HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA TRIẾT HỌC
=======
TIỂU LUẬN
MÔN: TRIẾT HỌC
Đề tài:
TƯỞNG TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG TRIẾT
HỌC TRUNG QUỐC CỔ - TRUNG ĐẠI
Học viên : NGUYỄN HÀ PHƯƠNG
Ngày sinh : 09/10/1990
Lớp : Cao học Quản lý BCTT 24.2A
Hà Nội, T1/2019
0
MỞ ĐẦU
Trung Quốc cổ đại một quốc gia rộng lớn, nền văn minh lớn
sớm, Khoảng từ 1.700 năm đến 1.000 năm trước công nguyên, người Trung
Quốc đã bốn phát minh lớn: chế tạo ra la bàn, kỹ thuật chế tạo giấy, chế
tạo thuốc súng, phương pháp in chữ.
Thành tựu đạt được của Trung Quốc đã làm rung chuyển cả thế giới
đó là con đường cải cách kinh tế và chính trị vào năm 2007.
Tại sao những năm đầu thế kỷ 21, Trung Quốc lại đạt được một bước
tiến dài trong tiến trình phát triển của nó? Đó chính là kết quả của sự kết hợp
những yếu tố nội sinh cùng những thời cơ khách quan trong đó yếu tố nội sinh
đóng vai trò quyết định. Sức mạnh tiềm tàng từ trong lòng dân tộc Trung
Quốc bắt nguồn từ quá khứ, từ những giá trị ông cha sáng tạo nên thời cổ đại
rồi cuối cùng trở thành sợi dây gắn kết bền chặt con người ở quá khứ, hiện tại
và tương lai. Hãy cứ thử hình dung xem một đất nước phát triển qua mỗi thời
kỳ lịch sử như một con người lớn lên qua mỗi thời kỳ để trưởng thành
theo đó thời kỳ cổ đại chính tuổi ấu thơ của lịch sử. Đất nước Trung Quốc
đã một "tuổi thơ" không hề êm đềm như đất nước Việt Nam đầy sóng
gió, đầy dấu ấn, ít một dân tộc nào được. Nhưng cũng chính từ trong hoàn
cảnh khắc nghiệt đó, con người Trung Quốc mới vươn lên khắc phục khó
khăn tự làm giàu cho một cuộc sống của mình bằng những giá trị văn hoá, vật
chất và tinh thần vô cùng quý báu, đóng góp vào kho tàng tri thức của thế giới
cổ đại. Đó là một nền triết học rực rỡ. Đồng thời cũng chính từ đó con người
mối dây liên hệ cội nguồn, hình thành nên ý thức dân tộc, những tưởng
triết học được thử thách tôi luyện qua mỗi biến động lịch sử. như một
lẽ tự nhiên, những tưởng triết học cổ đại ấy đã ngấm sâu vào con người
Trung quốc, tạo nên nền tảng tinh thần hay ít ra cũng định hình cho lối sống,
phong cách, tâm của dân tộc Trung Quốc. Một thời kỳ cổ đại đầy những
1
biến động lịch sử đã làm nên nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong thực
tiến và góp phần vào cải tạo hiện thực xã hội Trung quốc ngày nay trên bước
đường hội nhập thế giới.
Tuy có nhiều người cho rằng, con người đang sống ở hiện tại nên chỉ
cần biết tới hiện tại, còn quá khứ đã lùi xa nên chỉ vãng. Đặc biệt, trong
bối cảnh tranh chấp biển đảo của Trung Quốc với Việt Nam như hiện nay,
nhưng theo tôi, hiện tại hiện tại, quá khứ nếu vẫn còn giá trị lớn nhiều
sự ảnh ảnh hưởng thì chúng ta cũng phải nên tôn trọng. Thực tế, trong quá
trình phát triển lịch sử, Việt Nam cũng một trong những nước ảnh hưởng
rất nhiều về văn hóa của trung Quốc. Bên cạnh những suy sâu sắc về các
vấn đề xã hội, nền triết học Trung Quốc thời cổ còn cống hiến cho lịch sử triết
học thế giới những tưởng sâu sắc về sự biến dịch của trụ. Những
tưởng về Âm dương Ngũ hành tuy còn những hạn chế nhất định, nhưng
đó những triết đặc sắc mang tính chất duy vật biện chứng của người
Trung Quốc thời cổ, ảnh hưởng lớn đến thế giới quan triết học sau này
Trung Quốc một số nước khác trong khu vực.Vì vậy, nghiên cứu lịch sử
triết học Trung Quốc cổ là rất cần thiết để góp phần tìm hiểu lịch sử tư tưởng,
văn hóa của dân tộc ta . Chính vậy, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài
tưởng triết học chính trị - hội trong triết học Trung Quốc cổ - trung
đại” làm tiểu luận hết môn.
2
NỘI DUNG
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI ĐẶC ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC
TRUNG QUỐC CỔ, TRUNG ĐẠI.
1. Hoàn cảnh ra đời của triết học Trung Quốc cổ, trung đại :
Trung Quốc cổ đại là một quốc gia rộng lớn, có lịch sử lâu đời từ cuối
thiên niên kỷ III TCN kéo dài tới tận thế kỷ III TCN với sự kiện Tần Thủy
Hoàng thống nhất Trung Quốc mở đầu cho thời kỳ phong kiến. Trong hơn
2000 năm lịch sử ấy, lịch sử Trung Quốc được phân chia làm 2 thời kỳ lớn:
Thời kỳ từ thế kỷ IX TCN trở về trước thời kỳ từ thế kỷ VIII TCN đến
cuối thế kỷ III TCN.
1.1. Thời kỳ thứ nhất:
các triều đại nhà Hạ, nhà Thương nhà Tây Chu. Theo các văn
bản cổ, nhà Hạ ra đời vào khoảng thế kỷ XXI TCN, đánh dấu sự mở dầu cho
chế độ chiếm hữu lệ Trung Quốc. Khoảng nửa đầu thế kỷ XVII TCN,
người đứng đầu bộ tộc Thương Thành Thang đã lật đổ nhà Hạ, lập ra nhà
Thương, đóng đô đất Bạc( Nam hiện nay). Đến thế kỷ XVI TCN, Bàn
Canh rời đô về đất Ân nên nhà Thương còn gọi là nhà Ân. Vào khoảng thế kỷ
XI TCN, Chu Vương đã giết vua Trụ nhà Ân lập ra nhà Chu ( giai đoạn
đầu Tây Chu), đưa chế độ lệ Trung Quốc lên đỉnh cao. Nhà Chu đã
thực hiện quốc hữu hóa về liệu sản xuất (gồm ruộng đất sức lao động)
rất nghiêm ngặt, tất cả đều thuộc quyền quản lý của vua nhà Chu . Đồng thời,
thành lập những đô thị lớn tạo nên sự đối lập rất lớn giữa thành thị nông
thôn.
Trong thời kỳ này, thế giới quan thần thoại, tôn giáo và chủ nghĩa duy
tâm thần thống trị trong đời sống tinh thần. Những tưởng triết học đã
xuất hiện, nhưng chưa đạt tới mức một hệ thống. đã gắn chặt thần
quyền với thế quyền, giải sự liên hệ mật thiết giữa đời sống chính trị
3
hội với lĩnh vực đạo đức luân lý. Lúc này cũng đã xuất hiện những quan niệm
có tính chất duy vật mộc mạc, những tư tưởng vô thần tiến bộ.
Về khoa học, họ đã phát minh ra chữ viết dựa vào sự quan sát vận
hành của mặt trăng, các sao, tính chất chu kỳ của ớc sông quy luật
sinh trưởng của cây trồng mà họ đã biết làm ra lịch (Âm lịch)
1.2. Thời kỳ thứ hai: thời kỳ Đông Chu (còn gọi là thời kỳ Xuân Thu
– Chiến quốc).
Thời kỳ chuyển biến từ chế độ chiếm hữu lệ sang chế độ phong
kiến. Sự phát triển của sức sản xuất đã tác động mạnh mẽ đến hình thức sở
hữu ruộng đấtkết cấu giai tầng của xã hội. Nếu dưới thời Tây Chu, đất đai
thuộc sở hữu của nhà vua thì nay thuộc về tầng lớp địa chủ mới lên và chế độ
sở hữu tư nhân về ruộng đất hình thành.Từ đó, sự phân hóa sang hèn dựa trên
sở tài sản xuất hiện. hội lâm vào cảnh loạn lạc, rối ren chiến tranh
xảy ra liên miên. Đây chính điều kiện lịch sử đòi hỏi giải thể chế độ lệ
thị tộc nhà Chu, hình thành chế độ phong kiến; đòi hỏi giải thể nhà nước của
chế độ gia trưởng, xây dựng nhà nước phong kiến nhằm giải phóng lực lượng
sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển.
Sự phát triển sôi động của hội đã đặt ra làm xuất hiện những t
điểm, những trung tâm của những “kẻ sĩ” luôn tranh luận về trật tự xã hội
đề ra những mẫu hình của một hội trong tương lai. Lịch sử gọi đây
thời kỳ “Bách gia chư tử” (trăm nhà trăm thầy), “Bách gia tranh minh” (trăm
nhà đua tiếng). Chính trong quá trình ấy đã sản sinh ra những nhà tưởng
lớn và hình thành nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Đặc điểm của
các trường phái này lấy con người hội làm trung tâm của sự nghiên
cứu, xu hướng chung giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị đạo
đức của hội. Theo Lưu Hâm (đời Tây Hán), Trung Quốc thời kỳ này
chín trường phái triết học chính (gọi Cửu lưu hay Cửu gia) là: Nho gia,
4
Mặc gia, Đạo gia, Âm dương gia, Danh gia, Pháp gia, Nông gia, Tung hoành
gia, Tạp gia. Trừ Phật giáo được du nhập từ ấn Độ sau này, các trường phái
triết học được hình thành vào thời kỳ này được bổ sung hoàn thiện qua
nhiều giai đoạn lịch sử và tồn tại cho tới thời kỳ cận đại.
2. Đặc điểm của triết học Trung Quốc cổ, trung đại
Thứ nhất, triết học Trung Quốc cổ, trung đại luôn nhấn mạnh tinh thần
nhân văn, chú trong đến các tưởng triết học liên quan đến con người, còn
triết học tự nhiên có phần mờ nhạt.
Thứ hai, triết học Trung Quốc cổ, trung đại chú trọng đến lĩnh vực
chính trị -đạo đức của hội, coi việc thực hành đạo đức hoạt động thực
tiễn căn bản nhất của một đời người. thể nói, đây cũng chính nguyên
nhân dẫn đến sự kém phát triển về nhận thức luận sự lạc hậu về khoa học
thực chứng của Trung Quốc.
Thứ ba, triết học Trung Quốc cổ, trung đại nhấn mạnh sự thống nhất
hài hòa giữa tự nhiên và xã hội, phản đối sự “thái quá” hay”bất cập”.
Thứ tư, đặc điểm nổi bật của phương thức duy của triết học Trung
Quốc cổ, trung đại nhận thức trực giác, coi trọng tác dụng của cái “Tâm”,
coi đó là gốc rễ của nhận thức.
3. Một số học thuyết tiêu biểu của triết học Trung Quốc cổ, trung
đại
3.1. Thuyết Âm – Dương, Ngũ hành
Trung Quốc, những quan niệm triết về “âm dương”, “ngũ
hành” đã được lưu truyền từ rất sớm. Tới thời Xuân thu – Chiến quốc, những
tưởng về Âm dương Ngũ hành đã đạt tới mức một hệ thống các quan
niệm về bản nguyên và tính biến dịch của thế giới.
Tư tưởng triết học về Âm- Dương
5
Triết học Âm Dương thiên hướng suy về nguyên vận hành
đầu tiên phổ biến của vạn vật; đó sự tương tác của hai thế lực đối lập
nhau là Âm và Dương.
“Âm” một phạm trù rất rộng, phản ánh khái quát những thuộc tính
phổ biến của vạn vật như: nhu, thuận, tối, ẩm, phía dưới, phía phải, số chẵn
(2,4,6…). “Dương” phạm trù đối lập với “Âm”, phản ánh khái quát những
tính chất phổ biến của vạn vật như: cương, cường, sáng, khô, phía trên, phía
trái, số lẻ (1,3,5…). Nhưng hai thế lực Âm – Dương không tồn tại biệt lập mà
là thống nhất với nhau, chế ước lẫn nhau theo ba nguyên lý căn bản.
+ Âm Dương thống nhất trong Thái cực (Thái cực được coi
nguyên của sự thống nhất của hai mặt đối lập âm dương). Nguyên
này nói lên tính toàn vẹn, chỉnh thể, cân bằng của cái đa cái duy nhất.
Chính nó bao hàm tư tưởng về sự thống nhất giữa cái bất biến và cái biến đổi.
+ Trong Âm Dương, trong Dương Âm. Nguyên này nói lên
khả năng biến đổi Âm Dương đã bao hàm trong mỗi mặt đối lập của Thái
cực.
Hai nguyên này thường được các học giả phái Âm Dương khái
quát bằng vòng tròn khép kín (tượng trưng cho Thái cực, trong đó được chia
thành hai nửa (đen trắng) trong nửa này đã bao hàm nhân tố của nửa kia
(trong phần đen nhân tố của phần trắng ngược lại), biểu hiện cho
nguyên lý trong Dương có Âm và trong Âm có Dương.
+ Sự khái quát đồ hình Thái cực Âm – Dương còn bao hàm nguyên lý:
Dương tiến đến đâu thì Âm lùi đến đó ngược lại; đồng thời “Âm thịnh thì
Dương khởi”, “Dương cực thì Âm sinh”.
Để giải thích sự biến dịch từ cái duy nhất thành cái nhiều, đa dạng,
phong phú của vạn vật, phái Âm Dương đã đưa ra lôgíc tất định: Thái cực
sinh Lưỡng nghi (Âm Dương); Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (Thái Dương
Thiếu Âm Thiếu Dương Thái Âm) Tứ tượng sinh Bát quái (Càn
6
Khảm Cấn Chấn Tốn Ly Khôn Đoài); Bát quái sinh vạn vật (vô
cùng vô tận).
tưởng triết học về Âm Dương đạt tới mức một hệ thống hoàn
chỉnh trong tác phẩm Kinh Dịch, trong đó gồm 64 quẻ kép. Mỗi quẻ kép
một động thái, một thời của vạn vật và nhân sinh, xã hội như: Kiền, Khôn, Bĩ,
Thái, Truân…; Sự chú giải Kinh Dịch của nhiều bậc trí thức nhiều thời
đại khác nhau với những xu hướng khác nhau. Điều đó tạo ra một “tập đại
thành” của sự chú giải, bao hàm những tưởng triết học hết sức phong phú
và sâu sắc.
Tư tưởng triết học về Ngũ hành
Tư tưởng triết học về Ngũ hành có xu hướng đi vào phân tích cấu trúc
của vạn vật quy nó về những yếu tố khởi nguyên với những tính chất khác
nhau, những tương tác (tương sinh, tương khắc) với nhau. Đó năm yếu tố:
Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ. Kim tượng trưng cho tính chất trắng, khô,
cay, phía Tây, v.v.; Thủy tượng trưng cho tính chất đen, mặn, phía Bắc, v.v.;
Mộc tượng trưng cho tính chất xanh, chua, phía Đông, .v.v.; Hỏa tượng trưng
cho tính chất đỏ, đắng, phía Nam,.v.v.; Thổ tượng trưng cho tính chất vàng,
ngọt, ở giữa,.v.v.
Năm yếu tố này không tồn tại biệt lập tuyệt đối mà trong một hệ thống
ảnh hưởng sinh – khắc với nhau theo hai nguyên tắc:
+ Tương sinh (sinh hóa cho nhau): Thổ sinh Kim; Kim sinh Thủy;
Thủy sinh Mộc; Mộc sinh Hỏa; Hỏa sinh Thổ.v.v.
+ Tương khắc (chế ước lẫn nhau): Thổ khắc Thủy; Thủy khắc Hỏa;
Hỏa khắc Kim; Kim khắc Mộc và Mộc khắc Thổ.v.v.
Sự hợp nhất giữatưởng triết học Âm – Dương và Ngũ hành đã làm
cho mỗi thuyết có sự bổ túc, hoàn thiện hơn, thể hiện điển hình ở chỗ: các quẻ
đơn (Càn – Khảm – Cấn – Chấn – Tốn – Ly – Khôn – Đoài) đều được quy về
Ngũ hành để biện giải ngược lại, Ngũ hành cũng mang tính cách Âm
7
Dương. Chẳng hạn: Kiền Đoài thuộc hành Kim; chấn Tốn thuộc hành
Mộc v.v. và Kim cũng có Kim Âm và Kim Dương; Mộc cũng có Mộc Âm
Mộc Dương.
3.2. Nho gia (thường gọi là Nho giáo)
Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI TCN dưới thời Xuân Thu,
người sáng lập là Khổng Tử (551 – 479 TCN). Đến thời Chiến Quốc, Nho gia
đã được Mạnh Tử Tuân Tử hoàn thiện phát triển theo hai xu hướng
khác nhau: duy vật và duy tâm, trong đó dòng Nho gia Khổng – Mạnh có ảnh
hưởng rộng và lâu dài nhất trong lịch sử Trung Quốc và một số nước lân cận.
Kinh điển chủ yếu của Nho gia gồm Tứ Thư (Luận ngữ, Đại học,
Trung Dung, Mạnh Tử)Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch Xuân Thu). Các
kinh sách này hầu hết đều viết về xã hội, về kinh nghiệm lịch sử Trung Quốc.
Điều này cho thấy xu hướng biện luận về hội, về chính trị đạo đức là
những tưởng cốt lõi của Nho gia. Những quan niệm đó được thể hiện
những tư tưởng chủ yếu sau:
Thứ nhất, Nho gia coi những quan hệ chính trị đạo đức những
quan hệ nền tảng của hội, trong đó quan trọng nhất là quan hệ vua tôi,
cha con, chồng vợ (gọi Tam cương). Nếu xếp theo tôn ty trật tự, trên
dưới thì vua vị trí cao nhất, còn nếu xếp theo chiều ngang của quan hệ thì
vua – cha – chồng xếp hàng làm chủ. Điều này phản ánh tưởng chính trị
quân quyền và phụ quyền của Nho gia.
Thứ hai, xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang hội phong
kiến, một hội đầy những biến động loạn lạc chiến tranh nên tưởng
của Nho gia xây dựng một “xã hội đại đồng”. Đó một hội trật tự
trên dưới, vua sáng tôi hiền, cha từ con thảo, trong ấm ngoài êm
trên sở địa vị thân phận của mỗi thành viên từ vua chúa, quan lại đến
thứ dân. thể nói đó tưởng của tầng lớp quý tộc cũng như của giai
cấp địa chủ phong kiến đang lên.
8
Thứ ba, Nho gia lấy giáo dục làm phương thức chủ yếu để đạt tới
hội lý tưởng “đại đồng”. Do không coi trọng sở kinh tế kỹ thuật của xã
hội nên nền giáo dục của Nho gia chủ yếu hướng vào việc rèn luyện đạo đức
con người. Trong bảng giá trị đạo đức của Nho gia thì chuẩn mực gốc
“Nhân”. Những chuẩn mực khác như Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu.v .v.
đều là những biểu hiện cụ thể của Nhân.
Thứ , Nho gia quan tâm đến vấn đề bản tính con người. Việc giải
quyết những vấn đề chính trị -xã hội đòi hỏi Nho gia cũng như nhiều học
thuyết khác của Trung Quốc thời cổ phải đặt ra giải quyết vấn đề bảnnh
con người. Trong học thuyết Nho gia không sự thống nhất quan điểm về
vấn đề này, nhưng nổi bật quan điểm của Mạnh Tử. Theo ông, “bản tính
con người vốn thiện” (Nhân chi sơ, tính bản thiện). Thiện tổng hợp
những đức tính vốn có của con người từ khi mới sinh ra như: Nhân, Nghĩa, Lễ
.v.v.
Mạnh Tử đã thần bí hóa những giá trị chính trị – đạo đức đến mức coi
chúng tiên thiên, bẩm sinh. Do quan niệm tính thiện nên Nho gia (dòng
Khổng Mạnh) đề cao sự giáo dục con người để con người trở về đường
thiện với những chuẩn mực đạo đức có sẵn.
Đối lập với Mạnh Tử coi tính người là Thiện, Tuân Tử lại coi bản tính
con người vốn ác (Nhân chi sơ, tính bản ác). Mặc vậy, nhưng thể
giáo hóa trở thành thiện (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí….). Xuất phát từ quan niệm đó
về tính người, Tuân Tử chủ trương đường lối trị nước kết hợp giữa Nho gia và
Pháp gia.
Người sáng lập ra Nho gia là Khổng Tử (551 – 479 tr.CN)
Trong quan niệm về thế giới, tư tưởng của Khổng Tử luôn những
mâu thuẫn. Một mặt, khi chống lại chủ nghĩa thần bí, tôn giáo đương thời,
ông thừa nhận sự vật, hiện tượng trong tự nhiên luôn luôn tự vận động,biến
hóa không phụ thuộc vào mệnh lệnh của Trời. Trời nói đâu bốn
9
mùa vận hành, vạn vật sinh hóa mãi mãi” (Luận ngữ, Dương Hóa, 18); hay
cũng như dòng nước chảy, mọi vật đều trôi đi, ngày đêm không ngừng, không
nghỉ” (Luận ngữ, Tử Hãn, 16). Đó yếu tố duy vật chất phác tưởng
biện chứng tự phát của ông. Mặt khác, ông lại cho rằng Trời ý chí
thể chi phối vận mệnh của con người (Thiên mệnh). Đó yếu tố duy tâm
khách qua trong quan điểm của ông. Ông nói: “Đạo của ta thi hành ra được
cũng do mệnh Trời, bị bỏ phế cũng do mệnh Trời” (Luận ngữ, Hiến
vấn, 38); “làm sao thể cải được mệnh Trời”. Hiểu biết mệnh Trời một
điều kiện tất yếu để trở thành con người hoàn thiện người quân tử. Cũng
như thế, một mặt Khổng Tử tuyên truyền sức mạnh của quỷ thần; nhưng mặt
khác ông lại nhấn mạnh vai trò quan trọng của hoạt động con người trong đời
sống.
Quan niệm về nhận thức trong học thuyết của Khổng Tử không phát
triển, không đặt ra vấn đề chân lý mà chỉ dừng lại ở vấn đề “tri thức luận” (tri
thức do đâu mà có). Theo ông, tri thức hai loại “thượng trí” (không học
cũng biết) và “hạ ngu”(học cũng không biết). Nghĩa là ông đã thừa nhận có tri
thức tiên thiên, trước sự nhận thức của con người. Đối tượng để dạy dỗ,
giáo hóa nằm giữa “trí” “ngu”, nếu chịu khó học tập thể vươn tới
thượng trí. Còn không học thì rơi xuống hạ ngu. Ưu điểm của ông chủ
trương “hữu giáo loại” (học thì không phân loại). Khổng Tử cũng nêu ra
một số phương pháp học tập ý nghĩa như: học phải đi đôi với luyện tập;
học phải kết hợp với suy nghĩ; phải ôn để biết mới; học phải nắm được cái
cốt yếu”Tuy nhiên, hạn chế của Khổng Tử quan niệm học theo lối “hoài
cổ”, coi thường tri thức về sản xuất, lao động chân tay.
tưởng về luân lý, đạo đức, chính trị hội một trong những
vấn đề cốt lõi trong học thuyết Khổng Tử. Những nguyên đạo đức bản
nhất trong học thuyết đạo đức của Khổng Tử : Nhân, lễ, trí, dũng…cùng
10
với một hệ thống quan niệm về chính trị hội như “nhân trị”, “chính
danh”, “thượng hiền”, “quân tử”, “tiểu nhân”…
Khổng Tử lấy chữ “Nhân” làm nguyên đạo đức bản trong triết
học của mình. Nhân ý nghĩa rất rộng, bao hàm nhiều mặt trong đời sống
con người, lúc trừu tượng, lúc cụ thể, tuỳ theo trình độ, hoàn cảnh
ông giảng giải về nhân với nội dung khác nhau. “Sửa mình theo lẽ là nhân”,
Điều mình không muốn, đừng đem làm cho người khác nhân”, “yêu
thương người nhân”…Tư tưởng bao trùm của Nhân yêu thương con
người, là đạo làm người.
Để điều nhân có thể thực hiện được thì phải bằng “lễ”. Lễ ở Khổng Tử
là những phong tục, tập quán, những quy tắc, quy định trật tự xã hội và cả thể
chế pháp luật Nhà nước như: sinh, tử, tang, hôn tế lễ, triều sính, luật lệ, hình
pháp…Lễ được coi là hình thức biểu hiện của nhân. Mặc dù kiên trì bảo vệ lễ
của nhà Chu , nhưng Khổng Tử cũng đưa thêm những nội dung mới phát
triển lên, biến lễ thành một phạm trù ý nghĩa hội nhân văn sâu
sắc.
Mục đích của Khổng Tử xây dựng một hội tôn ty trật tự, kỷ
cương. Để làm đươc điều đó cần phải “lễ” “chính danh”. “Chính danh
làm mọi việc cho ngay thẳng”(Luận ngữ, Nhan Uyên,1); “Chính danh thì
người nào có địa vị, bổn phận chính đángcủa người ấy, trên dưới, vua tôi, cha
con trật tự phân minh, vua lấy lễ mà khiến tôi, tôi lấy trung mà thờ vua”(Luận
ngữ, Bát Dật, 19)…Theo Khổng Tử, muốn trị nước trước tiên phải sửa mình
cho chính danh, “danh không chính thì lời nói không thuận; lời nói không
thuận thì sự việc không thành công; sự việc không thành công thì lễ nhạc
không hưng thịnh; lễ nhạc không hưng thịnh thì hình phạt không đúng; hình
phạt không đúng thì dân không biết theo ai?” (Luận ngữ, Tử Lộ, 3). Xuất phát
từ tình hình loạn lạc của xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu, Khổng Tử đã nêu
11
lên thuyết “chính danh”, nhưng trên thực tế, học thuyết này mang tính bảo
thủ, bảo vệ cho lợi ích của quý tộc nhà Chu.
Để thực hiện mục đích của mình, Khổng Tử chống việc duy trì ngôi
vua theo huyết thống chủ trương “thượng hiền”, dùng người không phân
biệt đẳng cấp xuất thân của họ. Trong việc chính trị, vua phải biết “trọng dụng
người hiền đức, tài cán rộng lượng với những kẻ cộng sự” (Luận ngữ, Tử
Lộ, 2). Việc ông mở trường dạy học chính là nhằm mục đích đào tạo ra những
người có tài, đức tham gia vào công cuộc cai trị.
Toàn bộ học thuyết về nhân, lễ, chính danh… của Khổng Tử nhằm
phục vụ mục đích chính trị là “Đức trị”. Ông phản đối việc dùng hình phạt để
trị dân làm như vậy, dân sợ phải theo chứ không phục. Theo ông, làm
chính trị dùng đức cảm hóa người thì giống như sao Bắc Đẩu một nơi
mà các sao khác đều chầu đến.
Tóm lại: So với các học thuyết khác, Nho gia nội dung phong phú
và mang tính hệ thống hơn cả; hơn thế nữa, nó còn là hệ tư tưởng chính thống
của giai cấp thống trị Trung Quốc suốt hơn hai ngàn năm của hội phong
kiến. Để trở thành hệ tư tưởng chính thống, Nho gia đã được bổ sung và hoàn
thiện qua nhiều giai đoạn lịch sử trung đại: Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh,
nhưng tiêu biểu hơn cả dưới triều đại nhà Hán nhà Tống, gắn liền với
tên tuổi của các bậc danh Nho như Đổng Trọng Thư (thời Hán), Chu Đôn Di,
Trương Tải, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy (thời Tống). Quá trình bổ sung
hoàn thiện Nho gia thời trung đại được tiến hành theo hai xu hướng cơ bản:
Một là, hệ thống hóa kinh điểnchuẩn mực hóa các quan điểm triết
học của Nho gia theo mục đích ứng dụng vào đời sống xã hội, phục vụ lợi ích
thống trị của giai cấp phong kiến; vì thế Đổng Trọng Thư đã làm nghèo nàn đi
nhiều giá trị nhân bản và biện chứng của Nho gia cổ đại. Tính duy tâm thần bí
của Nho gia trong các quan điểm về hội cũng được đề cao. Tính khắc
12
nghiệt một chiều trong các quan hệ Tam cương, Ngũ thường thường được
nhấn mạnh.
Hai là, hoàn thiện các quan điểm triết học về hội của Nho gia trên
sở bổ sung bằng các quan điểm triết học của thuyết Âm Dương Ngũ
hành, những quan niệm về bản thể của Đạo gia, tư tưởng về pháp trị của Pháp
gia v.v. vậy, thể nói: Nho gia thời trung đại tập đại thành của
tưởng Trung Quốc. Nho gia còn có sự kết hợp với cảtưởng triết học ngoại
lai Phật giáo. Sự kết hợp các tưởng triết học của Nho gia với những
tưởng triết học ngoài Nho gia đã có ngay từ thời Hán và ít nhiều có cội nguồn
từ Mạnh Tử. Tuy nhiên, sự kết hợp đạt tới mức nhuần nhuyễn sâu sắc chỉ
có dưới thời nhà Tống (960 – 1279).
3.3. Đạo gia (hay học thuyết về Đạo)
Người sáng lập ra Đạo gia Lão Tử (khoảng thế kỷ VI TCN). Học
thuyết của ông được Dương Chu và Trang Chu thời Chiến quốc hoàn thiện và
phát triển theo hai hướng ít nhiều khác nhau. Những tưởng triết học của
Đạo gia được khảo cứu chủ yếu qua Đạo đức kinh và Nam hoa kinh.
tưởng cốt lõi của Đạo gia học thuyết về “Đạo” với những
tưởng biện chứng, cùng với học thuyết “Vô vi” về lĩnh vực chính trị – xã hội.
Về bản thể luận, tưởng về Đạo nội dung cốt lõi trong bản thể
luận của Đạo gia. Phạm trù Đạo bao gồm những nội dung cơ bản sau:
– “Đạo” là bản nguyên của vạn vật. Tất cả từ Đạo mà sinh ra và trở về
với cội nguồn của Đạo.
“Đạo” cái hình, hiện hữu cái “có”; song Đạo hiện hữu
không thể tách rời nhau. Trái lại, Đạo cái bản chất, hiện hữu cái biểu
hiện của Đạo. Bởi vậy, thể nói: Đạo nguyên thống nhất của mọi tồn
tại.
“Đạo” nguyên vận hành của mọi hiện hữu. Nguyên ấy
“đạo pháp tự nhiên”.
13
Chính trong quan niệm về “Đạo” đã thể hiện một trình độ tư duy khái
quát cao về những vấn đề bản nguyên thế giới, nhìn nhận thế giới trong tính
chỉnh thể thống nhất của nó.
Quan niệm về tính biện chứng của thế giới không tách rời những quan
niệm về “Đạo”, trong đó bao hàm những tư tưởng chủ yếu sau:
Mọi hiện hữu đều biến dịch theo nguyên tắc “bình quân” “phản
phục” (cân bằng và quay trở lại cái ban đầu).
– Các mặt đối lập trong thể thống nhất, quy định lẫn nhau, là điều kiện
tồn tại của nhau, trong cái này đã có cái kia.
Do nhấn mạnh nguyên tắc “bình quân” “phản phục” trong biến
dịch nên Đạo gia không nhấn mạnh tưởng đấu tranh với cách phương
thức giải quyết mâu thuẫn nhằm thực hiện sự phát triển; trái lại, đã đề cao
tưởng điều hòa mâu thuẫn, coi đó là trạng thái lý tưởng. Bởi vậy triết học Đạo
gia không bao hàm tư tưởng về sự phát triển.
Học thuyết chính trị hội với cốt lõi luận điểm “Vô vi”. vi
không phải cái thụ động, bất động hay không hành động nghĩa
hành động theo bản tính tự nhiên của “Đạo”.
3.4. Mặc gia
Phái Mặc gia do Mặc Tử, tức Mặc Địch (khoảng từ 479 -381 tr.CN)
sáng lập thời Xuân Thu. Sang thời Chiến Quốc phát triển thành phái Hậu
Mặc. Đây là một trong ba học thuyết lớn nhất đương thời (Nho – Đạo – Mặc).
tưởng triết học trung tâm của Mặc gia thể hiện quan niệm về
“Phi thiên mệnh”. Theo quan niệm này thì sự giàu, nghèo, thọ, yểu…không
phải là do định mệnh của Trời màdo người. Nếu người ta nỗ lực làm việc,
tiết kiệm tiền của thì ắt giàu có, tránh được nghèo đói. Đây là quan niệm khác
với quan niệm Thiên mệnh tính chất thần của Nho giáo dòng Khổng
Mạnh.
14
Học thuyết “Tam biểu” của Mặc gia mang tính cách là một học thuyết
về nhận thức, xu hướng duy vật cảm giác luận, đề cao vai trò của kinh
nghiệm, coi đó là bằng chứng xác thực của nhận thức.
Thuyết “Kiêm ái” một chủ thuyết chính trị hội mang đậm
tưởng tiểu nông. Mặc Địch phản đối quan điểm của Khổng Tử về sự phân biệt
thứ bậc, thân sơ…trong học thuyết “Nhân”. Ông chủ trương mọi người yêu
thương nhau, không phân biệt thân sơ, đẳng cấp…
Phái Hậu Mặc đã phát triển tưởng của Mặc gia kỳ chủ yếu trên
phương diện nhận thức luận.
3.5. Pháp gia
một trường phái triết học lớn của Trung Quốc cổ đại, chủ trương
dùng những luật lệ, hình pháp của nhà nước tiêu chuẩn để điều chỉnh hành
vi đạo đức của con người và củng cố chế độ chuyên chế thời Chiến quốc.
tiếng nói đại diện cho tầng lớp quý tộc mới, đấu tranh kiên quyết
chống lại tàn của chế độ công gia trưởng truyền thống tưởng bảo
thủ, mê tín tôn giáo đương thời.
Đại diện của phái Pháp gia là Hàn Phi Tử (280 – 233 TCN). Tư tưởng
Pháp trị của Hàn Phi Tử dựa trên những luận cứ triết học cơ bản sau:
Về tự nhiên:
Ông giải thích sự phát sinh, phát triển của vạn vật theo tính quy luật
khách quan ông gọi Đạo. Đạo quy luật phổ biến của giới tự nhiên
vĩnh viễn tồn tại và không thay đổi. Còn mỗi sự vật đều có “Lý” của nó. “Lý”
là sự biểu hiện khác nhau của Đạo trong mỗi sự vật cụ thể và là cái luôn luôn
biến hóa phát triển. Từ đó, ông yêu cầu mọi hành động của con người
không chỉ dựa trên quy luật khách quan, còn phải thay đổi theo sự biến
hóa của “Lý”, chống thái độ cố chấp và bảo thủ.
Về lịch sử:
15
Ông thừa nhận sự biến đổi của đời sống hội, khẳng định rằng
không thểchế độ xã hội nào không thay đổi. Do đó không thểkhuôn
mẫu chung cho mọi hội. Ông đã phân chia sự tiến triển của hội làm 3
giai đoạn chính, mỗi giai đoạn đó xã hội có những đặc điểm và tập quán riêng
ứng với trình độ nhất định của sản xuất và văn minh. Đó là:
+ Thời Thượng cổ: Con người biết lấy cây làm nhà phát minh ra
lửa để nấu chín thức ăn.
+ Thời Trung cổ: Con người đã biết trị thủy, khắc phục thiên tai.
+ Thời Cận cổ: Bắt đầu xuất hiện giai cấp xảy ra các cuộc chinh
phạt lẫn nhau.
Động lực căn bản của sự thay đổi hội được ông quy về sự thay đổi
của dân số và của cải xã hội.
Về thuyết “Tính người”:
Ông theo quan niệm của Tuân Tử coi tính người ác, đưa ra học
thuyết luân nhân vị lợi, luôn xu hướng lợi mình hại người, tránh hại
cầu lợi…Kẻ thống trị phải nương theo tâm vị lợi của con người để đặt ra
pháp luật, trọng thưởng, nghiêm phạt để duy trì trật tự xã hội.
Tư tưởng về pháp trị
Trên sở những luận điểm triết học bản ấy, Hàn Phi Tử đã đề ra
học thuyết Pháp trị, nhấn mạnh sự cần thiết phải cai trị xã hội bằng luật pháp.
Ông cũng phản đối thuyết nhân trị, đức trị của Nho giáo, phép “vô vi trị” của
Đạo gia. Phép trị quốc của Hàn Phi Tử bao gồm 3 yếu tố tổng hợp pháp,
thế thuật, trong đó pháp nội dung của chính sách cai trị, thế thuật
phương tiện để thực hiện chính sách đó.
+ “Pháp” là một phạm trù của triết học Trung Quốc cổ đại. Theo nghĩa
hẹp, quy định, luật lệ tính chất khuôn mẫu mọi người trong hội
phải tuân thủ; theo nghĩa rộng, pháp được coi một thể chế, chế độ chính trị
16
và xã hội.vậy, pháp được coi tiêu chuẩn, căn cứ khách quan để định
danh phận, giúp cho mọi người thấy rõ được bổn phận, trách nhiệm của mình.
+ “Thế” là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể.
+ “Thuật” cũng chính danh, phương sách trong thuật lãnh đạo
của nhà vua nhằm lấy danh mà tránh thực.
4. Một số nhận định về triết học Trung Quốc cổ, trung đại
Nền triết học Trung Quốc cổ đại ra đời vào thời kỳ quá độ từ chế độ
chiếm hữu llên chế độ phong kiến. Trong bối cảnh lịch sử ấy, mối quan
tâm hàng đầu của các nhà tư tưởng Trung Quốc cổ đại những vấn đề thuộc
đời sống thực tiễn chính trị - đạo đức của hội. Tuy họ vẫn đứng trên quan
điểm duy tâm để giải thích đưa ra những biện pháp giải quyết các vấn đề
xã hội, nhưng những tư tưởng của họ đã có tác dụng rất lớn trong việc xác lập
một trật tự hội theo hình chế độ quân chủ phong kiến trung ương tập
quyền theo những giá trị chuẩn mực chính trị - đạo đức phong kiến phương
Đông.
Bên cạnh những suy sâu sắc về các vấn đề hội, nền triết học
Trung Quốc thời cổ còn đóng góp cho lịch sử triết học thế giới những
tưởng sâu sắc về sự biến dịch của vũ trụ. Những tư tưởng về Âm dương - Ngũ
hành tuy còn những hạn chế nhất định, nhưng đó những triết đặc sắc
mang tính chất duy vậtbiện chứng của người Trung Quốc thời cổ, ảnh
hưởng lớn đến thế giới quan triết học sau này Trung Quốc một số nước
khác trong khu vực.
17
KẾT LUẬN
Triết học Trung Quốc cổ - trung đại, mặc dù xuất hiện trong các điều
kiện xã hội còn sơ khai, còn mang tính chất trực quan, chất phác, ngây thơ, tự
phát những đã đề cập đến những vấn đề bản của thế giới theo hướng hiện
đại, mà chủ yếu đề cập đến vấn đề nhân sinh quan. Các vấn đề khác triết học
Trung Quốc cổ - trung đại thể hiện không nét. Các trường phái triết học
tiêu biểu đại diện cho thời kỳ này là Nho giáo, Đạo giáo, Âm Dương.
Nghiên cứu về đặc điểm của triết học Trung Quốc cổ - trung đại
không chỉ giúp ta làm giàu tri thức về sự phát triển của triết học nói chung
triết học Trung Quốc nói riêng, thấy được sự khác biệt giữa triết học Trung
Quốc với triết học Ân Độ, Hy Lạp cổ đại. Qua đó cũng thấy được những ảnh
hưởng, tác động của triết học cổ - trung đại Trung Quốc đối với tư tưởng Việt
Nam.
Nghiên cứu vấn đề này giúp cho chúng ta tiếp tục tiếp thu những tinh
hoa tinh túy của triết học Trung Quốc, tuy những mặt hạn chế nhưng
đến nay vẫn còn ý nghĩa giỏ trị to lớn, truyền đạt cho thế hệ kế tiếp trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam xó hội chủ nghĩa.
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Khái lược lịch sử triết học TS Bùi Thị Thanh Hương, Nguyễn
Văn Đại, NXB Chính trị hành chính 2011.
2- Sử Trung Quốc (tập 1) Nguyễn Hiến Lê, Nxb Văn hoá, 1997
3- Giáo trình triết học dùng cho học viên cao học nghiên cứu
sinh, PGS,TS Nguyễn Thế Kiệt, Nxb lý luận chính trị 2006
4- Lịch sử triết học, Bộ giáo dục đào tạo, Nxb giáo dục, Nội,
2001.
5- Lịch sử tiết học, GS,TS Nguyễn Hữu Vui, Nxb chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2001
6- Hỏi đáp về triết học – Tập thể tác giả , Nhà xuất bản chính trị
Và một số tài liệu khác.
19

Preview text:

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA TRIẾT HỌC ======= TIỂU LUẬN MÔN: TRIẾT HỌC Đề tài:
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG TRIẾT
HỌC TRUNG QUỐC CỔ - TRUNG ĐẠI Học viên : NGUYỄN HÀ PHƯƠNG Ngày sinh : 09/10/1990 Lớp
: Cao học Quản lý BCTT 24.2A Hà Nội, T1/2019 0 MỞ ĐẦU
Trung Quốc cổ đại là một quốc gia rộng lớn, có nền văn minh lớn và
sớm, Khoảng từ 1.700 năm đến 1.000 năm trước công nguyên, người Trung
Quốc đã có bốn phát minh lớn: chế tạo ra la bàn, kỹ thuật chế tạo giấy, chế
tạo thuốc súng, phương pháp in chữ.
Thành tựu đạt được của Trung Quốc đã làm rung chuyển cả thế giới
đó là con đường cải cách kinh tế và chính trị vào năm 2007.
Tại sao những năm đầu thế kỷ 21, Trung Quốc lại đạt được một bước
tiến dài trong tiến trình phát triển của nó? Đó chính là kết quả của sự kết hợp
những yếu tố nội sinh cùng những thời cơ khách quan trong đó yếu tố nội sinh
đóng vai trò quyết định. Sức mạnh tiềm tàng từ trong lòng dân tộc Trung
Quốc bắt nguồn từ quá khứ, từ những giá trị ông cha sáng tạo nên thời cổ đại
rồi cuối cùng trở thành sợi dây gắn kết bền chặt con người ở quá khứ, hiện tại
và tương lai. Hãy cứ thử hình dung xem một đất nước phát triển qua mỗi thời
kỳ lịch sử như một con người lớn lên qua mỗi thời kỳ để trưởng thành và
theo đó thời kỳ cổ đại chính là tuổi ấu thơ của lịch sử. Đất nước Trung Quốc
đã có một "tuổi thơ" không hề êm đềm như đất nước Việt Nam mà đầy sóng
gió, đầy dấu ấn, ít một dân tộc nào có được. Nhưng cũng chính từ trong hoàn
cảnh khắc nghiệt đó, con người Trung Quốc mới vươn lên khắc phục khó
khăn tự làm giàu cho một cuộc sống của mình bằng những giá trị văn hoá, vật
chất và tinh thần vô cùng quý báu, đóng góp vào kho tàng tri thức của thế giới
cổ đại. Đó là một nền triết học rực rỡ. Đồng thời cũng chính từ đó con người
có mối dây liên hệ cội nguồn, hình thành nên ý thức dân tộc, những tư tưởng
triết học được thử thách và tôi luyện qua mỗi biến động lịch sử. Và như một
lẽ tự nhiên, những tư tưởng triết học cổ đại ấy đã ngấm sâu vào con người
Trung quốc, tạo nên nền tảng tinh thần hay ít ra cũng định hình cho lối sống,
phong cách, tâm lý của dân tộc Trung Quốc. Một thời kỳ cổ đại đầy những 1
biến động lịch sử đã làm nên nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong thực
tiến và góp phần vào cải tạo hiện thực xã hội Trung quốc ngày nay trên bước
đường hội nhập thế giới.
Tuy có nhiều người cho rằng, con người đang sống ở hiện tại nên chỉ
cần biết tới hiện tại, còn quá khứ đã lùi xa nên chỉ là dĩ vãng. Đặc biệt, trong
bối cảnh tranh chấp biển đảo của Trung Quốc với Việt Nam như hiện nay,
nhưng theo tôi, hiện tại là hiện tại, quá khứ nếu vẫn còn giá trị lớn và nhiều
sự ảnh ảnh hưởng thì chúng ta cũng phải nên tôn trọng. Thực tế, trong quá
trình phát triển lịch sử, Việt Nam cũng là một trong những nước ảnh hưởng
rất nhiều về văn hóa của trung Quốc. Bên cạnh những suy tư sâu sắc về các
vấn đề xã hội, nền triết học Trung Quốc thời cổ còn cống hiến cho lịch sử triết
học thế giới những tư tưởng sâu sắc về sự biến dịch của vũ trụ. Những tư
tưởng về Âm dương – Ngũ hành tuy còn có những hạn chế nhất định, nhưng
đó là những triết lý đặc sắc mang tính chất duy vật và biện chứng của người
Trung Quốc thời cổ, có ảnh hưởng lớn đến thế giới quan triết học sau này ở
Trung Quốc và một số nước khác trong khu vực.Vì vậy, nghiên cứu lịch sử
triết học Trung Quốc cổ là rất cần thiết để góp phần tìm hiểu lịch sử tư tưởng,
văn hóa của dân tộc ta . Chính vì vậy, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Tư
tưởng triết học chính trị - xã hội trong triết học Trung Quốc cổ - trung
đại” làm tiểu luận hết môn. 2 NỘI DUNG
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC
TRUNG QUỐC CỔ, TRUNG ĐẠI.
1. Hoàn cảnh ra đời của triết học Trung Quốc cổ, trung đại :
Trung Quốc cổ đại là một quốc gia rộng lớn, có lịch sử lâu đời từ cuối
thiên niên kỷ III TCN kéo dài tới tận thế kỷ III TCN với sự kiện Tần Thủy
Hoàng thống nhất Trung Quốc mở đầu cho thời kỳ phong kiến. Trong hơn
2000 năm lịch sử ấy, lịch sử Trung Quốc được phân chia làm 2 thời kỳ lớn:
Thời kỳ từ thế kỷ IX TCN trở về trước và thời kỳ từ thế kỷ VIII TCN đến cuối thế kỷ III TCN. 1.1. Thời kỳ thứ nhất:
Có các triều đại nhà Hạ, nhà Thương và nhà Tây Chu. Theo các văn
bản cổ, nhà Hạ ra đời vào khoảng thế kỷ XXI TCN, đánh dấu sự mở dầu cho
chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc. Khoảng nửa đầu thế kỷ XVII TCN,
người đứng đầu bộ tộc Thương là Thành Thang đã lật đổ nhà Hạ, lập ra nhà
Thương, đóng đô ở đất Bạc( Hà Nam hiện nay). Đến thế kỷ XVI TCN, Bàn
Canh rời đô về đất Ân nên nhà Thương còn gọi là nhà Ân. Vào khoảng thế kỷ
XI TCN, Chu Vũ Vương đã giết vua Trụ nhà Ân lập ra nhà Chu ( giai đoạn
đầu là Tây Chu), đưa chế độ nô lệ ở Trung Quốc lên đỉnh cao. Nhà Chu đã
thực hiện quốc hữu hóa về tư liệu sản xuất (gồm ruộng đất và sức lao động)
rất nghiêm ngặt, tất cả đều thuộc quyền quản lý của vua nhà Chu . Đồng thời,
thành lập những đô thị lớn tạo nên sự đối lập rất lớn giữa thành thị và nông thôn.
Trong thời kỳ này, thế giới quan thần thoại, tôn giáo và chủ nghĩa duy
tâm thần bí thống trị trong đời sống tinh thần. Những tư tưởng triết học đã
xuất hiện, nhưng chưa đạt tới mức là một hệ thống. Nó đã gắn chặt thần
quyền với thế quyền, lý giải sự liên hệ mật thiết giữa đời sống chính trị – xã 3
hội với lĩnh vực đạo đức luân lý. Lúc này cũng đã xuất hiện những quan niệm
có tính chất duy vật mộc mạc, những tư tưởng vô thần tiến bộ.
Về khoa học, họ đã phát minh ra chữ viết và dựa vào sự quan sát vận
hành của mặt trăng, các vì sao, tính chất chu kỳ của nước sông và quy luật
sinh trưởng của cây trồng mà họ đã biết làm ra lịch (Âm lịch)
1.2. Thời kỳ thứ hai: thời kỳ Đông Chu (còn gọi là thời kỳ Xuân Thu – Chiến quốc).
Thời kỳ chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong
kiến. Sự phát triển của sức sản xuất đã tác động mạnh mẽ đến hình thức sở
hữu ruộng đất và kết cấu giai tầng của xã hội. Nếu dưới thời Tây Chu, đất đai
thuộc sở hữu của nhà vua thì nay thuộc về tầng lớp địa chủ mới lên và chế độ
sở hữu tư nhân về ruộng đất hình thành.Từ đó, sự phân hóa sang hèn dựa trên
cơ sở tài sản xuất hiện. Xã hội lâm vào cảnh loạn lạc, rối ren và chiến tranh
xảy ra liên miên. Đây chính là điều kiện lịch sử đòi hỏi giải thể chế độ nô lệ
thị tộc nhà Chu, hình thành chế độ phong kiến; đòi hỏi giải thể nhà nước của
chế độ gia trưởng, xây dựng nhà nước phong kiến nhằm giải phóng lực lượng
sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển.
Sự phát triển sôi động của xã hội đã đặt ra và làm xuất hiện những tụ
điểm, những trung tâm của những “kẻ sĩ” luôn tranh luận về trật tự xã hội cũ
và đề ra những mẫu hình của một xã hội trong tương lai. Lịch sử gọi đây là
thời kỳ “Bách gia chư tử” (trăm nhà trăm thầy), “Bách gia tranh minh” (trăm
nhà đua tiếng). Chính trong quá trình ấy đã sản sinh ra những nhà tư tưởng
lớn và hình thành nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Đặc điểm của
các trường phái này là lấy con người và xã hội làm trung tâm của sự nghiên
cứu, có xu hướng chung là giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị – đạo
đức của xã hội. Theo Lưu Hâm (đời Tây Hán), Trung Quốc thời kỳ này có
chín trường phái triết học chính (gọi là Cửu lưu hay Cửu gia) là: Nho gia, 4
Mặc gia, Đạo gia, Âm dương gia, Danh gia, Pháp gia, Nông gia, Tung hoành
gia, Tạp gia. Trừ Phật giáo được du nhập từ ấn Độ sau này, các trường phái
triết học được hình thành vào thời kỳ này được bổ sung và hoàn thiện qua
nhiều giai đoạn lịch sử và tồn tại cho tới thời kỳ cận đại.
2. Đặc điểm của triết học Trung Quốc cổ, trung đại
Thứ nhất, triết học Trung Quốc cổ, trung đại luôn nhấn mạnh tinh thần
nhân văn, chú trong đến các tư tưởng triết học liên quan đến con người, còn
triết học tự nhiên có phần mờ nhạt.
Thứ hai, triết học Trung Quốc cổ, trung đại chú trọng đến lĩnh vực
chính trị -đạo đức của xã hội, coi việc thực hành đạo đức là hoạt động thực
tiễn căn bản nhất của một đời người. Có thể nói, đây cũng chính là nguyên
nhân dẫn đến sự kém phát triển về nhận thức luận và sự lạc hậu về khoa học
thực chứng của Trung Quốc.
Thứ ba, triết học Trung Quốc cổ, trung đại nhấn mạnh sự thống nhất
hài hòa giữa tự nhiên và xã hội, phản đối sự “thái quá” hay”bất cập”.
Thứ tư, đặc điểm nổi bật của phương thức tư duy của triết học Trung
Quốc cổ, trung đại là nhận thức trực giác, coi trọng tác dụng của cái “Tâm”,
coi đó là gốc rễ của nhận thức.
3. Một số học thuyết tiêu biểu của triết học Trung Quốc cổ, trung đại
3.1. Thuyết Âm – Dương, Ngũ hành
Ở Trung Quốc, những quan niệm triết lý về “âm – dương”, “ngũ
hành” đã được lưu truyền từ rất sớm. Tới thời Xuân thu – Chiến quốc, những
tư tưởng về Âm dương – Ngũ hành đã đạt tới mức là một hệ thống các quan
niệm về bản nguyên và tính biến dịch của thế giới.
Tư tưởng triết học về Âm- Dương 5
Triết học Âm – Dương có thiên hướng suy tư về nguyên lý vận hành
đầu tiên và phổ biến của vạn vật; đó là sự tương tác của hai thế lực đối lập nhau là Âm và Dương.
“Âm” là một phạm trù rất rộng, phản ánh khái quát những thuộc tính
phổ biến của vạn vật như: nhu, thuận, tối, ẩm, phía dưới, phía phải, số chẵn
(2,4,6…). “Dương” là phạm trù đối lập với “Âm”, phản ánh khái quát những
tính chất phổ biến của vạn vật như: cương, cường, sáng, khô, phía trên, phía
trái, số lẻ (1,3,5…). Nhưng hai thế lực Âm – Dương không tồn tại biệt lập mà
là thống nhất với nhau, chế ước lẫn nhau theo ba nguyên lý căn bản.
+ Âm – Dương thống nhất trong Thái cực (Thái cực được coi là
nguyên lý của sự thống nhất của hai mặt đối lập là âm và dương). Nguyên lý
này nói lên tính toàn vẹn, chỉnh thể, cân bằng của cái đa và cái duy nhất.
Chính nó bao hàm tư tưởng về sự thống nhất giữa cái bất biến và cái biến đổi.
+ Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm. Nguyên lý này nói lên
khả năng biến đổi Âm – Dương đã bao hàm trong mỗi mặt đối lập của Thái cực.
Hai nguyên lý này thường được các học giả phái Âm – Dương khái
quát bằng vòng tròn khép kín (tượng trưng cho Thái cực, trong đó được chia
thành hai nửa (đen trắng) và trong nửa này đã bao hàm nhân tố của nửa kia
(trong phần đen có nhân tố của phần trắng và ngược lại), biểu hiện cho
nguyên lý trong Dương có Âm và trong Âm có Dương.
+ Sự khái quát đồ hình Thái cực Âm – Dương còn bao hàm nguyên lý:
Dương tiến đến đâu thì Âm lùi đến đó và ngược lại; đồng thời “Âm thịnh thì
Dương khởi”, “Dương cực thì Âm sinh”.
Để giải thích sự biến dịch từ cái duy nhất thành cái nhiều, đa dạng,
phong phú của vạn vật, phái Âm – Dương đã đưa ra lôgíc tất định: Thái cực
sinh Lưỡng nghi (Âm – Dương); Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (Thái Dương –
Thiếu Âm – Thiếu Dương – Thái Âm) và Tứ tượng sinh Bát quái (Càn – 6
Khảm – Cấn – Chấn – Tốn – Ly – Khôn – Đoài); Bát quái sinh vạn vật (vô cùng vô tận).
Tư tưởng triết học về Âm – Dương đạt tới mức là một hệ thống hoàn
chỉnh trong tác phẩm Kinh Dịch, trong đó gồm 64 quẻ kép. Mỗi quẻ kép là
một động thái, một thời của vạn vật và nhân sinh, xã hội như: Kiền, Khôn, Bĩ,
Thái, Truân…; Sự chú giải Kinh Dịch là của nhiều bậc trí thức ở nhiều thời
đại khác nhau với những xu hướng khác nhau. Điều đó tạo ra một “tập đại
thành” của sự chú giải, bao hàm những tư tưởng triết học hết sức phong phú và sâu sắc.
Tư tưởng triết học về Ngũ hành
Tư tưởng triết học về Ngũ hành có xu hướng đi vào phân tích cấu trúc
của vạn vật và quy nó về những yếu tố khởi nguyên với những tính chất khác
nhau, những tương tác (tương sinh, tương khắc) với nhau. Đó là năm yếu tố:
Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ. Kim tượng trưng cho tính chất trắng, khô,
cay, phía Tây, v.v.; Thủy tượng trưng cho tính chất đen, mặn, phía Bắc, v.v.;
Mộc tượng trưng cho tính chất xanh, chua, phía Đông, .v.v.; Hỏa tượng trưng
cho tính chất đỏ, đắng, phía Nam,.v.v.; Thổ tượng trưng cho tính chất vàng, ngọt, ở giữa,.v.v.
Năm yếu tố này không tồn tại biệt lập tuyệt đối mà trong một hệ thống
ảnh hưởng sinh – khắc với nhau theo hai nguyên tắc:
+ Tương sinh (sinh hóa cho nhau): Thổ sinh Kim; Kim sinh Thủy;
Thủy sinh Mộc; Mộc sinh Hỏa; Hỏa sinh Thổ.v.v.
+ Tương khắc (chế ước lẫn nhau): Thổ khắc Thủy; Thủy khắc Hỏa;
Hỏa khắc Kim; Kim khắc Mộc và Mộc khắc Thổ.v.v.
Sự hợp nhất giữa tư tưởng triết học Âm – Dương và Ngũ hành đã làm
cho mỗi thuyết có sự bổ túc, hoàn thiện hơn, thể hiện điển hình ở chỗ: các quẻ
đơn (Càn – Khảm – Cấn – Chấn – Tốn – Ly – Khôn – Đoài) đều được quy về
Ngũ hành để biện giải và ngược lại, Ngũ hành cũng mang tính cách Âm – 7
Dương. Chẳng hạn: Kiền – Đoài thuộc hành Kim; chấn – Tốn thuộc hành
Mộc v.v. và Kim cũng có Kim Âm và Kim Dương; Mộc cũng có Mộc Âm và Mộc Dương.
3.2. Nho gia (thường gọi là Nho giáo)
Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI TCN dưới thời Xuân Thu,
người sáng lập là Khổng Tử (551 – 479 TCN). Đến thời Chiến Quốc, Nho gia
đã được Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển theo hai xu hướng
khác nhau: duy vật và duy tâm, trong đó dòng Nho gia Khổng – Mạnh có ảnh
hưởng rộng và lâu dài nhất trong lịch sử Trung Quốc và một số nước lân cận.
Kinh điển chủ yếu của Nho gia gồm Tứ Thư (Luận ngữ, Đại học,
Trung Dung, Mạnh Tử) và Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch và Xuân Thu). Các
kinh sách này hầu hết đều viết về xã hội, về kinh nghiệm lịch sử Trung Quốc.
Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị – đạo đức là
những tư tưởng cốt lõi của Nho gia. Những quan niệm đó được thể hiện ở
những tư tưởng chủ yếu sau:
Thứ nhất, Nho gia coi những quan hệ chính trị – đạo đức là những
quan hệ nền tảng của xã hội, trong đó quan trọng nhất là quan hệ vua – tôi,
cha – con, chồng – vợ (gọi là Tam cương). Nếu xếp theo tôn ty trật tự, trên
dưới thì vua ở vị trí cao nhất, còn nếu xếp theo chiều ngang của quan hệ thì
vua – cha – chồng xếp ở hàng làm chủ. Điều này phản ánh tư tưởng chính trị
quân quyền và phụ quyền của Nho gia.
Thứ hai, xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã hội phong
kiến, một xã hội đầy những biến động loạn lạc và chiến tranh nên lý tưởng
của Nho gia là xây dựng một “xã hội đại đồng”. Đó là một xã hội có trật tự
trên – dưới, có vua sáng – tôi hiền, cha từ – con thảo, trong ấm – ngoài êm
trên cơ sở địa vị và thân phận của mỗi thành viên từ vua chúa, quan lại đến
thứ dân. Có thể nói đó là lý tưởng của tầng lớp quý tộc cũ cũng như của giai
cấp địa chủ phong kiến đang lên. 8
Thứ ba, Nho gia lấy giáo dục làm phương thức chủ yếu để đạt tới xã
hội lý tưởng “đại đồng”. Do không coi trọng cơ sở kinh tế và kỹ thuật của xã
hội nên nền giáo dục của Nho gia chủ yếu hướng vào việc rèn luyện đạo đức
con người. Trong bảng giá trị đạo đức của Nho gia thì chuẩn mực gốc là
“Nhân”. Những chuẩn mực khác như Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu.v .v.
đều là những biểu hiện cụ thể của Nhân.
Thứ tư, Nho gia quan tâm đến vấn đề bản tính con người. Việc giải
quyết những vấn đề chính trị -xã hội đòi hỏi Nho gia cũng như nhiều học
thuyết khác của Trung Quốc thời cổ phải đặt ra và giải quyết vấn đề bản tính
con người. Trong học thuyết Nho gia không có sự thống nhất quan điểm về
vấn đề này, nhưng nổi bật là quan điểm của Mạnh Tử. Theo ông, “bản tính
con người vốn là thiện” (Nhân chi sơ, tính bản thiện). Thiện là tổng hợp
những đức tính vốn có của con người từ khi mới sinh ra như: Nhân, Nghĩa, Lễ .v.v.
Mạnh Tử đã thần bí hóa những giá trị chính trị – đạo đức đến mức coi
chúng là tiên thiên, bẩm sinh. Do quan niệm tính thiện nên Nho gia (dòng
Khổng – Mạnh) đề cao sự giáo dục con người để con người trở về đường
thiện với những chuẩn mực đạo đức có sẵn.
Đối lập với Mạnh Tử coi tính người là Thiện, Tuân Tử lại coi bản tính
con người vốn là ác (Nhân chi sơ, tính bản ác). Mặc dù vậy, nhưng có thể
giáo hóa trở thành thiện (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí….). Xuất phát từ quan niệm đó
về tính người, Tuân Tử chủ trương đường lối trị nước kết hợp giữa Nho gia và Pháp gia.
Người sáng lập ra Nho gia là Khổng Tử (551 – 479 tr.CN)
Trong quan niệm về thế giới, tư tưởng của Khổng Tử luôn có những
mâu thuẫn. Một mặt, khi chống lại chủ nghĩa thần bí, tôn giáo đương thời,
ông thừa nhận sự vật, hiện tượng trong tự nhiên luôn luôn tự vận động,biến
hóa không phụ thuộc vào mệnh lệnh của Trời. “ Trời có nói gì đâu mà bốn 9
mùa vận hành, vạn vật sinh hóa mãi mãi” (Luận ngữ, Dương Hóa, 18); hay “
cũng như dòng nước chảy, mọi vật đều trôi đi, ngày đêm không ngừng, không
nghỉ” (Luận ngữ, Tử Hãn, 16). Đó là yếu tố duy vật chất phác và tư tưởng
biện chứng tự phát của ông. Mặt khác, ông lại cho rằng Trời có ý chí và có
thể chi phối vận mệnh của con người (Thiên mệnh). Đó là yếu tố duy tâm
khách qua trong quan điểm của ông. Ông nói: “Đạo của ta thi hành ra được
cũng do mệnh Trời, mà bị bỏ phế cũng là do mệnh Trời” (Luận ngữ, Hiến
vấn, 38); “làm sao có thể cải được mệnh Trời”. Hiểu biết mệnh Trời là một
điều kiện tất yếu để trở thành con người hoàn thiện là người quân tử. Cũng
như thế, một mặt Khổng Tử tuyên truyền sức mạnh của quỷ thần; nhưng mặt
khác ông lại nhấn mạnh vai trò quan trọng của hoạt động con người trong đời sống.
Quan niệm về nhận thức trong học thuyết của Khổng Tử không phát
triển, không đặt ra vấn đề chân lý mà chỉ dừng lại ở vấn đề “tri thức luận” (tri
thức do đâu mà có). Theo ông, tri thức có hai loại là “thượng trí” (không học
cũng biết) và “hạ ngu”(học cũng không biết). Nghĩa là ông đã thừa nhận có tri
thức tiên thiên, có trước sự nhận thức của con người. Đối tượng để dạy dỗ,
giáo hóa nằm giữa “trí” và “ngu”, nếu chịu khó học tập có thể vươn tới
thượng trí. Còn không học thì rơi xuống hạ ngu. Ưu điểm của ông là chủ
trương “hữu giáo vô loại” (học thì không phân loại). Khổng Tử cũng nêu ra
một số phương pháp học tập có ý nghĩa như: học phải đi đôi với luyện tập;
học phải kết hợp với suy nghĩ; phải ôn cũ để biết mới; học phải nắm được cái
cốt yếu”Tuy nhiên, hạn chế của Khổng Tử là ở quan niệm học theo lối “hoài
cổ”, coi thường tri thức về sản xuất, lao động chân tay.
Tư tưởng về luân lý, đạo đức, chính trị – xã hội là một trong những
vấn đề cốt lõi trong học thuyết Khổng Tử. Những nguyên lý đạo đức cơ bản
nhất trong học thuyết đạo đức của Khổng Tử là : Nhân, lễ, trí, dũng…cùng 10
với một hệ thống quan niệm về chính trị – xã hội như “nhân trị”, “chính
danh”, “thượng hiền”, “quân tử”, “tiểu nhân”…
Khổng Tử lấy chữ “Nhân” làm nguyên lý đạo đức cơ bản trong triết
học của mình. Nhân có ý nghĩa rất rộng, bao hàm nhiều mặt trong đời sống
con người, có lúc trừu tượng, có lúc cụ thể, tuỳ theo trình độ, hoàn cảnh mà
ông giảng giải về nhân với nội dung khác nhau. “Sửa mình theo lẽ là nhân”, “
Điều gì mình không muốn, đừng đem nó làm cho người khác là nhân”, “yêu
thương người là nhân”…Tư tưởng bao trùm của Nhân là yêu thương con
người, là đạo làm người.
Để điều nhân có thể thực hiện được thì phải bằng “lễ”. Lễ ở Khổng Tử
là những phong tục, tập quán, những quy tắc, quy định trật tự xã hội và cả thể
chế pháp luật Nhà nước như: sinh, tử, tang, hôn tế lễ, triều sính, luật lệ, hình
pháp…Lễ được coi là hình thức biểu hiện của nhân. Mặc dù kiên trì bảo vệ lễ
của nhà Chu , nhưng Khổng Tử cũng đưa thêm những nội dung mới và phát
triển nó lên, biến lễ thành một phạm trù có ý nghĩa xã hội và nhân văn sâu sắc.
Mục đích của Khổng Tử là xây dựng một xã hội có tôn ty trật tự, kỷ
cương. Để làm đươc điều đó cần phải có “lễ” và “chính danh”. “Chính danh
là làm mọi việc cho ngay thẳng”(Luận ngữ, Nhan Uyên,1); “Chính danh thì
người nào có địa vị, bổn phận chính đángcủa người ấy, trên dưới, vua tôi, cha
con trật tự phân minh, vua lấy lễ mà khiến tôi, tôi lấy trung mà thờ vua”(Luận
ngữ, Bát Dật, 19)…Theo Khổng Tử, muốn trị nước trước tiên phải sửa mình
cho chính danh, vì “danh không chính thì lời nói không thuận; lời nói không
thuận thì sự việc không thành công; sự việc không thành công thì lễ nhạc
không hưng thịnh; lễ nhạc không hưng thịnh thì hình phạt không đúng; hình
phạt không đúng thì dân không biết theo ai?” (Luận ngữ, Tử Lộ, 3). Xuất phát
từ tình hình loạn lạc của xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu, Khổng Tử đã nêu 11
lên thuyết “chính danh”, nhưng trên thực tế, học thuyết này mang tính bảo
thủ, bảo vệ cho lợi ích của quý tộc nhà Chu.
Để thực hiện mục đích của mình, Khổng Tử chống việc duy trì ngôi
vua theo huyết thống và chủ trương “thượng hiền”, dùng người không phân
biệt đẳng cấp xuất thân của họ. Trong việc chính trị, vua phải biết “trọng dụng
người hiền đức, tài cán và rộng lượng với những kẻ cộng sự” (Luận ngữ, Tử
Lộ, 2). Việc ông mở trường dạy học chính là nhằm mục đích đào tạo ra những
người có tài, đức tham gia vào công cuộc cai trị.
Toàn bộ học thuyết về nhân, lễ, chính danh… của Khổng Tử là nhằm
phục vụ mục đích chính trị là “Đức trị”. Ông phản đối việc dùng hình phạt để
trị dân vì làm như vậy, dân sợ mà phải theo chứ không phục. Theo ông, làm
chính trị mà dùng đức cảm hóa người thì giống như sao Bắc Đẩu ở một nơi
mà các sao khác đều chầu đến.
Tóm lại: So với các học thuyết khác, Nho gia có nội dung phong phú
và mang tính hệ thống hơn cả; hơn thế nữa, nó còn là hệ tư tưởng chính thống
của giai cấp thống trị Trung Quốc suốt hơn hai ngàn năm của xã hội phong
kiến. Để trở thành hệ tư tưởng chính thống, Nho gia đã được bổ sung và hoàn
thiện qua nhiều giai đoạn lịch sử trung đại: Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh,
nhưng tiêu biểu hơn cả là dưới triều đại nhà Hán và nhà Tống, gắn liền với
tên tuổi của các bậc danh Nho như Đổng Trọng Thư (thời Hán), Chu Đôn Di,
Trương Tải, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy (thời Tống). Quá trình bổ sung và
hoàn thiện Nho gia thời trung đại được tiến hành theo hai xu hướng cơ bản:
Một là, hệ thống hóa kinh điển và chuẩn mực hóa các quan điểm triết
học của Nho gia theo mục đích ứng dụng vào đời sống xã hội, phục vụ lợi ích
thống trị của giai cấp phong kiến; vì thế Đổng Trọng Thư đã làm nghèo nàn đi
nhiều giá trị nhân bản và biện chứng của Nho gia cổ đại. Tính duy tâm thần bí
của Nho gia trong các quan điểm về xã hội cũng được đề cao. Tính khắc 12
nghiệt một chiều trong các quan hệ Tam cương, Ngũ thường thường được nhấn mạnh.
Hai là, hoàn thiện các quan điểm triết học về xã hội của Nho gia trên
cơ sở bổ sung bằng các quan điểm triết học của thuyết Âm Dương – Ngũ
hành, những quan niệm về bản thể của Đạo gia, tư tưởng về pháp trị của Pháp
gia v.v. Vì vậy, có thể nói: Nho gia thời trung đại là tập đại thành của tư
tưởng Trung Quốc. Nho gia còn có sự kết hợp với cả tư tưởng triết học ngoại
lai là Phật giáo. Sự kết hợp các tư tưởng triết học của Nho gia với những tư
tưởng triết học ngoài Nho gia đã có ngay từ thời Hán và ít nhiều có cội nguồn
từ Mạnh Tử. Tuy nhiên, sự kết hợp đạt tới mức nhuần nhuyễn và sâu sắc chỉ
có dưới thời nhà Tống (960 – 1279).
3.3. Đạo gia (hay học thuyết về Đạo)
Người sáng lập ra Đạo gia là Lão Tử (khoảng thế kỷ VI TCN). Học
thuyết của ông được Dương Chu và Trang Chu thời Chiến quốc hoàn thiện và
phát triển theo hai hướng ít nhiều khác nhau. Những tư tưởng triết học của
Đạo gia được khảo cứu chủ yếu qua Đạo đức kinh và Nam hoa kinh.
Tư tưởng cốt lõi của Đạo gia là học thuyết về “Đạo” với những tư
tưởng biện chứng, cùng với học thuyết “Vô vi” về lĩnh vực chính trị – xã hội.
Về bản thể luận, tư tưởng về Đạo là nội dung cốt lõi trong bản thể
luận của Đạo gia. Phạm trù Đạo bao gồm những nội dung cơ bản sau:
– “Đạo” là bản nguyên của vạn vật. Tất cả từ Đạo mà sinh ra và trở về
với cội nguồn của Đạo.
– “Đạo” là cái vô hình, hiện hữu là cái “có”; song Đạo và hiện hữu
không thể tách rời nhau. Trái lại, Đạo là cái bản chất, hiện hữu là cái biểu
hiện của Đạo. Bởi vậy, có thể nói: Đạo là nguyên lý thống nhất của mọi tồn tại.
– “Đạo” là nguyên lý vận hành của mọi hiện hữu. Nguyên lý ấy là
“đạo pháp tự nhiên”. 13
Chính trong quan niệm về “Đạo” đã thể hiện một trình độ tư duy khái
quát cao về những vấn đề bản nguyên thế giới, nhìn nhận thế giới trong tính
chỉnh thể thống nhất của nó.
Quan niệm về tính biện chứng của thế giới không tách rời những quan
niệm về “Đạo”, trong đó bao hàm những tư tưởng chủ yếu sau:
Mọi hiện hữu đều biến dịch theo nguyên tắc “bình quân” và “phản
phục” (cân bằng và quay trở lại cái ban đầu).
– Các mặt đối lập trong thể thống nhất, quy định lẫn nhau, là điều kiện
tồn tại của nhau, trong cái này đã có cái kia.
Do nhấn mạnh nguyên tắc “bình quân” và “phản phục” trong biến
dịch nên Đạo gia không nhấn mạnh tư tưởng đấu tranh với tư cách là phương
thức giải quyết mâu thuẫn nhằm thực hiện sự phát triển; trái lại, đã đề cao tư
tưởng điều hòa mâu thuẫn, coi đó là trạng thái lý tưởng. Bởi vậy triết học Đạo
gia không bao hàm tư tưởng về sự phát triển.
Học thuyết chính trị – xã hội với cốt lõi là luận điểm “Vô vi”. Vô vi
không phải là cái thụ động, bất động hay không hành động mà có nghĩa là
hành động theo bản tính tự nhiên của “Đạo”. 3.4. Mặc gia
Phái Mặc gia do Mặc Tử, tức Mặc Địch (khoảng từ 479 -381 tr.CN)
sáng lập thời Xuân Thu. Sang thời Chiến Quốc dã phát triển thành phái Hậu
Mặc. Đây là một trong ba học thuyết lớn nhất đương thời (Nho – Đạo – Mặc).
Tư tưởng triết học trung tâm của Mặc gia thể hiện ở quan niệm về
“Phi thiên mệnh”. Theo quan niệm này thì sự giàu, nghèo, thọ, yểu…không
phải là do định mệnh của Trời mà là do người. Nếu người ta nỗ lực làm việc,
tiết kiệm tiền của thì ắt giàu có, tránh được nghèo đói. Đây là quan niệm khác
với quan niệm Thiên mệnh có tính chất thần bí của Nho giáo dòng Khổng – Mạnh. 14
Học thuyết “Tam biểu” của Mặc gia mang tính cách là một học thuyết
về nhận thức, có xu hướng duy vật và cảm giác luận, đề cao vai trò của kinh
nghiệm, coi đó là bằng chứng xác thực của nhận thức.
Thuyết “Kiêm ái” là một chủ thuyết chính trị – xã hội mang đậm tư
tưởng tiểu nông. Mặc Địch phản đối quan điểm của Khổng Tử về sự phân biệt
thứ bậc, thân sơ…trong học thuyết “Nhân”. Ông chủ trương mọi người yêu
thương nhau, không phân biệt thân sơ, đẳng cấp…
Phái Hậu Mặc đã phát triển tư tưởng của Mặc gia sơ kỳ chủ yếu trên
phương diện nhận thức luận. 3.5. Pháp gia
Là một trường phái triết học lớn của Trung Quốc cổ đại, chủ trương
dùng những luật lệ, hình pháp của nhà nước là tiêu chuẩn để điều chỉnh hành
vi đạo đức của con người và củng cố chế độ chuyên chế thời Chiến quốc.
Là tiếng nói đại diện cho tầng lớp quý tộc mới, đấu tranh kiên quyết
chống lại tàn dư của chế độ công xã gia trưởng truyền thống và tư tưởng bảo
thủ, mê tín tôn giáo đương thời.
Đại diện của phái Pháp gia là Hàn Phi Tử (280 – 233 TCN). Tư tưởng
Pháp trị của Hàn Phi Tử dựa trên những luận cứ triết học cơ bản sau: Về tự nhiên:
Ông giải thích sự phát sinh, phát triển của vạn vật theo tính quy luật
khách quan mà ông gọi là Đạo. Đạo là quy luật phổ biến của giới tự nhiên
vĩnh viễn tồn tại và không thay đổi. Còn mỗi sự vật đều có “Lý” của nó. “Lý”
là sự biểu hiện khác nhau của Đạo trong mỗi sự vật cụ thể và là cái luôn luôn
biến hóa và phát triển. Từ đó, ông yêu cầu mọi hành động của con người
không chỉ dựa trên quy luật khách quan, mà còn phải thay đổi theo sự biến
hóa của “Lý”, chống thái độ cố chấp và bảo thủ. Về lịch sử: 15
Ông thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội, khẳng định rằng
không thể có chế độ xã hội nào là không thay đổi. Do đó không thể có khuôn
mẫu chung cho mọi xã hội. Ông đã phân chia sự tiến triển của xã hội làm 3
giai đoạn chính, mỗi giai đoạn đó xã hội có những đặc điểm và tập quán riêng
ứng với trình độ nhất định của sản xuất và văn minh. Đó là:
+ Thời Thượng cổ: Con người biết lấy cây làm nhà và phát minh ra
lửa để nấu chín thức ăn.
+ Thời Trung cổ: Con người đã biết trị thủy, khắc phục thiên tai.
+ Thời Cận cổ: Bắt đầu xuất hiện giai cấp và xảy ra các cuộc chinh phạt lẫn nhau.
Động lực căn bản của sự thay đổi xã hội được ông quy về sự thay đổi
của dân số và của cải xã hội.
Về thuyết “Tính người”:
Ông theo quan niệm của Tuân Tử coi tính người là ác, đưa ra học
thuyết luân lý cá nhân vị lợi, luôn có xu hướng lợi mình hại người, tránh hại
cầu lợi…Kẻ thống trị phải nương theo tâm lý vị lợi của con người để đặt ra
pháp luật, trọng thưởng, nghiêm phạt để duy trì trật tự xã hội. Tư tưởng về pháp trị
Trên cơ sở những luận điểm triết học cơ bản ấy, Hàn Phi Tử đã đề ra
học thuyết Pháp trị, nhấn mạnh sự cần thiết phải cai trị xã hội bằng luật pháp.
Ông cũng phản đối thuyết nhân trị, đức trị của Nho giáo, phép “vô vi trị” của
Đạo gia. Phép trị quốc của Hàn Phi Tử bao gồm 3 yếu tố tổng hợp là pháp,
thế và thuật, trong đó pháp là nội dung của chính sách cai trị, thế và thuật là
phương tiện để thực hiện chính sách đó.
+ “Pháp” là một phạm trù của triết học Trung Quốc cổ đại. Theo nghĩa
hẹp, là quy định, luật lệ có tính chất khuôn mẫu mà mọi người trong xã hội
phải tuân thủ; theo nghĩa rộng, pháp được coi là một thể chế, chế độ chính trị 16
và xã hội. Vì vậy, pháp được coi là tiêu chuẩn, căn cứ khách quan để định rõ
danh phận, giúp cho mọi người thấy rõ được bổn phận, trách nhiệm của mình.
+ “Thế” là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể.
+ “Thuật” cũng là chính danh, là phương sách trong thuật lãnh đạo
của nhà vua nhằm lấy danh mà tránh thực.
4. Một số nhận định về triết học Trung Quốc cổ, trung đại
Nền triết học Trung Quốc cổ đại ra đời vào thời kỳ quá độ từ chế độ
chiếm hữu nô lệ lên chế độ phong kiến. Trong bối cảnh lịch sử ấy, mối quan
tâm hàng đầu của các nhà tư tưởng Trung Quốc cổ đại là những vấn đề thuộc
đời sống thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên quan
điểm duy tâm để giải thích và đưa ra những biện pháp giải quyết các vấn đề
xã hội, nhưng những tư tưởng của họ đã có tác dụng rất lớn trong việc xác lập
một trật tự xã hội theo mô hình chế độ quân chủ phong kiến trung ương tập
quyền theo những giá trị chuẩn mực chính trị - đạo đức phong kiến phương Đông.
Bên cạnh những suy tư sâu sắc về các vấn đề xã hội, nền triết học
Trung Quốc thời cổ còn đóng góp cho lịch sử triết học thế giới những tư
tưởng sâu sắc về sự biến dịch của vũ trụ. Những tư tưởng về Âm dương - Ngũ
hành tuy còn có những hạn chế nhất định, nhưng đó là những triết lý đặc sắc
mang tính chất duy vật và biện chứng của người Trung Quốc thời cổ, có ảnh
hưởng lớn đến thế giới quan triết học sau này ở Trung Quốc và một số nước khác trong khu vực. 17 KẾT LUẬN
Triết học Trung Quốc cổ - trung đại, mặc dù xuất hiện trong các điều
kiện xã hội còn sơ khai, còn mang tính chất trực quan, chất phác, ngây thơ, tự
phát những đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của thế giới theo hướng hiện
đại, mà chủ yếu đề cập đến vấn đề nhân sinh quan. Các vấn đề khác triết học
Trung Quốc cổ - trung đại thể hiện không rõ nét. Các trường phái triết học
tiêu biểu đại diện cho thời kỳ này là Nho giáo, Đạo giáo, Âm Dương.
Nghiên cứu về đặc điểm của triết học Trung Quốc cổ - trung đại
không chỉ giúp ta làm giàu tri thức về sự phát triển của triết học nói chung và
triết học Trung Quốc nói riêng, thấy được sự khác biệt giữa triết học Trung
Quốc với triết học Ân Độ, Hy Lạp cổ đại. Qua đó cũng thấy được những ảnh
hưởng, tác động của triết học cổ - trung đại Trung Quốc đối với tư tưởng Việt Nam.
Nghiên cứu vấn đề này giúp cho chúng ta tiếp tục tiếp thu những tinh
hoa tinh túy của triết học Trung Quốc, tuy nó có những mặt hạn chế nhưng
đến nay vẫn còn có ý nghĩa giỏ trị to lớn, truyền đạt cho thế hệ kế tiếp trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam xó hội chủ nghĩa. 18 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1-
Khái lược lịch sử triết học – TS Bùi Thị Thanh Hương, Nguyễn
Văn Đại, NXB Chính trị hành chính 2011. 2-
Sử Trung Quốc (tập 1) Nguyễn Hiến Lê, Nxb Văn hoá, 1997 3-
Giáo trình triết học dùng cho học viên cao học và nghiên cứu
sinh, PGS,TS Nguyễn Thế Kiệt, Nxb lý luận chính trị 2006 4-
Lịch sử triết học, Bộ giáo dục đào tạo, Nxb giáo dục, Hà Nội, 2001. 5-
Lịch sử tiết học, GS,TS Nguyễn Hữu Vui, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001 6-
Hỏi đáp về triết học – Tập thể tác giả , Nhà xuất bản chính trị
Và một số tài liệu khác. 19