/17
lOMoARcPSD| 61559320
Trong hệ thống tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng của Người về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
trong sạch, vững mạnh, để Đảng xứng đáng “là đạo đức, văn minh” chiếm một vị trí đặc biệt
quan trọng. Việc vận dụng tư tưởng của Người vào công tác xây dựng Đảng hiện nay sẽ góp phần
to lớn vào công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh. Xây dựng Đảng chính yêu cầu
để Đảng tồn tại và phát triển.
Trong Bài nói tại lớp chỉnh huấn đầu tiên của Trung ương (ngày 11-5-1952), Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ ra rằng “vì điều kiện khó khăn, số đông cán bộ và đảng viên chưa được huấn luyện
hẳn hoi cho nên tưởng trình độ chính trị còn thấp kém lệch lạc. Điều đó tỏ ra mỗi
khuyết điểm như: không nắm vững chính sách trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh; không
phân biệt rõ ràng bạn và địch, bệnh quan liêu, công thần và nạn tham ô hủ hóa khá nặng,
v.v… (1). Từ đó có thể thấy, xây dựng Đảng là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng viên tự rèn luyện, giáo
dục và tu dưỡng, ngày một tiến bộ hơn, trở thành người cách mạng chân chính.
Trước lúc đi xa, trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, Người căn dặn: “Đảng ta một
Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự
cần kiệm liêm chính, chí công tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng người
lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” (2). Câu nói đó, Bác đã đưa ra yêu cầu
cơ bản về đạo đức của cán bộ, đảng viên và yêu cầu xuất phát từ bản chất cách mạng của Đảng ta,
từ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. Đất nước đã đạt được
nhiều thành tựu rất to lớn, đồng thời đang phải đối mặt với không ít khó khăn, nguy cơ, thách thức.
Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong Đảng, bộ máy Nhà nước vẫn đang
diễn ra nghiêm trọng chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Đây một vấn đề gây nhức nhối trong xã
hội, là một trong những nguy cơ tiềm ẩm đe doạ thắng lợi của sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo
của Đảng, Nhà nước ta.
Hội nghị Trung ương 4 khóa XI đã đề ra nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách hiện nay về xây dựng
Đảng”. Nghị quyết chỉ rõ: “Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác xây dựng đảng còn
không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ
chậm khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ
thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ(3). Cùng với đó
lời khẳng định: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tưởng, chính trị, đạo
đức, lối sống, phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa nhân ích kỷ, hội, tham nhũng lãng phí,
tùy tiện vô nguyên tắc” (4).
Những nội dung trong công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam Người đề ra, nếu được toàn
Đảng, toàn dân, đặc biệt là những người cán bộ, đảng viên nghiên cứu và học tập chắc chắn sẽ góp
phần quan trọng trong việc làm cho toàn Đảng trở thành một khối thống nhất về nhận thức
tưởng, làm cơ sở cho sự thống nhất về hành động, đủ sức lái con thuyền cách mạng Việt Nam tiến
về phía trước, vượt qua được những khó khăn thử thách đó.
Một là, Xây dựng Đảng về tưởng, luận: Đảng lấy chủ nghĩa Mác--nin làm nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động
lOMoARcPSD| 61559320
Mở đầu tác phẩm Đường cách mệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn luận điểm nổi tiếng của V. Lê-
nin: “Không luận cách mệnh thì không cách mệnh vận động... Chỉ theo luận ch
mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong” (5). Trong tác
phẩm Sửa đổi lối làm việc (năm 1947), Người viết:“Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương
hướng cho chúng ta trong công tác thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”
(6). Như vậy, bên cạnh việc khẳng định Cách mạng Việt Nam “trước hết phải Đảng cách mệnh”
(7), Người còn muốn nhắc đến một điều đặc biệt quan trọng: dẫn đường cho mọi hoạt động của
cách mạng đều cần thiết phải có một học thuyết, một chủ nghĩa cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhấn mạnh: “Có lý luận soi đường thì quần chúng hành động mới đúng đắn, mới phát hiện được
tài năng và lực lượng vô cùng tận của mình” (8).
Trong các bài giảng huấn luyện cho cán bộ cách mạng từ năm 1925 đến năm 1927 (sau được in
thành tác phẩmĐường cách mệnh) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải
chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng
như người không trí khôn, tàu không bàn chỉ nam” (9). Nhưng, Người cũng phát hiện ra
rằng “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính, chắc chắn nhất,
cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin” (10).
chủ nghĩa Mác - -nin làm nền tảng tưởng, soi đường, dẫn lối, Đảng đã đạt được những
mục tiêu nhất định, đã lãnh đạo được giai cấp công nhân thực hiện được xứ mệnh lịch sử của mình,
đưa dân tộc ta vượt qua những khúc quanh của lịch sử, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong bài Chủ nghĩa Lê-nin và công cuộc giải phóng các dân tộc bị áp bức (tháng 4-1955), Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Lê-nin đã để lại cho chúng tôi một kho tàng quý báu vô ngần:
học thuyết của Người về cơ sở tư tưởng, về những nguyên tắc tổ chức, về lý luận và sách lược của
đảng cách mạng. Chủ nghĩa Lê-nin là lực lượng tư tưởng hùng mạnh chỉ đạo Đảng chúng tôi, làm
cho Đảng chúng tôi thể trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện
thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc chúng tôi” (11).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi Đảng phải gắn luận với hành động thực tiễn. Phải phương
pháp học tập đúng đắn, học phải đi đôi với hành, nếu không, chưa khắc phục được bệnh kinh
nghiệm thì đã mắc phải bệnh giáo điều, bệnh sách vở. Người chỉ rõ, “lý luận rất cần thiết, nhưng
nếu cách học tập không đúng thì sẽ không kết quả. Do đó, trong lúc học tập luận, chúng ta
cần nhấn mạnh: luận phải liên hệ với thực tế” (12). Người luôn phê phán kiểu học thuộc lòng
chủ nghĩa Mác - -nin, và yêu cầu “Đảng kết hợp lý luận với kinh nghiệm và thực hành của cách
mạng Việt Nam. Đảng áp dụng lập trường, quan điểm phương pháp Mác - -nin giải quyết
các vấn đề thực tế của cách mạng Việt Nam… không phải chỉ học thuộc lòng vài bộ sách của Mác
- -nin mà làm được như vậy. Đảng phải tinh thần khoa học và tinh thần cách mạng rất cao,
phải hiểu rõ lịch sử xã hội, phải quyết tâm phấn đấu cho giai cấp và nhân dân, phải tin tưởng vào
lực lượng sáng kiến của quần chúng, phải gom góp tưởng, kinh nghiệm, sáng kiến và ý chí
của quần chúng, sắp xếp nó thành hệ thống, rồi lại áp dụng vào trong quần chúng” (13). Chủ tịch
Hồ Chí Minh cũng căn dặn cán bộ, đảng viên học tập lý luận thì nhằm mục đích để vận dụng chứ
không phải học lý luận lý luận, hoặc để tạo cho mình một cái vốn lý luận để sau này đưa ra mặc
cả với Đảng” (14).
Hai là, thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng
lOMoARcPSD| 61559320
Nguyên tắc tập trung, dân chủ: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân
chủ tập trung. Nghĩa là: có đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống
nhất. nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng
cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương. Trong Đảng, bất kỳ cấp trên hoặc cấp ới,
đảng viên hoặc đảng viên mới, đều nhất định phải giữ kỷ luật của giai cấp sản” (15). Đây
nguyên tắc rường cột, quan trọng nhất để xây dựng Đảng chặt chẽ, vững chắc, phát huy được
sức mạnh tổng hợp.
Theo Người, “dân chủ”“tập trung” luôn luôn đi đôi với nhau. Giữa “dân chủ” “tập trung”
mối quan hệ khăng khít với nhau, đó hai vế của một nguyên tắc. Trong Bài nói chuyện tại
lớp nghiên cứu chính trị khóa I, Trường Đại học nhân dân Việt Nam, ngày 21-7-1956, Bác viết về
mối quan hệ đó như sau: “Chế độ ta chế độ dân chủ, ởng phải được tự do. Tự do thế
nào? Ðối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Ðó là
một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm
thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý. Chân lý là cái gì
có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không
phải chân lý. Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân - tức là phục tùng chân lý” (16). Thực
hiện nguyên tắc này, nghĩa phòng chống các biểu hiện chuyên quyền, độc đoán, thói hách
dịch, chụp mũ, trù dập. Đồng thời cũng cần đề phòng và chống những biểu hiện của dân chủ “quá
trớn”.
Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách: Người cho rằng, đây là nguyên tắc lãnh đạo của
Đảng. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách cần phải luôn đi đôi với nhau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích về tập thlãnh đạo như sau: “Vì sao cần phải tập thể lãnh
đạo? một người khôn ngoan tài giỏi mấy, nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy,
chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi
mặt của một vấn đề. vậy, cần phải nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người
thì thấy rõ mặt này, người thì trông thấy mặt khác của vấn đề đó. Góp kinh nghiệm sự xem
xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy khắp mọi mặt. thấy khắp mọi mặt, thì
vấn đề ấy mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm” (17).
Người viết về nhân phụ trách: “Việc đã được đông người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch
định ràng rồi, thì cần phải giao cho một người hoặc một nhóm ít người phụ trách theo kế hoạch
đó thi hành. Như thế mới chuyên trách, công việc mới chạy. Nếu không nhân phụ
trách thì sẽ sinh cái tệ người này ủy cho người kia, người kia ủy cho người nọ, kết quả không
ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng không xong” (18).
Thực hiện nguyên tắc này trong công tác xây dựng Đảng phải chú ý khắc phục những biểu hiện
độc đoán, chuyên quyền, đồng thời phải chống lại tình trạng dựa dẫm tập thể, khống dám quyết
đoán và chịu trách nhiệm.
Nguyên tắc tự phê bình phê bình: Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đây quy luật phát triển của Đảng,
khí để rèn luyện Đảng viên nhằm làm cho mỗi người tốt hơn, tiến bộ hơn, tăng cường
đoàn kết trong nội bộ. Mục đích của tự phê bình phê bình để làm cho phần tốt trong mỗi
lOMoARcPSD| 61559320
người nảy nở như hoa mùa xuân, làm cho mỗi tổ chức tốt lên, phần xấu bị loại bỏ, vươn tới một
sự hoàn thiện.
Người nói về nguyên tắc tự phê bình và phê bình: “một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình
một Đảng hỏng. Một Đảng gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch những cái đó,
đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa
chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính” (19). Chức
càng cao, quyền càng lớn, khi mắc phải sai lầm hậu quả sẽ rất lớn, do đó, tự phê bình và phê bình
sẽ khiến cho mỗi người cán bộ, Đảng viên luôn nhận thức đúng về những hành động của mình và
tiến bộ hơn, sẽ tránh được những sai lầm đáng tiếc.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự phê bình phê bình phải tiến hành thường xuyên như người ta
rửa mặt hằng ngày; phải thẳng thắn, trung thực, không đặt điều”, không thêm bớt”, không che
giấu,. Tự phê bình và phê bình phải kiên quyết, “ráo riết”. Người cũng yêu cầu: “Trong Đảng thực
hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để
củng cố phát triển sự đoàn kết, thống nhất của Đảng. Phải tình đồng chí thương yêu lẫn
nhau” (20).
Kỷ luật nghiêm minh, tự giác: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nếu không có kỷ luật, “Đảng sẽ xệch
xoạc, ý kiến lung tung, kỷ luật lỏng lẻo, công việc trễ” (21). kỷ luật nghiêm minh, tự giác,
Đảng ta sẽ một sức mạnh cùng to lớn: “Sức mạnh địch của Đảng tinh thần kỷ luật
tự giác, ý thức tổ chức nghiêm chỉnh của cán bộ đảng viên” (22). Theo Người, bên cạnh việc
chấp hành nghiêm kỷ luật của Đảng, cần biến kỷ luật thành ý thức và hành động tự giác trong mỗi
người cán bộ, đảng viên.
Đoàn kết, thống nhất trong Đảng: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết thống nhất trong Đảng là
cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh tổng hợp. Người khẳng định:
“Với sự đoàn kết nhất trí và lòng cương quyết quật cường của Đảng, của Chính phủ của toàn
dân, chúng ta nhất định khắc phục được mọi khó khăn để đi đến hoàn toàn thắng lợi” (23).
Người yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên phải bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng: “Đoàn
kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến
các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”
(24). Theo Người, muốn đoàn kết, thống nhất trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường
xuyên nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, tu dưỡng đạo đức cách mạng, “quét sạch chủ nghĩa
cá nhân” và các biểu hiện tiêu cực khác, phải yêu thương lẫn nhau, “sống có tình, có nghĩa”.
Ba là, xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân
Trong một bài viết trên báo Sự thật số 120, ngày 15-10-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng
định:
“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc công
việc của dân.Chính quyền từ đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương
đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” (25).
lOMoARcPSD| 61559320
Như vậy, cách mạng sự nghiệp của nhân dân. Dựa vào dân, gắn mật thiết với nhân dân
điều kiện tồn tại phát triển của Đảng. Mục tiêu lãnh đạo của Đảng chính đem lại những lợi
ích thiết thực cho nhân dân. Muốn vậy, Đảng phải trở thành “người đầy tớ” của nhân dân. Để tăng
cường sự gắn bó giữa Đảng với nhân dân, Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thường xuyên đi
sâu vào đời sống quần chúng nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân nhưng tuyệt đối không được
theo đuổi quần chúng.
Bốn là, quan tâm xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vị trí, vai trò của người cán bộ trong sự nghiệp cách mạng.
Theo Người, “Cán bộ những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho
dân chúng hiểu thi hành, đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho
Chính phủ hiểu rõ, để đặt ra chính sách đúng. Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy,
huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng” (26).
Do đó, theo Người, Đảng ta cần quan tâm tới việc xây dựng, phát hiện và sử dụng cán bộ: “Công
việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. vậy, Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như
người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi
một người có ích cho công việc chung của chúng ta” (27). Tuy nhiên, Người cũng yêu cầu, Khi
cất nhắc một cán bộ, cần phải xét rõ người đó có gần gụi quần chúng, có được quần chúng tin cậy
mến phục không. Lại phải xem người ấy xứng với công việc gì. Nếu người tài mà dùng không
đúng tài của họ, cũng không được việc. Nếu cất nhắc không cẩn thận, không khỏi đem người
bô la la, chỉ nói mà không biết làm, vào những địa vị lãnh đạo. Như thế rất có hại” (28).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra tiêu chí của một người cán bộ tốt, đó là người cán bộ đó phải vừa
đức, vừa có tài. Trong đó, đạo đức là gốc, Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải
có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” (29).
Năm là, thường xuyên chỉnh đốn và đổi mới Đảng
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bởi lẽ, bên cạnh số
đông đảng viên ưu tú, thì vẫn còn không ít đảng viên chưa thật sự trong sạch, vững mạnh. Chỉnh
đốn để gột rửa tất cả những lỗi lầm, sai trái. Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Người căn dặn: “việc
cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ
đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân” (30).
Người cũng từng nhấn mạnh: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại,
sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến ca
ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân” (31).
Người chỉ rõ: “Muốn hoàn thành tốt mọi việc, thì toàn thể đảng viên cán bộ phải chấp hành
nghiêm chỉnh đường lối và chính sách của Đảng. Và muốn như vậy, thì các cấp uỷ đảng phải tăng
cường công tác kiểm tra. kiểm tra tác dụng thúc đẩy giáo dục đảng viên cán bộ làm
trọn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, m gương mẫu tốt cho nhân dân. Do đó góp
phần vào việc củng cố đảng về tư tưởng, về tổ chức”(32).
lOMoARcPSD| 61559320
Trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay, bên cạnh những thời mới, vận hội mới, dân tộc ta
cũng đứng trước không ít những khó khăn, thách thức. Vai trò lãnh đạo của Đảng càng phải được
khẳng định, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng cần được nâng cao hơn bao giờ hết để
xứng tầm với các yêu cầu, nhiệm vụ lịch sử dân tộc giao phó. Đảng cần c định xây dựng
Đảng là nhiệm vụ then chốt, trong đó, quán triệt tưởng Hồ Chí Minh, sẽ góp phần làm cho Đảng
ta trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”, vững vàng trước mọi thử thách của lịch sử./.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh gắn với phát huy sức mạnh, quyền làm chủ của nhân dân - Giá trị và định hướng vận
dụng trong thực tiễn
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Muốn xây dựng Đảng vững mạnh, đủ năng lực lãnh đạo cách mạng Việt Nam thì phải đặc biệt chú
trọng đến việc xác định rèn luyện đội ngũ đảng viên theo các chuẩn mực đạo đức cách mạng.
Chính vậy, trong tác phẩm “Đường Cách mệnh”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt cách của một
người cách mệnh lên ng đầu, theo đó người cách mệnh “phải giữ chủ nghĩa cho vững” “ít
lòng tham muốn về vật chất”. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nhanh chóng chỉ đạo chấn chỉnh những khuyết điểm của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán
bộ giữ cương vị cao trong bộ máy chính quyền non trẻ. Trong “Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ,
tỉnh, huyện và làng”, ngày 17-10-1945, Người đã phê phán, răn đe, cảnh tỉnh một số căn bệnh của
cán bộ nắm chức vụ, quyền hạn trong bộ máy chính quyền các cấp, như trái phép, cậy thế, hủ hóa,
tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo...
Đặc biệt, tháng 10-1947, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, lần đầu tiên Người dùng cụm từ
“việc chỉnh đốn Đảng”, xác định 12 chuẩn mực về tư cách của đảng chân chính cách mạng, định
danh, đúc kết, nhắc nhở: “Muốn cho Đảng được vững bền/ Mười hai điều đó chớ quên điều nào”
(1)
;
nêu rõ phận sự của người đảng viên và cán bộ là: “Trọng lợi ích của Đảng hơn hết... lợi ích của
nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của Đảng. Lợi ích của mỗi bộ phận nhất định phải phục tùng
lợi ích của toàn thể. Lợi ích tạm thời nhất định phải phục tùng lợi ích lâu dài”
(2)
; phải rèn luyện
đạo đức cách mạng - nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Về tự phê bình và phê bình, Người chỉ rõ: “Mục
đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt
hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết thống nhất nội bộ. Vì vậy, phê bình mình cũng như phê bình người
phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt”
(3)
. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra
nhiều thứ bệnh, như chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa nhân, khuynh hướng
tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, bệnh hủ hóa,... Người khẳng định: “Chủ nghĩa
nhân như một thứ vi trùng rất độc, do sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm”
(4)
; vậy, Người
yêu cầu trong chỉnh đốn Đảng phải kiên quyết chống lại “bệnh cá nhân”.
Tháng 5-1952, tại Lớp chỉnh huấn đầu tiên của Trung ương, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Mục
đích chỉnh Đảng là nâng cao tư tưởng và trình độ chính trị của đảng viên và cán bộ, làm cho đảng
viên cán bộ theo đúng quan điểm lập trường sản”
(5)
. Người nhấn mạnh: “Nhưng điều
kiện khó khăn, số đông cán bộ đảng viên chưa được huấn luyện hẳn hoi cho nên tưởng
trình độ chính trị còn thấp kém và lệch lạc. Điều đó tỏ rõ ramỗi khuyết điểm như: không nắm
vững chính sách trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh; không phân biệt ràng bạn địch,
bệnh quan liêu, công thần và nạn tham ô hủ hóa khá nặng,...”
(6)
.
lOMoARcPSD| 61559320
Trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa hội trên miền Bắc sau năm 1954 - một sự nghiệp cách
mạng chưa tiền lệ - Người yêu cầu phải thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng vững mạnh
toàn diện. Trước lúc đi xa, trong Di chúc thiêng liêng, Người căn dặn: “việc cần phải làm trước
tiên chỉnh đốn lại Đảng”
(7)
. Năm 1961, Đảng ta mở cuộc vận động chỉnh huấn mùa Xuân
(8)
,
mục đích là xây dựng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân lao động tinh thần làm chủ, tinh
thần tập thể xã hội chủ nghĩa, hiểu nhiệm vụ sản xuất và tiết kiệm trong giai đoạn mới; phê phán
chủ nghĩa nhân, tham ô, lãng phí, tác phong quan liêu, mệnh lệnh, bảo thủ, rụt rè. Sau đó, Bộ
Chính trị tiếp tục có Chỉ thị “Về cuộc vận động chỉnh huấn mùa Xuân năm 1965”
(9)
, nhằm làm cho
đội ngũ cán bộ, đảng viên đoàn viên, thanh niên lao động, trên sở nhận thức nh hình,
nhiệm vụ và yêu cầu của cách mạng, để nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, phê phán những
biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân.
Trong Di chúc, Người cũng đề ra những yêu cầu cơ bản về đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên,
xuất phát từ bản chất cách mạng của Đảng, từ mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân:
“Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách
mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”
(10)
.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy sức mạnh, quyền làm chủ của nhân dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - -nin hình thành nên tư
tưởng độc đáo về dân vận, chú trọng phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp
cách mạng của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Dân gốc của nước, sở của mọi thắng
lợi, là lực lượng tạo ra mọi của cải vật chất, tinh thần. Người cho rằng: “Nước lấy dân làm gốc”;
“Gốc vững cây mới bền/ Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”
(11)
. Theo Người, biểu hiện của
dân là gốc là phải tin ở nhân dân, gần gũi với nhân dân, kính trọng nhân dân và biết dựa vào nhân
dân, phải nhận thức rõ, dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng. Vì vậy, chúng ta phải
học dân chúng, phải hỏi dân chúng, phải hiểu dân chúng; “có lực lượng dân chúng việc to tát mấy,
khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc làm cũng không xong. Dân chúng biết giải
quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn
thể to lớn, nghĩ mãi không ra”
(12)
. Người tâm đắc với câu nói dân gian: “Dễ mười lần không dân
cũng chịu/ Khó trăm lần dân liệu cũng xong”
(13)
. Không chỉ nhận thức vai trò, sức mạnh của
quần chúng nhân dân, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ, sức mạnh của nhân dân chỉ được phát
huy đầy đủ khi có một đảng cách mạng lãnh đạo; Người khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý
bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Trong xã hội
không tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân”
(14)
. Khi sức dân được huy
động, được tổ chức, được tập hợp dưới sự lãnh đạo của Đảng thì trở thành sức mạnh vô địch.
Trong tác phẩm “Dân vận” đăng trên báo Sự thật, số 120, ngày 15-10-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh
một lần nữa nhấn mạnh về bản chất dân chủ của chế độ, về nguyên tắc hoạt động của chính quyền
cách mạng - tiền thân của Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người khẳng định: “NƯỚC TA
NƯỚC DÂN CHỦ. Bao nhiêu lợi ích đều dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc
đổi mới, xây dựng trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc công việc của dân.
Chính quyền từ đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do
lOMoARcPSD| 61559320
dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành lực lượng đều nơi dân”
(15)
. Người đặc biệt nhấn
mạnh đế#n trọ#ng trá#ch lịch sử của Đả#ng, tí#nh tiề#n phong gương mẫ#u trách nhiệm của
đội ngũ cán bộ, đả#ng viên trước Đảng, trước nhân dân. Bởi như Người từng chứng kiến, dự báo,
nhắc nhở: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn,
không nhất định hôm nay ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không
trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”
(16)
.
Chê độ dân chủ của nước ta được xác lập ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành
công. Các quy định của Hiến pháp Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên năm 1946 do Người chỉ
đạo về bầu cử tự do, phổ thông đầu phiếu
(17)
, về quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân đã thể hiện
rất nét tinh thần dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân, coi nhân dân người chủ thực sự của
đất nước; đặc biệt là, rất chú trọng đến quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân. Kế thừa và phát huy
tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, phát huy sức mạnh, quyền làm chủ của nhân dân, qua mỗi kỳ
đại hội của Đảng, vấn đdân chủ ngày càng được nhận thức, phát triển hoàn thiện hơn, phù
hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước trong tình hình mới.
Thực tiễn xây dựng, chỉnh đốn Đảng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh gắn với
phát huy sức mạnh, quyền làm chủ của nhân dân theo tưởng Hồ Chí Minh trong thời gian
qua
Hơn 92 năm qua, Đảng ta đã xác lập, củng cố ngày càng nâng cao vai trò lãnh đạo, sức mạnh
uy tín của mình bằng đường lối đúng đắn mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho nhân dân, cho
đất nước; bằng mối liên hệ mật thiết với nhân dân, được nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ và bảo
vệ. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng có vai trò đặc biệt quan trọng, ý nghĩa sống còn đối với
Đảng và chế độ, luôn được Đảng ta xác định là nhiệm vụ then chốt, thường xuyên, liên tục, xuyên
suốt các thời kỳ cách mạng.
Từ khi bước vào công cuộc đổi mới, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, như Hội nghị Trung ương 3 khóa VII năm 1992, về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn
Đảng; Hội nghị Trung ương 6 lần 2 khóa VIII năm 1999, về một số vấn đề bản cấp bách
trong công tác xây dựng Đảng hiện nay,... Chỉ tính riêng trong 10 năm gần đây, ngay từ đầu mỗi
nhiệm kỳ, qua các Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII, Đảng đều ban hành các nghị quyết,
kết luận, quy định hết sức quan trọng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; lần sau sâu sắc, toàn
diện và cụ thể, rõ ràng hơn so với lần trước
(18)
; đặc biệt là, việc thành lập, bổ sung, hoàn thiện chức
năng, nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, đã tạo sự chuyển biến
tích cực, nét trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh, được nhân dân đồng tình, ủng hộ, góp phần rất quan trọng vào việc thực hiện nhiệm vụ
chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh hội nhập quốc tế
sâu rộng, hiệu quả của đất nước.
Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Điều 4 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam Đội
tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân
tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh
lOMoARcPSD| 61559320
đạo Nhà nước và xã hội”
(19)
. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là tiền đề quan trọng chi phối
tính chất, mục tiêu, nhiệm vụ, hiệu quả xây dựng hệ thống chính trị; đồng thời, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động các quan, tổ chức của hệ thống chính trị minh chứng khẳng định năng
lực, uy tín, vai trò lãnh đạo, vị thế của Đảng ta với tư cách là đảng cầm quyền. Năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của Đảng thể hiện qua việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất
lượng, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Trước
yêu cầu mới, Đại hội XIII của Đảng đã phát triển thành tố “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh” của Đại hội XII thành “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh”.
Chủ trương dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng hệ thống chính trị chủ trương
xuyên suốt, nhất quán của Đảng ta ngay từ khi mới thành lập, được nhấn mạnh và cụ thể hóa hơn
nữa trong bối cảnh hiện nay. Trong các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của Kết luận Hội nghị Trung
ương 4 khóa XIII đã nhấn mạnh: “Phát huy vai trò, trách nhiệm của cácquan dân cử, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - hội; thực sự dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh
đốn Đảng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”
(20)
; theo đó, việc phát huy thực chất quyền
làm chủ của nhân dân, nhằm tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tích cực, chủ động tham gia công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị là yêu cầu khách quan; thể hiện và bảo đảm
nét bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Nhận thức điều đó, Đảng ta luôn quán triệt, nhấn
mạnh chủ trương dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng; coi đó là nhiệm vụ quan trọng
trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Hiện nay, quan điểm của Đảng ta là gắn xây dựng,
chỉnh đốn Đảng với xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị; dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh
đốn Đảng cũng dựa vào nhân dân đxây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội; qua đó, góp phần thực hiện tốt và có
hiệu quả cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ”.
Như vậy, nội dung của Văn kiện Đại hội XIII và Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII của Đảng, với
chủ trương dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng được thể hiện cụ thể, rõ ràng hơn ở hai khía cạnh
cơ bản sau:
Thứ nhất, Đảng dựa vào nhân dân, phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; theo đó, nhân dân trực tiếp phản ánh, góp ý với cấp ủy về công tác cán bộ, chủ trương,
đường lối của Đảng. Nhân dân có quyền đóng góp ý kiến, kiến nghị đối với tổ chức đảng và chính
quyền, khi phát hiện những yếu kém, khuyết điểm của tổ chức và cá nhân cán bộ, đảng viên, nhất
phát hiện những hành vi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”; đồng thời, nhân dân
tích cực tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng thông qua hoạt động đối thoại, cán bộ lãnh đạo tiếp
công dân, tiếp nhận kịp thời xử đơn, thư khiếu nại, tố cáo, nhất những vấn đề liên quan
đến đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, các tổ tự quản của nhân dân
sở, hoạt động của ban thanh tra nhân dân, các tổ giám sát đầu cộng đồng cũng những hình
thức quan trọng để nhân dân có thể tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh.
Thứ hai, ngoài việc tham gia trực tiếp, nhân dân ng gián tiếp tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng
thông qua hoạt động của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp và các đại biểu do nhân dân bầu,
thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Đồng thời, thông qua hoạt
lOMoARcPSD| 61559320
động của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp để phản ánh những tâm tư, nguyện vọng hợp pháp,
chính đáng của nhân dân, nhằm tháo gỡ về mặt chế, chính sách, pháp luật; bàn bạc, thảo luận
công khai biện pháp xử phù hợp; qua đó, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội
các cơ quan dân cử được nâng lên. Thông qua hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - hội để mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân thể tham gia giám sát hoạt động
của cơ quan, tổ chức đảng trong việc thực hiện nhiệm vụ theo đúng chức năng, quyền hạn của cơ
quan, đơn vị mình; tham gia giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là những đảng viên có chức,
có quyền, những người công tác ở các lĩnh vực “nhạy cảm” dễ nảy sinh vi phạm, tiêu cực,...
Qua hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã
nhiều lần khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn thể nói rằng: Đất nước ta chưa
bao giờ được đồ, tiềm lực, vị thế uy tín quốc tế như ngày nay”
(21)
. được kết quả đó,
chính là do Đảng ta đã biết kế thừa, phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân trong công cuộc
xây dựng bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam hội chủ nghĩa, cũng như trong xây dựng,
chỉnh đốn Đảng hiện nay. tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò, sức mạnh của quần
chúng nhân dân được Đảng và Nhà nước tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa thông qua các cương lĩnh
chính trị, nghị quyết đại hội, chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước.
chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” tiếp tục được hoàn thiện, cụ thể
hóa.
Các cấp ủy, chính quyền đã đẩy mạnh việc thực hiện công tác dân vận, gắn với tăng cường và mở
rộng thực hành dân chủ, góp phần phát huy vai trò, tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân trong
tham gia bàn bạc những công việc của Đảng, Nhà nước. Các hình thức góp ý với Đảng giám
sát đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng được chú trọng; công tác đối thoại, tiếp công dân, xử
đơn, thư khiếu nại, tố cáo và những kiến nghị, nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của nhân dân,
doanh nghiệp được quan tâm, chỉ đạo thực hiện. Nhiều vụ, việc tiêu cực, các biểu hiện vi phạm
đạo đức công vụ, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực do các quan báo chí, mạng hội phát hiện,
phản ánh, lên án, được các quan chức năng nhanh chóng vào cuộc kiểm tra, xử lý nghiêm minh,
đúng pháp luật. Các cuộc vận động nhân dân tham gia đóng góp ý kiến xây dựng chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nnước được thực hiện hiệu quả, đặc biệt
việc lấy ý kiến của nhân dân về xây dựng Hiến pháp năm 2013, dự thảo các văn kiện đại hội đảng
các cấp, dự thảo Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, đã trở thành các đợt sinh hoạt chính trị rộng
khắp trên cả nước.
Tuy nhiên, việc phát huy vai trò, trách nhiệm, sức mạnh của nhân dân trong xây dựng, chỉnh đốn
Đảng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh vẫn còn những khó khăn, hạn chế. Trong nội
bộ một số cấp ủy, tổ chức đảng có những vụ, việc được nhân dân nêu n, nhưng chưa được ngăn
chặn, xử lý kịp thời hoặc giải quyết không hợp lý, thậm chí còn có hiện tượng bao che. Việc giám
sát, đóng góp ý kiến của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị
- xã hội ở một số nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao, như có đặt hòm thư góp ý ở
quan, đơn vị, nhưng nhận được rất ít hoặc không nhận được ý kiến đóng góp, kiến nghị của nhân
dân; việc tổ chức để đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tham gia đóng góp ý kiến cho cấp ủy,
tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viênlúc còn mang tính hình thức, nhận xét góp ý chung
chung hoặc chỉ ca ngợi một chiều, vì ngại va chạm, “dĩ hòa vi quý”.
lOMoARcPSD| 61559320
Việc tiếp nhận, xử lý ý kiến, kiến nghị của nhân dân ở một số cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan chính
quyền còn chưa nghiêm túc, dẫn đến việc xảy ra khiếu kiện đông người, vượt cấp và kéo dài, nhất
là trong lĩnh vực quản lý đất đai, đền giải phóng mặt bằng, thu hồi, sử dụng đất. Bên cạnh đó,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tổ chức chính trị - hội một số nơi chưa làm tốt vai trò
chỗ dựa để nhân dân thực hiện phê bình, góp ý và giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên. Các cấp ủy,
tổ chức đảng chưa hình thành được nhiều diễn đàn để nhân dân góp ý thường xuyên; thiếu các quy
trình, cách thức tiếp thu, xử lý thông tin, nhằm phục vụ công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất một số
người có chức, có quyền, làm việc ở những ngành, lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực, do
thiếu tu dưỡng và rèn luyện, nên sa vào chủ nghĩa cá nhân, vi phạm các quy định của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, dẫn đến bị xử lý kỷ luật của Đảng và truy tố trước pháp luật. Cơ chế kiểm soát
quyền lực chế tài xvi phạm nhiều lĩnh vực còn hạn chế, thực hiện chưa nghiêm. Hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - hội cùng với nhân dân thực hiện
giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện của đội ngũ cán bộ, đảng viên một số nơi chưa đạt hiệu quả
cao; chưa phát huy đầy đủ sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong việc bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch,...
Một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính tr
trong sạch, vững mạnh gắn với phát huy sức mạnh, quyền làm chủ của nhân dân trong tình
hình mới
Một là, các cấp ủy, chính quyền và cả hệ thống chính trị tiếp tục quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh,
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân vận; về thực
hành dân chủ gắn với phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh. Kịp thời thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về công tác
dân vận, phát huy dân chủ thành chính sách, pháp luật phù hợp với thực tiễn đáp ứng đầy đủ
lợi ích, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Thực hành dân chủ rộng rãi, từng bước
hoàn thiện nền dân chủ hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ từ trong Đảng đến dân chủ ngoài
hội được thực hiện ở các cấp, các ngành, các lĩnh vực. Đặc biệt, tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa
chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” phương châm “Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Thực hiện tốt Quy chế
Dân chủ ở cơ sở ở các loại hình theo Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18-2-1998, của Bộ Chính trị, “Về
xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở” và Kết luận số 120-KL/TW, ngày 7-12016, của
Bộ Chính trị, về “Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng thực hiện
Quy chế Dân chủ ở cơ sở”; nghiên cứu khả năng xây dựng, ban hành Luật về thực hành dân chủ
cơ sở.
Củng cố phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; mối quan hệ gắn mật thiết
giữa Đảng với nhân dân; tạo sự đồng thuận hội rộng lớn dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản
lý, điều hành của Nhà ớc. Tăng cường tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng hợp
pháp, chính đáng của nhân dân; chăm lo đầy đủ đời sống, lợi ích chính đáng của nhân dân; lấy kết
quả công việc, sự hài lòng tín nhiệm của người dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất
lượng tổ chức bộ máy và chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
lOMoARcPSD| 61559320
Hai là, thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng một cách toàn diện, để Đảng ta
luôn là lực lượng tiên phong trong bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân và của cả dân
tộc. Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường phê phán, bảo đảm kỷ luật trong Đảng kỷ cương
trong xã hội; tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết, kiên trì và thường xuyên
đấu tranh phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thoái về tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, nhân
dân gắn với tăng cường cải cách hành chính, giảm phiền cho nhân n; quan tâm, lắng nghe,
giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc, kiến nghị, phản ánh chính đáng của nhân dân. Đẩy
mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, tiêu cực; làm trong sạch bộ
máy của Đảng, Nhà nước và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn và xử
kịp thời, nghiêm minh, dứt điểm các vụ, việc tham nhũng, tiêu cực, nhằm củng cố lòng tin của
nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ba là, thực hành dân chủ rộng rãi, trước hết là dân chủ trong Đảng. Phát huy dân chủ được coi
một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu để nhân dân có thể tham gia hiệu quả trong việc xây
dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; đồng thời, tập trung xây dựng
chế phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đảng,
Nhà nước ta luôn xác định “dân là gốc”, luôn tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, luôn kiên trì thực hiện đúng phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra,
dân giám sát, dân thụ hưởng”. Triển khai các diễn đàn, tạo các kênh thông tin, như báo chí, hội
nghị, hội thảo, tọa đàm, các trang mạng hội,... để thu thập ý kiến đóng góp trực tiếp của nhân
dân về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là công tác cán bộ, gắn với quy chế làm việc, quy
trình công tác.
Bốn là, đẩy mạnh tuyên truyền, vận động để mỗi người dân nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm của
mình trong việc tham gia góp ý xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; coi đây là nghĩa
vụ, thể hiện lòng yêu nước, gắn với bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của bản thân, gia
đình và xã hội. Thực hiện quy trình công khai kết quả tiếp thu, xử lý thông tin do nhân dân góp ý,
cung cấp trực tiếp; coi đó là sợi dây liên kết, duy trì mối quan hệ mật thiết, không ngừng củng cố
lòng tin của nhân dân với Đảng, đồng thời cũng phải thẳng thắn sàng lọc, từ chối những ý kiến
góp ý thiếu tinh thần xây dựng; kiên quyết, kiên trì đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái
của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị. Thực hiện triệt để và có hiệu quả chủ
trương, đường lối trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng với phương châm thực hành phát
huy rộng rãi dân chủ hội chủ nghĩa, quyền làm chủ vai trò chủ thể của nhân dân; phương
châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, thực hiện đúng
đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt dân chủ sở. Hoàn thiện chế
tiếp thu góp ý trực tiếp của nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm u đậm thêm mối quan
hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân, thể hiện rõ quan điểm “dân là gốc” của Đảng ta.
Năm , tăng cường công khai, minh bạch việc dựa vào nhân dân để kiểm tra, giám sát, đánh giá
việc thực hiện công tác cán bộ; trong đó, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức của Đảng, Nhà nước hệ thống chính trị vừa đức, vừa tài; bảo đảm phẩm chất
chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và phương pháp, tác phong công tác;
xứng đáng người lãnh đạo, đầy tớ trung thành của nhân dân, nói đi đôi với làm, “tin dân, trọng
lOMoARcPSD| 61559320
dân, gần dân, hiểu n, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân”. Phát huy vai trò gương
mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu. Nâng cao cảnh
giác, chống các khuynh hướng mị dân, kích động nhân dân trước những hiện tượng tiêu cực. Kiên
quyết phê phán, đấu tranh với biểu hiện thờ ơ, vô cảm, quan liêu, nhũng nhiễu người dân và doanh
nghiệp.
Sáu là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tổ chức chính trị - hội phải thực sự “gần
dân”, “sát dân”, cầu nối giữa nhân dân với Đảng, đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tạo điều kiện để nhân dân thực hiện các quyền dân chủ đại diện và
dân chủ trực tiếp trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu luận, phát triển vận dụng sáng tạo tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay./.
Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác xây dựng Đảng và sự vận dụng của
Đảng ta trong bối cảnh hiện nay
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên
chăm lo xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh. Tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng Đảng sự vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - -nin về xây dựng
đảng kiểu mới của giai cấp công nhân vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam; chứa
đựng những giá trị sâu sắc, bền vững, tiếp tục định hướng cho công tác xây dựng Đảng hiện
nay.
15 năm sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 thành công. Từ đây, Đảng ta trở thành đảng cầm quyền duy nhất lãnh
đạo Nhà nước hội. Tuy nhiên, trong nội bộ của Đảng đã bắt đầu xuất hiện một số cán bộ,
đảng viên biểu hiện quan liêu, hủ hóa, tham ô, lãng phí,... đặc biệt xuất hiện những “quan
cách mạng” sa vào chủ nghĩa cá nhân. Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời đề ra
nhiều chủ trương, biện pháp quan trọng nhằm p phần chấn chỉnh những biểu hiện trên của cán
bộ, đảng viên. Một tháng sau ngày đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”, Người đã viết thư gửi các đồng
chí tỉnh Nghệ An ngày 17-9-1945; trong đó đã chỉ rõ những khuyết điểm của cán bộ, đảng viên và
chính quyền ở các địa phương, cũng như vạch rõ phương hướng để khắc phục những khuyết điểm
đó. Ngày 17-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục gửi thư cho ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh,
huyện và làng, chỉ ra sáu lỗi lầm rất nặng nề của cán bộ cần sửa chữa là: trái phép, cậy thế, hủ hóa,
túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Ngày 18-1-1949, nói chuyện tại buổi bế mạc Hội nghị cán bộ của Đảng
lần thứ sáu, Người khẳng định, cần phải “Chấn chỉnh bộ máy chính quyền từ dưới lên trên”, “Chỉnh
đốn các đoàn thể quần chúng” và “Muốn làm được những việc trên, trước hết phải chỉnh đốn nội
bộ Đảng”(1).
Tháng 10-1947, với bút danh X.Y.Z., Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm Sửa đổi lối làm
việc” để tăng cường xây dựng Đảng, làm trong sạch bộ máy nhà nước. Nội dung trong cuốn sách
hướng tới bồi đắp cho cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị, niềm tin; rèn luyện phẩm chất đạo đức
cách mạng; nâng cao tinh thần đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và những “căn bệnh” phát sinh
từ chủ nghĩa nhân; n luyện phương pháp lãnh đạo gần dân, trọng dân, thương dân, hết lòng,
lOMoARcPSD| 61559320
hết sức vì hạnh phúc của nhân dân, phấn đấu trở thành người chiến cách mạng chân chính. Trước
lúc đi xa, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn Đảng ta: “Ngay sau khi cuộc chống Mỹ,
cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi,... việc cần phải làm trước tiên chỉnh đốn lại
Đảng”(2).
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng chứa đựng những nội dung rất quan trọng, mang giá trị
định hướng sâu sắc, tác động sâu rộng sức lan tỏa to lớn, để lại nhiều bài học quý báu đối
với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, cụ thể là:
Thứ nhất, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là việc làm thường xuyên, liên tục của Đảng.
Sự lãnh đạo của Đảng tất yếu ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Vai trò lãnh đạo của Đảng, yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng đối với Đảng đặt ra yêu cầu
phải xây dựng Đảng, vừa để bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo, vừa giúp cho việc thực hiện vai
trò đó một cách hiệu quả nhất.
Chủ tịch Hồ CMinh nhận thấy, cách mạng luôn chuyển biến theo hướng đặt ra yêu cầu nội
dung ngày càng cao, nhiệm vụ ngày càng nặng nề, phức tạp; thế, cần xây dựng Đảng để Đảng
không bị tụt hậu trước những chuyển biến đó. Thực tiễn đấu tranh cách mạng cho thấy, khi Đảng
ta không giữ được bản chất cách mạng của mình, không thật sự vững vàng về chính trị, tưởng
và tổ chức; không trong sạch về đạo đức, không được quần chúng nhân dân ủng hộ, thì không thể
đứng vững và không đủ sức lãnh đạo đưa đất nước đi lên. Chính vì vậy, công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng một nội dung quan trọng, nhiệm vụ thường xuyên của Đảng ta. Đặc biệt, trong
những bước ngoặt của cách mạng, việc tự chỉnh đốn, tự đổi mới của Đảng là nhiệm vụ then chốt,
có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhu cầu tự hoàn thiện
của Đảng, là nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Vì sao phải
chỉnh huấn? cán bộ ta lập trường chưa vững chắc, tưởng chưa thông suốt. Do đó mắc
nhiều khuyết điểm như: Chưa hiểu đường lối cách mạng dân tộc - dân chủ; chưa nắm được vững
chính sách trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh. Chưa phân biệt ràng ai là thù, ai bạn (trên
thế giới, trong nước và trong bản thân mình). Vì vậy mà mắc nhiều bệnh. Chủ nghĩa cá nhân, đặt
lợi ích riêng của mình, của gia đình mình lên trên, lên trước lợi ích chung của dân tộc. Đó là bệnh
chính, bệnh mẹ, do đó mà sinh ra nhiều chứng bệnh khác, như: Tự tư tự lợi, sợ khó, sợ khổ; Không
yên tâm công tác. Ham địa vị danh tiếng; Lãng phí, tham ô. Quan liêu, mệnh lệnh,...”(3).
Thứ hai, xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được tiến hành đồng bộ, là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng, chỉnh đốn Đảng cần phải được tiến hành đồng bộ trên cả
bốn mặt: Chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Bốn nội dung đó mối quan hệ mật thiết, gắn
bó; trong đó, xây dựng Đảng về đạo đức đóng vai trò nền tảng. Trong tưởng Hồ CMinh,
nội dung xây dựng Đảng về đạo đức phải mang tính toàn diện, thể hiện trong tất cả hoạt động trên
các mặt công tác của Đảng; đồng thời, đạo đức của Đảng được thể hiện cụ thể, chân thực, nét
qua phẩm chất đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên. Do vậy, xây dựng Đảng về đạo đức trước hết
là xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, cho tổ chức đảng. Đối với cán
bộ, đảng viên, những chuẩn mực cần đạt được là tuyệt đối trung với nước, hiếu với dân, kiên định
lOMoARcPSD| 61559320
lý tưởng của Đảng, là “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”; giàu tinh thần nhân ái, yêu thương
con người, có tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, có bản lĩnh chống lại chủ nghĩa cá nhân,...
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn khẳng định, để công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng mang lại hiệu quả,
thì cần phát huy tốt vai trò của cả hệ thống chính trị, nhất phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Muốn vậy, Đảng phải thường xuyên làm
tốt công tác giáo dục chính trị, tưởng, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên; tăng cường
tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Người chỉ rõ: “Giữ chặt mối
liên hệ với dân chúng luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó nền tảng lực lượng
của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi. Vì vậy, cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân
chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”(4).
Thứ ba, xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được tiến hành chặt chẽ theo các nguyên tắc xây dựng
Đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác - -nin.
Để Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một tổ chức chặt chẽ, thống nhất mạnh mẽ, một đảng
mác-xít chân chính, thì Đảng phải được xây dựng theo những nguyên tắc đảng kiểu mới của giai
cấp công nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ thấm nhuần và vận dụng sáng tạo nguyên tắc tập
trung dân chủ trong tổ chức xây dựng một đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác - -nin, Người
còn bổ sung, phát triển, làm sáng tỏ bản chất của các thành tố trong nguyên tắc mối quan hệ
biện chứng của chúng vào thực tiễn xây dựng Đảng Việt Nam. Trong tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức chặt chẽ theo năm nguyên tắc bản: 1- Nguyên tắc tập
trung dân chủ; 2- Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, nhân phụ trách; 3- Nguyên tắc tự phê bình
phê bình; 4- Nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự giác; 5- Nguyên tắc đoàn kết, thống nhất trong
Đảng. Trong đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tập trung dân chủ nguyên tắc tchức sinh hoạt đảng.
Người giải thích: “Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung. Nghĩa là: Đảng chương
thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn thể, số
ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung
ương”(5). Nguyên tắc này bảo đảm cho mục tiêu quan trọng Đảng tuy nhiều người, nhưng khi
tiến đánh thì chỉ như một người. Trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tập trung và dân chủ
không đối lập nhau, có sự gắn bó mật thiết với nhau. Người chỉ ra rằng, tập trung trên nền tảng
dân chủ dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung, nếu không tập trung thì dân chủ sđi đến tổ
chức, nếu không có dân chủ thì tập trung sẽ dẫn đến độc đoán, chuyên quyền.
Đặc biệt là, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự phê bình phê bình thang thuốc hay nhất, quy
luật phát triển của Đảng. Để tự phê bình và phê bình trong Đảng thực sự có hiệu quả, Chủ tịch Hồ
Chí Minh nhấn mạnh, phải tiến hành thường xuyên, nghiêm chỉnh như việc rửa mặt mỗi ngày;
phải xuất phát từ tình đồng chí thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, lý, tình, không phải để xoi
mói, nói xấu nhau, đập cho tơi bời; phải phê bình việc, chứ không phê bình người; phải bảo đảm
dân chủ, từ dưới lên từ trên xuống. Người đặc biệt coi trọng vai trò nêu gương của những cán
bộ, đảng viên giữ cương vị lãnh đạo, quản lý, theo tinh thần “một tấm gương sống còn giá trị
hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(6). Tiến hành tự phê bình pbình phải nhằm đến
mục tiêu đoàn kết hơn, đoàn kết trên cơ sở mới; không chỉ đúng, mà còn phải khéo.
lOMoARcPSD| 61559320
Thứ tư, Đảng ta kế thừa vận dụng giá trị tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong quá
trình hơn 35 năm đổi mới.
Thấm nhuần tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, hơn 92 năm qua, kể từ khi
Đảng ta ra đời cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chăm lo công tác xây dựng Đảng; qua
đó, giữ vững vị trí, vai trò của mình, lãnh đạo nhân dân vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách,
giành được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định
thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả đạt được trong những năm qua, Đảng ta đang đứng trước nhiều hội thách
thức mới đan xen nhau. Do đó, để nâng cao vị trí, vai trò của Đảng, từ Đại hội VI của Đảng đến
nay, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành 9 nghị quyết, Bộ Chính trị đã ban hành 6 nghị
quyết chuyên đề về xây dựng Đảng. Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16-1-2012, của Hội nghị
Trung ương 4 khóa XI, “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” chỉ rõ, một bộ phận
cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, với những biểu hiện khác nhau
về sự phai nhạt tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hội, thực dụng, chạy theo danh lợi
tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện nguyên tắc. Tình trạng đó gây
nên sự bất bình lo lắng trong nhân dân, làm giảm t lòng tin của nhân dân đối với Đảng,
nguy cơ đe dọa trực tiếp đến sự sống còn của Đảng, của chế độ. Chính vì vậy, làm tốt công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng đang là vấn đề cấp bách, bức thiết hiện nay đối với Đảng. Tổng kết 30 năm
đổi mới, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh”(7).
Kế thừa tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tại Đại hội XII của Đảng, nội dung xây dựng Đảng
về đạo đức được đưa thành nội dung riêng, cùng với chính trị, tưởng và tổ chức trở thành một
trong bốn nội dung của công tác xây dựng Đảng. Thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và
Chương trình làm việc toàn khóa, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 04/NQ-
TW, ngày 30-10-2016, “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội
bộ”. Nghị quyết này đã thể hiện ý chí, quyết tâm chính trị rất cao của Đảng ta đối với công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện mới.
Từ tổng kết thực tiễn thực hiện công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng,
cũng như trong suốt quá trình phát triển của Đảng, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong các
văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã nhiều điểm mới, thể hiện bước phát triển mới trong nhận
thức của Đảng ta về công tác xây dựng Đảng. Chủ đề Đại hội XIII của Đảng đã thể hiện rất rõ việc
nhận thức xây dựng Đảng một cách toàn diện trên các mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức
cán bộ; nhận thức sâu sắc hơn mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng Đảng chỉnh đốn Đảng.
Xây dựng Đảng và chỉnh đốn Đảng được tiến hành đồng thời và đan xen nhau; xây dựng Đảng là
nhiệm vụ thường xuyên, trọng tâm, chỉnh đốn Đảng tập trung vào các vấn đề quan trọng cấp
bách. Xây dựng gắn với chỉnh đốn Đảng tức là vừa củng cố nền tảng vững chắc, vừa đột phá vào
những vấn đề khó, phức tạp, nhạy cảm; kịp thời uốn nắn những sai lầm, lệch lạc, bảo đảm định
hướng xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam “là đạo đức, là văn minh”, xứng đáng đại diện của
lương tri, danh dự, trí tuệ của dân tộc, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh.
lOMoARcPSD| 61559320
Có thể khẳng định rằng, những thành tựu nổi bật về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong thời
kỳ đổi mới bắt nguồn từ việc nhận thức đúng đắn và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm
quyền trong thực tiễn. Trên cơ sở nhận thức sâu sắc hơn giá trị nền tảng của tư tưởng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh nắm bắt đầy đủ những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn, Đại hội XIII của Đảng đã
nêu ra những vấn đề cốt lõi và những điểm mới mang tính đột phá trong công tác xây dựng Đảng.
Theo đó, từ đường lối, chủ trương và quyết tâm chính trị rất cao của toàn Đảng, mỗi cán bộ, đảng
viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu các cấp, cần quán triệt một cách đầy đủ và khoa học,
góp phần quan trọng trong việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước bằng những hành động cụ thể, thiết thực trong công việc, trong sinh hoạt, trong ứng
xử với nhân dân. như vậy, Đảng ta mới phát huy tốt vai trò cầu nối đưa tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh thấm sâu vào cuộc sống; qua đó, tiếp tục khẳng định và vận dụng sáng tạo, phát
triển nền tảng tưởng của Đảng đáp ứng yêu cầu thực tiễn cách mạng Việt Nam đang đặt ra
hiện nay./.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61559320
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng của Người về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
trong sạch, vững mạnh, để Đảng xứng đáng “là đạo đức, là văn minh” chiếm một vị trí đặc biệt
quan trọng. Việc vận dụng tư tưởng của Người vào công tác xây dựng Đảng hiện nay sẽ góp phần
to lớn vào công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh. Xây dựng Đảng chính là yêu cầu
để Đảng tồn tại và phát triển.
Trong Bài nói tại lớp chỉnh huấn đầu tiên của Trung ương (ngày 11-5-1952), Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ ra rằng “vì điều kiện khó khăn, mà số đông cán bộ và đảng viên chưa được huấn luyện
hẳn hoi cho nên tư tưởng và trình độ chính trị còn thấp kém và lệch lạc. Điều đó tỏ rõ ra ở mỗi
khuyết điểm như: không nắm vững chính sách trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh; không
phân biệt rõ ràng bạn và địch, bệnh quan liêu, công thần và nạn tham ô hủ hóa khá nặng,

v.v… (1). Từ đó có thể thấy, xây dựng Đảng là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng viên tự rèn luyện, giáo
dục và tu dưỡng, ngày một tiến bộ hơn, trở thành người cách mạng chân chính.
Trước lúc đi xa, trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, Người căn dặn: “Đảng ta là một
Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự
cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người
lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”
(2). Câu nói đó, Bác đã đưa ra yêu cầu
cơ bản về đạo đức của cán bộ, đảng viên và yêu cầu xuất phát từ bản chất cách mạng của Đảng ta,
từ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. Đất nước đã đạt được
nhiều thành tựu rất to lớn, đồng thời đang phải đối mặt với không ít khó khăn, nguy cơ, thách thức.
Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong Đảng, bộ máy Nhà nước vẫn đang
diễn ra nghiêm trọng chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Đây là một vấn đề gây nhức nhối trong xã
hội, là một trong những nguy cơ tiềm ẩm đe doạ thắng lợi của sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo
của Đảng, Nhà nước ta.
Hội nghị Trung ương 4 khóa XI đã đề ra nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách hiện nay về xây dựng
Đảng”. Nghị quyết chỉ rõ: “Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác xây dựng đảng còn
không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ
chậm khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ
là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”
(3). Cùng với đó là
lời khẳng định: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo
đức, lối sống, phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, tham nhũng lãng phí,
tùy tiện vô nguyên tắc”
(4).
Những nội dung trong công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam mà Người đề ra, nếu được toàn
Đảng, toàn dân, đặc biệt là những người cán bộ, đảng viên nghiên cứu và học tập chắc chắn sẽ góp
phần quan trọng trong việc làm cho toàn Đảng trở thành một khối thống nhất về nhận thức và tư
tưởng, làm cơ sở cho sự thống nhất về hành động, đủ sức lái con thuyền cách mạng Việt Nam tiến
về phía trước, vượt qua được những khó khăn thử thách đó.
Một là, Xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận: Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lê-nin làm nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động lOMoAR cPSD| 61559320
Mở đầu tác phẩm Đường cách mệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn luận điểm nổi tiếng của V. Lê-
nin: “Không có lý luận cách mệnh thì không có cách mệnh vận động... Chỉ có theo lý luận cách
mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong”
(5). Trong tác
phẩm Sửa đổi lối làm việc (năm 1947), Người viết:“Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương
hướng cho chúng ta trong công tác thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”

(6). Như vậy, bên cạnh việc khẳng định Cách mạng Việt Nam “trước hết phải có Đảng cách mệnh”
(7), Người còn muốn nhắc đến một điều đặc biệt quan trọng: dẫn đường cho mọi hoạt động của
cách mạng đều cần thiết phải có một học thuyết, một chủ nghĩa cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhấn mạnh: “Có lý luận soi đường thì quần chúng hành động mới đúng đắn, mới phát hiện được
tài năng và lực lượng vô cùng tận của mình”
(8).
Trong các bài giảng huấn luyện cho cán bộ cách mạng từ năm 1925 đến năm 1927 (sau được in
thành tác phẩmĐường cách mệnh) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có
chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng
như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”
(9). Nhưng, Người cũng phát hiện ra
rằng “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính, chắc chắn nhất,
cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin”
(10).
Có chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng, soi đường, dẫn lối, Đảng đã đạt được những
mục tiêu nhất định, đã lãnh đạo được giai cấp công nhân thực hiện được xứ mệnh lịch sử của mình,
đưa dân tộc ta vượt qua những khúc quanh của lịch sử, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong bài Chủ nghĩa Lê-nin và công cuộc giải phóng các dân tộc bị áp bức (tháng 4-1955), Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Lê-nin đã để lại cho chúng tôi một kho tàng quý báu vô ngần:
học thuyết của Người về cơ sở tư tưởng, về những nguyên tắc tổ chức, về lý luận và sách lược của
đảng cách mạng. Chủ nghĩa Lê-nin là lực lượng tư tưởng hùng mạnh chỉ đạo Đảng chúng tôi, làm
cho Đảng chúng tôi có thể trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện
thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc chúng tôi”
(11).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi Đảng phải gắn lý luận với hành động thực tiễn. Phải có phương
pháp học tập đúng đắn, học phải đi đôi với hành, nếu không, chưa khắc phục được bệnh kinh
nghiệm thì đã mắc phải bệnh giáo điều, bệnh sách vở. Người chỉ rõ, “lý luận rất cần thiết, nhưng
nếu cách học tập không đúng thì sẽ không có kết quả. Do đó, trong lúc học tập lý luận, chúng ta
cần nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ với thực tế”
(12). Người luôn phê phán kiểu học thuộc lòng
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, và yêu cầu “Đảng kết hợp lý luận với kinh nghiệm và thực hành của cách
mạng Việt Nam. Đảng áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp Mác - Lê-nin mà giải quyết
các vấn đề thực tế của cách mạng Việt Nam… không phải chỉ học thuộc lòng vài bộ sách của Mác
- Lê-nin mà làm được như vậy. Đảng phải có tinh thần khoa học và tinh thần cách mạng rất cao,
phải hiểu rõ lịch sử xã hội, phải quyết tâm phấn đấu cho giai cấp và nhân dân, phải tin tưởng vào
lực lượng và sáng kiến của quần chúng, phải gom góp tư tưởng, kinh nghiệm, sáng kiến và ý chí
của quần chúng, sắp xếp nó thành hệ thống, rồi lại áp dụng vào trong quần chúng”
(13). Chủ tịch
Hồ Chí Minh cũng căn dặn cán bộ, đảng viên “học tập lý luận thì nhằm mục đích để vận dụng chứ
không phải học lý luận vì lý luận, hoặc để tạo cho mình một cái vốn lý luận để sau này đưa ra mặc
cả với Đảng”
(14).
Hai là, thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng lOMoAR cPSD| 61559320
Nguyên tắc tập trung, dân chủ: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân
chủ tập trung. Nghĩa là: có đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống
nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng
cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương. Trong Đảng, bất kỳ cấp trên hoặc cấp dưới,
đảng viên cũ hoặc đảng viên mới, đều nhất định phải giữ kỷ luật của giai cấp vô sản”
(15). Đây
là nguyên tắc rường cột, quan trọng nhất để xây dựng Đảng chặt chẽ, vững chắc, phát huy được sức mạnh tổng hợp.
Theo Người, “dân chủ”“tập trung” luôn luôn đi đôi với nhau. Giữa “dân chủ”“tập trung”
có mối quan hệ khăng khít với nhau, đó là hai vế của một nguyên tắc. Trong Bài nói chuyện tại
lớp nghiên cứu chính trị khóa I, Trường Đại học nhân dân Việt Nam
, ngày 21-7-1956, Bác viết về
mối quan hệ đó như sau: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế
nào? Ðối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Ðó là
một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm
thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý. Chân lý là cái gì
có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không
phải chân lý. Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân - tức là phục tùng chân lý”
(16). Thực
hiện nguyên tắc này, nghĩa là phòng và chống các biểu hiện chuyên quyền, độc đoán, thói hách
dịch, chụp mũ, trù dập. Đồng thời cũng cần đề phòng và chống những biểu hiện của dân chủ “quá trớn”.
Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách: Người cho rằng, đây là nguyên tắc lãnh đạo của
Đảng. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách cần phải luôn đi đôi với nhau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích về tập thể lãnh đạo như sau: “Vì sao cần phải có tập thể lãnh
đạo? Vì một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy,
chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi
mặt của một vấn đề. Vì vậy, cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người
thì thấy rõ mặt này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó. Góp kinh nghiệm và sự xem
xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp mọi mặt, thì
vấn đề ấy mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm”
(17).
Người viết về cá nhân phụ trách: “Việc gì đã được đông người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch
định rõ ràng rồi, thì cần phải giao cho một người hoặc một nhóm ít người phụ trách theo kế hoạch
đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy. Nếu không có cá nhân phụ
trách thì sẽ sinh cái tệ người này ủy cho người kia, người kia ủy cho người nọ, kết quả là không
ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng không xong”
(18).
Thực hiện nguyên tắc này trong công tác xây dựng Đảng phải chú ý khắc phục những biểu hiện
độc đoán, chuyên quyền, đồng thời phải chống lại tình trạng dựa dẫm tập thể, khống dám quyết
đoán và chịu trách nhiệm.
Nguyên tắc tự phê bình và phê bình: Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đây là quy luật phát triển của Đảng,
là vũ khí để rèn luyện Đảng viên nhằm làm cho mỗi người tốt hơn, tiến bộ hơn, và tăng cường
đoàn kết trong nội bộ. Mục đích của tự phê bình và phê bình là để làm cho phần tốt trong mỗi lOMoAR cPSD| 61559320
người nảy nở như hoa mùa xuân, làm cho mỗi tổ chức tốt lên, phần xấu bị loại bỏ, vươn tới một sự hoàn thiện.
Người nói về nguyên tắc tự phê bình và phê bình: “một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình
là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì
đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa
chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”
(19). Chức
càng cao, quyền càng lớn, khi mắc phải sai lầm hậu quả sẽ rất lớn, do đó, tự phê bình và phê bình
sẽ khiến cho mỗi người cán bộ, Đảng viên luôn nhận thức đúng về những hành động của mình và
tiến bộ hơn, sẽ tránh được những sai lầm đáng tiếc.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình phải tiến hành thường xuyên như người ta
rửa mặt hằng ngày; phải thẳng thắn, trung thực, “không đặt điều”, “không thêm bớt”, không che
giấu,. Tự phê bình và phê bình phải kiên quyết, “ráo riết”. Người cũng yêu cầu: “Trong Đảng thực
hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để
củng cố và phát triển sự đoàn kết, thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”
(20).
Kỷ luật nghiêm minh, tự giác: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nếu không có kỷ luật, “Đảng sẽ xệch
xoạc, ý kiến lung tung, kỷ luật lỏng lẻo, công việc bê trễ” (21). Có kỷ luật nghiêm minh, tự giác,
Đảng ta sẽ có một sức mạnh vô cùng to lớn: “Sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật
tự giác, ý thức tổ chức nghiêm chỉnh của cán bộ và đảng viên”
(22). Theo Người, bên cạnh việc
chấp hành nghiêm kỷ luật của Đảng, cần biến kỷ luật thành ý thức và hành động tự giác trong mỗi
người cán bộ, đảng viên.
Đoàn kết, thống nhất trong Đảng: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết thống nhất trong Đảng là
cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh tổng hợp. Người khẳng định:
“Với sự đoàn kết nhất trí và lòng cương quyết quật cường của Đảng, của Chính phủ và của toàn
dân, chúng ta nhất định khắc phục được mọi khó khăn để đi đến hoàn toàn thắng lợi”
(23).
Người yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên phải bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng: “Đoàn
kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến
các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”

(24). Theo Người, muốn đoàn kết, thống nhất trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường
xuyên nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, tu dưỡng đạo đức cách mạng, “quét sạch chủ nghĩa
cá nhân”
và các biểu hiện tiêu cực khác, phải yêu thương lẫn nhau, “sống có tình, có nghĩa”.
Ba là, xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân
Trong một bài viết trên báo Sự thật số 120, ngày 15-10-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định:
“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công
việc của dân.Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương
đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”
(25). lOMoAR cPSD| 61559320
Như vậy, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân. Dựa vào dân, gắn bó mật thiết với nhân dân là
điều kiện tồn tại và phát triển của Đảng. Mục tiêu lãnh đạo của Đảng chính là đem lại những lợi
ích thiết thực cho nhân dân. Muốn vậy, Đảng phải trở thành “người đầy tớ” của nhân dân. Để tăng
cường sự gắn bó giữa Đảng với nhân dân, Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thường xuyên đi
sâu vào đời sống quần chúng nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân nhưng tuyệt đối không được theo đuổi quần chúng.
Bốn là, quan tâm xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vị trí, vai trò của người cán bộ trong sự nghiệp cách mạng.
Theo Người, “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho
dân chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho
Chính phủ hiểu rõ, để đặt ra chính sách đúng. Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy,
huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”
(26).
Do đó, theo Người, Đảng ta cần quan tâm tới việc xây dựng, phát hiện và sử dụng cán bộ: “Công
việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Vì vậy, Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như
người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi
một người có ích cho công việc chung của chúng ta”
(27). Tuy nhiên, Người cũng yêu cầu, “Khi
cất nhắc một cán bộ, cần phải xét rõ người đó có gần gụi quần chúng, có được quần chúng tin cậy
và mến phục không. Lại phải xem người ấy xứng với công việc gì. Nếu người có tài mà dùng không
đúng tài của họ, cũng không được việc. Nếu cất nhắc không cẩn thận, không khỏi đem người bô
bô la la, chỉ nói mà không biết làm, vào những địa vị lãnh đạo. Như thế rất có hại”
(28).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra tiêu chí của một người cán bộ tốt, đó là người cán bộ đó phải vừa có
đức, vừa có tài. Trong đó, đạo đức là gốc, Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải
có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”
(29).
Năm là, thường xuyên chỉnh đốn và đổi mới Đảng
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bởi lẽ, bên cạnh số
đông đảng viên ưu tú, thì vẫn còn không ít đảng viên chưa thật sự trong sạch, vững mạnh. Chỉnh
đốn để gột rửa tất cả những lỗi lầm, sai trái. Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Người căn dặn: “việc
cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ
đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân” (30).
Người cũng từng nhấn mạnh: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại,
có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca
ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”
(31).
Người chỉ rõ: “Muốn hoàn thành tốt mọi việc, thì toàn thể đảng viên và cán bộ phải chấp hành
nghiêm chỉnh đường lối và chính sách của Đảng. Và muốn như vậy, thì các cấp uỷ đảng phải tăng
cường công tác kiểm tra. Vì kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm
trọn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân. Do đó mà góp
phần vào việc củng cố đảng về tư tưởng, về tổ chức”
(32). lOMoAR cPSD| 61559320
Trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay, bên cạnh những thời cơ mới, vận hội mới, dân tộc ta
cũng đứng trước không ít những khó khăn, thách thức. Vai trò lãnh đạo của Đảng càng phải được
khẳng định, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng cần được nâng cao hơn bao giờ hết để
xứng tầm với các yêu cầu, nhiệm vụ mà lịch sử dân tộc giao phó. Đảng cần xác định xây dựng
Đảng là nhiệm vụ then chốt, trong đó, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, sẽ góp phần làm cho Đảng
ta trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”, vững vàng trước mọi thử thách của lịch sử./.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh gắn với phát huy sức mạnh, quyền làm chủ của nhân dân - Giá trị và định hướng vận
dụng trong thực tiễn

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Muốn xây dựng Đảng vững mạnh, đủ năng lực lãnh đạo cách mạng Việt Nam thì phải đặc biệt chú
trọng đến việc xác định và rèn luyện đội ngũ đảng viên theo các chuẩn mực đạo đức cách mạng.
Chính vì vậy, trong tác phẩm “Đường Cách mệnh”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt tư cách của một
người cách mệnh lên hàng đầu, theo đó người cách mệnh “phải giữ chủ nghĩa cho vững” và “ít
lòng tham muốn về vật chất”. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nhanh chóng chỉ đạo chấn chỉnh những khuyết điểm của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán
bộ giữ cương vị cao trong bộ máy chính quyền non trẻ. Trong “Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ,
tỉnh, huyện và làng”, ngày 17-10-1945, Người đã phê phán, răn đe, cảnh tỉnh một số căn bệnh của
cán bộ nắm chức vụ, quyền hạn trong bộ máy chính quyền các cấp, như trái phép, cậy thế, hủ hóa,
tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo...
Đặc biệt, tháng 10-1947, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, lần đầu tiên Người dùng cụm từ
“việc chỉnh đốn Đảng”, xác định 12 chuẩn mực về tư cách của đảng chân chính cách mạng, định
danh, đúc kết, nhắc nhở: “Muốn cho Đảng được vững bền/ Mười hai điều đó chớ quên điều nào”(1);
nêu rõ phận sự của người đảng viên và cán bộ là: “Trọng lợi ích của Đảng hơn hết... lợi ích của cá
nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của Đảng. Lợi ích của mỗi bộ phận nhất định phải phục tùng
lợi ích của toàn thể. Lợi ích tạm thời nhất định phải phục tùng lợi ích lâu dài”(2); phải rèn luyện
đạo đức cách mạng - nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Về tự phê bình và phê bình, Người chỉ rõ: “Mục
đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt
hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ. Vì vậy, phê bình mình cũng như phê bình người
phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt”(3). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra
nhiều thứ bệnh, như chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng
tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, bệnh hủ hóa,... Người khẳng định: “Chủ nghĩa cá
nhân là như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm”(4); vì vậy, Người
yêu cầu trong chỉnh đốn Đảng phải kiên quyết chống lại “bệnh cá nhân”.
Tháng 5-1952, tại Lớp chỉnh huấn đầu tiên của Trung ương, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Mục
đích chỉnh Đảng là nâng cao tư tưởng và trình độ chính trị của đảng viên và cán bộ, làm cho đảng
viên và cán bộ theo đúng quan điểm và lập trường vô sản”(5). Người nhấn mạnh: “Nhưng vì điều
kiện khó khăn, mà số đông cán bộ và đảng viên chưa được huấn luyện hẳn hoi cho nên tư tưởng
và trình độ chính trị còn thấp kém và lệch lạc. Điều đó tỏ rõ ra ở mỗi khuyết điểm như: không nắm
vững chính sách trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh; không phân biệt rõ ràng bạn và địch,
bệnh quan liêu, công thần và nạn tham ô hủ hóa khá nặng,...”(6). lOMoAR cPSD| 61559320
Trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc sau năm 1954 - một sự nghiệp cách
mạng chưa có tiền lệ - Người yêu cầu phải thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng vững mạnh
toàn diện. Trước lúc đi xa, trong Di chúc thiêng liêng, Người căn dặn: “việc cần phải làm trước
tiên là chỉnh đốn lại Đảng”(7). Năm 1961, Đảng ta mở cuộc vận động chỉnh huấn mùa Xuân(8),
mục đích là xây dựng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân lao động tinh thần làm chủ, tinh
thần tập thể xã hội chủ nghĩa, hiểu rõ nhiệm vụ sản xuất và tiết kiệm trong giai đoạn mới; phê phán
chủ nghĩa cá nhân, tham ô, lãng phí, tác phong quan liêu, mệnh lệnh, bảo thủ, rụt rè. Sau đó, Bộ
Chính trị tiếp tục có Chỉ thị “Về cuộc vận động chỉnh huấn mùa Xuân năm 1965”(9), nhằm làm cho
đội ngũ cán bộ, đảng viên và đoàn viên, thanh niên lao động, trên cơ sở nhận thức rõ tình hình,
nhiệm vụ và yêu cầu của cách mạng, để nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, phê phán những
biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân.
Trong Di chúc, Người cũng đề ra những yêu cầu cơ bản về đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên,
xuất phát từ bản chất cách mạng của Đảng, từ mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân:
“Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách
mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”(10).
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy sức mạnh, quyền làm chủ của nhân dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin hình thành nên tư
tưởng độc đáo về dân vận, chú trọng phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp
cách mạng của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Dân là gốc của nước, là cơ sở của mọi thắng
lợi, là lực lượng tạo ra mọi của cải vật chất, tinh thần. Người cho rằng: “Nước lấy dân làm gốc”;
“Gốc có vững cây mới bền/ Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”(11). Theo Người, biểu hiện của
dân là gốc là phải tin ở nhân dân, gần gũi với nhân dân, kính trọng nhân dân và biết dựa vào nhân
dân, phải nhận thức rõ, dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng. Vì vậy, chúng ta phải
học dân chúng, phải hỏi dân chúng, phải hiểu dân chúng; “có lực lượng dân chúng việc to tát mấy,
khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải
quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn
thể to lớn, nghĩ mãi không ra”(12). Người tâm đắc với câu nói dân gian: “Dễ mười lần không dân
cũng chịu/ Khó trăm lần dân liệu cũng xong”(13). Không chỉ nhận thức rõ vai trò, sức mạnh của
quần chúng nhân dân, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ, sức mạnh của nhân dân chỉ được phát
huy đầy đủ khi có một đảng cách mạng lãnh đạo; Người khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý
bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Trong xã hội
không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân”(14). Khi sức dân được huy
động, được tổ chức, được tập hợp dưới sự lãnh đạo của Đảng thì trở thành sức mạnh vô địch.
Trong tác phẩm “Dân vận” đăng trên báo Sự thật, số 120, ngày 15-10-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh
một lần nữa nhấn mạnh về bản chất dân chủ của chế độ, về nguyên tắc hoạt động của chính quyền
cách mạng - tiền thân của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người khẳng định: “NƯỚC TA LÀ
NƯỚC DÂN CHỦ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc
đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do lOMoAR cPSD| 61559320
dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(15). Người đặc biệt nhấn
mạnh đế#n trọ#ng trá#ch lịch sử của Đả#ng, tí#nh tiề#n phong gương mẫ#u và trách nhiệm của
đội ngũ cán bộ, đả#ng viên trước Đảng, trước nhân dân. Bởi như Người từng chứng kiến, dự báo,
nhắc nhở: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn,
không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không
trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”(16).
Chê độ dân chủ của nước ta được xác lập ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành
công. Các quy định của Hiến pháp Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên năm 1946 do Người chỉ
đạo về bầu cử tự do, phổ thông đầu phiếu(17), về quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân đã thể hiện
rất rõ nét tinh thần dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân, coi nhân dân là người chủ thực sự của
đất nước; đặc biệt là, rất chú trọng đến quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân. Kế thừa và phát huy
tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, phát huy sức mạnh, quyền làm chủ của nhân dân, qua mỗi kỳ
đại hội của Đảng, vấn đề dân chủ ngày càng được nhận thức, phát triển và hoàn thiện hơn, phù
hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước trong tình hình mới.
Thực tiễn xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh gắn với
phát huy sức mạnh, quyền làm chủ của nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời gian qua
Hơn 92 năm qua, Đảng ta đã xác lập, củng cố và ngày càng nâng cao vai trò lãnh đạo, sức mạnh
và uy tín của mình bằng đường lối đúng đắn mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho nhân dân, cho
đất nước; bằng mối liên hệ mật thiết với nhân dân, được nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ và bảo
vệ. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng có vai trò đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với
Đảng và chế độ, luôn được Đảng ta xác định là nhiệm vụ then chốt, thường xuyên, liên tục, xuyên
suốt các thời kỳ cách mạng.
Từ khi bước vào công cuộc đổi mới, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, như Hội nghị Trung ương 3 khóa VII năm 1992, về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn
Đảng; Hội nghị Trung ương 6 lần 2 khóa VIII năm 1999, về một số vấn đề cơ bản và cấp bách
trong công tác xây dựng Đảng hiện nay,... Chỉ tính riêng trong 10 năm gần đây, ngay từ đầu mỗi
nhiệm kỳ, qua các Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII, Đảng đều ban hành các nghị quyết,
kết luận, quy định hết sức quan trọng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; lần sau sâu sắc, toàn
diện và cụ thể, rõ ràng hơn so với lần trước(18); đặc biệt là, việc thành lập, bổ sung, hoàn thiện chức
năng, nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, đã tạo sự chuyển biến
tích cực, rõ nét trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh, được nhân dân đồng tình, ủng hộ, góp phần rất quan trọng vào việc thực hiện nhiệm vụ
chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh và hội nhập quốc tế
sâu rộng, hiệu quả của đất nước.
Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Điều 4 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam Đội
tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân
tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh lOMoAR cPSD| 61559320
đạo Nhà nước và xã hội”(19). Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là tiền đề quan trọng chi phối
tính chất, mục tiêu, nhiệm vụ, hiệu quả xây dựng hệ thống chính trị; đồng thời, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị là minh chứng khẳng định năng
lực, uy tín, vai trò lãnh đạo, vị thế của Đảng ta với tư cách là đảng cầm quyền. Năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của Đảng thể hiện qua việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất
lượng, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Trước
yêu cầu mới, Đại hội XIII của Đảng đã phát triển thành tố “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh” của Đại hội XII thành “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh”.
Chủ trương dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị là chủ trương
xuyên suốt, nhất quán của Đảng ta ngay từ khi mới thành lập, được nhấn mạnh và cụ thể hóa hơn
nữa trong bối cảnh hiện nay. Trong các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của Kết luận Hội nghị Trung
ương 4 khóa XIII đã nhấn mạnh: “Phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan dân cử, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; thực sự dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh
đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”
(20); theo đó, việc phát huy thực chất quyền
làm chủ của nhân dân, nhằm tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tích cực, chủ động tham gia công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị là yêu cầu khách quan; thể hiện và bảo đảm rõ
nét bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Nhận thức rõ điều đó, Đảng ta luôn quán triệt, nhấn
mạnh chủ trương dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng; coi đó là nhiệm vụ quan trọng
trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Hiện nay, quan điểm của Đảng ta là gắn xây dựng,
chỉnh đốn Đảng với xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị; dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh
đốn Đảng cũng là dựa vào nhân dân để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội; qua đó, góp phần thực hiện tốt và có
hiệu quả cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ”.
Như vậy, nội dung của Văn kiện Đại hội XIII và Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII của Đảng, với
chủ trương dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng được thể hiện cụ thể, rõ ràng hơn ở hai khía cạnh cơ bản sau:
Thứ nhất, Đảng dựa vào nhân dân, phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; theo đó, nhân dân trực tiếp phản ánh, góp ý với cấp ủy về công tác cán bộ, chủ trương,
đường lối của Đảng. Nhân dân có quyền đóng góp ý kiến, kiến nghị đối với tổ chức đảng và chính
quyền, khi phát hiện những yếu kém, khuyết điểm của tổ chức và cá nhân cán bộ, đảng viên, nhất
là phát hiện những hành vi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”; đồng thời, nhân dân
tích cực tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng thông qua hoạt động đối thoại, cán bộ lãnh đạo tiếp
công dân, tiếp nhận và kịp thời xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo, nhất là những vấn đề liên quan
đến đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, các tổ tự quản của nhân dân ở cơ
sở, hoạt động của ban thanh tra nhân dân, các tổ giám sát đầu tư cộng đồng cũng là những hình
thức quan trọng để nhân dân có thể tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Thứ hai, ngoài việc tham gia trực tiếp, nhân dân cũng gián tiếp tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng
thông qua hoạt động của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp và các đại biểu do nhân dân bầu,
thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Đồng thời, thông qua hoạt lOMoAR cPSD| 61559320
động của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp để phản ánh những tâm tư, nguyện vọng hợp pháp,
chính đáng của nhân dân, nhằm tháo gỡ về mặt cơ chế, chính sách, pháp luật; bàn bạc, thảo luận
công khai và có biện pháp xử lý phù hợp; qua đó, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội và
các cơ quan dân cử được nâng lên. Thông qua hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội để mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân có thể tham gia giám sát hoạt động
của cơ quan, tổ chức đảng trong việc thực hiện nhiệm vụ theo đúng chức năng, quyền hạn của cơ
quan, đơn vị mình; tham gia giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là những đảng viên có chức,
có quyền, những người công tác ở các lĩnh vực “nhạy cảm” dễ nảy sinh vi phạm, tiêu cực,...
Qua hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã
nhiều lần khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa
bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”
(21). Có được kết quả đó,
chính là do Đảng ta đã biết kế thừa, phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cũng như trong xây dựng,
chỉnh đốn Đảng hiện nay. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò, sức mạnh của quần
chúng nhân dân được Đảng và Nhà nước tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa thông qua các cương lĩnh
chính trị, nghị quyết đại hội, chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước.
Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” tiếp tục được hoàn thiện, cụ thể hóa.
Các cấp ủy, chính quyền đã đẩy mạnh việc thực hiện công tác dân vận, gắn với tăng cường và mở
rộng thực hành dân chủ, góp phần phát huy vai trò, tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân trong
tham gia bàn bạc những công việc của Đảng, Nhà nước. Các hình thức góp ý với Đảng và giám
sát đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng được chú trọng; công tác đối thoại, tiếp công dân, xử lý
đơn, thư khiếu nại, tố cáo và những kiến nghị, nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của nhân dân,
doanh nghiệp được quan tâm, chỉ đạo thực hiện. Nhiều vụ, việc tiêu cực, các biểu hiện vi phạm
đạo đức công vụ, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực do các cơ quan báo chí, mạng xã hội phát hiện,
phản ánh, lên án, được các cơ quan chức năng nhanh chóng vào cuộc kiểm tra, xử lý nghiêm minh,
đúng pháp luật. Các cuộc vận động nhân dân tham gia đóng góp ý kiến xây dựng chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được thực hiện có hiệu quả, đặc biệt là
việc lấy ý kiến của nhân dân về xây dựng Hiến pháp năm 2013, dự thảo các văn kiện đại hội đảng
các cấp, dự thảo Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, đã trở thành các đợt sinh hoạt chính trị rộng khắp trên cả nước.
Tuy nhiên, việc phát huy vai trò, trách nhiệm, sức mạnh của nhân dân trong xây dựng, chỉnh đốn
Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh vẫn còn những khó khăn, hạn chế. Trong nội
bộ một số cấp ủy, tổ chức đảng có những vụ, việc được nhân dân nêu lên, nhưng chưa được ngăn
chặn, xử lý kịp thời hoặc giải quyết không hợp lý, thậm chí còn có hiện tượng bao che. Việc giám
sát, đóng góp ý kiến của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị
- xã hội ở một số nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao, như có đặt hòm thư góp ý ở cơ
quan, đơn vị, nhưng nhận được rất ít hoặc không nhận được ý kiến đóng góp, kiến nghị của nhân
dân; việc tổ chức để đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tham gia đóng góp ý kiến cho cấp ủy,
tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên có lúc còn mang tính hình thức, nhận xét góp ý chung
chung hoặc chỉ ca ngợi một chiều, vì ngại va chạm, “dĩ hòa vi quý”. lOMoAR cPSD| 61559320
Việc tiếp nhận, xử lý ý kiến, kiến nghị của nhân dân ở một số cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan chính
quyền còn chưa nghiêm túc, dẫn đến việc xảy ra khiếu kiện đông người, vượt cấp và kéo dài, nhất
là trong lĩnh vực quản lý đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng, thu hồi, sử dụng đất. Bên cạnh đó,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở một số nơi chưa làm tốt vai trò là
chỗ dựa để nhân dân thực hiện phê bình, góp ý và giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên. Các cấp ủy,
tổ chức đảng chưa hình thành được nhiều diễn đàn để nhân dân góp ý thường xuyên; thiếu các quy
trình, cách thức tiếp thu, xử lý thông tin, nhằm phục vụ công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là một số
người có chức, có quyền, làm việc ở những ngành, lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực, do
thiếu tu dưỡng và rèn luyện, nên sa vào chủ nghĩa cá nhân, vi phạm các quy định của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, dẫn đến bị xử lý kỷ luật của Đảng và truy tố trước pháp luật. Cơ chế kiểm soát
quyền lực và chế tài xử lý vi phạm ở nhiều lĩnh vực còn hạn chế, thực hiện chưa nghiêm. Hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cùng với nhân dân thực hiện
giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở một số nơi chưa đạt hiệu quả
cao; chưa phát huy đầy đủ sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong việc bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch,...
Một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh gắn với phát huy sức mạnh, quyền làm chủ của nhân dân trong tình hình mới
Một là, các cấp ủy, chính quyền và cả hệ thống chính trị tiếp tục quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh,
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân vận; về thực
hành dân chủ gắn với phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh. Kịp thời thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về công tác
dân vận, phát huy dân chủ thành chính sách, pháp luật phù hợp với thực tiễn và đáp ứng đầy đủ
lợi ích, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Thực hành dân chủ rộng rãi, từng bước
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ từ trong Đảng đến dân chủ ngoài xã
hội được thực hiện ở các cấp, các ngành, các lĩnh vực. Đặc biệt, tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa cơ
chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Thực hiện tốt Quy chế
Dân chủ ở cơ sở ở các loại hình theo Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18-2-1998, của Bộ Chính trị, “Về
xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở” và Kết luận số 120-KL/TW, ngày 7-12016, của
Bộ Chính trị, về “Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện
Quy chế Dân chủ ở cơ sở”; nghiên cứu khả năng xây dựng, ban hành Luật về thực hành dân chủ ở cơ sở.
Củng cố và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; mối quan hệ gắn bó mật thiết
giữa Đảng với nhân dân; tạo sự đồng thuận xã hội rộng lớn dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản
lý, điều hành của Nhà nước. Tăng cường tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng hợp
pháp, chính đáng của nhân dân; chăm lo đầy đủ đời sống, lợi ích chính đáng của nhân dân; lấy kết
quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của người dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất
lượng tổ chức bộ máy và chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ, đảng viên. lOMoAR cPSD| 61559320
Hai là, thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng một cách toàn diện, để Đảng ta
luôn là lực lượng tiên phong trong bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân và của cả dân
tộc. Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường phê phán, bảo đảm kỷ luật trong Đảng và kỷ cương
trong xã hội; tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết, kiên trì và thường xuyên
đấu tranh phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân gắn với tăng cường cải cách hành chính, giảm phiền hà cho nhân dân; quan tâm, lắng nghe,
giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc, kiến nghị, phản ánh chính đáng của nhân dân. Đẩy
mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, tiêu cực; làm trong sạch bộ
máy của Đảng, Nhà nước và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn và xử lý
kịp thời, nghiêm minh, dứt điểm các vụ, việc tham nhũng, tiêu cực, nhằm củng cố lòng tin của
nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ba là, thực hành dân chủ rộng rãi, trước hết là dân chủ trong Đảng. Phát huy dân chủ được coi là
một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu để nhân dân có thể tham gia hiệu quả trong việc xây
dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; đồng thời, tập trung xây dựng
cơ chế phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đảng,
Nhà nước ta luôn xác định “dân là gốc”, luôn tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, luôn kiên trì thực hiện đúng phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra,
dân giám sát, dân thụ hưởng”. Triển khai các diễn đàn, tạo các kênh thông tin, như báo chí, hội
nghị, hội thảo, tọa đàm, các trang mạng xã hội,... để thu thập ý kiến đóng góp trực tiếp của nhân
dân về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là công tác cán bộ, gắn với quy chế làm việc, quy trình công tác.
Bốn là, đẩy mạnh tuyên truyền, vận động để mỗi người dân nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm của
mình trong việc tham gia góp ý xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; coi đây là nghĩa
vụ, thể hiện lòng yêu nước, gắn với bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của bản thân, gia
đình và xã hội. Thực hiện quy trình công khai kết quả tiếp thu, xử lý thông tin do nhân dân góp ý,
cung cấp trực tiếp; coi đó là sợi dây liên kết, duy trì mối quan hệ mật thiết, không ngừng củng cố
lòng tin của nhân dân với Đảng, đồng thời cũng phải thẳng thắn sàng lọc, từ chối những ý kiến
góp ý thiếu tinh thần xây dựng; kiên quyết, kiên trì đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái
của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị. Thực hiện triệt để và có hiệu quả chủ
trương, đường lối trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng với phương châm thực hành và phát
huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; phương
châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, thực hiện đúng
đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Hoàn thiện cơ chế
tiếp thu góp ý trực tiếp của nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm sâu đậm thêm mối quan
hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân, thể hiện rõ quan điểm “dân là gốc” của Đảng ta.
Năm là, tăng cường công khai, minh bạch việc dựa vào nhân dân để kiểm tra, giám sát, đánh giá
việc thực hiện công tác cán bộ; trong đó, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị vừa có đức, vừa có tài; bảo đảm phẩm chất
chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và phương pháp, tác phong công tác;
xứng đáng là người lãnh đạo, là đầy tớ trung thành của nhân dân, nói đi đôi với làm, “tin dân, trọng lOMoAR cPSD| 61559320
dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân”. Phát huy vai trò gương
mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu. Nâng cao cảnh
giác, chống các khuynh hướng mị dân, kích động nhân dân trước những hiện tượng tiêu cực. Kiên
quyết phê phán, đấu tranh với biểu hiện thờ ơ, vô cảm, quan liêu, nhũng nhiễu người dân và doanh nghiệp.
Sáu là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội phải thực sự “gần
dân”, “sát dân”, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng, đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tạo điều kiện để nhân dân thực hiện các quyền dân chủ đại diện và
dân chủ trực tiếp trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, phát triển và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay./.
Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác xây dựng Đảng và sự vận dụng của
Đảng ta trong bối cảnh hiện nay

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên
chăm lo xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh. Tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng Đảng là sự vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin về xây dựng
đảng kiểu mới của giai cấp công nhân vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam; chứa
đựng những giá trị sâu sắc, bền vững, tiếp tục định hướng cho công tác xây dựng Đảng hiện nay.

15 năm sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 thành công. Từ đây, Đảng ta trở thành đảng cầm quyền duy nhất lãnh
đạo Nhà nước và xã hội. Tuy nhiên, trong nội bộ của Đảng đã bắt đầu xuất hiện một số cán bộ,
đảng viên có biểu hiện quan liêu, hủ hóa, tham ô, lãng phí,... đặc biệt là xuất hiện những “quan
cách mạng” sa vào chủ nghĩa cá nhân. Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời đề ra
nhiều chủ trương, biện pháp quan trọng nhằm góp phần chấn chỉnh những biểu hiện trên của cán
bộ, đảng viên. Một tháng sau ngày đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”, Người đã viết thư gửi các đồng
chí tỉnh Nghệ An ngày 17-9-1945; trong đó đã chỉ rõ những khuyết điểm của cán bộ, đảng viên và
chính quyền ở các địa phương, cũng như vạch rõ phương hướng để khắc phục những khuyết điểm
đó. Ngày 17-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục gửi thư cho ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh,
huyện và làng, chỉ ra sáu lỗi lầm rất nặng nề của cán bộ cần sửa chữa là: trái phép, cậy thế, hủ hóa,
tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Ngày 18-1-1949, nói chuyện tại buổi bế mạc Hội nghị cán bộ của Đảng
lần thứ sáu, Người khẳng định, cần phải “Chấn chỉnh bộ máy chính quyền từ dưới lên trên”, “Chỉnh
đốn các đoàn thể quần chúng” và “Muốn làm được những việc trên, trước hết phải chỉnh đốn nội bộ Đảng”(1).
Tháng 10-1947, với bút danh X.Y.Z., Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm
việc” để tăng cường xây dựng Đảng, làm trong sạch bộ máy nhà nước. Nội dung trong cuốn sách
hướng tới bồi đắp cho cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị, niềm tin; rèn luyện phẩm chất đạo đức
cách mạng; nâng cao tinh thần đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và những “căn bệnh” phát sinh
từ chủ nghĩa cá nhân; rèn luyện phương pháp lãnh đạo gần dân, trọng dân, thương dân, hết lòng, lOMoAR cPSD| 61559320
hết sức vì hạnh phúc của nhân dân, phấn đấu trở thành người chiến sĩ cách mạng chân chính. Trước
lúc đi xa, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn Đảng ta: “Ngay sau khi cuộc chống Mỹ,
cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi,... việc cần phải làm trước tiên chỉnh đốn lại Đảng”(2).
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng chứa đựng những nội dung rất quan trọng, mang giá trị
định hướng sâu sắc, có tác động sâu rộng và sức lan tỏa to lớn, để lại nhiều bài học quý báu đối
với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, cụ thể là:
Thứ nhất, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là việc làm thường xuyên, liên tục của Đảng.
Sự lãnh đạo của Đảng là tất yếu và có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Vai trò lãnh đạo của Đảng, yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng đối với Đảng đặt ra yêu cầu
phải xây dựng Đảng, vừa để bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo, vừa giúp cho việc thực hiện vai
trò đó một cách hiệu quả nhất.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy, cách mạng luôn chuyển biến theo hướng đặt ra yêu cầu và nội
dung ngày càng cao, nhiệm vụ ngày càng nặng nề, phức tạp; vì thế, cần xây dựng Đảng để Đảng
không bị tụt hậu trước những chuyển biến đó. Thực tiễn đấu tranh cách mạng cho thấy, khi Đảng
ta không giữ được bản chất cách mạng của mình, không thật sự vững vàng về chính trị, tư tưởng
và tổ chức; không trong sạch về đạo đức, không được quần chúng nhân dân ủng hộ, thì không thể
đứng vững và không đủ sức lãnh đạo đưa đất nước đi lên. Chính vì vậy, công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng là một nội dung quan trọng, là nhiệm vụ thường xuyên của Đảng ta. Đặc biệt, trong
những bước ngoặt của cách mạng, việc tự chỉnh đốn, tự đổi mới của Đảng là nhiệm vụ then chốt,
có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhu cầu tự hoàn thiện
của Đảng, là nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Vì sao phải
chỉnh huấn?
Vì cán bộ ta lập trường chưa vững chắc, tư tưởng chưa thông suốt. Do đó mà mắc
nhiều khuyết điểm như: Chưa hiểu rõ đường lối cách mạng dân tộc - dân chủ; chưa nắm được vững
chính sách trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh. Chưa phân biệt rõ ràng ai là thù, ai là bạn (trên
thế giới, trong nước và trong bản thân mình). Vì vậy mà mắc nhiều bệnh. Chủ nghĩa cá nhân, đặt
lợi ích riêng của mình, của gia đình mình lên trên, lên trước lợi ích chung của dân tộc. Đó là bệnh
chính, bệnh mẹ, do đó mà sinh ra nhiều chứng bệnh khác, như: Tự tư tự lợi, sợ khó, sợ khổ; Không
yên tâm công tác. Ham địa vị danh tiếng; Lãng phí, tham ô. Quan liêu, mệnh lệnh,...”(3).
Thứ hai, xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được tiến hành đồng bộ, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng, chỉnh đốn Đảng cần phải được tiến hành đồng bộ trên cả
bốn mặt: Chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Bốn nội dung đó có mối quan hệ mật thiết, gắn
bó; trong đó, xây dựng Đảng về đạo đức đóng vai trò là nền tảng. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
nội dung xây dựng Đảng về đạo đức phải mang tính toàn diện, thể hiện trong tất cả hoạt động trên
các mặt công tác của Đảng; đồng thời, đạo đức của Đảng được thể hiện cụ thể, chân thực, rõ nét
qua phẩm chất đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên. Do vậy, xây dựng Đảng về đạo đức trước hết
là xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, cho tổ chức đảng. Đối với cán
bộ, đảng viên, những chuẩn mực cần đạt được là tuyệt đối trung với nước, hiếu với dân, kiên định lOMoAR cPSD| 61559320
lý tưởng của Đảng, là “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”; giàu tinh thần nhân ái, yêu thương
con người, có tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, có bản lĩnh chống lại chủ nghĩa cá nhân,...
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn khẳng định, để công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng mang lại hiệu quả,
thì cần phát huy tốt vai trò của cả hệ thống chính trị, nhất là phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Muốn vậy, Đảng phải thường xuyên làm
tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên; tăng cường
tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Người chỉ rõ: “Giữ chặt mối
liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng
của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi. Vì vậy, cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân
chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”(4).
Thứ ba, xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được tiến hành chặt chẽ theo các nguyên tắc xây dựng Đảng
kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Để Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một tổ chức chặt chẽ, thống nhất và mạnh mẽ, một đảng
mác-xít chân chính, thì Đảng phải được xây dựng theo những nguyên tắc đảng kiểu mới của giai
cấp công nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ thấm nhuần và vận dụng sáng tạo nguyên tắc tập
trung dân chủ trong tổ chức và xây dựng một đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, mà Người
còn bổ sung, phát triển, làm sáng tỏ bản chất của các thành tố trong nguyên tắc và mối quan hệ
biện chứng của chúng vào thực tiễn xây dựng Đảng ở Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức chặt chẽ theo năm nguyên tắc cơ bản: 1- Nguyên tắc tập
trung dân chủ; 2- Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; 3- Nguyên tắc tự phê bình và
phê bình; 4- Nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự giác; 5- Nguyên tắc đoàn kết, thống nhất trong
Đảng. Trong đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng.
Người giải thích: “Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung. Nghĩa là: có Đảng chương
thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn thể, số
ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung
ương”(5). Nguyên tắc này bảo đảm cho mục tiêu quan trọng là Đảng tuy nhiều người, nhưng khi
tiến đánh thì chỉ như một người. Trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tập trung và dân chủ
không đối lập nhau, mà có sự gắn bó mật thiết với nhau. Người chỉ ra rằng, tập trung trên nền tảng
dân chủ và dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung, nếu không có tập trung thì dân chủ sẽ đi đến vô tổ
chức, nếu không có dân chủ thì tập trung sẽ dẫn đến độc đoán, chuyên quyền.
Đặc biệt là, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình là thang thuốc hay nhất, là quy
luật phát triển của Đảng. Để tự phê bình và phê bình trong Đảng thực sự có hiệu quả, Chủ tịch Hồ
Chí Minh nhấn mạnh, phải tiến hành thường xuyên, nghiêm chỉnh như việc rửa mặt mỗi ngày;
phải xuất phát từ tình đồng chí thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, có lý, có tình, không phải để xoi
mói, nói xấu nhau, đập cho tơi bời; phải phê bình việc, chứ không phê bình người; phải bảo đảm
dân chủ, từ dưới lên và từ trên xuống. Người đặc biệt coi trọng vai trò nêu gương của những cán
bộ, đảng viên giữ cương vị lãnh đạo, quản lý, theo tinh thần “một tấm gương sống còn có giá trị
hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(6). Tiến hành tự phê bình và phê bình phải nhằm đến
mục tiêu đoàn kết hơn, đoàn kết trên cơ sở mới; không chỉ đúng, mà còn phải khéo. lOMoAR cPSD| 61559320
Thứ tư, Đảng ta kế thừa và vận dụng giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong quá
trình hơn 35 năm đổi mới.
Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, hơn 92 năm qua, kể từ khi
Đảng ta ra đời cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chăm lo công tác xây dựng Đảng; qua
đó, giữ vững vị trí, vai trò của mình, lãnh đạo nhân dân vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách,
giành được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định
thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả đạt được trong những năm qua, Đảng ta đang đứng trước nhiều cơ hội và thách
thức mới đan xen nhau. Do đó, để nâng cao vị trí, vai trò của Đảng, từ Đại hội VI của Đảng đến
nay, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành 9 nghị quyết, Bộ Chính trị đã ban hành 6 nghị
quyết chuyên đề về xây dựng Đảng. Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16-1-2012, của Hội nghị
Trung ương 4 khóa XI, “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” chỉ rõ, một bộ phận
cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, với những biểu hiện khác nhau
về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi
tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện vô nguyên tắc. Tình trạng đó gây
nên sự bất bình và lo lắng trong nhân dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, là
nguy cơ đe dọa trực tiếp đến sự sống còn của Đảng, của chế độ. Chính vì vậy, làm tốt công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng đang là vấn đề cấp bách, bức thiết hiện nay đối với Đảng. Tổng kết 30 năm
đổi mới, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh”(7).
Kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tại Đại hội XII của Đảng, nội dung xây dựng Đảng
về đạo đức được đưa thành nội dung riêng, cùng với chính trị, tư tưởng và tổ chức trở thành một
trong bốn nội dung của công tác xây dựng Đảng. Thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và
Chương trình làm việc toàn khóa, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 04/NQ-
TW, ngày 30-10-2016, “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội
bộ”. Nghị quyết này đã thể hiện ý chí, quyết tâm chính trị rất cao của Đảng ta đối với công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện mới.
Từ tổng kết thực tiễn thực hiện công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng,
cũng như trong suốt quá trình phát triển của Đảng, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong các
văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã có nhiều điểm mới, thể hiện bước phát triển mới trong nhận
thức của Đảng ta về công tác xây dựng Đảng. Chủ đề Đại hội XIII của Đảng đã thể hiện rất rõ việc
nhận thức xây dựng Đảng một cách toàn diện trên các mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và
cán bộ; nhận thức sâu sắc hơn mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng Đảng và chỉnh đốn Đảng.
Xây dựng Đảng và chỉnh đốn Đảng được tiến hành đồng thời và đan xen nhau; xây dựng Đảng là
nhiệm vụ thường xuyên, trọng tâm, chỉnh đốn Đảng tập trung vào các vấn đề quan trọng và cấp
bách. Xây dựng gắn với chỉnh đốn Đảng tức là vừa củng cố nền tảng vững chắc, vừa đột phá vào
những vấn đề khó, phức tạp, nhạy cảm; kịp thời uốn nắn những sai lầm, lệch lạc, bảo đảm định
hướng xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam “là đạo đức, là văn minh”, xứng đáng là đại diện của
lương tri, danh dự, trí tuệ của dân tộc, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh. lOMoAR cPSD| 61559320
Có thể khẳng định rằng, những thành tựu nổi bật về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong thời
kỳ đổi mới bắt nguồn từ việc nhận thức đúng đắn và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm
quyền trong thực tiễn. Trên cơ sở nhận thức sâu sắc hơn giá trị nền tảng của tư tưởng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và nắm bắt đầy đủ những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn, Đại hội XIII của Đảng đã
nêu ra những vấn đề cốt lõi và những điểm mới mang tính đột phá trong công tác xây dựng Đảng.
Theo đó, từ đường lối, chủ trương và quyết tâm chính trị rất cao của toàn Đảng, mỗi cán bộ, đảng
viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu các cấp, cần quán triệt một cách đầy đủ và khoa học,
góp phần quan trọng trong việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước bằng những hành động cụ thể, thiết thực trong công việc, trong sinh hoạt, trong ứng
xử với nhân dân. Có như vậy, Đảng ta mới phát huy tốt vai trò là cầu nối đưa tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh thấm sâu vào cuộc sống; qua đó, tiếp tục khẳng định và vận dụng sáng tạo, phát
triển nền tảng tư tưởng của Đảng đáp ứng yêu cầu mà thực tiễn cách mạng Việt Nam đang đặt ra hiện nay./.