Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng | Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng | Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG,
CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH, CHÍ CÔNG VÔ
Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc viết tác phẩm Đường Kách mệnh. Đây
cuốn sách bồi dưỡng lớp cán bộ đầu tiên của cách mạng Việt Nam đi theo học
thuyết Mác Lênin cũng cuốn sách đầu tiên trực tiếp tuyên truyền về chủ
nghĩa Mác – Lênin cho lớp thanh niên ưu tú thời đó. Đặc biệt, mở đầu tác phẩm
lại bài nói về Tư cách một người cách mệnh. Phải chăng, Hồ Chí Minh, ngay
từ thời kỳ đó, đã bắt đầu chỉ tra một quan điểm lớn của Người: cái đức gốc
của người cách mạng.
45 năm sau, trong bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân trước lúc ra
đi, trước hết, Người dặn về Đảng, vấn đề đạo đức đã được đặc biệt nhấn
mạnh: “Đảng ta một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên cán bộ phải thật sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công tư.
Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Rõ ràng, Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng, một lãnh tụ cách mạng đã bàn
nhiều nhất, quan tâm hàng đầu đến vấn đề đạo đức. Bàn một cách sâu sắc,
đọng, thấm thía, đồng thời chính Người đã tự mình, trong cả cuộc đời, thực hiện
một cách hoàn chỉnh, trọn vẹn nhất những tưởng khát vọng đạo đức do
mình đặt ra. Hồ Chí Minh vừa nhà luận về đạo đức, vừa một tấm gương
đạo đức trong sáng, gần gũi và độc đáo nhất.
1. tưởng Hồ Chí Minh, nền đạo đức Việt Nam đã mang bản chất
mới đã được chính Người gọi tên cho nó, đó đạo đức mới, đạo đức
cách mạng.
Đạo đức cách mạng do Hồ Chí Minh đề xướng về lý luận và dày công xây
đắp trong thực tiễn đạo đức mang bản chất phẩm chất của giai cấp công
nhân nhân dân lao động, kết hợp nhuần nhuyễn sinh động với những
truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta những tinh hoa đạo đức của loài
người. “Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức
đại, không phải danh vọng của nhân, lợi ích chung của Đảng,
của dân tộc, của loài người”.
Khi bàn về đạo đức, Hồ Chí Minh rất hay sử dụng những khái niệm, phạm
trù đạo đức đã quen thuộc với dân tộc ta từ lâu đời, trong đó đạo đức Nho
giáo, Phật giáo, nhưng Người đã đưa vào đó những nội dung mới, khi hoàn
toàn mới, đồng thời Người bổ sung những khái niệm, phạm trù đạo đức của thời
đại mới. Chính thế sự hòa nhập những giá trị đạo đức mới với những
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, làm cho quan niệm vàtưởng đạo đức
của Hồ Chí Minh luô luôn gần gũi, dễ hiểu đối với nhân dân, với mọi người.
Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức mới nền tảng của người cách mạng
bởi vì, theo Người, sự nghiệp cách mạng tiêu diệt hội cũ, xây dựng hội
mới với những lý tưởng và khát vọng cao đẹp, là một , đầy“sự nghiệp khổng lồ”
gian khổ, phức tạp, cần một sự phấn đấu không mệt mỏi, sự kiên định, lòng
dũng cảmhy sinh lớn của nhiều thế hệ cách mạng. Không chăm lo xây dựng
đạo đức mới cho cán bộ, đảng viên nhân dân, Đảng khó thể thực hiện
được đến cùng mục tiêu cao cả của cách mạng. Theo cách diễn đạt bình dị của
Người, đạo đức như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối, sức mạnh của con
người, sức mạnh mới gánh được nặng đi được xa. Ngay trong những năm
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khi Đảng đang tiến hành sự nghiệp đại giải
phóng thống nhất đất nước, Hồ Chí Minh đã khái quát cảnh báo: “Một
dân tộc, một đảng mỗi con người, ngày hôm qua đại, sức hấp dẫn
lớn, không nhất định hôm nay ngày mai vẫn được mọi người yêu mến ca
ngợi, nếu lòng dạ không còn trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa nhân”.
Chính vậy Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh “Đảng phải đạo
đức, văn minh”, yêu cầu việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức phải nhân tố
có ý nghĩa quyết định đối với phẩm chất nười cách mạng, người đảng viên.
Như vậy, Hồ Chí Minh, nền đạo đức mới của dân tộc ta bắt đầu hình
thành phát triển mạnh mẽ, thấm sâu vào đời sống, trở thành một bộ phận hết
sức quan trọng khắc họa diện mạo đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam, của
Văn hiến Việt Nam hiện đại. đã trở thành khí mạnh mẽ của Đảng của
nhân dân ta trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc chủ nghĩa xã hội, mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, hội công bằng, dân chủ, văn minh” hòa
bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các dân tộc trên thế giới.
2. Hồ Chí Minh bàn về những phẩm chất đạo đức bản của con
người Việt Nam thời đại mới.
Từ cuộc sống thực của nhân dân, cuộc đời thực của con người hội
Việt Nam, từ sự từng trải sâu sắc tu dưỡng của chính mình, từ niềm tin lớn
lao vào khát vọng và sức vươn lên cái chân, cái thiện, cái mỹ của con người, Hồ
Chí Minh đã dày công xây đắp các phẩm chất đạo đức cho con người Việt Nam,
cho mọi người, mọi đối tượng (công nhân, nông dân, trí thức, văn nghệ sĩ, bộ
đội, công an, già trẻ, thanh niên, phụ nữ, đồng bào dân tộc, tôn giáo...) trong mọi
lĩnh vực hoạt động và sinh sống của con người, trong mọi phạm vi (cá nhân, gia
đình, làng xóm, phố phường, tập thể..) trong các quan hệ phong phú, phức
tạp, tinh tế của con người.... Từ đó, Người khái quát thành những phẩm chất
bản của con người Việt Nam, những chuẩn mực chung của nền đạo đức cách
mạng Việt Nam.
, phẩm chất bao trùm nhất, quanMột trung với nước, hiếu với dân
trọng nhất. Vận dụng khái niệm truyền thống về trung hiếu, Hồ Chí Minh đã
đưa vào đó nội dung hoàn toàn mới: trung với nước sự trung thành với sự
nghiệp dựng nước, giữ nước và xây dựng đất nước của nhân dân. Nướcđây là
nước của dân, còn dân người làm chủ, chủ nhân của đất nước, “bao nhiêu
quyền hạn đều của dân”, “bao nhiêu lợi ích đều dân”. thế, theo Hồ Chí
Minh, tưởng Người đề xướng “hiếu với dân”, không phải chỉ dừng lại
chỗ thương dân, gần dân, gắn với dân, kính trọng học tập dân, dựa
hẳng vào dân, lấy dân làm gốc.
Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh còn yêu cầu cao hơn: đó “tận
trung, tận hiếu”, như vậy mới xứng đáng Đảng của đạo đức văn minh,
cán bộ vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
“Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do
của Tổ quốc, chủ nghĩa hội...” chuẩn mực đạo đức bao trùm của con
người Việt Nnam, định hướng chính trị - đạo đức lớn nhất cho mỗi người,
khát vọng vươn lên tự hoàn thiện mình của tất cả chúng ta theo ngọn cờ,
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Hai , yêu thương con người một trong những phẩm chất đạo đức đẹp
đẽ à cao cả nhất mà Hồ Chí Minh yêu cầu và khẳng định đối với con người Việt
Nam và chính Hồ Chí Minh đã chứng minh tuyệt vời phẩm chất đó bằng toàn bộ
cuộc đời mình.
“Đầu tiên công việc đối với con người”, trong bản bổ sung cho Di
chúc, Hồ Chí Minh đã viết như vậy toàn bộ sự nghiệp của Người cũng đã
chứng minh cho tư tưởng nhân văn cao cả này.
Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân biệt
miền xuôi hay miền ngược, già hay trẻ, trai hay gái... hễ người Việt Nam yêu
nước thì đều chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người, nhưng trước hết dành
cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột. Không
tình yêu thương đó, không có thể nói đến cách mạng, càng không thể nói đến
tưởng hội chủ nghĩa. Tình yêu thương đó gắn liền với thái độ tôn trọng con
người, biết cách ngăn đỡ con người, rộng lượng và khoan dung với người, đồng
thời nghiêm khắc với mình.
yêu thương hạn đối với con người, Hồ Chí Minh coi đấu tranh giải
phóng dân tộc, giành độc lập tự do con đường để giải phóng con người, coi
con người được giải phóng được sống trong độc lập, tự do nguyện vọng
sâu xa và hạnh phúc lớn lao của chính con người.
Yêu thương con người gắn liền với niềm tin tuyệt đối vào khả năng tự giải
phóng của con người, vào năng lực khát vọng vươn lên tự hoàn thiện mình
theo lý tưởng chân, thiện, mỹ.
Ba là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những phẩm chất được Hồ
Chí Minh đề cập nhiều nhất, thường xuyên nhất trong các bài viết, bài nói về
đạo đức cách mạng.
Phẩm chất này gắn với hoạt động thực tiễn, được thể hiện cụ thể, hàng
ngày của mỗi con người, là cái nhìn thấy được của đạo đức, không thể che giấu,
gắn chặt giữa nói và làm, suy nghĩ và hành động....
Hồ chí Minh đã sử dụng những khái niệm truyền thống của đạo đức
phương Đông, giữ lại những tốt đẹp, phù hợp, lọc bỏ những lạc hậu, lỗi
thời và đưa vào những nội dung mới của thời đại mới.
Cần tức lao động cần cù, siêng năng, tự lực cánh sinh, kế hoạch,
sáng tạo và có năng suất cao.
Kiệm tiết kiệm sức lao động, thì giờ, tiền của của nhân dân, của nước,
của bản thân, tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to, không phô trương, hình thức, xa xỉ,
hoang phí....
Liêm “Luôn luôn tôn trọng của công, của dân”, liêm khiết trong mọi
hoàn cảnh “không tham địa vị, không tham tiền tài. Không tham sung sướng.
Không ham người tâng bốc mình”.
Chính “nghĩa không tà, thẳg thắn, đứng đắn” đối với mình đối với
người và đối với việc. “Việc thện thì dù nhỏ mấy cũg làm, việc ác thìdù nhỏ mấy
cũng tránh”.
Về chí công tư, theo Hồ Chí Minh “khi làm bất cứ việc cũng
đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “phải lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Hồ Chí Minh đã dành nhiều bài nói, bài viết để phân tích, giải thích sinh
động, cụ thể và sâu sắc về các phẩm chất trên, đồng thời chỉ ra quan hệ mật thiết
giữa chúng với nhau. cần, kiệm, liêm, chính tốt sẽ dẫn tới chí côngtư, và chí
công tư, một lòng dân, nước nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm,
liêm, chính. người yêu cầu mọi người dân Việt Nam đều phải rè luyện, tu dưỡng
theo tác phẩm chất trên, trong đó đặc biệt cán bộ, đảng viên chức,
quyền: “Trước nhất cán bộ các quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to,
cấp thấp thì quyền nhỏ. to hay nhỏ, quyền thiếu lương tâm dịp
đục khoét,có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”.
Bốn, tinh thần quốc tế chân chính, trong sáng là yêu cầu phẩm chất
đạo đức mới của giai cấp công nhân nhân dân lao động nhằm vào mối quan
hệ rộng lớn, vượt ra ngoài quốc gia, dân tộc, xây dựng tình đoàn kết “bốn hương
vô sản đều là anh em”, tình đoàn kết với các dân tộc, với nhân dân các nước, với
tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hòa bình, hữu nghị, công lý và tiến bộ
xã hội.
3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới.
Để xây dựng nền đạo đức mới, cùng với việc đúc kết thành luận đạo
đức nhằm chỉ đạo thực tiễn, Hồ Chí Minh đồng thời xác định những nguyên tắc
và phương châm để định hướng cho sự lãnh đạo của Đảng và cho việc rèn luyện,
tu dưỡng đạo đức của mỗi con người. Đây cũng một đặc trưng rất riêng, độc
đáo của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Một , ,nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức một yêu cầu
một phương châm lớn sâu sắc để xây dựng đạo đức bằng cả cuộc đời
mình, Hồ Chí Minh đã thực hiện một cách triệt để, nghiêm túc trọn vẹn. Đối
với Hồ Chí Minh, nói phải luôn luôn đi đôi với làm và cao hơn, làm rồi mới nói,
làm nhiều, nói ít thậm chí làm hết lòng, làm tận tụy không nói, không tự
phô trương mình.
Hồ Chí Minh rất gét những kẻ đạo đức giả, nói không làm, nói một
đàng, làm một nẻo Người cho rằng, những kẻ đó làm giảm đi lòng tin của
nhân dân đối với Đảng. Đây bài học thời sự sâu sắc đối với vấn đề đạo đức
trong Đảng ta hiện nay. Người chỉ ra một luận điểm rất quan trọng, giá trị
cùng thiết thực không chỉ lúc đó, trực tiếp với hiện nay: “Trước mặt quần
chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ ta được họ yêu mến.“cộng sản”
Quần chúng chỉ quý mến những người cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn
nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.
Chính luận điểm này đã thể hiện rõ một phương châm xây dựng đạo đức
là vấn đề nêu gương. Không gì thuyết phục hơn, có sức cảm hóa và lôi cuốn hơn
trong lĩnh vực đạo đức bằng việc nêu gương, Hồ Chí Minh đã làm như vậy một
cách cần mẫn, tinh tế, sáng tạo thế đã tác dụng cùng to lớn, sâu sắc
trong toàn bộ đời sống đạo đức của hội ta, đất nước ta. Người đã hai thác
triệt để các tấm gương “người tốt, việc tốt”, gương các anh hùng, liệt sĩ, gương
các vị tiền bối, cha ông trong lịch sử, từ chung đến riêng, từ lớn đến nhỏ, từ xa
tới gần, của thế hệ này đối với thế hệ khác.... để dày công xây đắp nền tảng vững
chắc và các đỉnh cao của đạo đức mới.
Hai , xây đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục
đích xây con đường để xây dựng đạo đức mới, nguyên tắc được Hồ Chí
Minh khẳng định vận dụng thường xuyên, linh hoạt, đầy sáng tạo trong chỉ
đạo thực hiện. Xây dựng đạo đức mới một cuộc đấu tranh cùng phức tạp,
gay gắt, tinh vi, diễn ra trong mọi lúc, mọi nơi, trong từng tập thể từng con
người, thế nguyên tắc trên một đòi hỏi khách quan, cần vận dụng triệt để,
không được tránh, đặc iệt với cuộc chiến đấu chống cái ác, cái xấu, sự thoái
hóa, biến chất hiện nay trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
Xây dựng đạo đức mới, trước hết là tuyên truyền, giáo dục các phẩm chất,
chuẩn mực đạo đức mới cho mỗi người, trong từng gia đình, từng giới, tập thể,
cộng đồng, làng xóm, trường học và toàn xã hội. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm
đến công việc này, đến việc tạo ra môi trường đạo đức trong sáng, lành mạnh
cho con người, cho từng cộng đồng.
Xây dựng đạo đức cũng bằng việc khơi dậy ý thức vươn lên tự nguyện
của con người tới cái chân, cái thiện, cái mỹ, từ đó tạo ra bằng được năng lực tự
trau dồi đạo đức trong mỗi con người, loại bỏ cái ác, cái xấu, cái vô đạo đức.
Cùng với xây, nhiệm vụ giữ vị trí đặc biệt quan trọng để tạo môiChống
trường cho cái tốt đẹp nảy nở, để bảo vệ và khẳng định được cái mới về đạo đức
đang hình thành phát triển trong cuộc đấu tranh quyết liệt với cái ác, cái xấu,
cái phản động và cái vô đạo đức.
Hồ chí Minh đã nhiều lần vạch ra rất cụ thể những khuyết điểm, những
căn bệnh đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhân dân và chỉ rõ tác hại ghê gớm của
chúng đối với Đảng sự nghiệp cách mạng. Ngay từ năm 1952, Người đã quy
những tệ nạn đó vào ba loại chính là và Người coi đótham ô, lãng phí, quan liêu
tội ác, kẻ thù nguy hiểm của nhân dân, bạn đồng minh của thực dân,
phong kiến, thứ “giặc nội xâm”, “giặc trong lòng”, phá từ trong phá ra.
Người khẳng định dứt khoát, phải kiên quyết chống lại những tệ nạn đó. “Cần
phải nêu những đồng chí đã ăn hối lộ ra để cho luận quở trách cần phải
đuổi họ ra khỏi Đảng.... Phải lập tức đề nghị một đạo luật để trừng trị những vụ
hối lộ”.
Tạo ra được một phong trào quần chống rộng rãi tham gia trực tiếp vào
quá trình xây và chống là con đường hiệu quả nhất trong các cuộc vận động xây
dựng đạo đức mới của chúng ta, đó cũng là kinh nghiệm lớn mà Hồ Chí Minh đã
dày công chỉ đạo và thực hiện.
Ba , phải tu dưỡng đạo đức suốt đời, kiên trì, bền bỉ, hàng ngày, bởi
“Đạo đức cách mạng không phải trên trời rơi xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện,
bề bỉ, hàng ngày phát triển củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng,
vàng càng luyện, càng trong”. Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra một hiện tượng
đến nay, chúng ta càng thấm thía tính thời sự của nó, đó những người
trong lúc đấu tranh thì trung thành, không sợ nguy hiểm, cực khổ... công với
cách mạng, song đến khi có “ít quyền họn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ,
phạm vào tham ô, lãng phí, quang liêu... biến thành người tội với cách
mạng”.
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở,
cái xấu, cái tốt, ai cũng thiện, ác trong bản thân mình, trong lòng mình.
vậy, cần cách nhìn biện chứng nhân văn để phát triển cái thiện, đẩy lùi
cái ác trong mỗi con người đặc biệt quan trọng từng người phải rèn luyện,
tu dưỡng, dám đấu tranh với chính mình để làm cho “phần tốt ở trong mỗi người
nảy nở như hoa mùa xuân phần xấu bị mất dần đi, đó thái độ của người
cách mạng.
4. tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Trong Di chúc của mình, Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân
ta một nhắn gửi cực kỳ sâu sắc về thời kỳ đất nước ta bước vào xây dựng và đổi
mới sau khi giành được độc lập, tự do thống nhất Tổ quốc. Người cho rằng,
đó là để “một cuộc chiến đấu khổng lồ” “chống lại những gì đã củ kỹ, hư hỏng,
để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Cuộc chiến đấu khổng lồ ấy lại diễn ra
trong những điều kiện mới với những biến động to lớn, sâu sắc, phức tạp và khó
lường. Chúng ta đã đường lối đổi mới được thực tiễn kiểm nghiệm 16 năm
qua đúng hướng đúng đắn. Mặc dầu vậy, chúng ta đang đứng trước rất
nhiều những vấn đề mới, thách thức mới. Do tác động cực kỳ phức tạp, nhiều
mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, nên vấn đề đạo đức đang trở thành ột
trong những vấn đề bức xúc nhất của toàn Đảng và toàn dân, ảnh hưởng trực
tiếp đến uy tín, quyền lãnh đạo và niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tác động
tiêu cực đến toàn bộ nền đạo đức hội chúng ta đã dày công xây dựng
nhiều thập kỷ qua.
Sự nghiệp cách mạng của chúng ta, cuộc sống của nhân dân ta đang đòi
hỏi phải kiên quyết làm trong sạch Đảng và làm lành mạnh đời sống đạo đức
hội. LÀM được hai hiệm vụ trên cũng chính thực hiện trung thành với những
khát vọng di huấn đạo đức của Chủ tịch hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng ta,
dân tộc ta. Trở về thấu hiểu sâu hơn nữa cội nguồn Hồ Chí Minh, tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh sẽ giúp chúng ta vững tâm, kiên định đi tới trong cuộc đấu
tranh một nền đạo đức Việt Nam ngang với tầm vóc của dân tộc thời đại,
thấm sâu những tư tưởng lớn của Người về đạo đức mới, đạo đức cách mạng.
| 1/7

Preview text:

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG,
CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH, CHÍ CÔNG VÔ TƯ
Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc viết tác phẩm Đường Kách mệnh. Đây là
cuốn sách bồi dưỡng lớp cán bộ đầu tiên của cách mạng Việt Nam đi theo học
thuyết Mác – Lênin và cũng là cuốn sách đầu tiên trực tiếp tuyên truyền về chủ
nghĩa Mác – Lênin cho lớp thanh niên ưu tú thời đó. Đặc biệt, mở đầu tác phẩm
lại là bài nói về Tư cách một người cách mệnh. Phải chăng, Hồ Chí Minh, ngay
từ thời kỳ đó, đã bắt đầu chỉ tra một quan điểm lớn của Người: cái đức là gốc của người cách mạng.
45 năm sau, trong bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân trước lúc ra
đi, trước hết, Người dặn dò về Đảng, và vấn đề đạo đức đã được đặc biệt nhấn
mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.
Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Rõ ràng, Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng, một lãnh tụ cách mạng đã bàn
nhiều nhất, quan tâm hàng đầu đến vấn đề đạo đức. Bàn một cách sâu sắc, cô
đọng, thấm thía, đồng thời chính Người đã tự mình, trong cả cuộc đời, thực hiện
một cách hoàn chỉnh, trọn vẹn nhất những tư tưởng và khát vọng đạo đức do
mình đặt ra. Hồ Chí Minh vừa là nhà lý luận về đạo đức, vừa là một tấm gương
đạo đức trong sáng, gần gũi và độc đáo nhất.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh, nền đạo đức Việt Nam đã mang bản chất
mới và đã được chính Người gọi tên cho nó, đó là đạo đức mới, đạo đức cách mạng.
Đạo đức cách mạng do Hồ Chí Minh đề xướng về lý luận và dày công xây
đắp trong thực tiễn là đạo đức mang bản chất và phẩm chất của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, kết hợp nhuần nhuyễn và sinh động với những
truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta và những tinh hoa đạo đức của loài
người. “Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức
vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng,
của dân tộc, của loài người”.
Khi bàn về đạo đức, Hồ Chí Minh rất hay sử dụng những khái niệm, phạm
trù đạo đức đã quen thuộc với dân tộc ta từ lâu đời, trong đó có đạo đức Nho
giáo, Phật giáo, nhưng Người đã đưa vào đó những nội dung mới, có khi hoàn
toàn mới, đồng thời Người bổ sung những khái niệm, phạm trù đạo đức của thời
đại mới. Chính vì thế mà có sự hòa nhập những giá trị đạo đức mới với những
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, làm cho quan niệm và tư tưởng đạo đức
của Hồ Chí Minh luô luôn gần gũi, dễ hiểu đối với nhân dân, với mọi người.
Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức mới là nền tảng của người cách mạng
bởi vì, theo Người, sự nghiệp cách mạng tiêu diệt xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới với những lý tưởng và khát vọng cao đẹp, là một “sự nghiệp khổng lồ”, đầy
gian khổ, phức tạp, cần một sự phấn đấu không mệt mỏi, sự kiên định, lòng
dũng cảm và hy sinh lớn của nhiều thế hệ cách mạng. Không chăm lo xây dựng
đạo đức mới cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, Đảng khó có thể thực hiện
được đến cùng mục tiêu cao cả của cách mạng. Theo cách diễn đạt bình dị của
Người, đạo đức như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối, sức mạnh của con
người, sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Ngay trong những năm
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khi Đảng đang tiến hành sự nghiệp vĩ đại giải
phóng và thống nhất đất nước, Hồ Chí Minh đã khái quát và cảnh báo: “Một
dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn
lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca
ngợi, nếu lòng dạ không còn trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”
.
Chính vì vậy mà Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh “Đảng phải là đạo
đức, là văn minh”
, và yêu cầu việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức phải là nhân tố
có ý nghĩa quyết định đối với phẩm chất nười cách mạng, người đảng viên.
Như vậy, Hồ Chí Minh, nền đạo đức mới của dân tộc ta bắt đầu hình
thành và phát triển mạnh mẽ, thấm sâu vào đời sống, trở thành một bộ phận hết
sức quan trọng khắc họa diện mạo và đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam, của
Văn hiến Việt Nam hiện đại. Nó đã trở thành vũ khí mạnh mẽ của Đảng và của
nhân dân ta trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” và vì hòa
bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các dân tộc trên thế giới.
2. Hồ Chí Minh bàn về những phẩm chất đạo đức cơ bản của con
người Việt Nam thời đại mới.
Từ cuộc sống thực của nhân dân, cuộc đời thực của con người và xã hội
Việt Nam, từ sự từng trải sâu sắc và tu dưỡng của chính mình, từ niềm tin lớn
lao vào khát vọng và sức vươn lên cái chân, cái thiện, cái mỹ của con người, Hồ
Chí Minh đã dày công xây đắp các phẩm chất đạo đức cho con người Việt Nam,
cho mọi người, mọi đối tượng (công nhân, nông dân, trí thức, văn nghệ sĩ, bộ
đội, công an, già trẻ, thanh niên, phụ nữ, đồng bào dân tộc, tôn giáo...) trong mọi
lĩnh vực hoạt động và sinh sống của con người, trong mọi phạm vi (cá nhân, gia
đình, làng xóm, phố phường, tập thể..) và trong các quan hệ phong phú, phức
tạp, tinh tế của con người.... Từ đó, Người khái quát thành những phẩm chất cơ
bản của con người Việt Nam, những chuẩn mực chung của nền đạo đức cách mạng Việt Nam.
Một là, trung với nước, hiếu với
dân phẩm chất bao trùm nhất, quan
trọng nhất. Vận dụng khái niệm truyền thống về trung và hiếu, Hồ Chí Minh đã
đưa vào đó nội dung hoàn toàn mới: trung với nước là sự trung thành với sự
nghiệp dựng nước, giữ nước và xây dựng đất nước của nhân dân. Nước ở đây là
nước của dân, còn dân là người làm chủ, chủ nhân của đất nước, “bao nhiêu
quyền hạn đều của dân”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”
. Vì thế, theo Hồ Chí
Minh, tư tưởng mà Người đề xướng “hiếu với dân”, không phải chỉ dừng lại ở
chỗ thương dân, mà là gần dân, gắn bó với dân, kính trọng và học tập dân, dựa
hẳng vào dân, lấy dân làm gốc.
Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh còn yêu cầu cao hơn: đó là “tận
trung, tận hiếu”, có như vậy mới xứng đáng là Đảng của đạo đức và văn minh,
cán bộ vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
“Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do
của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội...” là chuẩn mực đạo đức bao trùm của con
người Việt Nnam, là định hướng chính trị - đạo đức lớn nhất cho mỗi người, là
khát vọng vươn lên tự hoàn thiện mình của tất cả chúng ta theo ngọn cờ, tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Hai là, yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức đẹp
đẽ à cao cả nhất mà Hồ Chí Minh yêu cầu và khẳng định đối với con người Việt
Nam và chính Hồ Chí Minh đã chứng minh tuyệt vời phẩm chất đó bằng toàn bộ cuộc đời mình.
“Đầu tiên là công việc đối với con người”, trong bản bổ sung cho Di
chúc, Hồ Chí Minh đã viết như vậy và toàn bộ sự nghiệp của Người cũng đã
chứng minh cho tư tưởng nhân văn cao cả này.
Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân biệt
miền xuôi hay miền ngược, già hay trẻ, trai hay gái... hễ là người Việt Nam yêu
nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người, nhưng trước hết là dành
cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột. Không có
tình yêu thương đó, không có thể nói đến cách mạng, càng không thể nói đến lý
tưởng xã hội chủ nghĩa. Tình yêu thương đó gắn liền với thái độ tôn trọng con
người, biết cách ngăn đỡ con người, rộng lượng và khoan dung với người, đồng
thời nghiêm khắc với mình.
Vì yêu thương vô hạn đối với con người, Hồ Chí Minh coi đấu tranh giải
phóng dân tộc, giành độc lập tự do là con đường để giải phóng con người, coi
con người được giải phóng và được sống trong độc lập, tự do là nguyện vọng
sâu xa và hạnh phúc lớn lao của chính con người.
Yêu thương con người gắn liền với niềm tin tuyệt đối vào khả năng tự giải
phóng của con người, vào năng lực và khát vọng vươn lên tự hoàn thiện mình
theo lý tưởng chân, thiện, mỹ.
Ba là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những phẩm chất được Hồ
Chí Minh đề cập nhiều nhất, thường xuyên nhất trong các bài viết, bài nói về đạo đức cách mạng.
Phẩm chất này gắn với hoạt động thực tiễn, được thể hiện cụ thể, hàng
ngày của mỗi con người, là cái nhìn thấy được của đạo đức, không thể che giấu,
gắn chặt giữa nói và làm, suy nghĩ và hành động....
Hồ chí Minh đã sử dụng những khái niệm truyền thống của đạo đức
phương Đông, giữ lại những gì tốt đẹp, phù hợp, lọc bỏ những gì lạc hậu, lỗi
thời và đưa vào những nội dung mới của thời đại mới.
Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, tự lực cánh sinh, có kế hoạch,
sáng tạo và có năng suất cao.
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, thì giờ, tiền của của nhân dân, của nước,
của bản thân, tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to, không phô trương, hình thức, xa xỉ, hoang phí....
Liêm là “Luôn luôn tôn trọng của công, của dân”, liêm khiết trong mọi
hoàn cảnh “không tham địa vị, không tham tiền tài. Không tham sung sướng.
Không ham người tâng bốc mình”.
Chính “nghĩa là không tà, thẳg thắn, đứng đắn” đối với mình đối với
người và đối với việc. “Việc thện thì dù nhỏ mấy cũg làm, việc ác thìdù nhỏ mấy cũng tránh”.
Về chí công vô tư, theo Hồ Chí Minh là “khi làm bất cứ việc gì cũng
đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “phải lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ”
.
Hồ Chí Minh đã dành nhiều bài nói, bài viết để phân tích, giải thích sinh
động, cụ thể và sâu sắc về các phẩm chất trên, đồng thời chỉ ra quan hệ mật thiết
giữa chúng với nhau. cần, kiệm, liêm, chính tốt sẽ dẫn tới chí công vô tư, và chí
công vô tư, một lòng vì vì dân, vì nước nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm,
liêm, chính. người yêu cầu mọi người dân Việt Nam đều phải rè luyện, tu dưỡng
theo tác phẩm chất trên, trong đó đặc biệt là cán bộ, đảng viên có chức, có
quyền: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to,
cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp
đục khoét,có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”.
Bốn là, tinh thần quốc tế chân chính, trong sáng là yêu cầu và phẩm chất
đạo đức mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm vào mối quan
hệ rộng lớn, vượt ra ngoài quốc gia, dân tộc, xây dựng tình đoàn kết “bốn hương
vô sản đều là anh em”, tình đoàn kết với các dân tộc, với nhân dân các nước, với
tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hòa bình, hữu nghị, công lý và tiến bộ xã hội.
3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới.
Để xây dựng nền đạo đức mới, cùng với việc đúc kết thành lý luận đạo
đức nhằm chỉ đạo thực tiễn, Hồ Chí Minh đồng thời xác định những nguyên tắc
và phương châm để định hướng cho sự lãnh đạo của Đảng và cho việc rèn luyện,
tu dưỡng đạo đức của mỗi con người. Đây cũng là một đặc trưng rất riêng, độc
đáo của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Một là, nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức là một yêu cầu,
một phương châm lớn và sâu sắc để xây dựng đạo đức mà bằng cả cuộc đời
mình, Hồ Chí Minh đã thực hiện một cách triệt để, nghiêm túc và trọn vẹn. Đối
với Hồ Chí Minh, nói phải luôn luôn đi đôi với làm và cao hơn, làm rồi mới nói,
làm nhiều, nói ít và thậm chí làm hết lòng, làm tận tụy mà không nói, không tự phô trương mình.
Hồ Chí Minh rất gét những kẻ đạo đức giả, nói mà không làm, nói một
đàng, làm một nẻo và Người cho rằng, những kẻ đó làm giảm đi lòng tin của
nhân dân đối với Đảng. Đây là bài học thời sự sâu sắc đối với vấn đề đạo đức
trong Đảng ta hiện nay. Người chỉ ra một luận điểm rất quan trọng, có giá trị vô
cùng thiết thực không chỉ lúc đó, mà trực tiếp với hiện nay: “Trước mặt quần
chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” ta được họ yêu mến.
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn
nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.
Chính luận điểm này đã thể hiện rõ một phương châm xây dựng đạo đức
là vấn đề nêu gương. Không gì thuyết phục hơn, có sức cảm hóa và lôi cuốn hơn
trong lĩnh vực đạo đức bằng việc nêu gương, Hồ Chí Minh đã làm như vậy một
cách cần mẫn, tinh tế, sáng tạo và vì thế đã có tác dụng vô cùng to lớn, sâu sắc
trong toàn bộ đời sống đạo đức của xã hội ta, đất nước ta. Người đã hai thác
triệt để các tấm gương “người tốt, việc tốt”, gương các anh hùng, liệt sĩ, gương
các vị tiền bối, cha ông trong lịch sử, từ chung đến riêng, từ lớn đến nhỏ, từ xa
tới gần, của thế hệ này đối với thế hệ khác.... để dày công xây đắp nền tảng vững
chắc và các đỉnh cao của đạo đức mới.
Hai là, xây đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục
đích xây là con đường để xây dựng đạo đức mới, là nguyên tắc được Hồ Chí
Minh khẳng định và vận dụng thường xuyên, linh hoạt, đầy sáng tạo trong chỉ
đạo thực hiện. Xây dựng đạo đức mới là một cuộc đấu tranh vô cùng phức tạp,
gay gắt, tinh vi, diễn ra trong mọi lúc, mọi nơi, trong từng tập thể và từng con
người, vì thế nguyên tắc trên là một đòi hỏi khách quan, cần vận dụng triệt để,
không được né tránh, đặc iệt với cuộc chiến đấu chống cái ác, cái xấu, sự thoái
hóa, biến chất hiện nay trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
Xây dựng đạo đức mới, trước hết là tuyên truyền, giáo dục các phẩm chất,
chuẩn mực đạo đức mới cho mỗi người, trong từng gia đình, từng giới, tập thể,
cộng đồng, làng xóm, trường học và toàn xã hội. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm
đến công việc này, đến việc tạo ra môi trường đạo đức trong sáng, lành mạnh
cho con người, cho từng cộng đồng.
Xây dựng đạo đức cũng bằng việc khơi dậy ý thức vươn lên tự nguyện
của con người tới cái chân, cái thiện, cái mỹ, từ đó tạo ra bằng được năng lực tự
trau dồi đạo đức trong mỗi con người, loại bỏ cái ác, cái xấu, cái vô đạo đức.
Cùng với xây, nhiệm vụ Chống giữ vị trí đặc biệt quan trọng để tạo môi
trường cho cái tốt đẹp nảy nở, để bảo vệ và khẳng định được cái mới về đạo đức
đang hình thành và phát triển trong cuộc đấu tranh quyết liệt với cái ác, cái xấu,
cái phản động và cái vô đạo đức.
Hồ chí Minh đã nhiều lần vạch ra rất cụ thể những khuyết điểm, những
căn bệnh đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhân dân và chỉ rõ tác hại ghê gớm của
chúng đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng. Ngay từ năm 1952, Người đã quy
những tệ nạn đó vào ba loại chính là tham ô, lãng phí, quan liêu và Người coi đó
là tội ác, là kẻ thù nguy hiểm của nhân dân, là bạn đồng minh của thực dân,
phong kiến, là thứ “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”, phá từ trong phá ra.
Người khẳng định dứt khoát, phải kiên quyết chống lại những tệ nạn đó. “Cần
phải nêu những đồng chí đã ăn hối lộ ra để cho dư luận quở trách và cần phải
đuổi họ ra khỏi Đảng.... Phải lập tức đề nghị một đạo luật để trừng trị những vụ hối lộ”.
Tạo ra được một phong trào quần chống rộng rãi tham gia trực tiếp vào
quá trình xây và chống là con đường hiệu quả nhất trong các cuộc vận động xây
dựng đạo đức mới của chúng ta, đó cũng là kinh nghiệm lớn mà Hồ Chí Minh đã
dày công chỉ đạo và thực hiện.
Ba là, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời, kiên trì, bền bỉ, hàng ngày, bởi vì
“Đạo đức cách mạng không phải trên trời rơi xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện,
bề bỉ, hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng,
vàng càng luyện, càng trong”. Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra một hiện tượng mà
đến nay, chúng ta càng thấm thía vì tính thời sự của nó, đó là có những người
trong lúc đấu tranh thì trung thành, không sợ nguy hiểm, cực khổ... có công với
cách mạng, song đến khi có “ít quyền họn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ,
phạm vào tham ô, lãng phí, quang liêu... mà biến thành người có tội với cách mạng”.
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở,
cái xấu, cái tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong bản thân mình, trong lòng mình.
Vì vậy, cần có cách nhìn biện chứng và nhân văn để phát triển cái thiện, đẩy lùi
cái ác trong mỗi con người và đặc biệt quan trọng là từng người phải rèn luyện,
tu dưỡng, dám đấu tranh với chính mình để làm cho “phần tốt ở trong mỗi người
nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng.
4. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Trong Di chúc của mình, Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân
ta một nhắn gửi cực kỳ sâu sắc về thời kỳ đất nước ta bước vào xây dựng và đổi
mới sau khi giành được độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc. Người cho rằng,
đó là “một cuộc chiến đấu khổng lồ” để
“chống lại những gì đã củ kỹ, hư hỏng,
để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Cuộc chiến đấu khổng lồ ấy lại diễn ra
trong những điều kiện mới với những biến động to lớn, sâu sắc, phức tạp và khó
lường. Chúng ta đã có đường lối đổi mới được thực tiễn kiểm nghiệm 16 năm
qua là đúng hướng và đúng đắn. Mặc dầu vậy, chúng ta đang đứng trước rất
nhiều những vấn đề mới, thách thức mới. Do tác động cực kỳ phức tạp, nhiều
mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, nên vấn đề đạo đức đang trở thành ột
trong những vấn đề bức xúc nhất của toàn Đảng và toàn dân, có ảnh hưởng trực
tiếp đến uy tín, quyền lãnh đạo và niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tác động
tiêu cực đến toàn bộ nền đạo đức xã hội mà chúng ta đã dày công xây dựng nhiều thập kỷ qua.
Sự nghiệp cách mạng của chúng ta, cuộc sống của nhân dân ta đang đòi
hỏi phải kiên quyết làm trong sạch Đảng và làm lành mạnh đời sống đạo đức xã
hội. LÀM được hai hiệm vụ trên cũng chính là thực hiện trung thành với những
khát vọng và di huấn đạo đức của Chủ tịch hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng ta,
dân tộc ta. Trở về và thấu hiểu sâu hơn nữa cội nguồn Hồ Chí Minh, tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh sẽ giúp chúng ta vững tâm, kiên định đi tới trong cuộc đấu
tranh vì một nền đạo đức Việt Nam ngang với tầm vóc của dân tộc và thời đại,
thấm sâu những tư tưởng lớn của Người về đạo đức mới, đạo đức cách mạng.