Tư tưởng triết học Phật giáo trong triết học Ấn Độ cổ đại | Tiểu luận Triết học

Theo Nguyễn Ánh Hồng: “Ấn Độ cổ đại là quốc gia rộng lớn bao gồm Pakistan,  Bangladesh, Nêpan và tiểu lục địa Hindustan – tức Ấn Độ ngày nay. Là đất nước  của những tương phản đồng thời thống nhất trong đa dạng cả địa hình, khí hậu,  chủng tộc, ngôn ngữ. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Thông tin:
22 trang 2 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tư tưởng triết học Phật giáo trong triết học Ấn Độ cổ đại | Tiểu luận Triết học

Theo Nguyễn Ánh Hồng: “Ấn Độ cổ đại là quốc gia rộng lớn bao gồm Pakistan,  Bangladesh, Nêpan và tiểu lục địa Hindustan – tức Ấn Độ ngày nay. Là đất nước  của những tương phản đồng thời thống nhất trong đa dạng cả địa hình, khí hậu,  chủng tộc, ngôn ngữ. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

7 4 lượt tải Tải xuống
HỌC VIỆN BÁO CHÍ
TUYÊN TRUYỀN
KHOA TRIẾT HỌC
PHÍ TRỊNH MAI TRANG
TÊN ĐỀ TÀI
“Tư tưởng triết học Phật giáo trong triết học Ấn Độ cổ đại”
Tiểu luận môn: Triết học
Hà Nội - 2022
HỌC VIỆN BÁO CHÍ
TUYÊN TRUYỀN
KHOA TRIẾT HỌC
PHÍ TRỊNH MAI TRANG
TÊN ĐỀ TÀI
“Tư tưởng triết học Phật giáo trong triết học Ấn Độ cổ đại”
Lớp: Cao học CNXHKH 27.2
Mã học viên: 2788280003
Tiểu luận môn: Triết học
Hà Nội - 2022
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Chương 1: sở luận những vấn đề chung về triết học
Ấn Độ cổ đại
1.1. Vị trí địa lý và dân cư Ấn Độ cổ đại
1.2. Các giai đoạn lịch sử
1.3. Điều kiện khoa học, văn hoá
1.4. Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại
Chương 2: Một số nội dung về triết học Phật giáo trong
triết học Ấn Độ cổ đại
2.1. Nguồn gốc ra đời
2.2. Sự phát triển của đạo Phật
2.3. Giáo lý cơ bản của đạo Phật (Triết học Phật giáo)
Chương 3: Liên hệ Phật giáo ở Ấn Độ, Việt Nam hiện nay
3.1. Tầm ảnh hưởng của Phật giáo ở Ấn Độ hiện nay
3.2. Phật giáo ở Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo Nguyễn Ánh Hồng: “Ấn Độ cổ đại là quốc gia rộng lớn bao gồm
Pakistan, Bangladesh, Nêpan và tiểu lục địa Hindustan – tức Ấn Độ ngày nay.
Là đất nước của những tương phản đồng thời thống nhất trong đa dạng cả địa
hình, khí hậu, chủng tộc, ngôn ngữ… Ấn Độ ẩn phức tạp với núi cao,
sông dài, biển rộng những đồi cỏ xanh bát ngát, những cánh rừng lặng lẽ,
thâm u” [6, tr.33]. Đặc biệt, Himalaya ý nghĩa cùng quan trọng trong
định hình bản sắc văn hoá Ấn – đâytrường học thâm nghiêm khơi sáng trí
tuệ cho bao triết gia Ấn Độ suy về triết nhân sinh trụ. Đồng thời,
sông Indus (sông Ấn) sông Gange (sông Hằng) đã làm nên diện mạo
linh hồn đất nước; trong đó, sông Ganga hay còn được gọi sông Hằng
linh thiêng, dòng sông mẹ với bao huyền thoại, tạo sắc màu văn hoá tâm linh
cho Ấn Độ xưa và nay.
Ấn Độ một quốc gia đa dạng về văn hoá, sắc tộc, tín ngưỡng tôn
giáo. Chẳng hạn như, đạo Hindu, đạo Phật, đạo Jain, đạo Sikh… Tuy nhiên,
cho đến ngày nay, đạo Phật không còn phổ biến Ấn Độ mặc đất nước
này được coi một trong những cái nôi của Phật giáo. Chính vậy, em lựa
chọn chủ đề: “Ấn Độ cổ đại một đất nước rộng lớn cũng nơi khởi
nguồn của nhiều tôn giáo. Hãy trình bày tổng quan về đạo Hindu, đạo Phật,
đạo Jain và đạo Sikh. Phân tích vì sao đạo Phật không còn phổ biến ở Ấn Độ
nữa nhưng tưởng nhiều dấu ấn của Phật giáo vẫn hiện diện trong đời
sống xã hội Ấn Độ cho đến ngày nay?” làm nội dung nghiên cứu trong bài tập
lớn kết thúc học phần Lịch sử văn minh thế giới của mình.
2. Những công trình nghiên cứu liên quan (Tham khảo khoá luận)
- Nguyễn Xuân Thắng: Một số luận điểm mới về phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng hội chủ nghĩa nước ta hiện nay, Tạp chí luận
chính trị, số 8 - 2016.
- Đậu Tuấn Anh (2016): DN nhỏ vừa nhân Việt Nam kinh doanh
trong chật vật, Diễn đành Kinh tế Việt Nam 2016, Hà Nội.
- Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam: Báo cáo Kinh tế thế giới và
Việt Nam 2016 - 2017, Hà Nội, 2017.
- Nguyễn Hồng Sơn: Phát triển khu vực KTTN ở Việt Nam: Những rào
cản và giải pháp, Tạp chí Kinh tế và Quản lý, số 22, tháng 6 – 2017
- Vũ Đình Ánh: Vấn đề phát triển KTTN ở Việt Nam, báo điện tử Đảng
Cộng sản Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của đề tài: làm rõ những nhận thức mới về thành
KTTN trong thời kỳ quá độ Việt Nam. Từ đó đánh giá sự phát triển luận
về vấn đề này ở Việt Nam, đề ra giải pháp tổng kết thực tiễn phát triển lý luận
về thành phần KTTN trong thời kỳ quá độ trong những giai đoạn tiếp theo.
- Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, đề tài cần giải quyết 3 nhiệm
vụ:
+ Làm thế nào đổi mới nhận thức về thành phần KTTN
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
+ Khảo sát 1 số nội dung đổi mới nhận thức về thành phần
KTTN trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
+ Đánh giá nhận thức về đổi mới thành phần KTTN trong thời
kỳ quá độ ở Việt Nam. Từ đó, đề xuất 1 số giải pháp để tiếp tục có nhận thức
đúng đắn về vấn đề này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đổi mới nhận thức về thành phần KTTN trong
thời kỳ quá độ.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Không gian: Việt Nam
+ Thời gian: Thời kỳ quá độ lên CNXH Việt Nam. Đặc biệt,
nghiên cứu mốc thời gian năm 1986
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở luận: quan điểm của Đảng về đổi mới nhận thức thành phần
KTTN trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
- Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương lôgic lịch sử,
phân tích, khái quát hoá, hệ thống hoá.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- ~ nghĩa lý luâ n: đề tài giúp ta nhận thấy rõ sự thay đổi rõ rệt nền kinh
tế (mặt tích cực và hạn chế) kể từ khi đổi mới nhận thức về thành phần kinh tế
tư nhân trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
- ~ nghĩa thực tiễn: đề tài có ý nghĩa vô cùng to lớn, cho thấy được tầm
quan trọng của thành phần KTTN trong công cuộc phát triển nền kinh tế. Qua
đó, Đảng Nhà nước đưa ra các chủ trương, chính sách, đường lối phù hợp
đối với thành phần KTTN trong thời đại cách mạng 4.0 hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
- Ngoài mở đầu, kết luận danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm:
3 Chương 9 Tiết
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CỞ SỞ LÝ LUẬN NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ
ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
1.1. Vị trí địa lý và dân cư Ấn Độ cổ đại
1.1.1 Vị trí địa lý
Ấn Độ một bán đảo lớn – một “tiểu lục địa” nằm miền Nam châu
Á, hai mặt Đông Nam Tây Nam giáp Ấn Độ Dương. “Phía Bắc dãy
Himalaya điệp trùng, dài 2600 km với hơn 40 ngọn núi cao trên 7 km.
Himalaya nóc nhà của thế giới, án ngữ như bức tường thành uy nghi hùng
vĩ, bảo vệ Ấn Độ bình yên đắp xây cuộc sống” [6, tr.33] Với trí(Phụ lục 1).
tưởng tượng hết sức phong phú của người Ấn Độ, Himalaya nơi tiếp giáp
giữa cõi trời trần gian,nơi trú ngụđi về của các đấng thần linh giữa
thiên giới và hạ giới.
Theo Vũ Dương Ninh: “Ấn Độ chia làm hai miền Nam, Bắc lấy dãy núi
Vinđya làm ranh giới. Miền Bắc Ấn Độ hai con sông lớn sông Ấn
(Indus) và sông Hằng (Gange). Sông Ấn chia làm 5 nhánh, nên đồng bằng lưu
vực sông Ấn được gọi vùng Pungiáp (vùng Năm sông). Sông Hằng phía
Đông được coi một dòng sông thiêng liêng. Từ xưa nhân dân Ấn Độ
thường đến khúc sông thành phố Varanadi (Bênarét) để cử hành lễ tắm
mang tính chất tôn giáo. Cả hai dòng sông này đã bồi đắp thành hai đồng
bằng màu mỡ ở miền Bắc Ấn Độ, vì vậy nơi đây đã trở thành cái nôi của nền
văn minh của đất nước này” [8]. Đặc biệt, sông Hằng – thiêng liêng được coi
dòng sông Mẹ với bao huyền thoại, tạo sắc màu văn hoá tâm linh cho Ấn
Độ. Bắt nguồn từ dãy Himalaya, sông Hằng choàng ngang cả phía Bắc Ấn.
Với dòng nước mát phù sa màu mỡ, sông Hằng cái nôi phát triển của
nền nông nghiệp lúa nước cổ xưa nơi phát sinh ra các quốc gia chiếm
hữu nô lệ nhỏ đầu tiên ở Ấn Độ cổ đại.
Thiên nhiên bao la hùng vĩ, huyền đầy uy lực cái nôi của con
người Ấn Độ thuở ban sơ đã tác động thường xuyên, lâu dài đến sinh hoạt vật
chất sinh hoạt tinh thần, đến phong tục tập quán, tâm lý, tín ngưỡng tôn
giáo, quan điểm tư tưởng và đặc biệt là ảnh hưởng đến phong cách tư duy độc
đáo vừa trừu tượng vừa thâm trầm cao siêu của người Ấn Độ.
1.1.2. Dân cư
Lịch sử văn minh thế giới của Dương Ninh cho biết: “Cư dân
Ấn Độ, về thành phần chủng tộc, gồm hai loại chính: người Đraviđa chủ yếu
cư trú ở miền Nam và người Arya chủ yếu cư trú ở miền Bắc. Ngoài ra còn có
nhiều tộc người khác như người Hy Lạp, người Hung Nô, người Arập… Họ
dần dần đồng hoá các thành phần dân khác, do đó vấn đề bộ tộcẤn Độ
là một vấn đề hết sức phức tạp” [8].
Tuy nhiên, nền tảng văn hoá chính yếu ra đời được lưu truyền đến
ngày nay của người Ấn là bởi xuất phát từ nền văn minh của người Arya, đây
là giống người da trắng trên đất nước Ấn Độ, ngôn ngữ thuộc nhóm Ấn – Âu,
đầu tiên bộ tộc người này ở phía đông Địa Trung Hải và sau đó xâm nhập vào
phía bắc Ấn. Họ vốn dân du mục, ban đầu sinh kế của người Arya chủ yếu
chăn nuôi, thịnh nhất trâu bò. Còn người Đraviđa theo chế độ mẫu hệ,
sinh hoạt cộng đồng, bộ tộc người này đứng lên kháng cự chống lại sự
chinh phục của người Arya dẻo dai nhất, mạnh nhất. Mặc về sau người
Đraviđa bị người Arya đồng hóa hay bị bắt làm binh rồi biến thành tôi tớ,
nô lệ nhưng người Arya đã chịu khá sâu sắc tín ngưỡng tôn giáo, văn minh kỹ
thuật, chế độ cộng đồng làng xóm của người Đraviđa.
1.2. Các giai đoạn lịch sử
Ấn Độ - một trong những chiếc nôi văn hóa lâu đời, rực rỡ, thâm trầm
của nền văn minh phương Đông nói riêng và văn minh nhân loại nói chung.
1.2.1. Thời kì lưu vực sông Ấn
Nhà nước Ấn Độ ra đời từ đầu thiên kỉ III TCN (trước Công nguyên)
đến giữa thiên kỉ II TCN, giai đoạn đó trước đây chưa được biết đến. Mãi đến
năm 1920 1921, người ta mới biết được thời lịch sử này, nhờ việc phát
hiện ra thành phố Môhenjô Đarô cùng rất nhiều hiện vật bị chôn vùi dưới đất
vùng lưu vực sông Ấn. Nguyễn Ánh Hồng cho biết, “công cuộc khai quật
tìm thấy những bản khắc chữ, những vật dụng sinh hoạt được chế tác tinh
xảo, những con dấu bằng đá khắc hình động vật, hình vị thần 3 mặt…
Những phế tích cho thấy thành phố được quy hoạch ràng, hệ thống cấp
thoát nước quy củ. Chúng toạ lạc trên bờ sông Indus và sông Ravi, hưng thịnh
từ thiên niên kỷ IV TCN. Thành phố được xây dựng bằng gạch, nhà cao
tầng, có những món đồ gốm, những kho mỹ nghệ bằng vàng bạc, những dụng
cụ bằng đồng thau, ngà voi và vải sợi được dùng để trao đổi thương mại. Chữ
viết đã xuất hiện từ thời văn minh sông Ấn tối cổ này, nhưng đến nay vẫn
chưa được giải mã đầy đủ” [6, tr.35-36].
Vì vậy, người ta gọi thời kì này là thời kì văn hoá Harappa hay còn gọi
là thời kì nền văn minh sông Ấn.
1.2.2. Thời kì Vêđa (từ giữa thiên kỉ II đến giữa thiên kỉ I TCN)
Thời này, lịch sử được phản ánh trong các tập Vêđa vốn những
tác phẩm văn học, gồm 4 tập là: Rich Vêđa, Xama Vêđa, Atácva Vêđa và
Yagiva Vêđa; do đó gọi là thời Vêđa.
Đây thời kỳ hình thành các quốc gia chiếm hữu lệ đầu tiên của
người Arya trên lưu vực sông Hằng, mở đầu bằng cuộc xâm nhập của các bộ
tộc người Arya vào Ấn Độ, làm chủ lưu vực sông Hằng, cao nguyên Deccan,
đẩy lui các bộ tộc người Đraviđa vào những khu rừng hẻo lánh hoặc bắt họ
làm tù binh và biến thành những kẻ tôi tớ. Họ biết chế tạo và sử dụng công cụ
khí bằng sắt như búa, rìu, giáo mác, cung tên…Do chiếm được những
vùng đất đai màu mỡ thuận tiện cho việc canh tác nông nghiệp, người Arya đã
chuyển từ chăn nuôi du mục sang đời sống nông nghiệp định cư. Từ đó tạo ra
một bước thay đổi quan trọng trong các quan hệ xã hội Ấn Độ cổ đại.
hội Ấn Độ cổ đại bốn đẳng cấp: đẳng cấp BrahamanMột là,
(tăng lữ) những người hành nghề tôn giáo. đẳng cấp Kshatriya Hai là,
những vương công, võ sĩ. đẳng cấp Vaishya là những thương nhân, điềnBa là,
chủ dân tự do. đẳng cấp Shudra những người lao động gồm đaBốn là,
số tiện dân lệ. Như vậy, chế độ phân biệt đẳng cấp không những ảnh
hưởng sâu sắc đến nội dung tính chất của các quan điểm triết tôn giáo
Ấn Độ cổ đại mà còn góp phần quy định cơ cấu, trật tự xã hội Ấn Độ.
1.2.3. Ấn Độ từ thế kỉ VI TCN đến thế kỉ XII
Thứ nhất, các quốc gia miền Bắc Ấn Độ sự xâm lược của
Alếchxăngđrơ Makêđônia
Bắt đầu bằng thế kỉ VI TCN, tình hình chính trị của Ấn Độ mới sử
sách ghi chép. Lúc bấy giờ, miền Bắc Ấn Độ 16 nước, trong đó nước
Magađa hạ lưu sông Hằng mạnh nhất. Còn các nước ở Tây Bắc Ấn Độ thì
chỉ có nước Po là tương đối lớn. Năm 327 TCN, sau khi tiêu diệt Ba Tư, quân
đội Makêđônia do Alếchxăngđrơ chỉ huy tấn công Ấn Độ nhưng cuối cùng bị
thất bại. Sau đó định tiến sang tấn công nước Magađa những do cuộc trường
chinh nhiều năm nên quân đã quá mệt. Do đó đội quân Makêđônia do
Alếchxăngđrơ chỉ huy phải rút lui, chỉ để lại một lực lượng nhỏ chiếm đóng
hai cứ điểm đã chiếm được.
Thứ hai, vương triều Môrya (321-187 TCN)
Ngay sau khi Alếchxăngđrơ rút lui, phong trào đấu tranh giải phóng
chống lại sự chiếm đóng của quân Makêđônia được dấy lên Ấn Độ. Thủ
lĩnh của phong trào này Sanđragupta, biệt hiệu Môrya (chim công) đã
đánh đuổi Makêđônia ra khỏi Ấn Độ, làm chủ cả vùng Pungiáp; tiếp đó, ông
giành được ngôi vua Magađa và lập nên vương triều Môrya – một triều đại
mới, triều đại huy hoàng nhất trong lịch sử Ấn Độ cổ đại. Vương triều Môrya
đạt đến giai đoạn cường thịnh nhất vào thời Axôca (273 236 TCN). Đạo
Phật (ra đời từ khoảng thế kỉ V TCN) đến thời kỳ này cũng được phát triển
nhanh chóng trở thành quốc giáo. Tuy nhiên, sau khi Axôca chết, vương
triều này cũng suy sụp nhanh chóng, nước Magađa thống nhất dần dần tan rã,
đến năm 28 TCN thì diệt vong.
Thứ ba, nước Cusan
Trong khi tình hình chia cắt Ấn Độ đang diễn ra trầm trọng thì vào
thế kỉ I, tộc Cusan từ Trung Á tràn vào chiếm được miền Tây Bắc Ấn Độ lập
thành một nước tương đối lớn. Thời kì này đạo Phật cũng rất hưng thịnh bởi
vua nước Cusan lúc bây giờ Canixca một người rất tôn sùng đạo Phật.
Sau khi Canixca chết, nước Cusan ngày càng suy yếu, lãnh thổ chỉ còn lại
vùng Pungiáp và tồn tại đến thế kỉ V thì diệt vong.
Thứ tư, vương triều Gupta và vương triều Hácsa
Theo Dương Ninh: “Trong thế kỉ III, Ấn Độ lại bị chia cắt trầm
trọng. Năm 320, vương triều Gupta được thành lập, miền Bắc một phần
miền Trung Ấn Độ tạm thời thống nhất một thời gian. Từ năm 500 528,
phần lớn miền Bắc Ấn Độ bị người Epatali xâm chiếm và thống trị, đến năm
535, triều Gupta diệt vong. Năm 606, vua Hácsa lại dựng lên một vương triều
tương đối hùng mạnh miền Bắc Ấn Độ. Chính trong thời này, nhà
Huyền Trang ở Trung Quốc đã sang Ấn Độ để tìm kinh Phật. Năm 648, Hácsa
chết, quốc gia hùng mạnh do ông dựng lên tan rã. Từ đó cho đến thế kỉ XII,
Ấn Độ bị chia cắt càng trầm trọng nhiều lần bị ngoại tộc xâm nhập. Đặc
biệt từ đầu thế kỉ XI, Ấn Độ thường bị các vương triều Hồi giáo ở Ápganixtan
tấn công và đến năm 1200, toàn bộ miền Bắc Ấn Độ bị nhập vào Ápganixtan”
[8].
Tóm lại, Ấn Độ cổ đại một đất nước rộng lớn cũng nơi khởi
nguồn của nhiều tôn giáo.
1.3. Điều kiện khoa học, văn hoá
1.4. Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại
CHƯƠNG 2
MỘT SỐ NỘI DUNG VỀ TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
TRONG TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
2.1. Tổng quan về Phật giáo
2.1.1. Nguồn gốc ra đời
Paul Poupard cho rằng: “Đạo Phật một tôn giáo lịch sử, vị sáng
lập, do đó khác biệt rất sâu sắc với Ấn Độ giáo vào cuối thế kỉ VI TCN” [9,
tr.91]. Phật giáo là một tôn giáo lớn của nền văn hóa Ấn Độ cổ đại. Nó có ảnh
hưởng rộng rãi lâu dài đến đời sống tinh thần của nhiều dân tộc trên thế
giới, trong đó có Việt Nam. Theo truyền thuyết, người sáng lập ra Phật giáo là
Đức Phật Thích Ca, tức Thái tử Tất Đạt Đa , con vua Sutđôđana(Phụ lục 4)
nước Capilavaxtu chân núi Hymalaya. Năm 29 tuổi, Thái tử xuất gia đi tu
để tìm kiếm con đường cứu vớt những nỗi khổ của loài người. Đến năm 35
tuổi, Tất Đạt Đa đã nghĩ ra cách giải thích bản chất của tồn tại, nguồn gốc của
mọi khổ đau, do đó cho rằng đã tìm được còn đường cứu khổ. Từ đó, ông
được gọi là Buddha, hay ta thường gọi là Phật hoặc Bụt.
“Về niên đại của Phật, hiện nay đang những ý kiến khác nhau.
một số cho rằng Phật sinh năm 563 và mất năm 483 TCN; một số khác thì cho
rằng Phật sinh năm 624mất năm 544 TCN. Tín đồ Phật giáo lấy năm 544
TCN làm năm mở đầu kỉ nguyên Phật giáo” [8].
2.1.2. Sự phát triển của đạo Phật
Sau khi Phật tịch, Phật giáo được truyền nhanh chóng miền Bắc
Ấn Độ. Từ thế kỉ V III TCN, Phật giáo đã triệu tập ba cuộc đại hội nước
Magađa – quốc gia lớn nhất ở Ấn Độ lúc bấy giờ để soạn thảo giáo lí, quy chế
chấn chỉnh về tổ chức. Sau đại hội lần thứ ba, đạo Phật trước tiên được
truyền sang Xri Lanca, sau đó các nước như Myanma, Thái Lan,… Đến
khoảng năm 100 sau Công nguyên, đạo Phật triệu tập lần thứ tại nước
Cusan ở Tây Bắc Ấn Độ - đại hội này thông qua giáo lí của đạo Phật cải cách
để phân biệt phái Phật giáo mới (phái Đại thừa) với phái Phật giáo (phái
Tiểu thừa).
Sự khác nhau chủ yếu giữa hai phái biểu hiểu ở những mặt sau đây:
Thứ nhất, ý nghĩa tên gọi
Một là, phái Tiểu thừa (Hinayana) nghĩa là “cỗ xe nhỏ” hay có thể hiểu
rằng “con đường cứu vớt hẹp” cho rằng chỉ có những người xuất gia đi tu mới
được cứu vớt.
Hai là, phái Đại thừa (Mahayana) nghĩa “cỗ xe lớn” hoặc “con
đường cứu vớt rộng” tức không chỉ những người tu hành còn cả
những người trần tục quy y theo Phật được cứu vớt.
Thứ hai, quan niệm về Niết bàn
Một là, phái Tiểu thừa quan niệm Niết bàn cảnh giới yên tĩnh gắn
liền với giác ngộ sáng suốt, không còn phiền não khổ đau.
Hai là, phái Đại thừa thì cho rằng Niết bàn thế giới của các Phật
giống như thiên đường của các tôn giáo khác. Đồng thời, với quan niệm đó,
phái Đại thừa còn tạo ra địa ngục, nơi đày đoạ những kẻ tội lỗi. Bên cạnh đó,
phái này còn đề cao vai trò của tầng lớp tăng ni, coi họ là kẻ trung gian giữa
tín đồ và Bồ tát.
Thứ ba, quan niệm về Phật
Một là, phía Tiểu thừa cho rằng chỉ Phật Thích caPhật duy nhất.
Do vậy, việc cứu độ chúng sinh chỉ Phật mới làm được, những người
thường không thể thành Phật.
Hai là, phái Đại thừa thì cho rằng Phật Thích ca Phật cao nhất,
còn nhiều Phật khác như: Phật A Di Đà, Phật Di Lặc, Phật Đại Dược Sư.
Từ đó, tượng phật được tạc đúc rất nhiều, nghi thức cúng bái ngày càng
phức tạp hương hoa cũng được sử dụng trong khi cúng Phật. Sau đại hội
Phật giáo lần thứ tư, khuyến khích truyền đạo ra nước ngoài. Do đó, đạo Phật
ngày càng được truyền bá mạnh mẽ sang Trung Á Trung Quốc. Tuy nhiên,
những thế kỉ tiếp sau đó, đạo Phật suy yếu dần ở Ấn Độ, nhưng lại được phát
triển phần lớn ở Châu Á. Và thậm chí đã trở thành quốc giáo của một số nước
như Thái Lan, Lào, Campuchia,…
2.1.3. Giáo lý cơ bản của đạo phật (Triết học)
“Giáo Phật giáo sâu sắc, hấp dẫn, lễ nghi đơn giản không rườm
tốn kém như các tôn giáo khác. Nội dung chủ yếu phân tích nỗi khổ của
chúng sinh con đường giải thoát, nêu lên tưởng bình đẳng chống phân
biệt đẳng cấp. Do đó Phật giáo được truyền giáo rộng rãi nhanh chóng” [5,
tr.77-78].
Nội dung chủ yếu của học thuyết Phật giáo, thể hiện cô đọng trong câu
nói của Phật Thích Ca: Hỡi chúng sinh, ta chỉ dạy cho các người chỉ một
điều, đó điều khổ diệt khổ; Nếu nước biển một vị vị mặn thì học
thuyết của ta cũng có một vị là vị giải thoát.
Theo Paul Poupard, “đạo Phật bác bỏ cũng không kém dứt khoát mọi
vấn đề liên quan đến thế giới, nguồn gốc hữu hạn hay vô hạn, vĩnh hằng hay
đoản tồn… của thế giới. Theo Phật, đó những vấn đề vô ích, phù phiếm
những câu trả lời không giải thoát cứu vớt được con người ra khỏi đau khổ
trầm luân (duhkha). đó chính cái tệ hại con người khao khát thoát
ra, gấp rút thoát ra. Toàn bộ sự độc đáo của Phật chỗ thành tạo ra một
chẩn đoán về nguồn gốc của đau khổ, chỉ ra con đường ta cần đi theo để bài
trừ được nguyên nhân đó, để chấm dứt đau khổ, tức bước vào Niết bàn
(Nirvâna)” [9, tr.92]. Thông điệp này được trình bày qua thuyết
“Tứ diệu đế”, bao gồm: khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.
Một là, “khổ đế” là lý luận về những nỗi khổ ở thế gian. Theo Phật, con
người có tám nỗi khổ (bát khổ) trầm luân bất tận mà bất cứ ai cũng phải gánh
chịu là: sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly khổ (yêu thương mà phải chia ly), sở cầu
bất đắc khổ (muốn không được), oán tăng hội khổ (ghét nhau phải
sống với nhau), ngũ uẩn khổ (sự hội tụ xung đột của ngũ uẩn - sắc, thụ,
tưởng, hành, thức).
Hai là, “nhân đế” (tập đế) – chân lí về những nguyên nhân dẫn đến các
nỗi khổ trong cuộc sống con người. Nguyên nhân chủ yếu Phật giáo cho rằng
con người còn chìm đắm trong bể khổ khi không thoát ra khỏi dòng sông luân
hồi. luân hồi do nghiệp tạo ra. Sở nghiệp do lòng ham muốn,
tham lam (ham sống, ham lạc thú, ham giàu sang…), do sự ngu dốt si mê,
nói ngắn gọn là do tam độc (tham, sân, si) gây ra. Ngoài ra, nhân đế được diễn
giải một cách lôgích cụ thể trong thuyết thập nhị nhân duyên (12 nguyên
nhân dẫn đến bể khổ): vô minh, hành, thức, danh – sắc, lục nhập, xúc, thụ, ái,
thủ, hữu, sinh, lão - tử. Trong 12 nguyên nhân ấy thì vô minh là nguyên nhân
thâu tóm tất cả, vậy, diệt trừ minh diệt trừ tận gốc sự đau khổ nhân
sinh.
Ba là, “diệt đế”. “Đức Phật bảo: Và bây giờ ta giảng tới diệt đế. Diệt là
diệt cho hết mọi đam mê, là liệng bỏ, huỷ bỏ, tự giải thoát khỏi cái khao khát
đó – tức cái dục vọng ích kỷ” [12, tr.102]. Do đó, “diệt đế” nghĩa là chân lí về
sự chấm dứt các nỗi khổ nơi cuộc sống trần thế để đạt tới niết bàn. Nguyên
nhân của khổ đau luân hồi, vậy muốn diệt khổ thì phải chấm dứt luân
hồi; muốn chấm dứt luân hồi thì phải trừ bỏ hết mọi ham muốn. Diệt đế
bộc lộ tinh thần lạc quan của Phật giáo chỗ vạch ra cho mọi người thấy
cái hiện tại đen tối, xấu xa của mình, để cải đổi, kiến tạo lại thành một
cuộc sống xán lạn, tốt đẹp hơn. Phật giáo thể hiện khát vọng nhân bản, muốn
hướng con người đến cõi hạnh phúc “tuyệt đối”, muốn hướng khát vọng chân
chính của con người tới chân - thiện - mỹ.
Bốn là, “đạo đế” là lý luận về con đường diệt khổ, giải thoát. Nội dung
bản của đạo đế thể hiện trong thuyết Bát chính đạo (tám con đường đúng
đắn đưa chúng sinh đến niết bàn). Đó là: chính kiến, chính tư duy, chính ngữ,
chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh tấn, chính niệm, chính định. Bát chính
đạo suy nghĩ, nói năng, hành động đúng đắn. Về thực chất, thực hành bát
chính đạo là khắc phục tam độc bằng cách thực hiện tam học (giới, định, tuệ).
Trong đó, tham được khắc phục bằng giới (chính ngữ, chính nghiệp, chính
mệnh); sân được khắc phục bằng định (chính tinh tấn, chính niệm, chính
định); si được khắc phục bằng tuệ (chính kiến, chính tư duy).
Ngoài ra, Phật giáo còn khuyên chúng sinh thực hành ngũ giới (không
sát sinh, không trộm cắp, không dâm, không nói dối, không ẩm tửu); rèn
luyện tứ đẳng (từ, bi, hỉ, xả)… Phật giáo phản đối chế độ đẳng cấp, tố cáo xã
hội bất công, đòi bình đẳng công bằng hội, khuyên chúng sinh luôn suy
nghĩ về điều thiện và làm điều thiện.
Về mặt thế giới quan của học thuyết Phật giáo được phản ánh trong
“thuyết duyên khởi” được làm sáng tỏ qua “phạm trù ngã
thường”.
Duyên khởi là nói tắt câu “Chư pháp do nhân duyên nhi khởi”, có nghĩa
các pháp. Vạn vật, bao gồm cả vật chất tinh thần, kể cả giáo đều do
nhân duyên có. Còn nhân duyên là nguyên nhân, nhưng trong đó, nhân
nguyên nhân chủ yếu, duyên nguyên nhân phụ. Duyên giúp cho nhân biến
thành quả… Phật giáo cho rằng mọi sự vật, hiện tượng đều do nhân duyên
hòa hợp thành. Duyên khởi từ tâm mà ra. Tâm cội nguồn của vạn vật.
Chẳng hạn như, “Sở cây thể nảy mầm phát triển được là nhờ hạt
giống, đất, nước, khí trời, ánh sáng. Trong đó, hạt giống nhân; đất, nước,
khí trời, ánh sáng duyên” [8]. Từ đây, học thuyết Phật giáo chủ trương
tạo giả, tức không có vị thần linh tối cao nào tạo ra thế giới…
Bên cạnh thuyết “vô tạo giả”, đạo Phật còn nêu ra các thuyết:
Một là, “vô ngã” không những thực thể vật chất tồn tại một cách
cố định. Con người cũng chỉ là sự tập hợp của năm uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành,
thức) chứ không phải là một thực thể tồn tại lâu dài.
Hai là, “vô thường” mọi sự vật đều trong quá trình sinh ra, biến
đổi, tiêu diệt chứ không bao giờ ổn định - tức là không có cái gì trường tồn và
vĩnh cửu. Trong thế giới, sự xuất hiện của vạn vật, kể cả con người cũng chỉ
kết quả hội tụ tạm thời giữa sắc danh; khi sắc danh tan ra, chúng sẽ
mất đi. Vạn vật luôn nằm trong chu trình sinh - trụ - dị - diệt; chúng luôn bị
cuốn vào dòng biến hóa ảo cùng theo luật nhân quả. Nhân nhờ duyên
mới sinh ra quả, quả nhờ duyên thành nhân mới, nhân mới lại nhờ duyên
thành quả mới...; cứ như thế, vạn vật biến đổi, hợp - tan, tan - hợp
không có nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng.
CHƯƠNG 3
LIÊN HỆ PHẬT GIÁO Ở ẤN ĐỘ VÀ VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Tầm ảnh hưởng của Phật giáo ở Ấn Độ hiện nay
3.1.1. Phật giáo không còn phổ biến ở Ấn Độ hiện nay
Phật giáo thịnh cho đến cuối thế kỉ XII thì Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ xâm
lăng, đánh bại Ấn Độ trở thành chủ nhân chính trị của nước Ấn lúc bấy
giờ. Kéo dài khoảng 400 năm sau đó, Hồi giáo ngự trị với những pháo đài
thành đỏ cao từ 28 đến 36 m cùng các lớp thành vững trải và bao xung quanh
là các hào cá sấu. Như vậy, từ thế kỉ XIII đến giữa thế kỉ XVIII, Hồi giáo ngự
trị tại Ấn Độ, đối tượng tiêu diệt chính yếu của họ là đạo Phật mà không phải
là đạo Hinđu, bởi khi đó, Ấn Độ giáo là tôn giáo du mục, không có quan trọng
về xây dựng cơ sở tôn giáo. Cho nên, Hồi giáo tàn phá những công trình Phật
tích vĩ đại. Đặc biệt, xét về mặt nội hàm, các tín đồ của đạo Hồi và đạo Hinđu
có những nét tương đồng về niềm tin vào thượng đế, đạo Hồi tin vào đấng Ala
(vừa đấng sáng thế vừa đấng huỷ diệt), còn đạo Hinđu thờ các vị thần
như: thần Brama (đấng sáng thế), thần Visnu (đấng duy trì), thần Siva (đấng
huỷ diệt). Còn chấp nhận đạo Phật tồn tại thì sẽ trở thành mối đe doạ với các
tôn giáo nhất thần. thế, những nhà cai trị Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ tiêu diệt
Phật giáo, phá các di tích Phật giáo, bức hại tăng ni khiến Phật giáo bị suy
vong trong hơn bốn thế kỉ mà Hồi giáo ngự trị.
Cho đến khoảng 200 năm trước, quân đội Anh bằng các con thuyền
hiện đại, vũ khí tân tiến đã tấn công Ấn Độ và nước Anh thay thế Thổ Nhĩ Kỳ
trở thành chủ nhân chính trị của Ấn Độ tại thời điểm đó. Sau đó, Anh truyền
Anh giáo (Tin lành giáo – tách ra từ Thiên Chúa giáo) vào Ấn Độ trong hai
thế kỉ ngự trị của Anh.
Cuối thế kỉ XIX, các nhà khảo cổ học Đức và Anh đã chứng minh rằng
Đức Phật không phải là nhân vật huyền thoại mà là nhân vật lịch sử, và “đánh
động” tri thức nhân loại về sự hiện hữu của nền minh triết Phật giáo tại
Ấn Độ. Nhớ đó, Phật giáo tại Ấn Độ mới bắt đầu phong trào phục hưng, đồng
thời, phục hưng Phật giáo cũng lan rộng ra các nước trong châu Á vào đầu thế
kỉ XX. Như vậy, Phật giáo đã bị suy sụp từ cuối thế kỉ XII đến đầu thế kỉ XX
ở Ấn Độ.
Từ đầu thế kỉ XX đến nay, trải qua hơn 100 năm, Phật giáo Ấn Độ
chỉ chiếm số lượng ít, chủ yếu các tín đồ theo Ấn Độ giáoHồi giáo. Hiện
nay, Phật giáo Ấn Độ khó thể phục hưng do đại đa số tu Phật giáo
Ấn Độ xuất thân từ giai cấp cùng đinh. Do đó, trước khi đi tu họ đã không
vị thế xã hội, thiếu tri thức cần thiết nên đi tu thì trở thành các nhà đạo
đức, hiếm khi trở thành các nhà đại về trí tuệ. Thầy Thích Nhật Từ bày
tỏ rằng, nếu nhà sư thiếu trí tuệ thì không làm đạo thành công được, nên Phật
giáo ở Ấn Độ tiếp tục bị suy vong không thể phục hưng lại thời kì huy hoàng,
rực rỡ của đạo Phật.
3.2.2. tưởng nhiều dấu ấn của Phật giáo vẫn hiện diện trong
đời sống xã hội Ấn Độ cho đến ngày nay
Một là, Quốc kỳ của Ấn Độ hiện nay bánh xe gồm 24 nan hoa đại
diện cho 24 giờ trong ngày, biểu thị sự chuyển động phát triển không
ngừng như lời nhắc nhở Ấn Độ không ngừng vận động, thay đổi và phát triển
(Phụ lục 5). Biểu tượng bánh xe giữa quốc kỳ Ấn Độ giống với bánh xe
luân hồi trong Phật giáo hay còn được gọi là Pháp Luân.
Hai là, (Phụ lục 7) Quốc huy của Ấn Độ biểu hiện thông qua hình
tượng trên trụ đá ở Sarnath có chạm hình bốn contử chụm đuôi vào nhau,
mặt nhìn ra bốn hướng trong thế tự vệ. Dưới tử, hình bánh xe luân
hồi, xen kẽ giữa các bánh xe là bốn con vật xung quanh: một con voi, một con
đực, một con ngựa và một con tử. Tiếp nối với đoạn hình trụ đế bán
cầu hình hoa sen dốc ngược. Qua đó thể hiểu rằng, bốn đầutử quay về
bốn hướng chỉ cho chánh pháp của Đức Phật, từ vườn Lộc Uyển, nơi Ngài
thuyết bài pháp đầu tiên nơi tạo dựng trụ đá này, được truyền khắp
bốn phương. Còn bánh xe tượng trưng cho Phật pháp luân chuyển khắp mọi
nơi mọi chốn.
Ba là, tiền xu hay tiền giấyẤn Độ đều có Quốc huy được in lên – đó
là bốn đầu sư tử trên trụ đá ở Sarnath (Phụ lục 8).
Qua đó thấy được, mặc dù Phật giáo không còn phổ biến ở Ấn Độ nữa
nhưng tưởng nhiều dấu ấn (như: bánh xe luân hồi, bốn đầu tử trên
trụ đá Sarnath) của Phật giáo vẫn hiện diện trong đời sống hội Ấn Độ
cho đến ngày nay; điển hình như Quốc kỳ, Quốc huy tiền của Ấn Độ. Bởi
Ấn Độ là quốc gia khởi nguồn của Phật giáo. Hơn thế nữa, biểu tượng trụ đá
bốn đầu tử Sarnath được vua Asoka khắc dựng tại thánh địa Sarnath
xuất phát từ việc vị vua này quy y Tam Bảo. Ban đầu vua Asoka là một vị vua
hung tàn bạo người nhưng từ khi quy y cửa Phật, giác ngộ giáo của đạo
Phật thì nhà vua trở nên nhân từ, hiền lành đem tâm ôn hoà bao dung để
cai trị nhân dân,… Chính vì vậy, những giáo lý, tư tưởng của Phật giáo đã ăn
sâu vào đời sống xã hội người dân nước Ấn.
3.2. Phật giáo ở Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
Sự phong phú phức tạp của điều kiện thiên nhiên, khí hậu của đất
nước Ấn Độ cổ đại cũng vô cùng khắc nghiệt. miền Bắc Ấn dãy Himalaya
quanh năm tuyết phủ, khi những cơn gió lạnh thấu xương thịt gặp hơi nước ở
miền Nam thì tạo thành những đám sương mù dày đặc u bao phủ cả nền trời.
Khi đến, nhiệt độ tăng khiến một phần băng trên dãy núi Himalaya tan ra
tạo thành những cơn thác đổ xuống chân núi. Phía Nam ánh nắng chang
chang quanh năm suốt tháng khiến cho đất đai khô cằn con người trở nên
chai sạn, lam lũ. Trước sự hùng của thiên nhiên Ấn Độ, con người trở nên
| 1/22

Preview text:

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ KHOA TRIẾT HỌC TUYÊN TRUYỀN PHÍ TRỊNH MAI TRANG TÊN ĐỀ TÀI
“Tư tưởng triết học Phật giáo trong triết học Ấn Độ cổ đại”
Tiểu luận môn: Triết học Hà Nội - 2022 HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ KHOA TRIẾT HỌC TUYÊN TRUYỀN PHÍ TRỊNH MAI TRANG TÊN ĐỀ TÀI
“Tư tưởng triết học Phật giáo trong triết học Ấn Độ cổ đại” Lớp: Cao học CNXHKH 27.2 Mã học viên: 2788280003
Tiểu luận môn: Triết học Hà Nội - 2022 MỤC LỤC MỞ ĐẦU NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận những vấn đề chung về triết học Ấn Độ cổ đại
1.1. Vị trí địa lý và dân cư Ấn Độ cổ đại
1.2. Các giai đoạn lịch sử
1.3. Điều kiện khoa học, văn hoá
1.4. Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại
Chương 2: Một số nội dung về triết học Phật giáo trong
triết học Ấn Độ cổ đại 2.1. Nguồn gốc ra đời
2.2. Sự phát triển của đạo Phật
2.3. Giáo lý cơ bản của đạo Phật (Triết học Phật giáo)
Chương 3: Liên hệ Phật giáo ở Ấn Độ, Việt Nam hiện nay
3.1. Tầm ảnh hưởng của Phật giáo ở Ấn Độ hiện nay
3.2. Phật giáo ở Việt Nam hiện nay KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài
Theo Nguyễn Ánh Hồng: “Ấn Độ cổ đại là quốc gia rộng lớn bao gồm
Pakistan, Bangladesh, Nêpan và tiểu lục địa Hindustan – tức Ấn Độ ngày nay.
Là đất nước của những tương phản đồng thời thống nhất trong đa dạng cả địa
hình, khí hậu, chủng tộc, ngôn ngữ… Ấn Độ bí ẩn và phức tạp với núi cao,
sông dài, biển rộng và những đồi cỏ xanh bát ngát, những cánh rừng lặng lẽ,
thâm u” [6, tr.33]. Đặc biệt, Himalaya có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
định hình bản sắc văn hoá Ấn – đây là trường học thâm nghiêm khơi sáng trí
tuệ cho bao triết gia Ấn Độ suy tư về triết lý nhân sinh và vũ trụ. Đồng thời,
sông Indus (sông Ấn) và sông Gange (sông Hằng) đã làm nên diện mạo và
linh hồn đất nước; trong đó, sông Ganga hay còn được gọi là sông Hằng –
linh thiêng, dòng sông mẹ với bao huyền thoại, tạo sắc màu văn hoá tâm linh cho Ấn Độ xưa và nay.
Ấn Độ là một quốc gia đa dạng về văn hoá, sắc tộc, tín ngưỡng và tôn
giáo. Chẳng hạn như, đạo Hindu, đạo Phật, đạo Jain, đạo Sikh… Tuy nhiên,
cho đến ngày nay, đạo Phật không còn phổ biến ở Ấn Độ mặc dù đất nước
này được coi là một trong những cái nôi của Phật giáo. Chính vì vậy, em lựa
chọn chủ đề: “Ấn Độ cổ đại là một đất nước rộng lớn và cũng là nơi khởi
nguồn của nhiều tôn giáo. Hãy trình bày tổng quan về đạo Hindu, đạo Phật,
đạo Jain và đạo Sikh. Phân tích vì sao đạo Phật không còn phổ biến ở Ấn Độ
nữa nhưng tư tưởng và nhiều dấu ấn của Phật giáo vẫn hiện diện trong đời
sống xã hội Ấn Độ cho đến ngày nay?” làm nội dung nghiên cứu trong bài tập
lớn kết thúc học phần Lịch sử văn minh thế giới của mình.
2. Những công trình nghiên cứu liên quan (Tham khảo khoá luận)
- Nguyễn Xuân Thắng: Một số luận điểm mới về phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị, số 8 - 2016.
- Đậu Tuấn Anh (2016): DN nhỏ và vừa tư nhân Việt Nam kinh doanh
trong chật vật, Diễn đành Kinh tế Việt Nam 2016, Hà Nội.
- Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam: Báo cáo Kinh tế thế giới và
Việt Nam 2016 - 2017, Hà Nội, 2017.
- Nguyễn Hồng Sơn: Phát triển khu vực KTTN ở Việt Nam: Những rào
cản và giải pháp, Tạp chí Kinh tế và Quản lý, số 22, tháng 6 – 2017
- Vũ Đình Ánh: Vấn đề phát triển KTTN ở Việt Nam, báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của đề tài: làm rõ những nhận thức mới về thành
KTTN trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam. Từ đó đánh giá sự phát triển lý luận
về vấn đề này ở Việt Nam, đề ra giải pháp tổng kết thực tiễn phát triển lý luận
về thành phần KTTN trong thời kỳ quá độ trong những giai đoạn tiếp theo.
- Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, đề tài cần giải quyết 3 nhiệm vụ:
+ Làm rõ thế nào là đổi mới nhận thức về thành phần KTTN
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
+ Khảo sát 1 số nội dung đổi mới nhận thức về thành phần
KTTN trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
+ Đánh giá nhận thức về đổi mới thành phần KTTN trong thời
kỳ quá độ ở Việt Nam. Từ đó, đề xuất 1 số giải pháp để tiếp tục có nhận thức
đúng đắn về vấn đề này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đổi mới nhận thức về thành phần KTTN trong thời kỳ quá độ. - Phạm vi nghiên cứu: + Không gian: Việt Nam
+ Thời gian: Thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Đặc biệt,
nghiên cứu mốc thời gian năm 1986
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: quan điểm của Đảng về đổi mới nhận thức thành phần
KTTN trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
- Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương lôgic và lịch sử,
phân tích, khái quát hoá, hệ thống hoá.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- ~ nghĩa lý luâ •n: đề tài giúp ta nhận thấy rõ sự thay đổi rõ rệt nền kinh
tế (mặt tích cực và hạn chế) kể từ khi đổi mới nhận thức về thành phần kinh tế
tư nhân trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
- ~ nghĩa thực tiễn: đề tài có ý nghĩa vô cùng to lớn, cho thấy được tầm
quan trọng của thành phần KTTN trong công cuộc phát triển nền kinh tế. Qua
đó, Đảng và Nhà nước đưa ra các chủ trương, chính sách, đường lối phù hợp
đối với thành phần KTTN trong thời đại cách mạng 4.0 hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
- Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm: 3 Chương 9 Tiết NỘI DUNG CHƯƠNG 1
CỞ SỞ LÝ LUẬN NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
1.1. Vị trí địa lý và dân cư Ấn Độ cổ đại 1.1.1 Vị trí địa lý
Ấn Độ là một bán đảo lớn – một “tiểu lục địa” nằm ở miền Nam châu
Á, hai mặt Đông Nam và Tây Nam giáp Ấn Độ Dương. “Phía Bắc là dãy
Himalaya điệp trùng, dài 2600 km với hơn 40 ngọn núi cao trên 7 km.
Himalaya là nóc nhà của thế giới, án ngữ như bức tường thành uy nghi hùng
vĩ, bảo vệ Ấn Độ bình yên đắp xây cuộc sống” [6, tr.33] (Phụ lục 1). Với trí
tưởng tượng hết sức phong phú của người Ấn Độ, Himalaya là nơi tiếp giáp
giữa cõi trời và trần gian, là nơi trú ngụ và đi về của các đấng thần linh giữa thiên giới và hạ giới.
Theo Vũ Dương Ninh: “Ấn Độ chia làm hai miền Nam, Bắc lấy dãy núi
Vinđya làm ranh giới. Miền Bắc Ấn Độ có hai con sông lớn là sông Ấn
(Indus) và sông Hằng (Gange). Sông Ấn chia làm 5 nhánh, nên đồng bằng lưu
vực sông Ấn được gọi là vùng Pungiáp (vùng Năm sông). Sông Hằng ở phía
Đông được coi là một dòng sông thiêng liêng. Từ xưa nhân dân Ấn Độ
thường đến khúc sông ở thành phố Varanadi (Bênarét) để cử hành lễ tắm
mang tính chất tôn giáo. Cả hai dòng sông này đã bồi đắp thành hai đồng
bằng màu mỡ ở miền Bắc Ấn Độ, vì vậy nơi đây đã trở thành cái nôi của nền
văn minh của đất nước này” [8]. Đặc biệt, sông Hằng – thiêng liêng được coi
là dòng sông Mẹ với bao huyền thoại, tạo sắc màu văn hoá tâm linh cho Ấn
Độ. Bắt nguồn từ dãy Himalaya, sông Hằng choàng ngang cả phía Bắc Ấn.
Với dòng nước mát và phù sa màu mỡ, sông Hằng là cái nôi phát triển của
nền nông nghiệp lúa nước cổ xưa và là nơi phát sinh ra các quốc gia chiếm
hữu nô lệ nhỏ đầu tiên ở Ấn Độ cổ đại.
Thiên nhiên bao la hùng vĩ, huyền bí và đầy uy lực là cái nôi của con
người Ấn Độ thuở ban sơ đã tác động thường xuyên, lâu dài đến sinh hoạt vật
chất và sinh hoạt tinh thần, đến phong tục tập quán, tâm lý, tín ngưỡng tôn
giáo, quan điểm tư tưởng và đặc biệt là ảnh hưởng đến phong cách tư duy độc
đáo vừa trừu tượng vừa thâm trầm cao siêu của người Ấn Độ. 1.1.2. Dân cư
Lịch sử văn minh thế giới của Vũ Dương Ninh cho biết: “Cư dân
Ấn Độ, về thành phần chủng tộc, gồm hai loại chính: người Đraviđa chủ yếu
cư trú ở miền Nam và người Arya chủ yếu cư trú ở miền Bắc. Ngoài ra còn có
nhiều tộc người khác như người Hy Lạp, người Hung Nô, người Arập… Họ
dần dần đồng hoá các thành phần cư dân khác, do đó vấn đề bộ tộc ở Ấn Độ
là một vấn đề hết sức phức tạp” [8].
Tuy nhiên, nền tảng văn hoá chính yếu ra đời và được lưu truyền đến
ngày nay của người Ấn là bởi xuất phát từ nền văn minh của người Arya, đây
là giống người da trắng trên đất nước Ấn Độ, ngôn ngữ thuộc nhóm Ấn – Âu,
đầu tiên bộ tộc người này ở phía đông Địa Trung Hải và sau đó xâm nhập vào
phía bắc Ấn. Họ vốn là dân du mục, ban đầu sinh kế của người Arya chủ yếu
là chăn nuôi, thịnh nhất là trâu bò. Còn người Đraviđa theo chế độ mẫu hệ,
sinh hoạt cộng đồng, bộ tộc người này đứng lên kháng cự và chống lại sự
chinh phục của người Arya dẻo dai nhất, mạnh nhất. Mặc dù về sau người
Đraviđa bị người Arya đồng hóa hay bị bắt làm tù binh rồi biến thành tôi tớ,
nô lệ nhưng người Arya đã chịu khá sâu sắc tín ngưỡng tôn giáo, văn minh kỹ
thuật, chế độ cộng đồng làng xóm của người Đraviđa.
1.2. Các giai đoạn lịch sử
Ấn Độ - một trong những chiếc nôi văn hóa lâu đời, rực rỡ, thâm trầm
của nền văn minh phương Đông nói riêng và văn minh nhân loại nói chung.
1.2.1. Thời kì lưu vực sông Ấn
Nhà nước Ấn Độ ra đời từ đầu thiên kỉ III TCN (trước Công nguyên)
đến giữa thiên kỉ II TCN, giai đoạn đó trước đây chưa được biết đến. Mãi đến
năm 1920 và 1921, người ta mới biết được thời kì lịch sử này, nhờ việc phát
hiện ra thành phố Môhenjô Đarô cùng rất nhiều hiện vật bị chôn vùi dưới đất
ở vùng lưu vực sông Ấn. Nguyễn Ánh Hồng cho biết, “công cuộc khai quật
tìm thấy những bản khắc chữ, những vật dụng sinh hoạt được chế tác tinh
xảo, những con dấu bằng đá có khắc hình động vật, hình vị thần 3 mặt…
Những phế tích cho thấy thành phố được quy hoạch rõ ràng, hệ thống cấp
thoát nước quy củ. Chúng toạ lạc trên bờ sông Indus và sông Ravi, hưng thịnh
từ thiên niên kỷ IV TCN. Thành phố được xây dựng bằng gạch, có nhà cao
tầng, có những món đồ gốm, những kho mỹ nghệ bằng vàng bạc, những dụng
cụ bằng đồng thau, ngà voi và vải sợi được dùng để trao đổi thương mại. Chữ
viết đã xuất hiện từ thời văn minh sông Ấn tối cổ này, nhưng đến nay nó vẫn
chưa được giải mã đầy đủ” [6, tr.35-36].
Vì vậy, người ta gọi thời kì này là thời kì văn hoá Harappa hay còn gọi
là thời kì nền văn minh sông Ấn.
1.2.2. Thời kì Vêđa (từ giữa thiên kỉ II đến giữa thiên kỉ I TCN)
Thời kì này, lịch sử được phản ánh trong các tập Vêđa – vốn là những
tác phẩm văn học, gồm có 4 tập là: Rich Vêđa, Xama Vêđa, Atácva Vêđa và
Yagiva Vêđa; do đó gọi là thời Vêđa.
Đây là thời kỳ hình thành các quốc gia chiếm hữu nô lệ đầu tiên của
người Arya trên lưu vực sông Hằng, mở đầu bằng cuộc xâm nhập của các bộ
tộc người Arya vào Ấn Độ, làm chủ lưu vực sông Hằng, cao nguyên Deccan,
đẩy lui các bộ tộc người Đraviđa vào những khu rừng hẻo lánh hoặc bắt họ
làm tù binh và biến thành những kẻ tôi tớ. Họ biết chế tạo và sử dụng công cụ
vũ khí bằng sắt như búa, rìu, giáo mác, cung tên…Do chiếm được những
vùng đất đai màu mỡ thuận tiện cho việc canh tác nông nghiệp, người Arya đã
chuyển từ chăn nuôi du mục sang đời sống nông nghiệp định cư. Từ đó tạo ra
một bước thay đổi quan trọng trong các quan hệ xã hội Ấn Độ cổ đại.
Xã hội Ấn Độ cổ đại có bốn đẳng cấp: Một là, đẳng cấp Brahaman
(tăng lữ) những người hành nghề tôn giáo. Hai là, đẳng cấp Kshatriya là
những vương công, võ sĩ. Ba là, đẳng cấp Vaishya là những thương nhân, điền
chủ và dân tự do. Bốn là, đẳng cấp Shudra là những người lao động gồm đa
số tiện dân và nô lệ. Như vậy, chế độ phân biệt đẳng cấp không những ảnh
hưởng sâu sắc đến nội dung và tính chất của các quan điểm triết lý tôn giáo
Ấn Độ cổ đại mà còn góp phần quy định cơ cấu, trật tự xã hội Ấn Độ.
1.2.3. Ấn Độ từ thế kỉ VI TCN đến thế kỉ XII
Thứ nhất, các quốc gia ở miền Bắc Ấn Độ và sự xâm lược của
Alếchxăngđrơ Makêđônia
Bắt đầu bằng thế kỉ VI TCN, tình hình chính trị của Ấn Độ mới có sử
sách ghi chép. Lúc bấy giờ, ở miền Bắc Ấn Độ có 16 nước, trong đó nước
Magađa hạ lưu sông Hằng là mạnh nhất. Còn các nước ở Tây Bắc Ấn Độ thì
chỉ có nước Po là tương đối lớn. Năm 327 TCN, sau khi tiêu diệt Ba Tư, quân
đội Makêđônia do Alếchxăngđrơ chỉ huy tấn công Ấn Độ nhưng cuối cùng bị
thất bại. Sau đó định tiến sang tấn công nước Magađa những do cuộc trường
chinh nhiều năm nên quân sĩ đã quá mệt. Do đó đội quân Makêđônia do
Alếchxăngđrơ chỉ huy phải rút lui, chỉ để lại một lực lượng nhỏ chiếm đóng ở
hai cứ điểm đã chiếm được.
Thứ hai, vương triều Môrya (321-187 TCN)
Ngay sau khi Alếchxăngđrơ rút lui, phong trào đấu tranh giải phóng
chống lại sự chiếm đóng của quân Makêđônia được dấy lên ở Ấn Độ. Thủ
lĩnh của phong trào này là Sanđragupta, biệt hiệu là Môrya (chim công) đã
đánh đuổi Makêđônia ra khỏi Ấn Độ, làm chủ cả vùng Pungiáp; tiếp đó, ông
giành được ngôi vua ở Magađa và lập nên vương triều Môrya – một triều đại
mới, triều đại huy hoàng nhất trong lịch sử Ấn Độ cổ đại. Vương triều Môrya
đạt đến giai đoạn cường thịnh nhất vào thời Axôca (273 – 236 TCN). Đạo
Phật (ra đời từ khoảng thế kỉ V TCN) đến thời kỳ này cũng được phát triển
nhanh chóng và trở thành quốc giáo. Tuy nhiên, sau khi Axôca chết, vương
triều này cũng suy sụp nhanh chóng, nước Magađa thống nhất dần dần tan rã,
đến năm 28 TCN thì diệt vong. Thứ ba, nước Cusan
Trong khi tình hình chia cắt ở Ấn Độ đang diễn ra trầm trọng thì vào
thế kỉ I, tộc Cusan từ Trung Á tràn vào chiếm được miền Tây Bắc Ấn Độ lập
thành một nước tương đối lớn. Thời kì này đạo Phật cũng rất hưng thịnh bởi
vua nước Cusan lúc bây giờ là Canixca là một người rất tôn sùng đạo Phật.
Sau khi Canixca chết, nước Cusan ngày càng suy yếu, lãnh thổ chỉ còn lại
vùng Pungiáp và tồn tại đến thế kỉ V thì diệt vong.
Thứ tư, vương triều Gupta và vương triều Hácsa
Theo Vũ Dương Ninh: “Trong thế kỉ III, Ấn Độ lại bị chia cắt trầm
trọng. Năm 320, vương triều Gupta được thành lập, miền Bắc và một phần
miền Trung Ấn Độ tạm thời thống nhất một thời gian. Từ năm 500 – 528,
phần lớn miền Bắc Ấn Độ bị người Epatali xâm chiếm và thống trị, đến năm
535, triều Gupta diệt vong. Năm 606, vua Hácsa lại dựng lên một vương triều
tương đối hùng mạnh ở miền Bắc Ấn Độ. Chính trong thời kì này, nhà sư
Huyền Trang ở Trung Quốc đã sang Ấn Độ để tìm kinh Phật. Năm 648, Hácsa
chết, quốc gia hùng mạnh do ông dựng lên tan rã. Từ đó cho đến thế kỉ XII,
Ấn Độ bị chia cắt càng trầm trọng và nhiều lần bị ngoại tộc xâm nhập. Đặc
biệt từ đầu thế kỉ XI, Ấn Độ thường bị các vương triều Hồi giáo ở Ápganixtan
tấn công và đến năm 1200, toàn bộ miền Bắc Ấn Độ bị nhập vào Ápganixtan” [8].
Tóm lại, Ấn Độ cổ đại là một đất nước rộng lớn và cũng là nơi khởi
nguồn của nhiều tôn giáo.
1.3. Điều kiện khoa học, văn hoá
1.4. Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại CHƯƠNG 2
MỘT SỐ NỘI DUNG VỀ TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
TRONG TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
2.1. Tổng quan về Phật giáo 2.1.1. Nguồn gốc ra đời
Paul Poupard cho rằng: “Đạo Phật là một tôn giáo lịch sử, có vị sáng
lập, do đó khác biệt rất sâu sắc với Ấn Độ giáo vào cuối thế kỉ VI TCN” [9,
tr.91]. Phật giáo là một tôn giáo lớn của nền văn hóa Ấn Độ cổ đại. Nó có ảnh
hưởng rộng rãi và lâu dài đến đời sống tinh thần của nhiều dân tộc trên thế
giới, trong đó có Việt Nam. Theo truyền thuyết, người sáng lập ra Phật giáo là
Đức Phật Thích Ca, tức Thái tử Tất Đạt Đa (Phụ lục 4), con vua Sutđôđana
nước Capilavaxtu ở chân núi Hymalaya. Năm 29 tuổi, Thái tử xuất gia đi tu
để tìm kiếm con đường cứu vớt những nỗi khổ của loài người. Đến năm 35
tuổi, Tất Đạt Đa đã nghĩ ra cách giải thích bản chất của tồn tại, nguồn gốc của
mọi khổ đau, do đó cho rằng đã tìm được còn đường cứu khổ. Từ đó, ông
được gọi là Buddha, hay ta thường gọi là Phật hoặc Bụt.
“Về niên đại của Phật, hiện nay đang có những ý kiến khác nhau. Có
một số cho rằng Phật sinh năm 563 và mất năm 483 TCN; một số khác thì cho
rằng Phật sinh năm 624 và mất năm 544 TCN. Tín đồ Phật giáo lấy năm 544
TCN làm năm mở đầu kỉ nguyên Phật giáo” [8].
2.1.2. Sự phát triển của đạo Phật
Sau khi Phật tịch, Phật giáo được truyền bá nhanh chóng ở miền Bắc
Ấn Độ. Từ thế kỉ V – III TCN, Phật giáo đã triệu tập ba cuộc đại hội ở nước
Magađa – quốc gia lớn nhất ở Ấn Độ lúc bấy giờ để soạn thảo giáo lí, quy chế
và chấn chỉnh về tổ chức. Sau đại hội lần thứ ba, đạo Phật trước tiên được
truyền sang Xri Lanca, sau đó là các nước như Myanma, Thái Lan,… Đến
khoảng năm 100 sau Công nguyên, đạo Phật triệu tập lần thứ tư tại nước
Cusan ở Tây Bắc Ấn Độ - đại hội này thông qua giáo lí của đạo Phật cải cách
để phân biệt phái Phật giáo mới (phái Đại thừa) với phái Phật giáo cũ (phái Tiểu thừa).
Sự khác nhau chủ yếu giữa hai phái biểu hiểu ở những mặt sau đây:
Thứ nhất, ý nghĩa tên gọi
Một là, phái Tiểu thừa (Hinayana) nghĩa là “cỗ xe nhỏ” hay có thể hiểu
rằng “con đường cứu vớt hẹp” cho rằng chỉ có những người xuất gia đi tu mới được cứu vớt.
Hai là, phái Đại thừa (Mahayana) có nghĩa là “cỗ xe lớn” hoặc “con
đường cứu vớt rộng” tức là không chỉ có những người tu hành mà còn có cả
những người trần tục quy y theo Phật được cứu vớt.
Thứ hai, quan niệm về Niết bàn
Một là, phái Tiểu thừa quan niệm Niết bàn là cảnh giới yên tĩnh gắn
liền với giác ngộ sáng suốt, không còn phiền não khổ đau.
Hai là, phái Đại thừa thì cho rằng Niết bàn là thế giới của các Phật
giống như thiên đường của các tôn giáo khác. Đồng thời, với quan niệm đó,
phái Đại thừa còn tạo ra địa ngục, nơi đày đoạ những kẻ tội lỗi. Bên cạnh đó,
phái này còn đề cao vai trò của tầng lớp tăng ni, coi họ là kẻ trung gian giữa tín đồ và Bồ tát.
Thứ ba, quan niệm về Phật
Một là, phía Tiểu thừa cho rằng chỉ có Phật Thích ca là Phật duy nhất.
Do vậy, việc cứu độ chúng sinh chỉ có Phật mới làm được, những người
thường không thể thành Phật.
Hai là, phái Đại thừa thì cho rằng Phật Thích ca là Phật cao nhất, và
còn nhiều Phật khác như: Phật A Di Đà, Phật Di Lặc, Phật Đại Dược Sư.
Từ đó, tượng phật được tạc đúc rất nhiều, nghi thức cúng bái ngày càng
phức tạp và hương hoa cũng được sử dụng trong khi cúng Phật. Sau đại hội
Phật giáo lần thứ tư, khuyến khích truyền đạo ra nước ngoài. Do đó, đạo Phật
ngày càng được truyền bá mạnh mẽ sang Trung Á và Trung Quốc. Tuy nhiên,
những thế kỉ tiếp sau đó, đạo Phật suy yếu dần ở Ấn Độ, nhưng lại được phát
triển phần lớn ở Châu Á. Và thậm chí đã trở thành quốc giáo của một số nước
như Thái Lan, Lào, Campuchia,…
2.1.3. Giáo lý cơ bản của đạo phật (Triết học)
“Giáo lý Phật giáo sâu sắc, hấp dẫn, lễ nghi đơn giản không rườm rà
tốn kém như các tôn giáo khác. Nội dung chủ yếu là phân tích nỗi khổ của
chúng sinh và con đường giải thoát, nêu lên tư tưởng bình đẳng chống phân
biệt đẳng cấp. Do đó Phật giáo được truyền giáo rộng rãi nhanh chóng” [5, tr.77-78].
Nội dung chủ yếu của học thuyết Phật giáo, thể hiện cô đọng trong câu
nói của Phật Thích Ca: Hỡi chúng sinh, ta chỉ dạy cho các người chỉ có một
điều, đó là điều khổ và diệt khổ; Nếu nước biển có một vị là vị mặn thì học
thuyết của ta cũng có một vị là vị giải thoát.
Theo Paul Poupard, “đạo Phật bác bỏ cũng không kém dứt khoát mọi
vấn đề liên quan đến thế giới, nguồn gốc hữu hạn hay vô hạn, vĩnh hằng hay
đoản tồn… của thế giới. Theo Phật, đó là những vấn đề vô ích, phù phiếm vì
những câu trả lời không giải thoát cứu vớt được con người ra khỏi đau khổ
trầm luân (duhkha). Mà đó chính là cái tệ hại mà con người khao khát thoát
ra, gấp rút thoát ra. Toàn bộ sự độc đáo của Phật là ở chỗ thành tạo ra một
chẩn đoán về nguồn gốc của đau khổ, chỉ ra con đường ta cần đi theo để bài
trừ được nguyên nhân đó, để chấm dứt đau khổ, tức là bước vào Niết bàn
(Nirvâna)” [9, tr.92]. Thông điệp này được trình bày rõ qua thuyết
“Tứ diệu đế”, bao gồm: khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.
Một là, “khổ đế” là lý luận về những nỗi khổ ở thế gian. Theo Phật, con
người có tám nỗi khổ (bát khổ) trầm luân bất tận mà bất cứ ai cũng phải gánh
chịu là: sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly khổ (yêu thương mà phải chia ly), sở cầu
bất đắc khổ (muốn mà không được), oán tăng hội khổ (ghét nhau mà phải
sống với nhau), ngũ uẩn khổ (sự hội tụ và xung đột của ngũ uẩn - sắc, thụ, tưởng, hành, thức).
Hai là, “nhân đế” (tập đế) – chân lí về những nguyên nhân dẫn đến các
nỗi khổ trong cuộc sống con người. Nguyên nhân chủ yếu Phật giáo cho rằng
con người còn chìm đắm trong bể khổ khi không thoát ra khỏi dòng sông luân
hồi. Mà luân hồi là do nghiệp tạo ra. Sở dĩ có nghiệp là do lòng ham muốn,
tham lam (ham sống, ham lạc thú, ham giàu sang…), do sự ngu dốt và si mê,
nói ngắn gọn là do tam độc (tham, sân, si) gây ra. Ngoài ra, nhân đế được diễn
giải một cách lôgích và cụ thể trong thuyết thập nhị nhân duyên (12 nguyên
nhân dẫn đến bể khổ): vô minh, hành, thức, danh – sắc, lục nhập, xúc, thụ, ái,
thủ, hữu, sinh, lão - tử. Trong 12 nguyên nhân ấy thì vô minh là nguyên nhân
thâu tóm tất cả, vì vậy, diệt trừ vô minh là diệt trừ tận gốc sự đau khổ nhân sinh.
Ba là, “diệt đế”. “Đức Phật bảo: Và bây giờ ta giảng tới diệt đế. Diệt là
diệt cho hết mọi đam mê, là liệng bỏ, huỷ bỏ, tự giải thoát khỏi cái khao khát
đó – tức cái dục vọng ích kỷ” [12, tr.102]. Do đó, “diệt đế” nghĩa là chân lí về
sự chấm dứt các nỗi khổ nơi cuộc sống trần thế để đạt tới niết bàn. Nguyên
nhân của khổ đau là luân hồi, vì vậy muốn diệt khổ thì phải chấm dứt luân
hồi; mà muốn chấm dứt luân hồi thì phải trừ bỏ hết mọi ham muốn. Diệt đế
bộc lộ tinh thần lạc quan của Phật giáo ở chỗ nó vạch ra cho mọi người thấy
cái hiện tại đen tối, xấu xa của mình, để cải đổi, kiến tạo lại nó thành một
cuộc sống xán lạn, tốt đẹp hơn. Phật giáo thể hiện khát vọng nhân bản, muốn
hướng con người đến cõi hạnh phúc “tuyệt đối”, muốn hướng khát vọng chân
chính của con người tới chân - thiện - mỹ.
Bốn là, “đạo đế” là lý luận về con đường diệt khổ, giải thoát. Nội dung
cơ bản của đạo đế thể hiện trong thuyết Bát chính đạo (tám con đường đúng
đắn đưa chúng sinh đến niết bàn). Đó là: chính kiến, chính tư duy, chính ngữ,
chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh tấn, chính niệm, chính định. Bát chính
đạo là suy nghĩ, nói năng, hành động đúng đắn. Về thực chất, thực hành bát
chính đạo là khắc phục tam độc bằng cách thực hiện tam học (giới, định, tuệ).
Trong đó, tham được khắc phục bằng giới (chính ngữ, chính nghiệp, chính
mệnh); sân được khắc phục bằng định (chính tinh tấn, chính niệm, chính
định); si được khắc phục bằng tuệ (chính kiến, chính tư duy).
Ngoài ra, Phật giáo còn khuyên chúng sinh thực hành ngũ giới (không
sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không ẩm tửu); rèn
luyện tứ đẳng (từ, bi, hỉ, xả)… Phật giáo phản đối chế độ đẳng cấp, tố cáo xã
hội bất công, đòi bình đẳng công bằng xã hội, khuyên chúng sinh luôn suy
nghĩ về điều thiện và làm điều thiện.
Về mặt thế giới quan của học thuyết Phật giáo được phản ánh trong
“thuyết duyên khởi” và được làm sáng tỏ qua “phạm trù vô ngã và vô thường”.
Duyên khởi là nói tắt câu “Chư pháp do nhân duyên nhi khởi”, có nghĩa
là các pháp. Vạn vật, bao gồm cả vật chất và tinh thần, kể cả giáo lý đều do
nhân duyên mà có. Còn nhân duyên là nguyên nhân, nhưng trong đó, nhân là
nguyên nhân chủ yếu, duyên là nguyên nhân phụ. Duyên giúp cho nhân biến
thành quả… Phật giáo cho rằng mọi sự vật, hiện tượng đều do nhân duyên
hòa hợp mà thành. Duyên khởi từ tâm mà ra. Tâm là cội nguồn của vạn vật.
Chẳng hạn như, “Sở dĩ cây có thể nảy mầm và phát triển được là nhờ có hạt
giống, đất, nước, khí trời, ánh sáng. Trong đó, hạt giống là nhân; đất, nước,
khí trời, ánh sáng là duyên” [8]. Từ đây, học thuyết Phật giáo chủ trương vô
tạo giả, tức không có vị thần linh tối cao nào tạo ra thế giới…
Bên cạnh thuyết “vô tạo giả”, đạo Phật còn nêu ra các thuyết:
Một là, “vô ngã” là không có những thực thể vật chất tồn tại một cách
cố định. Con người cũng chỉ là sự tập hợp của năm uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành,
thức) chứ không phải là một thực thể tồn tại lâu dài.
Hai là, “vô thường” là mọi sự vật đều ở trong quá trình sinh ra, biến
đổi, tiêu diệt chứ không bao giờ ổn định - tức là không có cái gì trường tồn và
vĩnh cửu. Trong thế giới, sự xuất hiện của vạn vật, kể cả con người cũng chỉ
là kết quả hội tụ tạm thời giữa sắc và danh; khi sắc và danh tan ra, chúng sẽ
mất đi. Vạn vật luôn nằm trong chu trình sinh - trụ - dị - diệt; chúng luôn bị
cuốn vào dòng biến hóa hư ảo vô cùng theo luật nhân quả. Nhân nhờ duyên
mới sinh ra quả, quả nhờ duyên mà thành nhân mới, nhân mới lại nhờ duyên
mà thành quả mới...; cứ như thế, vạn vật biến đổi, hợp - tan, tan - hợp mà
không có nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng. CHƯƠNG 3
LIÊN HỆ PHẬT GIÁO Ở ẤN ĐỘ VÀ VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Tầm ảnh hưởng của Phật giáo ở Ấn Độ hiện nay
3.1.1. Phật giáo không còn phổ biến ở Ấn Độ hiện nay
Phật giáo thịnh cho đến cuối thế kỉ XII thì Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ xâm
lăng, đánh bại Ấn Độ và trở thành chủ nhân chính trị của nước Ấn lúc bấy
giờ. Kéo dài khoảng 400 năm sau đó, Hồi giáo ngự trị với những pháo đài
thành đỏ cao từ 28 đến 36 m cùng các lớp thành vững trải và bao xung quanh
là các hào cá sấu. Như vậy, từ thế kỉ XIII đến giữa thế kỉ XVIII, Hồi giáo ngự
trị tại Ấn Độ, đối tượng tiêu diệt chính yếu của họ là đạo Phật mà không phải
là đạo Hinđu, bởi khi đó, Ấn Độ giáo là tôn giáo du mục, không có quan trọng
về xây dựng cơ sở tôn giáo. Cho nên, Hồi giáo tàn phá những công trình Phật
tích vĩ đại. Đặc biệt, xét về mặt nội hàm, các tín đồ của đạo Hồi và đạo Hinđu
có những nét tương đồng về niềm tin vào thượng đế, đạo Hồi tin vào đấng Ala
(vừa là đấng sáng thế vừa là đấng huỷ diệt), còn đạo Hinđu thờ các vị thần
như: thần Brama (đấng sáng thế), thần Visnu (đấng duy trì), thần Siva (đấng
huỷ diệt). Còn chấp nhận đạo Phật tồn tại thì sẽ trở thành mối đe doạ với các
tôn giáo nhất thần. Vì thế, những nhà cai trị Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ tiêu diệt
Phật giáo, phá các di tích Phật giáo, bức hại tăng ni khiến Phật giáo bị suy
vong trong hơn bốn thế kỉ mà Hồi giáo ngự trị.
Cho đến khoảng 200 năm trước, quân đội Anh bằng các con thuyền
hiện đại, vũ khí tân tiến đã tấn công Ấn Độ và nước Anh thay thế Thổ Nhĩ Kỳ
trở thành chủ nhân chính trị của Ấn Độ tại thời điểm đó. Sau đó, Anh truyền
bá Anh giáo (Tin lành giáo – tách ra từ Thiên Chúa giáo) vào Ấn Độ trong hai
thế kỉ ngự trị của Anh.
Cuối thế kỉ XIX, các nhà khảo cổ học Đức và Anh đã chứng minh rằng
Đức Phật không phải là nhân vật huyền thoại mà là nhân vật lịch sử, và “đánh
động” tri thức nhân loại về sự hiện hữu của nền minh triết Phật giáo tại
Ấn Độ. Nhớ đó, Phật giáo tại Ấn Độ mới bắt đầu phong trào phục hưng, đồng
thời, phục hưng Phật giáo cũng lan rộng ra các nước trong châu Á vào đầu thế
kỉ XX. Như vậy, Phật giáo đã bị suy sụp từ cuối thế kỉ XII đến đầu thế kỉ XX ở Ấn Độ.
Từ đầu thế kỉ XX đến nay, trải qua hơn 100 năm, Phật giáo ở Ấn Độ
chỉ chiếm số lượng ít, chủ yếu các tín đồ theo Ấn Độ giáo và Hồi giáo. Hiện
nay, Phật giáo Ấn Độ khó có thể phục hưng do đại đa số tu sĩ Phật giáo
Ấn Độ xuất thân từ giai cấp cùng đinh. Do đó, trước khi đi tu họ đã không có
vị thế xã hội, thiếu tri thức cần thiết nên đi tu thì trở thành các nhà sư có đạo
đức, hiếm khi trở thành các nhà sư vĩ đại về trí tuệ. Thầy Thích Nhật Từ bày
tỏ rằng, nếu nhà sư thiếu trí tuệ thì không làm đạo thành công được, nên Phật
giáo ở Ấn Độ tiếp tục bị suy vong không thể phục hưng lại thời kì huy hoàng,
rực rỡ của đạo Phật.
3.2.2. Tư tưởng và nhiều dấu ấn của Phật giáo vẫn hiện diện trong
đời sống xã hội Ấn Độ cho đến ngày nay
Một là, Quốc kỳ của Ấn Độ hiện nay có bánh xe gồm 24 nan hoa đại
diện cho 24 giờ trong ngày, biểu thị sự chuyển động và phát triển không
ngừng như lời nhắc nhở Ấn Độ không ngừng vận động, thay đổi và phát triển
(Phụ lục 5). Biểu tượng bánh xe ở giữa quốc kỳ Ấn Độ giống với bánh xe
luân hồi trong Phật giáo hay còn được gọi là Pháp Luân.
Hai là, Quốc huy của Ấn Độ (Phụ lục 7) biểu hiện thông qua hình
tượng trên trụ đá ở Sarnath có chạm hình bốn con sư tử chụm đuôi vào nhau,
mặt nhìn ra bốn hướng trong tư thế tự vệ. Dưới sư tử, có hình bánh xe luân
hồi, xen kẽ giữa các bánh xe là bốn con vật xung quanh: một con voi, một con
bò đực, một con ngựa và một con sư tử. Tiếp nối với đoạn hình trụ là đế bán
cầu hình hoa sen dốc ngược. Qua đó có thể hiểu rằng, bốn đầu sư tử quay về
bốn hướng chỉ cho chánh pháp của Đức Phật, từ vườn Lộc Uyển, nơi Ngài
thuyết bài pháp đầu tiên và là nơi tạo dựng trụ đá này, được truyền bá khắp
bốn phương. Còn bánh xe tượng trưng cho Phật pháp luân chuyển khắp mọi nơi mọi chốn.
Ba là, tiền xu hay tiền giấy ở Ấn Độ đều có Quốc huy được in lên – đó
là bốn đầu sư tử trên trụ đá ở Sarnath (Phụ lục 8).
Qua đó thấy được, mặc dù Phật giáo không còn phổ biến ở Ấn Độ nữa
nhưng tư tưởng và nhiều dấu ấn (như: bánh xe luân hồi, bốn đầu sư tử trên
trụ đá ở Sarnath) của Phật giáo vẫn hiện diện trong đời sống xã hội Ấn Độ
cho đến ngày nay; điển hình như Quốc kỳ, Quốc huy và tiền của Ấn Độ. Bởi
Ấn Độ là quốc gia khởi nguồn của Phật giáo. Hơn thế nữa, biểu tượng trụ đá
bốn đầu sư tử ở Sarnath được vua Asoka khắc dựng tại thánh địa ở Sarnath
xuất phát từ việc vị vua này quy y Tam Bảo. Ban đầu vua Asoka là một vị vua
hung tàn bạo người nhưng từ khi quy y cửa Phật, giác ngộ giáo lý của đạo
Phật thì nhà vua trở nên nhân từ, hiền lành và đem tâm ôn hoà bao dung để
cai trị nhân dân,… Chính vì vậy, những giáo lý, tư tưởng của Phật giáo đã ăn
sâu vào đời sống xã hội người dân nước Ấn.
3.2. Phật giáo ở Việt Nam hiện nay KẾT LUẬN
Sự phong phú và phức tạp của điều kiện thiên nhiên, khí hậu của đất
nước Ấn Độ cổ đại cũng vô cùng khắc nghiệt. Ở miền Bắc Ấn dãy Himalaya
quanh năm tuyết phủ, khi những cơn gió lạnh thấu xương thịt gặp hơi nước ở
miền Nam thì tạo thành những đám sương mù dày đặc u bao phủ cả nền trời.
Khi hè đến, nhiệt độ tăng khiến một phần băng trên dãy núi Himalaya tan ra
tạo thành những cơn thác lũ đổ xuống chân núi. Phía Nam ánh nắng chang
chang quanh năm suốt tháng khiến cho đất đai khô cằn và con người trở nên
chai sạn, lam lũ. Trước sự hùng vĩ của thiên nhiên Ấn Độ, con người trở nên