quan trọng lớn hơn ở cấp quản
trị viên cơ sở. Khi nhà quản trị ở những vị trí cấp cao hơn thì nhu cầu về kỹ năng chuyên
môn trở nên ít quản trị hơn trong khi kỹ năng duy thì thì ngược lại ngày càng quan
trọng hơn. Cấp quản trị càng thấp thì càng đòi hỏi phải kỹ năng chuyên môn giỏi
nhà quản trị phải gắn liền với công việc mang tính chuyên môn nghiệp vụ. Kỹ năng nhân
sự thì lại rất cần thiết đối với nhà quản trị tất cả các cấp, nhà quản trị nào cũng phải
làm việc với con người, phải giao tiếp và xử lý các công việc liên quan đến con người.
Tại tất cả các cấp quản trị, đều đòi hỏi phảimột trình độ nào đó về ba kỹ năng nói
trên. Nhận thức ràng về những kỹ năng này về những phương pháp đánh giá trình
độ của các nhà quản trị về mỗi loại kỹ năng sẽ công cụ hiệu quả cho những nhà quản
trị cấp cao nhất, không chỉ để đánh giá cán bộ mà còn để lựa chọn, đào tạo, và đề bạt các
cán bộ quản trị tất cả các cấp trong doanh nghiệp, nhằm xây dựng lực lượng đội ngũ
nhà quản trị kinh doanh năng lực trình độ kỹ năng giỏi mang tính chuyên nghiệp
cho doanh nghiệp.
Ví dụ: Trong doanh nghiệp A:
- Chủ tịch hội đồng quản trị, tổng giám đốc và các giám đốc có nhiệm vụ xây dựng chiến
lược, kế hoạch hành động trong tương lai xa để phát triển doanh nghiệp. Họ cần hàm
lượng kĩ năng tư duy rất cao và không cần hiểu biết quá sâu về các kĩ năng chuyên môn.
- Các trưởng phòng, quản đốc cần hoạch định chiến thuật dựa trên đường lối chiến
lược do các giám đốc vạch rachỉ đạo các tổ trưởng, nhóm trưởng. Họ cần hàm lượng
kĩ năng tư duy ít hơn các nhà quản trị cấp cao vì chỉ cần xây dượng kế hoạch ngắn hạn và
họ cần hiểu biết chuyên môn hơn các nhà quản trị cấp cao để lên kế hoạch chi tiết hơn.
- Các tổ trưởng, nhóm trưởng dựa trên kế hoạch chỉ tiêu ngắn hạn do các trưởng
phòng và quản đốc đề ra để đốc thúc, hướng dẫn nhân viên làm việc. Họ cần ít kĩ năng tư
duy nhất trong các cấp quản trị cần hiểu biết rất về kĩng chuyên môn để hướng
dân nhân viên.
Cả ba cấp quản trị đều phải năng nhân sự để điều khiển cấp dưới làm việc như
mong muốn của mình để phát triển doanh nghiệp.
Câu 3: Phân tích về các nhân tố môi trường tác động tới hoạt động quản trị và lấy
ví dụ minh họa?
Môi trường bên ngoài:
- Môi trường bên ngoài bao gồm các yếu tố từ bên ngoài tổ chức nhà quản trị không
kiểm soát được nhưng chúng lại có ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của tổ chức.
- Phân tích môi trườngn ngoài một quá trình xem xét đánh giá các yếu tố thuộc
môi trường bên ngoài của tổ chức để xác định các xu hướng tích cực (cơ hội) hay tiêu
cực (mối đe dọa hoặc nguy cơ) có thể tác động đến kết quả của tổ chức.
Môi trường bên ngoài được chia nhỏ thành 3 môi trường:
Môi trường vĩ mô
Môi trường vi mô (môi trường cạnh tranh, môi trường ngành)
1.1. Môi trường vĩ mô
Môi trường môi trường bao trùm và ảnh hưởng đến hoạt động của tất cả các
tổ chức. Các thành phần chủ yếu của môi trường vĩ mô bao gồm:
- Kinh tế
- Chính trị
- Xã hội
- Văn hoá
- Tự nhiên
- Dân số
- Công nghệ kỹ thuật
Thông thường, các chuyên gia sẽ sử dụng mô hình PESTLE để phân tích các yếu tố trên.
1.2. Môi trường vi mô (môi trường cạnh tranh, môi trường ngành)
Nghiên cứu môi trường vi (còn tên gọi môi trường cạnh tranh hoặc môi trường
ngành) một nội dung rất quan trọng trong quá trình phân tích môi trường bên ngoài.
Theo đó, môi trường vi mô sẽ gồm các yếu tố sau:
Các đối thủ cạnh tranh hiện tại
Các đối thủ tiềm ẩn
Sức mạnh của khách hàng
Sức mạnh của nhà cung cấp
Các sản phẩm thay thế
Để nghiên cứu phân tích môi trường vi mô, các chuyên gia thường hay sử dụng
hình 5 áp lực cạnh tranh của Porter.
Môi trường bên trong
Các doanh nghiệp cần phân tích một cách chặt chẽ các yếu tố bên trong doanh
nghiệp nhằm xác định ưu và nhược điểm của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó đưa ra các
biện pháp nhằm khắc phục nhược điểm phát huy thế mạnh của doanh nghiệp để đạt
được lợi nhuận tối đa. thể nói, phân tích các yếu tố môi trường bên trong chính
phân tích điểm mạnh điểm yếu của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đây lại những yếu tố
mà doanh nghiệp hoàn toàn có thể kiểm soát và điều chỉnh được.
rất nhiều phương pháp phân tích môi trường bên trong. Các yếu tố thông
thường để phân tích bao gồm:
Tài chính – Kế toán
Sản xuất và nghiệp vụ kỹ thuật
Nhân sự và bộ máy quản lý
Môi trường làm việc
Văn hoá doanh nghiệp
Ngoài ra, Michael Porter cũng đưa ra một hình dùng để phân tích môi trường bên
trong của tổ chức được gọi chuỗi giá trị (Value chain). Chuỗi giá trị tổng hợp các
hoạt động liên quan của tổ chức làm tăng giá trị cho khách hàng. Việc thực hiện các
hoạt động trong dây chuyền squyết định hiệu quả hoạt động chung tạo ra những lợi
thế cạnh tranh của tổ chức. Michael Porter chia các hoạt động của tổ chức thành 2 nhóm:
các hoạt động chính và các hoạt động hỗ trợ:
Các hoạt động chính: Các hoạt động đầu o, Sản xuất, Các hoạt động đầu ra,
Marketing & Sales Dịch vụ
Các hoạt động hỗ trợ: Thu mua, Công nghệ, Quản trị nguồn nhân lực, sở hạ
tầng
Ví dụ điển hình tại Việt Nam:
-Trước đây,KFC được Việt Nam biết đến một nhà hàng mini hiện đại ,quá đắt đỏ so
với những món ăn khác,thể hiện phong cách nhiều hơn đối với giới trẻ,còn chủ yếu thu
hút toàn trẻ em nhiều hơn.Còn bây giờ,KFC được biết đến là “Thịt gà rán”-đây là món ăn
nhanh đang trở nên thông dụng với mọi người.Vậy họ đã làm những thay đổi
như thế nào?
- Khi mới bắt đầu xuất hiện tại thị trường Việt Nam,KFC đã chịu lỗ trong 7 năm để tạo ra
một thói quen-một văn hóa tiêu dùng cho người Việt,đặc biệt giới trẻ.Sự thành công
của họ ngày hôm nay cũng chính từ việc am hiểu tính chất văn hóa.Người dân Việt Nam
thường mang tính chất nhà hàng nhưng được phục vụ nhanh.KFC đã xây dựng một hệ
thống cửa hàng khác biệt so với các cửa hàng truyền thống,chọn màu đỏ làm màu chủ
đạo,phục vụ chuyên nghiệp;Đồng thời bản thân sản phẩm KFC cũng đã sự khác biệt
để phù hợp với văn hóa Việt Nam:bên cạnh những món ăn truyền thống KFC còn chế
biến một số món để phục vụ những thức ăn hợp khẩu vị với người dân Việt;kích thước
của sản phẩm Hambeger cũng thay đổi,nhỏ hơn thích hợp với vóc dáng của người Việt
Nam.Danh mục sản phẩm được sắp xếp theo nhiều loại giúp cho người tiêu dùng dễ lựa
chọn món ăn ưa thích. Một số món mới đã được tung ra thị trường góp phần làm tăng
thêm sự phong phú trong danh mục thực đơn…KFC tạo sự thích thú cho giới
thanh niên,tạo ra một trào lưu mới trong cách tiêu dùng của người Việt Nam.Với hướng
đi đúng đắn năm 2006,KFC đãthu được lợi nhuận và đã thực sự thu hút được người Việt
đặc biệt giới trẻ không chỉ sự thuận tiện,sang trọng,thưởng thức món ăn,mà còn
thưởng thức một phong cách hiện đại đang phổ biến trên thế giới làm thay đổi một phần
văn hóa ẩm thực của người Việt nhưng vẫn giữ gìn giá trị văn hóa cốt lõi của Việt Nam.
Sự tác động của các yếu tố văn hóa có tính chất lâu dài và tinh tế, khó nhận biết.
vậy,các nhà quản trị phải tìm hiểu các yếu tố văn hóa để kế hoạch phát
triển đổi mới,phù hợp với điều kiện thực tiễn đưa sản phẩm của doanh nghiệp đến với tất
cả mọi người.
Câu 4: (Câu 2) Nhà quản trị cần có những kỹ năng gì? Lấy ví dụ minh họa?
Câu 5: Trình bày các quan điểm về quản trị? Điểm chung của các quan điểm khác
nhau về quản trị?
Lịch sử phát triển tư tưởng của quản trị Lịch sử phát triển của khoa học quản trị, hoặc nói
chính xác hơn, lịch sử phát triển của tư tưởng (học thuyết, quan điểm) quản trị đã trải qua
các giai đoạn sau:
a. Giai đoạn tiền tư bản: Quản trị (trong một tổ chức bất kỳ, trong kinh doanh, trong kinh
tế, trong quân sự v.v...) mang tính cách là một thứ triết học, trong việc quản trị xã hội, mà
thành tựu lớn nhất các nhà chính trị triết học cổ phương Đông, Hy Lạp, La Mã.
Quản trị chưa được tách ra để trở thành một khoa học độc lập. Thành tựu đạt được trong
tư tưởng quản trị xã hội trong giai đoạn này phải kể tới các nhàtưởng và chính trị lớn
của Trung Quốc cổ đại:
- Quản Trọng (638 640 tr. CN), triết gia Trung Hoa cho rằng: muốn quản trị hội,
muốn dân giàu nước mạnh, phải sử dụng bạo lực phải quan tâm tới 5 mặt hoạt động
bản là: quan hệ đối ngoại, ra sức phát triển sản xuất, tăng cường xây dựng lực lượng
trang, thực hành luật pháp nghiêm minh, ngăn chặn các thói tật xấu của những
người đứng đầu xã hội.
- Khổng Tử (551 – 478 tr. CN) và Mạnh Tử (372 –2 89 tr. CN), các học giả Trung Hoa cổ
đưa ra học thuyết Lễ Trị. Các ông chủ trương "nhân chi sơ tính bản thiện" - Học thuyết Y
- bản chất con người tốt đẹp, nhưng do ham muốn, do đáp ứng nhu cầu nhân, gia
đình v.v mang tính ích kỷ mới làm hại người khác hội, cho nên muốn quản trị
hội phải giáo huấn con người trở lại tính tốt (trường phái đức trị - học thuyết Y); cho nên
làm gì muốn thành công phải chính danh (lẽ phải), phải biết chọn người hiền tài giúp rập,
phải thu phục lòng người, phải đúng đạo và phải tiết kiệm. Ông cho con người được chia
thành hai loại, quân tử thì có nghĩa, còn tiểu nhân chỉ biết chăm lo điều lợi. Mạnh Tử thì
cho: muốn xây dựng xã hội phải chăm lo cải thiện đời sống cho dân (thuyết nhân chính -
ông nói "dân đáng quý, sau đến xã tắc cuối cùng mới "Vua"), phải lập ra một
hội gồm toàn người tốt và con người phải được bình đẳng với nhau. Ông cho xã hội loạn
là do chính quyền tệ hại, tàn bạo chứ không phải do dân.
- Platon (427 347 tr. CN), học giả cổ Hy Lạp cho rằng: Hệ thống (mà tác giả nghiên
cứu hội, nhà nước) muốn quản trị tốt phải dựa vào ba tiền để: sự phân công
chuyên môn hóa lao động (1 - tầng lớp thấp lo việc đồng ruộng, thủ công, buôn bán, 2 -
tầng lớp trung gian các vệ quân lo việc chiến tranh, 3 - tầng lớp cao các nhà thông
thái, các nhà triết học thì làm chính trị và điều hành hội); phải triết quản trị;
phải tìm đúng tập trung sức phát triển vấn đề cốt lõi của tổ chức (phải phát triển sản
xuất của cải vật chất giải quyết các mâu thuẫn trong việc thoả mãn nhu cầu của
hội).
- Thương Ưởng (550 tr. CN), Tuân Tử (305 tr. CN), Hàn Phi Tử (tr. CN) lại đưa ra
quan điểm: Bản chất con người là ác, "nhân chi sơ tính bản ác" - học thuyết X - bản chất
con người là lười biếng, độc ác, làm hại lẫn nhau, muốn cai trị xã hội thì phải khởi xướng
ra lễ nghĩa chế định ra luật để uốn nắn tính xấu của con người; theo các tác giả, quản
trị xã hội vị pháp chứ không vị đức, tiếp học thuyết XF. Toylor (1856 - 1915). Thành
công lớn nhất của giai đoạn này, mặc dầu còn hạn chế dưới giác độ tư tưởng triết học, các
tư tưởng quản trị đã tạo lập nhiều quan điểm quản trị quan trọng, thuộc phạm vi quản trị
mô, đã vạch ra được logic của quá trình quản trị hội bao gồm sáu mức từ cao đến
thấp: "trí tri, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ", đã đưa ra được trình tự
tiến hành của các hoạt động quản trị. Trị đạo - trị học - trị thể - trị tài - trị phong - trị
thuật, ngày nay trong quản trị nói chung, quản kinh tế nói riêng vẫn thể khai
thác sử dụng tốt.
b. Giai đoạn từ khi có chủ nghĩa tư bản ra đời cho đến khi xuất hiện các nước xã hội chủ
nghĩa trước những năm 1960.
Quản trị được từng bước tách khỏi triết học dần dần trở thành một bộ môn khoa học
độc lập. Giai đoạn này diễn ra vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Nó bao gồm chủ yếu
tưởng của các trường phái: học thuyết Mác - Lênin, trường phái cấu chế độ của hệ
thống, trường phải quản trị của các nước xã hội chủ nghĩa.
b1. Học thuyết Mác - Lênin về cách mạng nhà nước, do 3 nhà tưởng lớn Các Mác
(818 - 1883) người Đức, Ăngghen (1820 - 1895) người Đức Lênin (1870 - 1924)
người Nga sáng lập. Tổ chức các tác giả nghiên cứu nhà nước, là xã hội. Để quản
trị một tổ chức có hiệu quả cần có các điều kiện cơ bản sau: phải có lý luận quản trị dẫn
dắt (V.I.Lênin từng nói: Không luận cách mạng khi không phong trào cách
mạng; Phải có một bộ phận ưu tú lãnh đạo tổ chức (đảng của giai cấp công nhân - những
người trực tiếp làm ra của cải xã hội, chịu nhiều áp bức, thiệt thòihội), bộ phận ưu tú
này phải tập hợp, quy tụ được sự đồng tình ủng hộ của đại đa số các nhân trong tổ
chức (liên minh giai cấp công - công, công tác mặt trận); Tổ chức phải sự cân đối
biện chứng giữa hạ tầng cơ sở - lực lượng sản xuất xã hội và thượng tầng kiến trúc của tổ
chức (quan hệ sản xuất hội phải phù hợp với tính chất trình độ của lực lượng sản
xuất); Tổ chức phải quyết tâm hành động (đấu tranh giai cấp sở động lực
của sự phát triển của xã hội có phân công đối kháng); Cốt lõi của một tổ chức là phải tạo
ra được các đáp ứng cho nhu cầu của mọi con người trong tổ chức (sản xuất vật chất
cái quyết định phát triển xã hội, vật chất có trước ý thức có sau); Mục tiêu của tổ chức
đáp ứng tốt nhu cầu của mọi thành viên trong tổ chức một cách bình đẳng, văn minh,
văn hóa (xóa bỏ bóc lột, xóa bỏ chênh lệch giàu nghèo, mọi người đều có quyền làm chủ
v.v)
Chính nhờ học thuyết quản trị nêu trên mà chủ nghĩa hội đã ra đời phát huy tác
dụng (cách mạng tháng 10/ 1917Liên xô cũ, các nước XHCN ở Đông Âu cũ, và hiện
nay Trung Quốc, Cu Ba, Việt Nam, Lào, Bắc Triều Tiên v.v).
b2. Trường phái cơ cấu và chế độ của hệ thống
Trường phái này dành nghiên cứu trong phạm vi hệ thống (xí nghiệp, nhà máy) ở góc độ
tạo ra một cơ cấu tổ chức quản trị hợp lý, một chế độ điều hành khoa họcchặt chẽ để
đem lại hiệu quả cao cho công tác quản trong hệ thống. Đóng góp to lớn cho trường
phái này phải kể tới các nhà quản trị Robert Owen, Andrew Ure, C.Babbage F.W Taylor,
Hanry Fayol v.v
Robert Owen (1771 1858) một trong những chủ doanh nghiệp đầu tiên Scotland
tiến hành tổ chức một "xã hội công nghiệp" trật tự kỷ luật; ông chú ý tới nhân tố
con người trong tổ chức cho rằng nếu chỉ quan tâm đầu tới thiết bị máy móc
quên mất yếu tố con người thì nghiệp cũng không thể thu được kết quả. Quan điểm
quản trị của R.Owen mặc dù còn đơn giản nhưng đã bước đầu chuẩn bị cho sự ra đời của
bộ môn quản trị độc lập.
Andrew Ure (1778 1857) người đã sớm nhìn thấy vai trò của quản trị việc đào tạo
kiến thức cho các nhà quản trị. Ông một trong những người đầu tiên chủ trương việc
đào tạo bậc đại học cho các nhà quản trị ông cho quản trị một nghề.
Charles Babbage (1972 1871) người đầu tiên đề xuất phương pháp tiếp cận khoa
học trong quản trị; Ông rất quan tâm tới mối quan hệ giữa người quản trị công nhân,
và cũng là một người góp phần tích cực đưa quản trị trở thành một bộ môn khoa học độc
lập.
Frederick Winslow Taylor (1856 – 1915), là người được thế giới phương Tây gọi "cha
đẻ của thuyết quản trị khoa học học thuyết X", là một trong những người mở ra một "kỷ
nguyên vàng" trong quản trị của nước Mỹ, người xây dựng một phương pháp quản trị
được dùng làm cơ sở tri thức cho công việc quản trị Mỹ, Anh, Tây Âu, Bắc Âu và Nhật
bản trong các xí nghiệp sau này.
F.W. Taylor nhìn nhận con người như một cái máy. Ông cho con người một kẻ trốn
việc và thích làm việc theo kiểu người lính, vì thế cần thúc họ làm việc một cách hết sức
khoa học để chuyên môn hóa các thao tác của người lao động, để họ hoạt động trong một
dây chuyền và bị giám sát chặt chẽ, không thể lười biếng. Ông đã viết như sau:
- Khi người ta bảo anh nhặt một thỏi kim loại khênh đi, anh sẽ nhặt đi; khi
người ta bảo anh nguồi xuống nghỉ thì anh hãy ngồi xuống. Anh phải làm việc đó
ngay lập tức trong suốt cả ngày và không một lời cãi lại.
- Nhà quản trị là nhà tư tưởng, nhà lên kế hoạch. Trách nhiệm của họ là lập kế hoạch, chỉ
đạo và tổ chức công việc. Ở những chỗ khác, họ phải tập trung vào việc lên kế hoạch sản
xuất, kiểm soát nguyên vật liệu, thủ tục hành chínhmọi chi tiết nhỏ nhặt liên quan
tới những công việc này.
Tư tưởng cốt lõi của F.W.Taylor là đối với mỗi loại công việc dù là nhỏ nhặt nhất đều có
một "khoa học" để thực hiện nó; Ông đã tập hợp, đã liên kết các mặt kỹ thuật con
người trong tổ chức. Ông cũng đã ủng hộ học thuyết con người kinh tế và cho rằng việc
khuyến khích bằng tiền đối với người lao động cần thiết để họ sẵn sàng làm việc như
một người lính có kỷ luật.
F.W.Taylor đưa ra 4 nguyên tắc quản trị sau:
- Nhân viên quản trị phải am hiểu khoa học, bố trí lao động một cách khoa học để thay
thế cho các tập quán lao động cổ hủ.
- Người quản trị phải lựa chọn người công nhân một cách khoa học, bồi dưỡng nghề
nghiệp cho họ học hành để họ phát triển đầy đủ nhất khả năng của mình (còn trong
quá khứ thì họ tự chọn nghề, tự cố gắng học tập để nâng cao tay nghề).
- Người quản trị phải cộng tác với người thợ đến mức có thể tin rằng công việc được làm
đúng với nguyện vọng vàcác nguyên tắc có căn cứ khoa học đã định.
- Công việc và trách nhiệm đối với công việc được chia phần như nhau giữa người quản
trị người thợ. Nhân viên quản trị phải chịu trách nhiệm toàn bộ đối với công việc
mình có khả năng hơn; còn trong quá khứ thì toàn bộ công việc và phần lớn trách nhiệm
là đổ vào đầu người công nhân.
Henry Fayol (1841-1825), người chủ trương phải có một thuyết quản trị khoa học dựa
trên các qui tắc và chức năng nhất định. Ông viết: "Tôi hy vọng rằng một lý thuyết sẽ bắt
nguồn từ cuốn sách này" "quản trị hành chính dự đoán lập kế hoạch, tổ chức,
điều khiển, phối hợp kiểm tra". Ông đã kết luận rằng: Một nhà quản trị tài năng
được thành công không phải nhờ những phẩm chất cá nhân, nhờ các phương pháp
mà anh ta đã áp dụng cũng như các nguyên tắc chỉ đạo hành động của anh ta.
Theo H.Fayol, quản trị ở xí nghiệp phải thực hiện những nguyên tắc sau:
- Có kế hoạch chu đáo và thực hiện kế hoạch một cách nghiêm chỉnh.
- Việc tổ chức (nhân tài, vật lực) phải phù hợp với mục tiêu, lợi ích, yêu cầu của
nghiệp.
- Cơ quan quản trị điều hành phải là duy nhất, có năng lực và tích cực hoạt động.
- Kết hợp hài hòa các hoạt động trong xí nghiệp với những cố gắng phối hợp.
- Các quyết định đưa ra phải rõ ràng, dứt khoát và chuẩn xác.
- Tổ chức tuyển chọn nhân viên tốt, mỗi bộ phận phải do một người có khả năngbiết
hoạt động đứng đầu, mỗi nhân viên phải được bố trí vào nơi có thể phù hợp với khả năng
của họ.
- Nhiệm vụ phải được xác định rõ ràng.
- Khuyến khích tính sáng tạo và tinh thần trách nhiệm của mọi người trong xí nghiệp.
- Bù đắp lâu dài và thoả đáng cho những công việc đã được hoàn thành.
- Các lỗi lầm và khuyết điểm phải bị trừng phạt.
- Phải duy trì kỷ luật xí nghiệp.
- Các mệnh lệnh đưa ra phải thống nhất.
- Phải tăng cường việc giám sát trong xí nghiệp (cả đối với lao động và vật lực.)
- Kiểm tra tất cả mọi việc.
Hạn chế chủ yếu của H. Fayol là ông chưa chú ý đầy đủ các mặt tâm lý và môi trường xã
hội của người lao động ; hệ thống của ông vẫn bị đóng kín, chưa chỉ rõ mối quan hệ giữa
nghiệp với khách hàng, thị trường, các đối thủ cạnh tranh các ràng buộc của Nhà
nước.
b3. Trường phái quan hệ con người với con người trong hệ thống
Trong trường phái này đã sự quan tâm thỏa đáng đến yếu tố tâm lý con người, tâm lý
tập thể bầu không khí tâm trong nghiệp, nơi những người lao động làm việc, đã
phân tích tác động qua lại giữa con người với con người trong hoạt động ở xí nghiệp. Đại
diện của trường phái này M. P. Follet (1868 - 1933), người đã phê phán các nhà quản
trị trước kia chưa quan tâm đến khía cạnh tâm hội của quản trị, Elton Mayo
(1880 - 1949), người rất quan tâm đến yếu tố nhân trong tập thể (nhóm), mặc dù ông
đánh giá con người là thụ động trong quan hệ với tập thể v.v...
b4. Trường phái quản kinh tế của các nước hội chủ nghĩa (trước khi Liên
Đông Âu sụp đổ).
Từ khi hình thành hệ thống các nước hội chủ nghĩa, việc quản đã được đặt ra trên
sở bản chất chế độ hội chủ nghĩa xóa bỏ bóc lột, thực hiện sở hữu hội chủ
nghĩa về liệu sản xuất, với hai mục tiêu quản tạo ra năng suất hiệu quả cao
công bằng nhân đạo xã hội, việc quản lý được thực hiện tập trung trong phạm vi cả nước.
Quản kinh tế đã thực sự được tách thành một môn khoa học độc lập với hệ thống
luận và phương pháp luận chặt chẽ, chuẩn xác. Do đó đã nhanh chóng góp phần thúc đẩy
nền kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa phát triển vượt bậc. Nhưng cho đến đầu những
năm 60, do sự phát triển kinh tế bắt đầu chững lại ở nhiều nước, các ách tắc bắt đầu xuất
hiện bởi nhiều lý do, trong đó đáng kể nhất là : Không phát triển được sản xuất xã hội ;
Không xóa bỏ được bất công và phân hóa xã hội ; Việc quản trị lại duy ý chí quá tập
trung vào các cơ quan nhà nước với các yếu kém của đội ngũ các nhà quản trị điều hành
bộ máy này. Sự bế tắc đã kéo đến khủng khoảng một số nước đang đòi hỏi các nhà
quản trị phải xem xét lại thuyết quản trị của mình để biện pháp chỉnh hoàn
thiện thích hợp.
c. Giai đoạn từ đầu những năm 1970 đến nay Các nước bản chủ nghĩa trước cuộc
khủng hoảng kinh tế thừa, trước các bế tắc chung của những năm 1960, đã khẩn trương
điều chỉnh lại các quan điểm cách thức quản trị của mình và họ đã tạm thời thu được
những kết quả nhất định. Các nhà quản trị phương Tây, tiêu biểu là Peter Drucker (1909),
người đầu tiên mở cửa phạm vi quản trị của doanh nghiệp ra với thị trường, khách
hàng và ràng buộc của xã hội, của các đối thủ cạnh tranh và của nhà cung ứng vật tư thiết
bị cho doanh nghiệp. Theo P. Drucker, quản trị có 3 chức năng: quản trị công nhân, công
việc; quản trị các nhà quản trị và quản trị một doanh nghiệp. Quản trị theo P. Drucker còn
sự chủ động sáng tạo kinh doanh chứ không phải sự thích nghi thụ động; đó sự
bám chắc vào khách hàng và thị trường.
Với tưởng này, Ông đã một trong những nhà quản trị góp phần xây dựng nhiều
thuyết quản trị kinh doanh hiện đại ngày nay (Marketing, kinh tế v. v...) chính với
quan điểm nói trên P. Drucker đã giải quyết các bế tắc tưởng như không giải quyết nổi
của chủ nghĩa tư bản: Ông đã được các nhà tư bản phương Tây và Nhật, Mỹ gọi là "Peter
Đại đế". Hạn chế của ông ở chỗ không đề cập tới bản chất lợi ích của hoạt động quản trị
điều mà các nhà tư bản luôn luôn né tránh vì bản chất bóc lột của nó.
- Các nhà quản trị Bắc Âu, lại đưa thêm việc gắn quản trị với việc điều hòa lợi ích một
phần cho hội thông qua các quan quản của chính phủ. Chính điều này đã làm
cho nhiều nước Bắc Âu (Thụy Điển, Đan Mạch, Hà Lan v. v...) cũng tự nhận mình là các
nước xã hội chủ nghĩa. Các nước này đã nhanh chóng trở thành các quốc gia phồn vinh,
các tư tưởng quản trị của họ được nhiều quốc gia theo dõi, học tập, nhưng trong thập kỷ
cuối thế kỷ 20 đến nay, các nước này đang bước vào những bế tắc mới với nhiều khó
khăn trở ngại mà họ đang cố gắng giải quyết.
- Các nhà quản trị Nhật Bản các nước ASEAN thì lại bổ sung thêm việc quản trị theo
phương thức hiện đại với sức mạnh truyền thống dân tộc, gia đình, dòng họ, tạo ra một
động tâm mạnh cho cộng đồng với mong muốn nhanh chóng trở thành các thế lực
dẫn đầu thế giới (Học thuyết Z do W. Ouchi đề xướng). Các nước này cũng đã "một thời
vang bóng" vẫn còn đang được nhiều người ca ngợi thành tựu của họ, mặc dù những
năm gần đây bắt đầu chững lại với cái bế tắc tất yếu của chủ nghĩa bản, đósự lũng
đoạn của các tập đoàn kinh doanh chi phối, khống chế nhà nước.
- Một số quốc gia thuộc phạm vi ảnh hưởng của các thế lực đế quốc phản động quốc
tế đã hi vọng đem lại sự thịnh vượng nhanh chóng cho đất nước mình bằng cách quản
hội dựa trên bạo lực, roi vọt (điển hình Pôn Pốt, Iêng Xari, v.v. Cam pu
chia), nhưng cũng như phát xít Đức, Nhật, họ đều thất bại thảm hại. Thực chất của quản
trị những năm gần đây sự phát triển theo quan điểm chấp nhận chênh lệch, chấp nhận
cạnh tranh, phân hóa giàu nghèo theo nguyên khâu xung yếu của thuyết hệ thống,
mà trọng tâm là biết tận dụng các thành quả của khoa học công nghệ và nhân tố tâm lý xã
hội.
Câu 6: Trình bày các chức năng cơ bản của quản trị và mối quan hệ giữa chúng?
a/ Phân loại các chức năng quản trị
Phân loại quản trị theo Henry Fayol
Henry Fayol một nhà khoa học quản trị của Pháp. Chức năng quản trị được ông chia
thành 5 phần, bao gồm:
- : “Doanh nghiệp chỉ thu được kết quả khi được hướng dẫn bởi mộtHoạch định
chương trình hoạt động, một kế hoạch nhất định nhằm xác định rõ: Sản xuất cái gì? Sản
xuất bằng cách nào? Bán cho ai? Với nguồn tài chính nào?”
- : “Tổ chức một doanh nghiệp tức là trang bị tất cả những gì cần cho hoạt độngTổ chức
của nó bao gồm: máy móc, vốn, nhân viên, vật liệu…”
- : “Phối hợp việc làm cho đồng bộ giữa tất cả những hoạt động của doanhPhối hợp
nghiệp nhằm tạo ra lợi nhuận dễ dàng và có hiệu quả”.
- : “Có thể xã hội đã được xây dựng xong, giờ chúng ta chỉ việc làm cho nó hoạtChỉ huy
động, đó chính là nhiệm vụ của người chỉ huy”.
- : “Kiểm tra thực chất quá trình xem lại tất cả việc đã được tiến hành phùKiểm soát
hợp với chương trình đã định với những mệnh lệnh đã ban bố những nguyên đã
thừa nhận”.
Phân loại theo cách của L. Gulick và L. Wrwich
Năm 1937, hai nhà khoa học quản trị L. Gulick và L. Wrwich đã phát triển hệ thống của
Fayol thành 7 chức năng quản trị được viết tắt là POSDCORB trong cuốn “Papers on the
Science of Administration” tạm dịch là Luận cứ về khoa học của quản trị. Theo đó, chức
năng quản trị được chia thành:
P: Planning – Hoạch định
O: Organizing – Tổ chức
S: Staffing – Nhân sự
D: Directing – Chỉ huy
CO: Coordinating – Phối hợp
R: Reporting – Báo cáo
B: Budgeting – Ngân sách
Cách phân loại chức năng quản trị này thể hiện tính kế thừa phát triển. 2 nhân tố
ảnh hưởng tới khoa học quản trị ở thời kì này chính là:
- Sự hình thành các tập đoàn doanh nghiệp dẫn đến việc phải đổi mới vấn đề tổ chức
đặc biệt là việc tuyển dụng các nhân viên quản trị có học vấn vào các vị trí cao cấp.
- Sự thâm nhập của giới ngân hàng vào hoạt động của các doanh nghiệp với cách
các quản trị viên cấp cao.
Phân loại theo H. Koontz và C. O’Donnell
Kế thừa lại cách phân loại của Fayol, hai nhà khoa học người Mỹ đã phân loại thành 4
chức năng quản trị cơ bản bao gồm:
- Xác định triết lý, giáo lý và chính sách kinh doanh
- Kế hoạch kinh doanh và kiểm tra
- Tổ chức và chỉ huy
- Phát triển nhà quản trị
b/ Nội dung của các chức năng quản trị
- Hoạch định: Là chức năng đầu tiên trong quản trị bao gồm các công việc: Xác định mục
tiêu, xây dựng chiến lược tổng thể, thiết lập một hệ thống các kế hoạch để phối hợp các
hoạt động.
- Tổ chức: Bao gồm việc xác định những việc phải làm, những ai tham gia làm việc đó,
các công việc sẽ được phối hợp lại với nhau như thế nào? Những bộ phận nào cần phải
được thành lập? Quan hệ phân công và trách nhiệm giữa các bộ phận đó, hệ thống quyền
hành trong doanh nghiệp.
- Chỉ huy: Công việc trong doanh nghiệp cần phải người thực hiện. Để người làm
việc, nhà quản trị cần phải tuyển chọn, thu hút người làm việc, bố trí, bồi dưỡng, động
viên và khích lệ nhân viên.
Việc thiết lập quyền hành sử dụng quyền hành đó để giao việc cho nhân viên, đưa ra
các nội quy, quy định làm việc và ủy quyền cho người khác… là nội dung của chức năng
chỉ huy.
- Phối hợp: Chức năng này bao gồm: Phối hợp theo chiều dọc, nghĩa là phối hợp giữa các
cấp quản trị và phối hợp theo chiều ngang nghĩa là phối hợp giữa các chức năng, các lĩnh
vực quản trị.
- Kiểm soát: Chức năng này bao gồm việc xác định thu thập thông tin về thành quả thực
tế, so sánh với thành quả kỳ vọng tiến hành các biện pháp sửa chữa nếu sai lệch
nhằm đảm bảo tổ chức đang đi đúng hướng giúp hoàn thành mục tiêu.
c/ Mối quan hệ giữa các chức năng quản trị
- Quan hệ giữa chức năng quản trị với quy mô doanh nghiệp
Việc thực hiện số lượng các chức năng quản trị doanh nghiệp lớn nhỏ
giống nhau. Tuy nhiên việc đảm bảo chức năng quản trị của các cấp quản trị trong những
doanh nghiệp có quy mô khác nhau là khác nhau.
Điều này thể hiện ở việc các doanh nghiệp nhỏ có cấp quản trị cao nhất có thể can
thiệp và điều hành cả những công việc của cấp dưới, trong khi ở các doanh nghiệp lớn thì
chức năng quản trị được phân cấp khá rành rọt, cấp quản trị cao nhất chỉ tập trung thời
gian vào những chức năng thiết yếu.
- Quan hệ giữa chức năng quản trị với các cấp quản trị
Trong một doanh nghiệp, các cấp quản trị được phân chia một cách khách quan
việc đảm trách các chức năng này các mức độ khác nhau. Chức năng hoạch định và tổ
chức giảm dần theo cấp quản trị trong khi đó, chức năng điều hành lại tăng lên cấp
quản trị thấp nhất
- Tính quốc tế của chức năng quản trị
Mặc việc vận dụng các chức năng quản trị vào hệ thống doanh nghiệp từng
quốc gia, khu vực thể khác nhau về vai trò, tính chất quan trọng của từng chức năng
nhưng xét về tổng thể thì các chức năng theo phân loại của Fayol vẫn được mọi quốc gia
công nhận.
thể nói phát minh phân loại chức năng quản của Fayol sở quyết định
cho sự tiến bộ của khoa học quản trị từ thế kỷ 20.
Câu 7: Kỹ năng nào là quan trọng nhất đối với nhà quản trị cấp cơ sở và tại sao?
Trước khi đi vào vấn đề chúng ta cần phải nhắc lại rằng : Các nhà quản trị cấp
sở (thườngtổ trưởng, nhóm trưởng, trưởng ca, đốc công…) cấp bậc cuối cùng trong
hệ thống cấp bậc của các nhà quản trị trong cùng một tổ chức.
Nhiệm vụ: Đưa ra các quyết định tác nghiệp nhằm đốc thúc, hướng dẫn, điều
khiển các công nhân viên trong các công việc sản xuất kinh doanh cụ thể hàng ngày,
nhằm thực hiện mục tiêu chung.
Tuy nhiên, cấp độ này họ cũng những người trực tiếp tham gia sản xuất kinh doanh
như những nhân viên khác dưới quyền họ.
Đối với các quản trị viên nói chung 4 kỹ năng quan trọng là: Kỹ năng duy
(nhận thức), kỹ năng kỹ thuật (chuyên môn), kỹ năng quan hệ (con người), kỹ năng
truyền thông. Trong các kỹ năng trên có lẽ kỹ năng tư duy là quan trọng nhất đối với các
nhà quản trị viên cơ sở nói riêng và tất cả các cấp bậc quản trị khác nói chung.Tại sao tôi
lại cho rằng là như vậy?
Trước hết ta cần hiểu về kỹ năng duy.Kỹ năng duy kỹ năng khó hình
thành nhất tuy nhiên lại mang trong mình tầm quan trọng đặc biệt.Kỹ năng này yêu
cầu các nhà quản trị phải có tầm nhìn chiến lược và tư duy có hệ thống, đồng thời phải có
khả năng khái quát hóa các mối quan hệ giữa các sự vật - hiện tượng, qua đó giúp cho
việc nhận dạng vấn đề đưa ra những giải pháp, kế hoạch, chiến lược phù hợp.Mỗi
chiến lược đề ra sáng tạo, thu hút khả năng thành công cao hay không đều nhờ
vào khả năng duy của nhà quản lý. Khi códuy tốt, họ sẽ đề ra đường lối đúng đắn,
hiệu quả đối phó với những bất trắc, đe dọa sự phát triển của tập thể.
Cấp bậc quản trị viên cao cấp hay trung cấp đều đòi hỏi họ phải khả năng đưa
ra những quyết định mang tầm chiến lược, ảnh hưởng lớn đến sự thành bại của tổ chức.
Để làm được điều đó những quản trị viên cao cấp phải cho mình kỹ năng duy tốt.
Vậy điều này liên quan thế nào với những nhà quản trị cấp cơ sở?
Có thể nói rằng sự nghiệp phát triển đối với mỗi một nhà quản trị là đi lên từ cấp
bậc thấp nhất (tức cấp sở), sau đó cấp trung gian cuối cùng trở thành quản
trị viên cao cấp. Với những đòi hỏi của bậc cao cấp hay trung cấp việc phát triển kỹ năng
tư duy là tối quan trọng. Nhìn về lâu dài, chính những nhà quản trị cấp cơ sở sẽ là những
nhà quản trị viên tiềm năng cho những cấp cao hơn, sự nghiệp của họ vươn bản thân
lên những tầm cao hơn. Chính vì điều này việc rèn luyện cho bản thân kỹ năng tư duy tốt
việc cần thiết. Hơn thế nữa việc học hỏi tiếp thu các kỹ năng khác như kỹ thuật
chuyên môn, kỹ năng về truyền thông hay kỹ năng quan hệ đều phải phụ thuộc rất nhiều
đến khả năng tư duy, nếu muốn các kỹ năng khác tốt thì bản thân phải có khả năng tư duy
vượt trội. Điều này càng khẳng định tầm quan trọng bậc nhất của kỹ năng tư duy.
Như đã phân tích trên, kỹ năng duy kỹ năng quan trọng nhất đối với nhà
quản trị cấp cơ sở - những người sẽ trở thành những quản trị viên trung gian và cao cấp
trong tương lai.Để luyện kỹ năng duy trước hết phải thay đổi thói quen của mình.
Đứng trước bất cứ việc gì ngay cả vào quán cafe thì cũng cố gắng đi tới mức tận cùng là
Làm sao để cái quán này được đông khách hơn? Sau khi thay đổi thói quen thì phải học
kỹ thuật tư duy. Hiểu kỹ thuật rồi sau đó ứng dụng liên tục thì nhất định sẽ có tiến bộ.
Câu 8: Kỹ năng nào là quan trọng nhất đối với nhà quản trị cấp cao và tại sao?
* Các nhà quản trị cấp cao các Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc, giám đốc,… nói
chung người đứng đầu, được coi là đầu não của tổ chức, doanh nghiệp, người vạch
ra chiến lược, kế hoạch hành động và phát triển của tổ chức.
* Nhiệm vụ của các nhà quản trị cấp cao vừa hoạch định, vừa tổ chức, vừa điều khiển
và vừa kiểm tra hoạt động vận hành q tổ chức, 1 doanh nghiệp.
- Xác định mục tiêu dài hạn, ngắn hạn của doanh nghiệp trong từng thời kì.
- Tạo dưng bộ máy quản trị cho tổ chức doanh nghiệp.
- Phối hợp hoạt động vận hành các tổ chức nhò có liên quan trong doanh nghiệp.
- Xác định nguồn lực đầu kinh phí cho các hoạt động vận hành, phát triển của
doanh nghiệp.
- Đưa ra các biện pháp kiểm tra, kiểm soát , thanh tra các hoạt động vận hành của doanh
nghiệp.
- Chịu trách nhiệm về mỗi quyết định đối với doanh nghiệp tốt hay xấu. Chịu trách
nhiệm khắc phục hậu quả gây ra.
- Báo cáo trước HĐQT đại hội công nhân viên chức về kết quả, thành tựu doanh
nghiệp đạt được.
* Đối với mỗi nhà quản trị nói chung đều có 4 kỹ năng quan trọng đó là:
- Kỹ năng tư duy (nhận thức)
- Kỹ năng kỹ thuật (chuyên môn)
- Kỹ năng quan hệ (con người)
- Kỹ năng truyền thông
* Đối với các nhà quản trị cấp cao thì Kỹ năng TƯ DUY là kỹ năng quan trọng nhất. Vì:
- Trước hết, kỹ năng tư duy thể hiện tầm nhìn chiến lược. tư duy hệ thống, khả năng khái
quát hóa các mối quan hệ giữa các sự vật - hiện tượng qua đó giúp cho việc nhận dạng
vấn đề và đưa ra giải pháp giải quyết vấn đề.
- nhà quản trị cấp cao được coi đầu não của 1 tổ chức người vạch ra hướng đi,
chiến lược phát triển của 1 tổ chức doanh nghiệp, tận dụng tối đa các cơ hộihạn chế
đến mức tối thiểu các rủi ro, các mối đe dọa đối với sự phát triển của doanh nghiệp.
Hoạch định chiến lược là 1 công việc mang tính dài hạn, cần 1 người có tầm nhìn dài hạn
tốt, cần phân tích tình hình thị trường tinh tế, qua đó xây dựng 1 chiến lược, đưa ra các
quyết định rất phức tạp, mang tính thành bại, tính chiến lược lâu dài, có ảnh hưởng trực
tiếp đến thành công hay thất bại qua đó giúp doanh nghiệp hoàn thành mục tiêu mục
đích, hoàn thành sứ mệnh ban đầu đặt ra.
vậy kỹ năng DUY ảnh hưởng cực kỳ lớn đến tổ chức, doanh nghiệp
kỹ năng quan trọng nhất đối với 1 nhà quản trị cấp cao tổ chức doanh nghiệp thành
công hay thất bại phần lớn nhờ vào khả năng duy, xây dựng chiến lược đúng đắn hợp
lý của nhà quản trị cấp cao và nếu như tổ chức, doanh nghiệp đi sai hướng, chiến lược sai
lầm không phù hợp sẽ hoạt động kém hiệu quả, hao tổn nhân lực, tiêu tốn tài nguyên 1
cách phí phạm dẫn đến doanh nghiệp kém phát triện, thậm. trí thua lỗ dẫn đến phá sản,
giải thể.
Câu 9: Trình bày các nguyên tắc quản trị tổ chức hiệu quả?
Gồm 4 nguyên tắc chính:
- Nguyên tắc về tính tối ưu
- Nguyên tắc về tính linh hoạt
- Nguyên tắc về tính chính xác
- Nguyên tắc về kinh tế
Cụ thể như sau:
a/ Nguyên tắc về tính chính xác
Phương hướng mục đích của tổ chức sẽ chi phối cấu tổ chức. Nếu một tổ
chức mà mục tiêu, phương hướng của nó có quy mô lớn thì cơ cấu của tổ chức cũng phải
quy tương ứng; còn nếu quy mô cvừa phải với đội ngũ, trình độ, nhân cách các
con người tương ứng. Một doanh nghiệp mục đích hoạt động dịch vụ thì ràng
cấu quản trị của nó cũng phải có những đặc thù khác một tổ chức có mục đích hoạt động
sản xuất v.v...
b/ Nguyên tắc về tối ưu
Nguyên tắc này đòi hỏi cấu tổ chức quản trị phải được phân công phân nhiệm
các phân hệ chuyên ngành, với những con người được đào luyện tương ứng đủ
quyền hạn. Nói một cách khác, cấu tổ chức phải dựa trên việc phân chia nhiệm vụ
ràng. Giữa nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền lực, lợi ích phải cân xứng cụ thể. Chỉ
phân giao nhiệm vụ trong doanh nghiệp một cách rõ ràng với sự cân xứng giữa nhiệm vụ,
trách nhiệm, quyền lực, lợi ích của từng phân hệ như trong.
c/ Nguyên tắc về linh hoạt
Nguyên tắc này đòi hỏi việc hình thành cấu tổ chức phải đảm bảo cho mỗi
phân hệ một mức độ tự do sáng tạo tương xứng để mọi thủ lĩnh các cấp phân hệ bên dưới
phát triển được tài năng, chuẩn bị cho việc thay thế vị trí của lãnh đạo cấp trên khi cần
thiết.
d/ Nguyên tắc về kinh tế
Nguyên tắc này đòi hỏi cấu tổ chức quản trị phải thu được kết quả hoạt động
cao nhất so với chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra, đồng thời bảo đảm hiệu lực hoạt động
của các phân hệ và tác động điều khiển của các bộ phận quản lý. Để bảo đảm cho nguyên
tắc này được thực hiện, cần tuân thủ các yêu cầu sau:
- cấu tổ chức quản trị cấu hợp nhằm đảm bảo chi phí cho các hoạt động
nhỏ nhất, kết quả thu lại của doanh nghiệp lớn nhất trong khả năng thể (tức
đảm bảo tính hiệu quả của doanh nghiệp).
- cấu tổ chức phải tạo được môi trường văn hoá xung quanh nhiệm vụ của các phân
hệ; làm cho mỗi phân hệ hiểu vị trí, giá trị của các hoạt động mình tham dự
nhằm tạo lợi thế, thuận lợi cho các phân hệ có liên quan trực tiếp với mình.
- Cơ cấu tổ chức phải đảm bảo cho thủ lĩnh các phân hệ có quy mô (của phân hệ) được
giao quản trị là hợp lý, tương ứng với khả năng kiểm soát, điều hành của họ.
| 1/14

Preview text:

TỰ LUẬN CHƯƠNG 1
Câu 1: Phân tích vai trò của nhà quản trị theo quan điểm Henrt Mintzberg và lấy ví dụ? 3 nhóm vai trò:
a/ Quan hệ con người: Nhà quản trị trong doanh nghiệp luôn phải giao tiếp với cấp trên
và cấp dưới, đều phải giải quyết các mối quan hệ giữa con người với con người trong nội
bộ doanh nghiệp cũng như bên ngoài doanh nghiệp. Trong hoạt động giao tiếp, nhà quản
trị có những vai trò sau:
- Vai trò đại diện: Chào mừng khách, ký văn bản, luật lệ …
- Vai trò lãnh đạo: Phối hợp & kiểm tra thuộc cấp …
- Vai trò liên kết: Quan hệ với người khác trong & ngoài tổ chức … b/ Truyền thông
- Xử lý thông tin: Thu thập, tiếp nhận, xử lý thông tin trước khi quyết định có xử lý
thông tin hay không và loại trừ những thông tin gây ảnh hưởng xấu đến tổ chức
- Người phổ biến: Chuyển tải các thông tin trong nội bộ tổ chức thông qua các
cuộc họp, điện thoại…
- Người phát ngôn: Cung cấp thông tin ra bên ngoài tổ chức thông qua các phương tiện thông tin… c/ Ra quyết định
- Người sáng tạo: Hành động như một người tiên phong, cải tiến các hoạt động của
tổ chức, phát triển các chương trình hành động
- Người điều khiển: Thực hiện các điều chỉnh cần thiết khi tổ chức đối mặt với
những khó khăn không tiên liệu trước, những cuộc khủng hoảng…
- Điều phối nguồn lực: Phân bổ ngân sách, nhân lực, thời gian …
- Nhà thương lượng: Thương lượng, đàm phán…
Câu 2: (Câu 4) Phân tích mối quan hệ giữa các cấp quản trị và các kỹ năng quản
trị. Lấy ví dụ minh họa.

3 cấp bậc nhà quản trị:
a/ Quản trị viên cấp cao: Là nhà quản trị hoạt động ở bậc cao nhất trong doanh nghiệp, là
người chịu trách nhiệm về những thành quả cuối cùng của doanh nghiệp.
- Nhiệm vụ: Đưa ra các quyết định chiến lược, tổ chức thực hiện chiến lược để duy
trì và phát triển doanh nghiệp trong dài hạn.
- Các chức danh của nhà quản trị viên cấp cao: Chủ tịch hội đồng quản trị, phó chủ
tịch hội đồng quản trị, tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, giám đốc, phó giám đốc…
b/ Quản Trị Viên Cấp Trung: Là nhà quản trị hoạt động ở các bộ phận tham mưu, các bộ
phận chức năng hoặc các cấp quản lý trung gian trong bộ máy quản trị doanh nghiệp.
- Nhiệm vụ: Đưa ra các quyết định chiến thuật, thực hiện các kế hoạch và chính
sách của doanh nghiệp, phối hợp các hoạt động, các công việc để hoàn thành mục tiêu chung.
- Các chức danh của nhà quản trị viên cấp trung gian: Trưởng phòng, phó phòng,
trưởng ban, phó ban, quản đốc phân xưởng, phó quản đốc phân xưởng…
c/ Quản Trị Viên Cấp Cơ Sở: Là nhà quản trị hoạt động ở cấp bậc cuối cùng trong hệ
thống tổ chức của doanh nghiệp.
- Nhiệm vụ: Đưa ra các quyết định tác nghiệp nhằm đốc thúc, hướng dẫn điều khiển
các công nhân viên trong các công việc sản xuất kinh doanh cụ thể hang ngày
nhằm thực hiện mục tiêu chung
- Các chức danh của nhà quản trị viên cấp trung gian: Tổ trưởng sản xuất, tổ trưởng
các tổ bán hàng, đốc công, trưởng ca… 
Các kỹ năng quản trị: Kỹ năng Nội dung
- Là khả năng tư duy hệ thống, biết phân tích mối liên hệ giữa các vấn đề một cách logic, … Tư duy
- Đây là một kỹ năng rất khó và đặc biệt hiểu rõ mức độ phức tạp của
môi trường và biết cách giảm thiểu sự phức tạp đó xuống một mức có thể đối phó được.
- Là những khả năng cần thiết để thực hiện một công việc cụ thể. bao
hàm sự hiểu biết và thành thạo về một loại hình hoạt động đặc biệt, nhất Chuyên môn
là loại hình hoạt động có liên quan đến phương pháp, các chu trình, các
thủ tục hay các kỹ thuật của lĩnh vực, chức năng
- Là khả năng cùng làm việc, động viên, điều khiển con người và tập thể
trong doanh nghiệp, dù những người đó là thuộc cấp, đồng nghiệp ngang hàng hay cấp trên. Nhân sự
- Là khả năng của nhà quản trị có thể điều hành một cách có hiệu quả với
tư cách là một thành viên của nhóm và động viên cố gắng hợp tác trong
nhóm mà nhà quản trị phụ trách hay lãnh đạo. 
Mối quan hệ giữa ba cấp quản trị và nhà quản trị
Tất cả ba kỹ năng trên đều cần thiết đối với các nhà quản trị ở từng cấp quản trị, song
tầm quan trọng tương đối của kỹ năng chuyên môn, kỹ năng nhân sự, và kỹ năng tư duy
cũng thay đổi tùy theo vai trò, trách nhiệm và vị trí khác nhau của nhà quản trị trong một doanh nghiệp.
Tại các cấp thấp hơn, kỹ năng chuyên môn là yếu tố tạo ra nhiều điểm ưu việt của
công nghiệp hiện đại. Vì vậy, kỹ năng chuyên môn có tầm quan trọng lớn hơn ở cấp quản
trị viên cơ sở. Khi nhà quản trị ở những vị trí cấp cao hơn thì nhu cầu về kỹ năng chuyên
môn trở nên ít quản trị hơn trong khi kỹ năng tư duy thì thì ngược lại ngày càng quan
trọng hơn. Cấp quản trị càng thấp thì càng đòi hỏi phải có kỹ năng chuyên môn giỏi vì
nhà quản trị phải gắn liền với công việc mang tính chuyên môn nghiệp vụ. Kỹ năng nhân
sự thì lại rất cần thiết đối với nhà quản trị ở tất cả các cấp, vì nhà quản trị nào cũng phải
làm việc với con người, phải giao tiếp và xử lý các công việc liên quan đến con người.
Tại tất cả các cấp quản trị, đều đòi hỏi phải có một trình độ nào đó về ba kỹ năng nói
trên. Nhận thức rõ ràng về những kỹ năng này và về những phương pháp đánh giá trình
độ của các nhà quản trị về mỗi loại kỹ năng sẽ là công cụ hiệu quả cho những nhà quản
trị cấp cao nhất, không chỉ để đánh giá cán bộ mà còn để lựa chọn, đào tạo, và đề bạt các
cán bộ quản trị ở tất cả các cấp trong doanh nghiệp, nhằm xây dựng lực lượng đội ngũ
nhà quản trị kinh doanh có năng lực trình độ và kỹ năng giỏi mang tính chuyên nghiệp cho doanh nghiệp.
Ví dụ: Trong doanh nghiệp A:
- Chủ tịch hội đồng quản trị, tổng giám đốc và các giám đốc có nhiệm vụ xây dựng chiến
lược, kế hoạch hành động trong tương lai xa để phát triển doanh nghiệp. Họ cần hàm
lượng kĩ năng tư duy rất cao và không cần hiểu biết quá sâu về các kĩ năng chuyên môn.
- Các trưởng phòng, quản đốc cần hoạch định chiến thuật dựa trên đường lối và chiến
lược do các giám đốc vạch ra và chỉ đạo các tổ trưởng, nhóm trưởng. Họ cần hàm lượng
kĩ năng tư duy ít hơn các nhà quản trị cấp cao vì chỉ cần xây dượng kế hoạch ngắn hạn và
họ cần hiểu biết chuyên môn hơn các nhà quản trị cấp cao để lên kế hoạch chi tiết hơn.
- Các tổ trưởng, nhóm trưởng dựa trên kế hoạch và chỉ tiêu ngắn hạn do các trưởng
phòng và quản đốc đề ra để đốc thúc, hướng dẫn nhân viên làm việc. Họ cần ít kĩ năng tư
duy nhất trong các cấp quản trị và cần hiểu biết rất rõ về kĩ năng chuyên môn để hướng dân nhân viên.
Cả ba cấp quản trị đều phải có kĩ năng nhân sự để điều khiển cấp dưới làm việc như
mong muốn của mình để phát triển doanh nghiệp.
Câu 3: Phân tích về các nhân tố môi trường tác động tới hoạt động quản trị và lấy ví dụ minh họa?
Môi trường bên ngoài:
- Môi trường bên ngoài bao gồm các yếu tố từ bên ngoài tổ chức mà nhà quản trị không
kiểm soát được nhưng chúng lại có ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của tổ chức.
- Phân tích môi trường bên ngoài là một quá trình xem xét và đánh giá các yếu tố thuộc
môi trường bên ngoài của tổ chức để xác định các xu hướng tích cực (cơ hội) hay tiêu
cực (mối đe dọa hoặc nguy cơ) có thể tác động đến kết quả của tổ chức.
Môi trường bên ngoài được chia nhỏ thành 3 môi trường:  Môi trường vĩ mô 
Môi trường vi mô (môi trường cạnh tranh, môi trường ngành) 1.1. Môi trường vĩ mô
Môi trường vĩ mô là môi trường bao trùm và có ảnh hưởng đến hoạt động của tất cả các
tổ chức. Các thành phần chủ yếu của môi trường vĩ mô bao gồm: - Kinh tế - Chính trị - Xã hội - Văn hoá - Tự nhiên - Dân số - Công nghệ kỹ thuật
Thông thường, các chuyên gia sẽ sử dụng mô hình PESTLE để phân tích các yếu tố trên.
1.2. Môi trường vi mô (môi trường cạnh tranh, môi trường ngành)
Nghiên cứu môi trường vi mô (còn có tên gọi là môi trường cạnh tranh hoặc môi trường
ngành) là một nội dung rất quan trọng trong quá trình phân tích môi trường bên ngoài.
Theo đó, môi trường vi mô sẽ gồm các yếu tố sau: 
Các đối thủ cạnh tranh hiện tại  Các đối thủ tiềm ẩn 
Sức mạnh của khách hàng 
Sức mạnh của nhà cung cấp  Các sản phẩm thay thế
Để nghiên cứu và phân tích môi trường vi mô, các chuyên gia thường hay sử dụng mô
hình 5 áp lực cạnh tranh của Porter. 
Môi trường bên trong
Các doanh nghiệp cần phân tích một cách chặt chẽ các yếu tố bên trong doanh
nghiệp nhằm xác định rõ ưu và nhược điểm của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó đưa ra các
biện pháp nhằm khắc phục nhược điểm và phát huy thế mạnh của doanh nghiệp để đạt
được lợi nhuận tối đa. Có thể nói, phân tích các yếu tố môi trường bên trong chính là
phân tích điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đây lại là những yếu tố
mà doanh nghiệp hoàn toàn có thể kiểm soát và điều chỉnh được.
Có rất nhiều phương pháp phân tích môi trường bên trong. Các yếu tố thông
thường để phân tích bao gồm:  Tài chính – Kế toán 
Sản xuất và nghiệp vụ kỹ thuật 
Nhân sự và bộ máy quản lý  Môi trường làm việc  Văn hoá doanh nghiệp
Ngoài ra, Michael Porter cũng đưa ra một mô hình dùng để phân tích môi trường bên
trong của tổ chức được gọi là chuỗi giá trị (Value chain). Chuỗi giá trị là tổng hợp các
hoạt động có liên quan của tổ chức làm tăng giá trị cho khách hàng. Việc thực hiện các
hoạt động trong dây chuyền sẽ quyết định hiệu quả hoạt động chung và tạo ra những lợi
thế cạnh tranh của tổ chức. Michael Porter chia các hoạt động của tổ chức thành 2 nhóm:
các hoạt động chính và các hoạt động hỗ trợ: 
Các hoạt động chính: Các hoạt động đầu vào, Sản xuất, Các hoạt động đầu ra,
Marketing & Sales Dịch vụ 
Các hoạt động hỗ trợ: Thu mua, Công nghệ, Quản trị nguồn nhân lực, Cơ sở hạ tầng
Ví dụ điển hình tại Việt Nam:
-Trước đây,KFC được Việt Nam biết đến là một nhà hàng mini hiện đại ,quá đắt đỏ so
với những món ăn khác,thể hiện phong cách nhiều hơn đối với giới trẻ,còn chủ yếu thu
hút toàn trẻ em nhiều hơn.Còn bây giờ,KFC được biết đến là “Thịt gà rán”-đây là món ăn
nhanh và đang trở nên thông dụng với mọi người.Vậy họ đã làm những gì và thay đổi như thế nào?
- Khi mới bắt đầu xuất hiện tại thị trường Việt Nam,KFC đã chịu lỗ trong 7 năm để tạo ra
một thói quen-một văn hóa tiêu dùng cho người Việt,đặc biệt là giới trẻ.Sự thành công
của họ ngày hôm nay cũng chính từ việc am hiểu tính chất văn hóa.Người dân Việt Nam
thường mang tính chất nhà hàng nhưng được phục vụ nhanh.KFC đã xây dựng một hệ
thống cửa hàng khác biệt so với các cửa hàng truyền thống,chọn màu đỏ làm màu chủ
đạo,phục vụ chuyên nghiệp;Đồng thời bản thân sản phẩm KFC cũng đã có sự khác biệt
để phù hợp với văn hóa Việt Nam:bên cạnh những món ăn truyền thống KFC còn chế
biến một số món để phục vụ những thức ăn hợp khẩu vị với người dân Việt;kích thước
của sản phẩm Hambeger cũng thay đổi,nhỏ hơn thích hợp với vóc dáng của người Việt
Nam.Danh mục sản phẩm được sắp xếp theo nhiều loại giúp cho người tiêu dùng dễ lựa
chọn món ăn ưa thích. Một số món mới đã được tung ra thị trường góp phần làm tăng
thêm sự phong phú trong danh mục thực đơn…KFC tạo sự thích thú và tò mò cho giới
thanh niên,tạo ra một trào lưu mới trong cách tiêu dùng của người Việt Nam.Với hướng
đi đúng đắn năm 2006,KFC đãthu được lợi nhuận và đã thực sự thu hút được người Việt
đặc biệt là giới trẻ không chỉ vì sự thuận tiện,sang trọng,thưởng thức món ăn,mà còn
thưởng thức một phong cách hiện đại đang phổ biến trên thế giới làm thay đổi một phần
văn hóa ẩm thực của người Việt nhưng vẫn giữ gìn giá trị văn hóa cốt lõi của Việt Nam.
Sự tác động của các yếu tố văn hóa có tính chất lâu dài và tinh tế, khó nhận biết.
Vì vậy,các nhà quản trị phải tìm hiểu kĩ các yếu tố văn hóa để có kế hoạch phát
triển đổi mới,phù hợp với điều kiện thực tiễn đưa sản phẩm của doanh nghiệp đến với tất cả mọi người.
Câu 4: (Câu 2) Nhà quản trị cần có những kỹ năng gì? Lấy ví dụ minh họa?
Câu 5: Trình bày các quan điểm về quản trị? Điểm chung của các quan điểm khác nhau về quản trị?
Lịch sử phát triển tư tưởng của quản trị Lịch sử phát triển của khoa học quản trị, hoặc nói
chính xác hơn, lịch sử phát triển của tư tưởng (học thuyết, quan điểm) quản trị đã trải qua các giai đoạn sau:
a. Giai đoạn tiền tư bản: Quản trị (trong một tổ chức bất kỳ, trong kinh doanh, trong kinh
tế, trong quân sự v.v...) mang tính cách là một thứ triết học, trong việc quản trị xã hội, mà
thành tựu lớn nhất là các nhà chính trị và triết học cổ phương Đông, Hy Lạp, La Mã.
Quản trị chưa được tách ra để trở thành một khoa học độc lập. Thành tựu đạt được trong
tư tưởng quản trị xã hội trong giai đoạn này phải kể tới các nhà tư tưởng và chính trị lớn
của Trung Quốc cổ đại:
- Quản Trọng (638 – 640 tr. CN), triết gia Trung Hoa cho rằng: muốn quản trị xã hội,
muốn dân giàu nước mạnh, phải sử dụng bạo lực và phải quan tâm tới 5 mặt hoạt động
cơ bản là: quan hệ đối ngoại, ra sức phát triển sản xuất, tăng cường xây dựng lực lượng
vũ trang, thực hành luật pháp nghiêm minh, ngăn chặn các thói hư tật xấu của những
người đứng đầu xã hội.
- Khổng Tử (551 – 478 tr. CN) và Mạnh Tử (372 –2 89 tr. CN), các học giả Trung Hoa cổ
đưa ra học thuyết Lễ Trị. Các ông chủ trương "nhân chi sơ tính bản thiện" - Học thuyết Y
- bản chất con người là tốt đẹp, nhưng do ham muốn, do đáp ứng nhu cầu cá nhân, gia
đình v.v mang tính ích kỷ mới làm hại người khác và xã hội, cho nên muốn quản trị xã
hội phải giáo huấn con người trở lại tính tốt (trường phái đức trị - học thuyết Y); cho nên
làm gì muốn thành công phải chính danh (lẽ phải), phải biết chọn người hiền tài giúp rập,
phải thu phục lòng người, phải đúng đạo và phải tiết kiệm. Ông cho con người được chia
thành hai loại, quân tử thì có nghĩa, còn tiểu nhân chỉ biết chăm lo điều lợi. Mạnh Tử thì
cho: muốn xây dựng xã hội phải chăm lo cải thiện đời sống cho dân (thuyết nhân chính -
ông nói "dân là đáng quý, sau đến xã tắc và cuối cùng mới là "Vua"), phải lập ra một xã
hội gồm toàn người tốt và con người phải được bình đẳng với nhau. Ông cho xã hội loạn
là do chính quyền tệ hại, tàn bạo chứ không phải do dân.
- Platon (427 – 347 tr. CN), học giả cổ Hy Lạp cho rằng: Hệ thống (mà tác giả nghiên
cứu là xã hội, nhà nước) muốn quản trị tốt phải dựa vào ba tiền để:  có sự phân công
chuyên môn hóa lao động (1 - tầng lớp thấp lo việc đồng ruộng, thủ công, buôn bán, 2 -
tầng lớp trung gian là các vệ quân lo việc chiến tranh, 3 - tầng lớp cao là các nhà thông
thái, các nhà triết học thì làm chính trị và điều hành xã hội);  phải có triết lý quản trị; 
phải tìm đúng và tập trung sức phát triển vấn đề cốt lõi của tổ chức (phải phát triển sản
xuất của cải vật chất và giải quyết các mâu thuẫn trong việc thoả mãn nhu cầu của xã hội).
- Thương Ưởng (550 – tr. CN), Tuân Tử (305 – tr. CN), Hàn Phi Tử (tr. CN) lại đưa ra
quan điểm: Bản chất con người là ác, "nhân chi sơ tính bản ác" - học thuyết X - bản chất
con người là lười biếng, độc ác, làm hại lẫn nhau, muốn cai trị xã hội thì phải khởi xướng
ra lễ nghĩa và chế định ra luật để uốn nắn tính xấu của con người; theo các tác giả, quản
trị xã hội vị pháp chứ không vị đức, tiếp học thuyết X là F. Toylor (1856 - 1915). Thành
công lớn nhất của giai đoạn này, mặc dầu còn hạn chế dưới giác độ tư tưởng triết học, các
tư tưởng quản trị đã tạo lập nhiều quan điểm quản trị quan trọng, thuộc phạm vi quản trị
vĩ mô, đã vạch ra được logic của quá trình quản trị xã hội bao gồm sáu mức từ cao đến
thấp: "trí tri, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ", đã đưa ra được trình tự
tiến hành của các hoạt động quản trị. Trị đạo - trị học - trị thể - trị tài - trị phong - trị
thuật, mà ngày nay trong quản trị nói chung, quản lý kinh tế nói riêng vẫn có thể khai thác sử dụng tốt.
b. Giai đoạn từ khi có chủ nghĩa tư bản ra đời cho đến khi xuất hiện các nước xã hội chủ
nghĩa trước những năm 1960.
Quản trị được từng bước tách khỏi triết học và dần dần trở thành một bộ môn khoa học
độc lập. Giai đoạn này diễn ra vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Nó bao gồm chủ yếu tư
tưởng của các trường phái: học thuyết Mác - Lênin, trường phái cơ cấu chế độ của hệ
thống, trường phải quản trị của các nước xã hội chủ nghĩa.
b1. Học thuyết Mác - Lênin về cách mạng và nhà nước, do 3 nhà tư tưởng lớn Các Mác
(818 - 1883) người Đức, Ăngghen (1820 - 1895) người Đức và Lênin (1870 - 1924)
người Nga sáng lập. Tổ chức mà các tác giả nghiên cứu là nhà nước, là xã hội. Để quản
trị một tổ chức có hiệu quả cần có các điều kiện cơ bản sau: phải có lý luận quản trị dẫn
dắt (V.I.Lênin từng nói: Không có lý luận cách mạng khi không có phong trào cách
mạng; Phải có một bộ phận ưu tú lãnh đạo tổ chức (đảng của giai cấp công nhân - những
người trực tiếp làm ra của cải xã hội, chịu nhiều áp bức, thiệt thòi xã hội), bộ phận ưu tú
này phải tập hợp, quy tụ được sự đồng tình ủng hộ của đại đa số các cá nhân trong tổ
chức (liên minh giai cấp công - công, công tác mặt trận); Tổ chức phải có sự cân đối
biện chứng giữa hạ tầng cơ sở - lực lượng sản xuất xã hội và thượng tầng kiến trúc của tổ
chức (quan hệ sản xuất xã hội phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất); Tổ chức phải có quyết tâm hành động (đấu tranh giai cấp là cơ sở và là động lực
của sự phát triển của xã hội có phân công đối kháng); Cốt lõi của một tổ chức là phải tạo
ra được các đáp ứng cho nhu cầu của mọi con người trong tổ chức (sản xuất vật chất là
cái quyết định phát triển xã hội, vật chất có trước ý thức có sau);  Mục tiêu của tổ chức
là đáp ứng tốt nhu cầu của mọi thành viên trong tổ chức một cách bình đẳng, văn minh,
văn hóa (xóa bỏ bóc lột, xóa bỏ chênh lệch giàu nghèo, mọi người đều có quyền làm chủ v.v)
Chính nhờ có học thuyết quản trị nêu trên mà chủ nghĩa xã hội đã ra đời và phát huy tác
dụng (cách mạng tháng 10/ 1917 ở Liên xô cũ, các nước XHCN ở Đông Âu cũ, và hiện
nay là Trung Quốc, Cu Ba, Việt Nam, Lào, Bắc Triều Tiên v.v).
b2. Trường phái cơ cấu và chế độ của hệ thống
Trường phái này dành nghiên cứu trong phạm vi hệ thống (xí nghiệp, nhà máy) ở góc độ
tạo ra một cơ cấu tổ chức quản trị hợp lý, một chế độ điều hành khoa học và chặt chẽ để
đem lại hiệu quả cao cho công tác quản lý trong hệ thống. Đóng góp to lớn cho trường
phái này phải kể tới các nhà quản trị Robert Owen, Andrew Ure, C.Babbage F.W Taylor, Hanry Fayol v.v
Robert Owen (1771 – 1858) là một trong những chủ doanh nghiệp đầu tiên ở Scotland
tiến hành tổ chức một "xã hội công nghiệp" có trật tự và kỷ luật; ông chú ý tới nhân tố
con người trong tổ chức và cho rằng nếu chỉ quan tâm đầu tư tới thiết bị máy móc mà
quên mất yếu tố con người thì xí nghiệp cũng không thể thu được kết quả. Quan điểm
quản trị của R.Owen mặc dù còn đơn giản nhưng đã bước đầu chuẩn bị cho sự ra đời của
bộ môn quản trị độc lập.
Andrew Ure (1778 – 1857) người đã sớm nhìn thấy vai trò của quản trị và việc đào tạo
kiến thức cho các nhà quản trị. Ông là một trong những người đầu tiên chủ trương việc
đào tạo ở bậc đại học cho các nhà quản trị và ông cho quản trị là một nghề.
Charles Babbage (1972 – 1871) người đầu tiên đề xuất phương pháp tiếp cận có khoa
học trong quản trị; Ông rất quan tâm tới mối quan hệ giữa người quản trị và công nhân,
và cũng là một người góp phần tích cực đưa quản trị trở thành một bộ môn khoa học độc lập.
Frederick Winslow Taylor (1856 – 1915), là người được thế giới phương Tây gọi là "cha
đẻ của thuyết quản trị khoa học học thuyết X", là một trong những người mở ra một "kỷ
nguyên vàng" trong quản trị của nước Mỹ, người xây dựng một phương pháp quản trị
được dùng làm cơ sở tri thức cho công việc quản trị Mỹ, Anh, Tây Âu, Bắc Âu và Nhật
bản trong các xí nghiệp sau này.
F.W. Taylor nhìn nhận con người như một cái máy. Ông cho con người là một kẻ trốn
việc và thích làm việc theo kiểu người lính, vì thế cần thúc họ làm việc một cách hết sức
khoa học để chuyên môn hóa các thao tác của người lao động, để họ hoạt động trong một
dây chuyền và bị giám sát chặt chẽ, không thể lười biếng. Ông đã viết như sau:
- Khi người ta bảo anh nhặt một thỏi kim loại và khênh đi, anh sẽ nhặt nó và đi; và khi
người ta bảo anh nguồi xuống và nghỉ thì anh hãy ngồi xuống. Anh phải làm việc đó
ngay lập tức trong suốt cả ngày và không một lời cãi lại.
- Nhà quản trị là nhà tư tưởng, nhà lên kế hoạch. Trách nhiệm của họ là lập kế hoạch, chỉ
đạo và tổ chức công việc. Ở những chỗ khác, họ phải tập trung vào việc lên kế hoạch sản
xuất, kiểm soát nguyên vật liệu, thủ tục hành chính và mọi chi tiết nhỏ nhặt có liên quan
tới những công việc này.
Tư tưởng cốt lõi của F.W.Taylor là đối với mỗi loại công việc dù là nhỏ nhặt nhất đều có
một "khoa học" để thực hiện nó; Ông đã tập hợp, đã liên kết các mặt kỹ thuật và con
người trong tổ chức. Ông cũng đã ủng hộ học thuyết con người kinh tế và cho rằng việc
khuyến khích bằng tiền đối với người lao động là cần thiết để họ sẵn sàng làm việc như
một người lính có kỷ luật.
F.W.Taylor đưa ra 4 nguyên tắc quản trị sau:
- Nhân viên quản trị phải am hiểu khoa học, bố trí lao động một cách khoa học để thay
thế cho các tập quán lao động cổ hủ.
- Người quản trị phải lựa chọn người công nhân một cách khoa học, bồi dưỡng nghề
nghiệp và cho họ học hành để họ phát triển đầy đủ nhất khả năng của mình (còn trong
quá khứ thì họ tự chọn nghề, tự cố gắng học tập để nâng cao tay nghề).
- Người quản trị phải cộng tác với người thợ đến mức có thể tin rằng công việc được làm
đúng với nguyện vọng vàcác nguyên tắc có căn cứ khoa học đã định.
- Công việc và trách nhiệm đối với công việc được chia phần như nhau giữa người quản
trị và người thợ. Nhân viên quản trị phải chịu trách nhiệm toàn bộ đối với công việc mà
mình có khả năng hơn; còn trong quá khứ thì toàn bộ công việc và phần lớn trách nhiệm
là đổ vào đầu người công nhân.
Henry Fayol (1841-1825), người chủ trương phải có một lý thuyết quản trị khoa học dựa
trên các qui tắc và chức năng nhất định. Ông viết: "Tôi hy vọng rằng một lý thuyết sẽ bắt
nguồn từ cuốn sách này" và "quản trị hành chính là dự đoán và lập kế hoạch, tổ chức,
điều khiển, phối hợp và kiểm tra". Ông đã kết luận rằng: Một nhà quản trị tài năng có
được thành công không phải nhờ những phẩm chất cá nhân, mà nhờ ở các phương pháp
mà anh ta đã áp dụng cũng như các nguyên tắc chỉ đạo hành động của anh ta.
Theo H.Fayol, quản trị ở xí nghiệp phải thực hiện những nguyên tắc sau:
- Có kế hoạch chu đáo và thực hiện kế hoạch một cách nghiêm chỉnh.
- Việc tổ chức (nhân tài, vật lực) phải phù hợp với mục tiêu, lợi ích, yêu cầu của xí nghiệp.
- Cơ quan quản trị điều hành phải là duy nhất, có năng lực và tích cực hoạt động.
- Kết hợp hài hòa các hoạt động trong xí nghiệp với những cố gắng phối hợp.
- Các quyết định đưa ra phải rõ ràng, dứt khoát và chuẩn xác.
- Tổ chức tuyển chọn nhân viên tốt, mỗi bộ phận phải do một người có khả năng và biết
hoạt động đứng đầu, mỗi nhân viên phải được bố trí vào nơi có thể phù hợp với khả năng của họ.
- Nhiệm vụ phải được xác định rõ ràng.
- Khuyến khích tính sáng tạo và tinh thần trách nhiệm của mọi người trong xí nghiệp.
- Bù đắp lâu dài và thoả đáng cho những công việc đã được hoàn thành.
- Các lỗi lầm và khuyết điểm phải bị trừng phạt.
- Phải duy trì kỷ luật xí nghiệp.
- Các mệnh lệnh đưa ra phải thống nhất.
- Phải tăng cường việc giám sát trong xí nghiệp (cả đối với lao động và vật lực.)
- Kiểm tra tất cả mọi việc.
Hạn chế chủ yếu của H. Fayol là ông chưa chú ý đầy đủ các mặt tâm lý và môi trường xã
hội của người lao động ; hệ thống của ông vẫn bị đóng kín, chưa chỉ rõ mối quan hệ giữa
xí nghiệp với khách hàng, thị trường, các đối thủ cạnh tranh và các ràng buộc của Nhà nước.
b3. Trường phái quan hệ con người với con người trong hệ thống
Trong trường phái này đã có sự quan tâm thỏa đáng đến yếu tố tâm lý con người, tâm lý
tập thể và bầu không khí tâm lý trong xí nghiệp, nơi những người lao động làm việc, đã
phân tích tác động qua lại giữa con người với con người trong hoạt động ở xí nghiệp. Đại
diện của trường phái này là M. P. Follet (1868 - 1933), người đã phê phán các nhà quản
trị trước kia chưa quan tâm đến khía cạnh tâm lý và xã hội của quản trị, là Elton Mayo
(1880 - 1949), người rất quan tâm đến yếu tố cá nhân trong tập thể (nhóm), mặc dù ông
đánh giá con người là thụ động trong quan hệ với tập thể v.v...
b4. Trường phái quản lý kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa (trước khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ).
Từ khi hình thành hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, việc quản lý đã được đặt ra trên
cơ sở bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa là xóa bỏ bóc lột, thực hiện sở hữu xã hội chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất, với hai mục tiêu quản lý là tạo ra năng suất hiệu quả cao và
công bằng nhân đạo xã hội, việc quản lý được thực hiện tập trung trong phạm vi cả nước.
Quản lý kinh tế đã thực sự được tách thành một môn khoa học độc lập với hệ thống lý
luận và phương pháp luận chặt chẽ, chuẩn xác. Do đó đã nhanh chóng góp phần thúc đẩy
nền kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa phát triển vượt bậc. Nhưng cho đến đầu những
năm 60, do sự phát triển kinh tế bắt đầu chững lại ở nhiều nước, các ách tắc bắt đầu xuất
hiện bởi nhiều lý do, trong đó đáng kể nhất là : Không phát triển được sản xuất xã hội ;
Không xóa bỏ được bất công và phân hóa xã hội ; Việc quản trị lại duy ý chí và quá tập
trung vào các cơ quan nhà nước với các yếu kém của đội ngũ các nhà quản trị điều hành
bộ máy này. Sự bế tắc đã kéo đến khủng khoảng ở một số nước và đang đòi hỏi các nhà
quản trị phải xem xét lại lý thuyết quản trị của mình để có biện pháp chỉnh lý và hoàn thiện thích hợp.
c. Giai đoạn từ đầu những năm 1970 đến nay Các nước tư bản chủ nghĩa trước cuộc
khủng hoảng kinh tế thừa, trước các bế tắc chung của những năm 1960, đã khẩn trương
điều chỉnh lại các quan điểm và cách thức quản trị của mình và họ đã tạm thời thu được
những kết quả nhất định. Các nhà quản trị phương Tây, tiêu biểu là Peter Drucker (1909),
là người đầu tiên mở cửa phạm vi quản trị của doanh nghiệp ra với thị trường, khách
hàng và ràng buộc của xã hội, của các đối thủ cạnh tranh và của nhà cung ứng vật tư thiết
bị cho doanh nghiệp. Theo P. Drucker, quản trị có 3 chức năng: quản trị công nhân, công
việc; quản trị các nhà quản trị và quản trị một doanh nghiệp. Quản trị theo P. Drucker còn
là sự chủ động sáng tạo kinh doanh chứ không phải là sự thích nghi thụ động; đó là sự
bám chắc vào khách hàng và thị trường.
Với tư tưởng này, Ông đã là một trong những nhà quản trị góp phần xây dựng nhiều lý
thuyết quản trị kinh doanh hiện đại ngày nay (Marketing, kinh tế vĩ mô v. v...) chính với
quan điểm nói trên P. Drucker đã giải quyết các bế tắc tưởng như không giải quyết nổi
của chủ nghĩa tư bản: Ông đã được các nhà tư bản phương Tây và Nhật, Mỹ gọi là "Peter
Đại đế". Hạn chế của ông ở chỗ không đề cập tới bản chất lợi ích của hoạt động quản trị
điều mà các nhà tư bản luôn luôn né tránh vì bản chất bóc lột của nó.
- Các nhà quản trị Bắc Âu, lại đưa thêm việc gắn quản trị với việc điều hòa lợi ích một
phần cho xã hội thông qua các cơ quan quản lý của chính phủ. Chính điều này đã làm
cho nhiều nước Bắc Âu (Thụy Điển, Đan Mạch, Hà Lan v. v...) cũng tự nhận mình là các
nước xã hội chủ nghĩa. Các nước này đã nhanh chóng trở thành các quốc gia phồn vinh,
các tư tưởng quản trị của họ được nhiều quốc gia theo dõi, học tập, nhưng trong thập kỷ
cuối thế kỷ 20 đến nay, các nước này đang bước vào những bế tắc mới với nhiều khó
khăn trở ngại mà họ đang cố gắng giải quyết.
- Các nhà quản trị Nhật Bản và các nước ASEAN thì lại bổ sung thêm việc quản trị theo
phương thức hiện đại với sức mạnh truyền thống dân tộc, gia đình, dòng họ, tạo ra một
động cơ tâm lý mạnh cho cộng đồng với mong muốn nhanh chóng trở thành các thế lực
dẫn đầu thế giới (Học thuyết Z do W. Ouchi đề xướng). Các nước này cũng đã "một thời
vang bóng" và vẫn còn đang được nhiều người ca ngợi thành tựu của họ, mặc dù những
năm gần đây bắt đầu chững lại với cái bế tắc tất yếu của chủ nghĩa tư bản, đó là sự lũng
đoạn của các tập đoàn kinh doanh chi phối, khống chế nhà nước.
- Một số quốc gia thuộc phạm vi ảnh hưởng của các thế lực đế quốc và phản động quốc
tế đã hi vọng đem lại sự thịnh vượng nhanh chóng cho đất nước mình bằng cách quản lý
xã hội dựa trên bạo lực, roi vọt (điển hình là bè lũ Pôn Pốt, Iêng Xari, v.v. ở Cam pu
chia), nhưng cũng như phát xít Đức, Nhật, họ đều thất bại thảm hại. Thực chất của quản
trị những năm gần đây là sự phát triển theo quan điểm chấp nhận chênh lệch, chấp nhận
cạnh tranh, phân hóa giàu nghèo theo nguyên lý khâu xung yếu của lý thuyết hệ thống,
mà trọng tâm là biết tận dụng các thành quả của khoa học công nghệ và nhân tố tâm lý xã hội.
Câu 6: Trình bày các chức năng cơ bản của quản trị và mối quan hệ giữa chúng?
a/ Phân loại các chức năng quản trị

Phân loại quản trị theo Henry Fayol
Henry Fayol là một nhà khoa học quản trị của Pháp. Chức năng quản trị được ông chia thành 5 phần, bao gồm:
- Hoạch định: “Doanh nghiệp chỉ thu được kết quả khi nó được hướng dẫn bởi một
chương trình hoạt động, một kế hoạch nhất định nhằm xác định rõ: Sản xuất cái gì? Sản
xuất bằng cách nào? Bán cho ai? Với nguồn tài chính nào?”
- Tổ chức: “Tổ chức một doanh nghiệp tức là trang bị tất cả những gì cần cho hoạt động
của nó bao gồm: máy móc, vốn, nhân viên, vật liệu…”
- Phối hợp: “Phối hợp là việc làm cho đồng bộ giữa tất cả những hoạt động của doanh
nghiệp nhằm tạo ra lợi nhuận dễ dàng và có hiệu quả”.
- Chỉ huy: “Có thể xã hội đã được xây dựng xong, giờ chúng ta chỉ việc làm cho nó hoạt
động, đó chính là nhiệm vụ của người chỉ huy”.
- Kiểm soát: “Kiểm tra thực chất là quá trình xem lại tất cả việc đã được tiến hành phù
hợp với chương trình đã định với những mệnh lệnh đã ban bố và những nguyên lý đã thừa nhận”. 
Phân loại theo cách của L. Gulick và L. Wrwich
Năm 1937, hai nhà khoa học quản trị L. Gulick và L. Wrwich đã phát triển hệ thống của
Fayol thành 7 chức năng quản trị được viết tắt là POSDCORB trong cuốn “Papers on the
Science of Administration” tạm dịch là Luận cứ về khoa học của quản trị. Theo đó, chức
năng quản trị được chia thành:
P: Planning – Hoạch định O: Organizing – Tổ chức S: Staffing – Nhân sự D: Directing – Chỉ huy
CO: Coordinating – Phối hợp R: Reporting – Báo cáo B: Budgeting – Ngân sách
Cách phân loại chức năng quản trị này thể hiện tính kế thừa và phát triển. Có 2 nhân tố
ảnh hưởng tới khoa học quản trị ở thời kì này chính là:
- Sự hình thành các tập đoàn doanh nghiệp dẫn đến việc phải đổi mới vấn đề tổ chức –
đặc biệt là việc tuyển dụng các nhân viên quản trị có học vấn vào các vị trí cao cấp.
- Sự thâm nhập của giới ngân hàng vào hoạt động của các doanh nghiệp với tư cách là
các quản trị viên cấp cao. 
Phân loại theo H. Koontz và C. O’Donnell
Kế thừa lại cách phân loại của Fayol, hai nhà khoa học người Mỹ đã phân loại thành 4
chức năng quản trị cơ bản bao gồm:
- Xác định triết lý, giáo lý và chính sách kinh doanh
- Kế hoạch kinh doanh và kiểm tra - Tổ chức và chỉ huy
- Phát triển nhà quản trị
b/ Nội dung của các chức năng quản trị
- Hoạch định: Là chức năng đầu tiên trong quản trị bao gồm các công việc: Xác định mục
tiêu, xây dựng chiến lược tổng thể, thiết lập một hệ thống các kế hoạch để phối hợp các hoạt động.
- Tổ chức: Bao gồm việc xác định những việc phải làm, những ai tham gia làm việc đó,
các công việc sẽ được phối hợp lại với nhau như thế nào? Những bộ phận nào cần phải
được thành lập? Quan hệ phân công và trách nhiệm giữa các bộ phận đó, hệ thống quyền hành trong doanh nghiệp.
- Chỉ huy: Công việc trong doanh nghiệp cần phải có người thực hiện. Để có người làm
việc, nhà quản trị cần phải tuyển chọn, thu hút người làm việc, bố trí, bồi dưỡng, động
viên và khích lệ nhân viên.
Việc thiết lập quyền hành và sử dụng quyền hành đó để giao việc cho nhân viên, đưa ra
các nội quy, quy định làm việc và ủy quyền cho người khác… là nội dung của chức năng chỉ huy.
- Phối hợp: Chức năng này bao gồm: Phối hợp theo chiều dọc, nghĩa là phối hợp giữa các
cấp quản trị và phối hợp theo chiều ngang nghĩa là phối hợp giữa các chức năng, các lĩnh vực quản trị.
- Kiểm soát: Chức năng này bao gồm việc xác định thu thập thông tin về thành quả thực
tế, so sánh với thành quả kỳ vọng và tiến hành các biện pháp sửa chữa nếu có sai lệch
nhằm đảm bảo tổ chức đang đi đúng hướng giúp hoàn thành mục tiêu.
c/ Mối quan hệ giữa các chức năng quản trị
- Quan hệ giữa chức năng quản trị với quy mô doanh nghiệp

Việc thực hiện số lượng các chức năng quản trị ở doanh nghiệp lớn và nhỏ là
giống nhau. Tuy nhiên việc đảm bảo chức năng quản trị của các cấp quản trị trong những
doanh nghiệp có quy mô khác nhau là khác nhau.
Điều này thể hiện ở việc các doanh nghiệp nhỏ có cấp quản trị cao nhất có thể can
thiệp và điều hành cả những công việc của cấp dưới, trong khi ở các doanh nghiệp lớn thì
chức năng quản trị được phân cấp khá rành rọt, cấp quản trị cao nhất chỉ tập trung thời
gian vào những chức năng thiết yếu.
- Quan hệ giữa chức năng quản trị với các cấp quản trị
Trong một doanh nghiệp, các cấp quản trị được phân chia một cách khách quan
việc đảm trách các chức năng này ở các mức độ khác nhau. Chức năng hoạch định và tổ
chức giảm dần theo cấp quản trị trong khi đó, chức năng điều hành lại tăng lên ở cấp quản trị thấp nhất
- Tính quốc tế của chức năng quản trị
Mặc dù việc vận dụng các chức năng quản trị vào hệ thống doanh nghiệp ở từng
quốc gia, khu vực có thể khác nhau về vai trò, tính chất quan trọng của từng chức năng
nhưng xét về tổng thể thì các chức năng theo phân loại của Fayol vẫn được mọi quốc gia công nhận.
Có thể nói phát minh phân loại chức năng quản lý của Fayol là cơ sở quyết định
cho sự tiến bộ của khoa học quản trị từ thế kỷ 20.
Câu 7: Kỹ năng nào là quan trọng nhất đối với nhà quản trị cấp cơ sở và tại sao?
Trước khi đi vào vấn đề chúng ta cần phải nhắc lại rằng : Các nhà quản trị cấp cơ
sở (thường là tổ trưởng, nhóm trưởng, trưởng ca, đốc công…) ở cấp bậc cuối cùng trong
hệ thống cấp bậc của các nhà quản trị trong cùng một tổ chức.
Nhiệm vụ: Đưa ra các quyết định tác nghiệp nhằm đốc thúc, hướng dẫn, điều
khiển các công nhân viên trong các công việc sản xuất kinh doanh cụ thể hàng ngày,
nhằm thực hiện mục tiêu chung.
Tuy nhiên, ở cấp độ này họ cũng là những người trực tiếp tham gia sản xuất kinh doanh
như những nhân viên khác dưới quyền họ.
Đối với các quản trị viên nói chung có 4 kỹ năng quan trọng là: Kỹ năng tư duy
(nhận thức), kỹ năng kỹ thuật (chuyên môn), kỹ năng quan hệ (con người), kỹ năng
truyền thông. Trong các kỹ năng trên có lẽ kỹ năng tư duy là quan trọng nhất đối với các
nhà quản trị viên cơ sở nói riêng và tất cả các cấp bậc quản trị khác nói chung.Tại sao tôi
lại cho rằng là như vậy?
Trước hết ta cần hiểu rõ về kỹ năng tư duy.Kỹ năng tư duy là kỹ năng khó hình
thành nhất tuy nhiên nó lại mang trong mình tầm quan trọng đặc biệt.Kỹ năng này yêu
cầu các nhà quản trị phải có tầm nhìn chiến lược và tư duy có hệ thống, đồng thời phải có
khả năng khái quát hóa các mối quan hệ giữa các sự vật - hiện tượng, qua đó giúp cho
việc nhận dạng vấn đề và đưa ra những giải pháp, kế hoạch, chiến lược phù hợp.Mỗi
chiến lược đề ra có sáng tạo, thu hút và khả năng thành công cao hay không đều là nhờ
vào khả năng tư duy của nhà quản lý. Khi có tư duy tốt, họ sẽ đề ra đường lối đúng đắn,
hiệu quả đối phó với những bất trắc, đe dọa sự phát triển của tập thể.
Cấp bậc quản trị viên cao cấp hay trung cấp đều đòi hỏi họ phải có khả năng đưa
ra những quyết định mang tầm chiến lược, ảnh hưởng lớn đến sự thành bại của tổ chức.
Để làm được điều đó những quản trị viên cao cấp phải có cho mình kỹ năng tư duy tốt.
Vậy điều này liên quan thế nào với những nhà quản trị cấp cơ sở?
Có thể nói rằng sự nghiệp phát triển đối với mỗi một nhà quản trị là đi lên từ cấp
bậc thấp nhất (tức là cấp cơ sở), sau đó là cấp trung gian và cuối cùng là trở thành quản
trị viên cao cấp. Với những đòi hỏi của bậc cao cấp hay trung cấp việc phát triển kỹ năng
tư duy là tối quan trọng. Nhìn về lâu dài, chính những nhà quản trị cấp cơ sở sẽ là những
nhà quản trị viên tiềm năng cho những cấp cao hơn, sự nghiệp của họ là vươn bản thân
lên những tầm cao hơn. Chính vì điều này việc rèn luyện cho bản thân kỹ năng tư duy tốt
là việc cần thiết. Hơn thế nữa việc học hỏi và tiếp thu các kỹ năng khác như kỹ thuật
chuyên môn, kỹ năng về truyền thông hay kỹ năng quan hệ đều phải phụ thuộc rất nhiều
đến khả năng tư duy, nếu muốn các kỹ năng khác tốt thì bản thân phải có khả năng tư duy
vượt trội. Điều này càng khẳng định tầm quan trọng bậc nhất của kỹ năng tư duy.
Như đã phân tích ở trên, kỹ năng tư duy là kỹ năng quan trọng nhất đối với nhà
quản trị cấp cơ sở - những người sẽ trở thành những quản trị viên trung gian và cao cấp
trong tương lai.Để luyện kỹ năng tư duy trước hết là phải thay đổi thói quen của mình.
Đứng trước bất cứ việc gì ngay cả vào quán cafe thì cũng cố gắng đi tới mức tận cùng là
Làm sao để cái quán này được đông khách hơn? Sau khi thay đổi thói quen thì phải học
kỹ thuật tư duy. Hiểu kỹ thuật rồi sau đó ứng dụng liên tục thì nhất định sẽ có tiến bộ.
Câu 8: Kỹ năng nào là quan trọng nhất đối với nhà quản trị cấp cao và tại sao?
* Các nhà quản trị cấp cao là các Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc, giám đốc,… nói
chung là người đứng đầu, được coi là đầu não của tổ chức, doanh nghiệp, là người vạch
ra chiến lược, kế hoạch hành động và phát triển của tổ chức.
* Nhiệm vụ của các nhà quản trị cấp cao là vừa hoạch định, vừa tổ chức, vừa điều khiển
và vừa kiểm tra hoạt động vận hành q tổ chức, 1 doanh nghiệp.
- Xác định mục tiêu dài hạn, ngắn hạn của doanh nghiệp trong từng thời kì.
- Tạo dưng bộ máy quản trị cho tổ chức doanh nghiệp.
- Phối hợp hoạt động vận hành các tổ chức nhò có liên quan trong doanh nghiệp.
- Xác định nguồn lực và đầu tư kinh phí cho các hoạt động vận hành, phát triển của doanh nghiệp.
- Đưa ra các biện pháp kiểm tra, kiểm soát , thanh tra các hoạt động vận hành của doanh nghiệp.
- Chịu trách nhiệm về mỗi quyết định đối với doanh nghiệp dù tốt hay xấu. Chịu trách
nhiệm khắc phục hậu quả gây ra.
- Báo cáo trước HĐQT và đại hội công nhân viên chức về kết quả, thành tựu doanh nghiệp đạt được.
* Đối với mỗi nhà quản trị nói chung đều có 4 kỹ năng quan trọng đó là:
- Kỹ năng tư duy (nhận thức)
- Kỹ năng kỹ thuật (chuyên môn)
- Kỹ năng quan hệ (con người) - Kỹ năng truyền thông
* Đối với các nhà quản trị cấp cao thì Kỹ năng TƯ DUY là kỹ năng quan trọng nhất. Vì:
- Trước hết, kỹ năng tư duy thể hiện tầm nhìn chiến lược. tư duy hệ thống, khả năng khái
quát hóa các mối quan hệ giữa các sự vật - hiện tượng qua đó giúp cho việc nhận dạng
vấn đề và đưa ra giải pháp giải quyết vấn đề.
- Vì nhà quản trị cấp cao được coi là đầu não của 1 tổ chức là người vạch ra hướng đi,
chiến lược phát triển của 1 tổ chức doanh nghiệp, tận dụng tối đa các cơ hội và hạn chế
đến mức tối thiểu các rủi ro, các mối đe dọa đối với sự phát triển của doanh nghiệp.
Hoạch định chiến lược là 1 công việc mang tính dài hạn, cần 1 người có tầm nhìn dài hạn
tốt, cần phân tích tình hình thị trường tinh tế, qua đó xây dựng 1 chiến lược, đưa ra các
quyết định rất phức tạp, mang tính thành bại, tính chiến lược lâu dài, có ảnh hưởng trực
tiếp đến thành công hay thất bại qua đó giúp doanh nghiệp hoàn thành mục tiêu và mục
đích, hoàn thành sứ mệnh ban đầu đặt ra. 
Vì vậy kỹ năng TƯ DUY ảnh hưởng cực kỳ lớn đến tổ chức, doanh nghiệp và là
kỹ năng quan trọng nhất đối với 1 nhà quản trị cấp cao vì tổ chức doanh nghiệp thành
công hay thất bại phần lớn nhờ vào khả năng tư duy, xây dựng chiến lược đúng đắn hợp
lý của nhà quản trị cấp cao và nếu như tổ chức, doanh nghiệp đi sai hướng, chiến lược sai
lầm không phù hợp sẽ hoạt động kém hiệu quả, hao tổn nhân lực, tiêu tốn tài nguyên 1
cách phí phạm dẫn đến doanh nghiệp kém phát triện, thậm. trí thua lỗ dẫn đến phá sản, giải thể.
Câu 9: Trình bày các nguyên tắc quản trị tổ chức hiệu quả?
Gồm 4 nguyên tắc chính:
- Nguyên tắc về tính tối ưu
- Nguyên tắc về tính linh hoạt
- Nguyên tắc về tính chính xác - Nguyên tắc về kinh tế Cụ thể như sau:
a/ Nguyên tắc về tính chính xác
Phương hướng và mục đích của tổ chức sẽ chi phối cơ cấu tổ chức. Nếu một tổ
chức mà mục tiêu, phương hướng của nó có quy mô lớn thì cơ cấu của tổ chức cũng phải
có quy mô tương ứng; còn nếu quy mô cỡ vừa phải với đội ngũ, trình độ, nhân cách các
con người tương ứng. Một doanh nghiệp có mục đích hoạt động dịch vụ thì rõ ràng cơ
cấu quản trị của nó cũng phải có những đặc thù khác một tổ chức có mục đích hoạt động sản xuất v.v...
b/ Nguyên tắc về tối ưu
Nguyên tắc này đòi hỏi cơ cấu tổ chức quản trị phải được phân công phân nhiệm
các phân hệ chuyên ngành, với những con người được đào luyện tương ứng và có đủ
quyền hạn. Nói một cách khác, cơ cấu tổ chức phải dựa trên việc phân chia nhiệm vụ rõ
ràng. Giữa nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền lực, lợi ích phải cân xứng và cụ thể. Chỉ có
phân giao nhiệm vụ trong doanh nghiệp một cách rõ ràng với sự cân xứng giữa nhiệm vụ,
trách nhiệm, quyền lực, lợi ích của từng phân hệ như trong.
c/ Nguyên tắc về linh hoạt
Nguyên tắc này đòi hỏi việc hình thành cơ cấu tổ chức phải đảm bảo cho mỗi
phân hệ một mức độ tự do sáng tạo tương xứng để mọi thủ lĩnh các cấp phân hệ bên dưới
phát triển được tài năng, chuẩn bị cho việc thay thế vị trí của lãnh đạo cấp trên khi cần thiết.
d/ Nguyên tắc về kinh tế
Nguyên tắc này đòi hỏi cơ cấu tổ chức quản trị phải thu được kết quả hoạt động
cao nhất so với chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra, đồng thời bảo đảm hiệu lực hoạt động
của các phân hệ và tác động điều khiển của các bộ phận quản lý. Để bảo đảm cho nguyên
tắc này được thực hiện, cần tuân thủ các yêu cầu sau:
- Cơ cấu tổ chức quản trị là cơ cấu hợp lý nhằm đảm bảo chi phí cho các hoạt động là
nhỏ nhất, mà kết quả thu lại của doanh nghiệp là lớn nhất trong khả năng có thể (tức là
đảm bảo tính hiệu quả của doanh nghiệp).
- Cơ cấu tổ chức phải tạo được môi trường văn hoá xung quanh nhiệm vụ của các phân
hệ; làm cho mỗi phân hệ hiểu rõ vị trí, giá trị của các hoạt động mà mình tham dự là
nhằm tạo lợi thế, thuận lợi cho các phân hệ có liên quan trực tiếp với mình.
- Cơ cấu tổ chức phải đảm bảo cho thủ lĩnh các phân hệ có quy mô (của phân hệ) được
giao quản trị là hợp lý, tương ứng với khả năng kiểm soát, điều hành của họ.