/4
lOMoARcPSD| 61573419
1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết quốc tế
1.1. Truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
Ý thức quốc gia, dân tộc, làm chủ đất nước của cộng đồng người Việt đã có từ ngàn
xưa. Cuộc chiến đấu với thiên nhiên, với giặc ngoại xâm trong lịch sử ngàn năm đã
hun đúc nên truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam: Yêu nước nồng nàn, độc lập
tự chủ, kiên cường bất khuất, đoàn kết thống nhất, nhân ái khoan dung.
Trước hết, đó chính là chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nướcsợi chỉ đỏ xuyên
suốt trong quá trình hình thành lịch sử của dân tộc Việt Nam. Những nội dung chủ
yếu của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã từng bước được đúc kết, hình thành một
hệ thống các nguyên với tưởng của các anh hùng hào kiệt như: Thường Kiệt,
Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung... chính sức mạnh truyền thống ấy đã
thúc giục người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Đó cũng
chính là động lực thúc đẩy mọi suy nghĩ, hành động của Người trong suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng. Hồ Chí Minh đã làm phong phú nội dung của chủ nghĩa yêu
nước. Yêu nước đối với Người gắn liền với yêu nhân dân. Người nói, lòng thương
yêu nhân dân nhân loại của Người không bao giờ thay đổi. Người một ham
muốn tột bậc làm sao nước ta được độc lập, n ta cơm ăn, áo mặc được
học hành. Người đã nêu ra chuẩn mực “trung với nước, hiếu với dân” phát triển
nội dung mới của chủ nghĩa yêu nước. Đó yêu nước dựa trên những quan điểm
giai cấp công nhân, yêu nước dần mở rộng ra trở thành tình yêu cùng rộng lớn
đối với nhân dân lao động, dối với những người cùng khổ đối với giai cấp công
nhân các nước trên thế giới. Trên sở tưởng của giai cấp công nhân, Người cũng
đã nêu ra nội dung mới:” Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân gắn liền với yêu chủ nghĩa
hội, chỉ chủ nghĩa hội thì nhân dân mình mới ngày một ấm no thêm, Tổ
quốc ngày một giàu mạnh thêm”.
Thứ hai, đó chính tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái của dân tộc. Truyền
thống này hình thành cùng một lúc với sự hình thành dân tộc, ra đời từ hoàn cảnh
yêu cầu đấu tranh chống thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm. Người Việt Nam từ lâu
đã quen gắn bó với nhau trong tình làng nghĩa xóm, lá lành đùm lá rách. Bước sang
thế kỷ XX, mặc hội Việt Nam đã sự phân hóa về giai cấp nhưng truyền
thống này vẫn bền vững. vậy Hồ Chí Minh đã kế thừa phát huy sức mạnh
truyền thống đoàn kết của dân tộc để hình thành tưởng đoàn kết quốc tế, phấn đấu
vì một thế giới hòa bình, ổn định và phát triển.
Thứ ba, truyền thống ngoại giao của Việt Nam cũng một trong những nhân tố
quan trọng để hình thành những tư tường đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. Ngoại
giao truyền thống Việt Nam luôn xem trọng việc giữ hòa khí, đoàn kết hữu nghị với
các nước, phấn đấu cho sự thái hòa, yêu chuộng hòa bình là bản chất của ngoại giao
lOMoARcPSD| 61573419
Việt Nam. Trong bản sắc của ngoại giao Việt Nam, tinh thần độc lập, tự chủ, tự
cường và bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc là nguyên tắc bất
biến. Đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử, xuất phát từ tinh thần yêu nước
của dân tộc, không trông đợi vào bên ngoài, mà phải dựa vào chính mình để bảo vệ
lợi ích của đất nước, dân tộc.
1.2. Tư tưởng đoàn kết trong học thuyết Mác - Lênin
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 chính minh chứng hùng
hồn cho tính đúng đắn của tưởng đoàn kết trong học thuyết Mác - Lênin. Cách
mạng Nga đã chỉ ra rằng cách mạng sự nghiệp của quần chúng nhân dân, nhân
dân người làm nên lịch sử. Giai cấp sản lãnh đạo cách mạng phải đi tchiến
lược “giai cấp sản tất cả các nước đoàn kết lại!” tới chiến lược “giai cấp sản
tất cả các nước các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”. Đoàn kết trong học thuyết
Mác - Lênin lấy giai cấp công nhân ng dân làm nền tảng, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh quốc tế. Lênin chính tấm gương sáng chói vtinh thần đoàn
kết trong nước, đoàn kết quốc tế hiện thân cho tình anh em bốn bể. thể nói
những quan điểm đoàn kết trong học thuyết Mác - Lênin sở tưởng luận
quan trọng nhất, bởi nó không chỉ trang bị thế giới quan, phương pháp luận, mà còn
chỉ ra những phương hướng rõ ràng trong quá trình thực hiện đoàn kết. Cũng chính
vì vậy mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng, sáng tạo những tư tưởng ấy vào điều
kiện cụ thể của nước ta mở đường cho sự nghiệp thắng lợi của cách mạng.
2. Sự cần thiết phải đoàn kết quốc tế
2.1. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
Theo Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc tế đtập hợp lực lượng bên ngoài, tranh
thủ sự đồng tình, ủng hộ giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh của các trào lưu cách mạng thời đại để tạo thành sức mạnh tổng hợp
cho cách mạng Việt Nam.
đây, sức mạnh dân tộc chính yếu tbên trong. Đó tổng hợp những lợi thế,
những nguồn lực nội sinh của dân tộc, quốc gia bao hàm toàn bộ trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa, hội; giữa truyền thống và hiện tại. Sức mạnh dân tộc
của nước ta là tổng hợp sức mạnh vật chất và tinh thần, song trước hết là sức mạnh
của chủ nghĩa yêu nước và ý thức tự lực, tự cường dân tộc; sức mạnh của tinh thần
đoàn kết; của ý chí đấu tranh anh dũng, kiên cường, bất khuất... Sức mạnh đó đã
giúp cho dân tộc Việt Nam vượt qua biết bao khó khăn, thử thách trong việc bảo vệ
và giành độc lập chủ quyền lãnh thổ.
Yếu tố bên ngoài chính là sức mạnh thời đại, là các xu thế chính trị, kinh tế, xã hội
trên thế giới như: hòa bình, hợp tác phát triển, cách mạng khoa học công nghệ,
xu thế dân chủ hóa, xu thế phát triển bền vững, tchủ, xu thế hợp tác liên kết
lOMoARcPSD| 61573419
kinh tế. Trong quá trình hoạt động cách mạng, nhờ chú ý và tổng kết thực tiễn dưới
ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng bước phát hiện
ra sức mạnh đại tiềm ẩn trong các phong trào cách mạng thế giới Việt Nam
cần phải tranh thủ. Các phong trào đó nếu được liên kết chặt chẽ, tập hợp trong khối
đoàn kết quốc tế sẽ tạo nên sức mạnh to lớn.
2.2. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực
hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của thời đại
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn liền với
chủ nghĩa quốc tế sản, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế.
Thời đại Người sống hoạt động chính trị chính thời đại đã chấm dứt thời
kỳ tồn tại biệt lập giữa các quốc gia, mở ra các quan hệ quốc tế ngày càng sâu rộng
cho các dân tộc, làm cho vận mệnh của mỗi dân tộc không thế tách rời vận mệnh
chung của cả loài người.
Theo Hồ Chí Minh, muốn tăng cường đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh vì mục
tiêu chung, các đảng cộng sản trên thế giới phải kiên tchống lại mọi khuynh hướng
sai lầm của chủ nghĩa hội, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa vanh... những
khuynh hướng làm suy yếu sức mạnh đoàn kết, thống nhất các lực lượng cách mạng
thế giới. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh,
thắng lợi của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhờ kết hợp giải phóng
dân tộc cùng với giải phóng giai cấp, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đã
được bổ sung nguồn lực mới. Nhờ giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, Việt Nam
cũng đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của quốc tế và huy động được sức mạnh
của các trào lưu cách mạng thời đại, làm cho sức mạnh của dân tộc được nhân lên
gấp bội, chiến thắng được những kthù sức mạnh áp đảo hơn mình vnhiều mặt.
Trong tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc tế, kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa
yêu nước với chủ nghĩa quốc tế sản chính nhằm góp phần cùng nhân dân thế
giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của dân tộc thời đại. Nhân dân
Việt Nam không chỉ chiến đấu độc lập, tự do cho đất nước mình còn độc
lập, tự do của các nước khác, không chỉ bảo vệ những lợi ích sống còn của dân tộc
mình mà còn vì những mục tiêu lớn lao hơn của thời đại hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
lOMoARcPSD| 61573419
Tài liệu tham khảo:
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/print/2249/ho-chi-minh-ke-thua-va-phattrien-
gia-tri-van-hoa-dan-toc-va-nhan-loai

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61573419
1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết quốc tế
1.1. Truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
Ý thức quốc gia, dân tộc, làm chủ đất nước của cộng đồng người Việt đã có từ ngàn
xưa. Cuộc chiến đấu với thiên nhiên, với giặc ngoại xâm trong lịch sử ngàn năm đã
hun đúc nên truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam: Yêu nước nồng nàn, độc lập
tự chủ, kiên cường bất khuất, đoàn kết thống nhất, nhân ái khoan dung.
Trước hết, đó chính là chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt trong quá trình hình thành lịch sử của dân tộc Việt Nam. Những nội dung chủ
yếu của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã từng bước được đúc kết, hình thành một
hệ thống các nguyên lý với tư tưởng của các anh hùng hào kiệt như: Lý Thường Kiệt,
Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung... chính sức mạnh truyền thống ấy đã
thúc giục người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Đó cũng
chính là động lực thúc đẩy mọi suy nghĩ, hành động của Người trong suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng. Hồ Chí Minh đã làm phong phú nội dung của chủ nghĩa yêu
nước. Yêu nước đối với Người là gắn liền với yêu nhân dân. Người nói, lòng thương
yêu nhân dân và nhân loại của Người không bao giờ thay đổi. Người có một ham
muốn tột bậc là làm sao nước ta được độc lập, dân ta có cơm ăn, áo mặc và được
học hành. Người đã nêu ra chuẩn mực “trung với nước, hiếu với dân” và phát triển
nội dung mới của chủ nghĩa yêu nước. Đó là yêu nước dựa trên những quan điểm
giai cấp công nhân, yêu nước dần mở rộng ra trở thành tình yêu vô cùng rộng lớn
đối với nhân dân lao động, dối với những người cùng khổ và đối với giai cấp công
nhân các nước trên thế giới. Trên cơ sở tư tưởng của giai cấp công nhân, Người cũng
đã nêu ra nội dung mới:” Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân gắn liền với yêu chủ nghĩa xã
hội, vì chỉ có chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mới ngày một ấm no thêm, Tổ
quốc ngày một giàu mạnh thêm”.
Thứ hai, đó chính là tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái của dân tộc. Truyền
thống này hình thành cùng một lúc với sự hình thành dân tộc, ra đời từ hoàn cảnh và
yêu cầu đấu tranh chống thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm. Người Việt Nam từ lâu
đã quen gắn bó với nhau trong tình làng nghĩa xóm, lá lành đùm lá rách. Bước sang
thế kỷ XX, mặc dù xã hội Việt Nam đã có sự phân hóa về giai cấp nhưng truyền
thống này vẫn bền vững. Vì vậy Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy sức mạnh
truyền thống đoàn kết của dân tộc để hình thành tư tưởng đoàn kết quốc tế, phấn đấu
vì một thế giới hòa bình, ổn định và phát triển.
Thứ ba, truyền thống ngoại giao của Việt Nam cũng là một trong những nhân tố
quan trọng để hình thành những tư tường đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. Ngoại
giao truyền thống Việt Nam luôn xem trọng việc giữ hòa khí, đoàn kết hữu nghị với
các nước, phấn đấu cho sự thái hòa, yêu chuộng hòa bình là bản chất của ngoại giao lOMoAR cPSD| 61573419
Việt Nam. Trong bản sắc của ngoại giao Việt Nam, tinh thần độc lập, tự chủ, tự
cường và bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc là nguyên tắc bất
biến. Đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử, xuất phát từ tinh thần yêu nước
của dân tộc, không trông đợi vào bên ngoài, mà phải dựa vào chính mình để bảo vệ
lợi ích của đất nước, dân tộc.
1.2. Tư tưởng đoàn kết trong học thuyết Mác - Lênin
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 chính là minh chứng hùng
hồn cho tính đúng đắn của tư tưởng đoàn kết trong học thuyết Mác - Lênin. Cách
mạng Nga đã chỉ ra rằng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, nhân
dân là người làm nên lịch sử. Giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải đi từ chiến
lược “giai cấp vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!” tới chiến lược “giai cấp vô sản
tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”. Đoàn kết trong học thuyết
Mác - Lênin lấy giai cấp công nhân và nông dân làm nền tảng, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh quốc tế. Lênin chính là tấm gương sáng chói về tinh thần đoàn
kết trong nước, đoàn kết quốc tế là hiện thân cho tình anh em bốn bể. Có thể nói
những quan điểm đoàn kết trong học thuyết Mác - Lênin là cơ sở tư tưởng lý luận
quan trọng nhất, bởi nó không chỉ trang bị thế giới quan, phương pháp luận, mà còn
chỉ ra những phương hướng rõ ràng trong quá trình thực hiện đoàn kết. Cũng chính
vì vậy mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng, sáng tạo những tư tưởng ấy vào điều
kiện cụ thể của nước ta mở đường cho sự nghiệp thắng lợi của cách mạng.
2. Sự cần thiết phải đoàn kết quốc tế
2.1. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
Theo Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc tế để tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh
thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh của các trào lưu cách mạng thời đại để tạo thành sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam.
Ở đây, sức mạnh dân tộc chính là yếu tố bên trong. Đó là tổng hợp những lợi thế,
những nguồn lực nội sinh của dân tộc, quốc gia bao hàm toàn bộ trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; giữa truyền thống và hiện tại. Sức mạnh dân tộc
của nước ta là tổng hợp sức mạnh vật chất và tinh thần, song trước hết là sức mạnh
của chủ nghĩa yêu nước và ý thức tự lực, tự cường dân tộc; sức mạnh của tinh thần
đoàn kết; của ý chí đấu tranh anh dũng, kiên cường, bất khuất... Sức mạnh đó đã
giúp cho dân tộc Việt Nam vượt qua biết bao khó khăn, thử thách trong việc bảo vệ
và giành độc lập chủ quyền lãnh thổ.
Yếu tố bên ngoài chính là sức mạnh thời đại, là các xu thế chính trị, kinh tế, xã hội
trên thế giới như: hòa bình, hợp tác và phát triển, cách mạng khoa học công nghệ,
xu thế dân chủ hóa, xu thế phát triển bền vững, tự chủ, xu thế hợp tác và liên kết lOMoAR cPSD| 61573419
kinh tế. Trong quá trình hoạt động cách mạng, nhờ chú ý và tổng kết thực tiễn dưới
ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng bước phát hiện
ra sức mạnh vĩ đại tiềm ẩn trong các phong trào cách mạng thế giới mà Việt Nam
cần phải tranh thủ. Các phong trào đó nếu được liên kết chặt chẽ, tập hợp trong khối
đoàn kết quốc tế sẽ tạo nên sức mạnh to lớn.
2.2. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực
hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của thời đại
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn liền với
chủ nghĩa quốc tế vô sản, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế.
Thời đại mà Người sống và hoạt động chính trị chính là thời đại đã chấm dứt thời
kỳ tồn tại biệt lập giữa các quốc gia, mở ra các quan hệ quốc tế ngày càng sâu rộng
cho các dân tộc, làm cho vận mệnh của mỗi dân tộc không thế tách rời vận mệnh
chung của cả loài người.
Theo Hồ Chí Minh, muốn tăng cường đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh vì mục
tiêu chung, các đảng cộng sản trên thế giới phải kiên trì chống lại mọi khuynh hướng
sai lầm của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sô vanh... những
khuynh hướng làm suy yếu sức mạnh đoàn kết, thống nhất các lực lượng cách mạng
thế giới. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh,
thắng lợi của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhờ kết hợp giải phóng
dân tộc cùng với giải phóng giai cấp, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đã
được bổ sung nguồn lực mới. Nhờ giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, Việt Nam
cũng đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của quốc tế và huy động được sức mạnh
của các trào lưu cách mạng thời đại, làm cho sức mạnh của dân tộc được nhân lên
gấp bội, chiến thắng được những kẻ thù có sức mạnh áp đảo hơn mình về nhiều mặt.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc tế, kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa
yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản chính là nhằm góp phần cùng nhân dân thế
giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của dân tộc và thời đại. Nhân dân
Việt Nam không chỉ chiến đấu vì độc lập, tự do cho đất nước mình mà còn vì độc
lập, tự do của các nước khác, không chỉ bảo vệ những lợi ích sống còn của dân tộc
mình mà còn vì những mục tiêu lớn lao hơn của thời đại hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội. lOMoAR cPSD| 61573419 Tài liệu tham khảo:
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/print/2249/ho-chi-minh-ke-thua-va-phattrien-
gia-tri-van-hoa-dan-toc-va-nhan-loai