Tư Tưởng Và Cảm Hứng Nhân Nghĩa Trong Bình Ngô Đại Cáo Của Nguyễn Trãi - Ngữ Văn 11

“Bình Ngô đại cáo” là một tuyệt tác bất hủ trong nền văn chương trung đại và cả trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Đây là một “hùng văn trong thiên hạ không ai hơn được”, có thể nói mười năm kháng chiến chống quân Minh, mười năm chiến đấu đọa đày. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !

Thông tin:
31 trang 1 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tư Tưởng Và Cảm Hứng Nhân Nghĩa Trong Bình Ngô Đại Cáo Của Nguyễn Trãi - Ngữ Văn 11

“Bình Ngô đại cáo” là một tuyệt tác bất hủ trong nền văn chương trung đại và cả trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Đây là một “hùng văn trong thiên hạ không ai hơn được”, có thể nói mười năm kháng chiến chống quân Minh, mười năm chiến đấu đọa đày. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !

31 16 lượt tải Tải xuống
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG BÃI CHÁY
LỚP 11A10
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
Tư tưởng và cảm hứng nhân
nghĩa trong
“Bình Ngô đại cáo” của
Nguyễn Trãi
Học sinh thực hiện :
Nguyễn Ngọc Huyền Phương Nguyễn Thị Ánh Dương Hoàng Nguyễn Lan Anh
Hoàng Ngọc Anh Lê Thị Thùy Duyên Nguyễn Thùy Dương Cao Hoài Giang
Đinh Quốc Hương Nguyễn Trọng Hoàng Lê Đăng Khoa Vũ Gia Khánh
Vũ Khánh Linh Lê Phương Linh Trần Thị Mai Bùi Xuân Mai
Trần Ngọc Quyên Nguyễn Hà Trang
Hạ Long, 2023
1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài................................................................................ 4
2. Mục đích nghiên cứu.......................................................................... 5
3. Phạm vi nghiên cứu............................................................................ 5
4. Phương pháp nghiên cứu................................................................... 5
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. TÁC GIẢ - TÁC PHẨM
1. Nguyễn Trãi – cuộc đời và sự nghiệp văn chương............................. 6
2. Tác phẩm “Bình ngô đại cáo”............................................................ 8
CHƯƠNG 2. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG NHÂN NGHĨA
TRONG “BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO”
I/ Giới thiệu về tư tưởng nhân nghĩa
1.Tư tưởng nhân nghĩa theo quan điểm Nho giáo................................. 17
2
2. Tư tưởng nhân nghĩa theo quan điểm của Nguyễn Trãi.................... 18
II/ Tư tưởng nhân nghĩa trong “Bình Ngô Đại cáo”
1. Tư tưởng nhân nghĩa gắn với “yên dân”“trừ bạo”..................... 18
2. Tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện ở việc khẳng định độc lập chủ
quyền của dân tộc................................................................................... 20
3. Tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện ở tấm lòng đồng cảm với người
dân.......................................................................................................... 21
4. Tư tưởng nhân nghĩa thể hiện ở tinh thần chuộng hòa bình, tinh thần
nhân đạo của dân tộc.............................................................................. 25
5. Nghệ thuật tiêu biểu trong tác phẩm.................................................. 27
CHƯƠNG 3: TƯ TƯỞNG NHÂN NGHĨA CỦA
NGUYỄN TRÃI TRONG ĐỊNH HƯỚNG GIÁO DỤC
LỐI SỐNG THẾ HỆ TRẺ VIỆT NAM HIỆN NAY
• Định hướng cho thế hệ trẻ lối sống vì con người............................ 28
• Định hướng cho thế hệ trẻ lối sống vì cộng đồng............................ 28
PHẦN KẾT LUẬN
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Bình Ngô đại cáo” là một tuyệt tác bất hủ trong nền văn chương
trung đại và cả trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Đây là một
“hùng văn trong thiên hạ không ai hơn được”, có thể nói mười năm
kháng chiến chống quân Minh, mười năm chiến đấu đọa đày, gian khổ
nhưng rất anh hùng của dân tộc đến nay chỉ còn được gói gọn lại trong
tác phẩm chính luận này. So với thơ văn kháng chiến giai đoạn từ
1945 – 1975 thì không sao kể hết số lượng của nó. Vì vậy, ngoài “hùng
văn” tác phẩm còn được xem là “bản tuyên ngôn của nước Việt Nam
độc lập”. Đây chính là chiến tích lừng lẫy của ông cha ta, là mạch máu
nóng xối vào trái tim của mỗi con người Việt Nam hiện đại, không thể
có hòa bình nếu không có những tháng ngày “quật khởi”. Không thể
khai sinh ra một đất nước nếu không có bản “tuyên ngôn độc lập”.
Những lời văn hùng hồn ấy không phải đợi đến ngày 2-9-1945 mới được
vang lên, mà nó đã được tuyên cáo rộng rãi khắp thiên hạ sau cuộc
kháng chiến chống quân Minh thắng lợi. Vì thế, trong quá trình chọn đề
tài, tôi quyết định hướng đến đề tài “Tư tưởng và cảm hứng nhân nghĩa
trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi” để có cơ hội nghiên cứu sâu
hơn giá trị của tác phẩm, vốn là niềm tự hào của dân tộc. Mặt khác, đến
với đề tài này chúng tôi cũng dễ dàng tiếp cận được nhiều lí giải về tác
phẩm của các tác giả đi trước để có thể mở rộng thêm cách hiểu cho
4
mình trong việc tiếp cận và lí giải vấn đề. Qua nghiên cứu đề tài chúng
tôi cũng đề cao vai trò của Nguyễn Trãi vị anh hùng của dân tộc, danh
nhân văn hóa thế giới. Nghiên cứu văn học ở phương diện giá trị nội
dung tư tưởng là một phương hướng nghiên cứu quen thuộc có tính
truyền thống. Tuy không phải là mới, song hướng nghiên cứu này khi áp
dụng với tác phẩm Bình Ngô đại cáo sẽ cung cấp cho chúng ta có một
cái nhìn đầy đủ hơn về nội dung tư tưởng cũng như quan niệm nghệ
thuật của tác giả để hiểu rõ hơn về “áng thiên cổ hùng văn muôn đời bất
hủ” này.
2. Mục đích nghiên cứu
Với bài nghiên cứu này, chúng tôi đi vào giải quyết những yêu cầu sau:
Một là, tìm hiểu đôi nét về tác giả Nguyễn Trãi và tác phẩm “Bình Ngô
đại cáo” để có được những hiểu biết cơ bản về cuộc đời, sự nghiệp văn
chương của tác giả cũng như khái quát về “bản thiên cổ hùng văn” này.
Hai là, chúng tôi sẽ đi sâu vào tìm hiểu giá trị nội dung của bài cáo để
thấy rõ hơn những tư tưởng cốt lõi mà tác giả thể hiện. Ba là, bên cạnh
những giá trị về nội dung Bình Ngô đại cáo còn là áng văn chính luận
với những nét nghệ thuật đặc sắc, vì thế khi đi vào phân tích “Tư tưởng
và cảm hứng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi”
chúng tôi cũng sẽ đi sâu vào tìm hiểu những giá trị nghệ thuật mà tác giả
đã sử dụng trong tác phẩm.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đến với đề tài “Tư tưởng và cảm hứng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại
cáo của Nguyễn Trãi” chúng tôi chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu giá trị
tưởng của tác phẩm. Để thực hiện nhiệm vụ này, chúng tôi chọn khảo
5
sát, nghiên cứu trên văn bản chữ Hán kết hợp với bản dịch được sử dụng
rộng rãi nhất hiện nay là bản dịch của Bùi Văn Nguyên.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để giúp cho việc nghiên cứu đề tài một cách khoa học, dễ tiếp nhận, ở
đề tài này chúng tôi sử dụng một số phương pháp lịch sử, thu thập tài
liệu, bài nghiên cứu có liên quan đến tác phẩm Bình Ngô đại cáo. Từ đó
chúng tôi tiến hành tổng hợp, phân tích để làm sáng tỏ giá trị nội dung
và nghệ thuật của tác phẩm.
6
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
1. Nguyễn Trãi – cuộc đời và sự nghiệp văn chương
1.1. Cuộc đời
Nguyễn Trãi sinh năm 1380, hiệu là Ức Trai, quê ở Chi Ngại (Chí
Linh, Hải Dương) sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Cha là
Nguyễn Phi Khanh, một học trò nghèo, học giỏi, đỗ thái học sinh (tiến
sĩ). Mẹ là Trần Thị Thái, con Trần Nguyên Đán, một qúy tộc đời Trần.
Lên sáu tuổi, mất mẹ, lên mười tuổi, ông ngoại qua đời, ông về ở Nhị
Khê, nơi cha dạy học. Năm hai mươi tuổi, năm 1400, ông đỗ thái học
sinh và hai cha con cùng ra làm quan với nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh
cướp nước tạ Nguyễn Phi Khanh bị chúng đưa sang Trung Quốc.
Nguyễn Trãi và một người em đi theo chăm sóc. Nghe lời cha khuyên ,
ông trở về, nhưng bị quân Minh bắt giữ. Sau đó, ông tìm theo Lê Lợi.
Suốt mười năm chiến đấu, ông đã góp công lớn vào chiến thắng vẻ vang
của dân tộc. Đầu năm 1428, quét sạch quân thù, ông hăm hở bắt tay vào
xây dựng lại nước nhà thì bỗng dưng bị nghi oan và bắt giam. Sau đó
ông được tha, nhưng không còn được tin cậy như trước. Ông buồn, xin
về Côn Sơn. Đó là vào những năm 1438 - 1440. Năm 1440, Lê Thái
Tông mời ông trở lại làm việc và giao cho nhiều công việc quan trọng.
Ông đang hăng hái giúp vua thì xảy ra vụ nhà vua chết đột ngột ở Trại
Vải (Lệ Chi Viên, Bắc Ninh). Vốn chứa thù từ lâu đối với Nguyễn Trãi,
bọn gian tà ở triều đình vu cho ông âm mưu giết vua, khép vào tội phải
7
giết cả ba họ năm 1442. Nỗi oan tày trời ấy, hơn hai mươi năm sau,
1464, Lê Thánh Tông mới giải tỏa, rồi cho sưu tầm lại thơ văn ông và
tìm người con trai sống sót cho làm quan.
1.2. Sự nghiệp văn chương
Ngoài là một anh hùng dân tộc, Nguyễn Trãi còn sáng tác rất nhiều tác
phẩm có giá trị cho kho tàng văn học Việt Nam. Thơ văn của ông thấm
nhuần tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân và tình yêu đối với
thiên nhiên. Một số tác phẩm về quân sự và chính trị nổi tiếng, mang lại
rất nhiều bài học ý nghĩa đó là “Quân trung từ mệnh tập”, “Chiếu biểu
viết dưới triều Lê” và đặc biệt là áng thiên cổ hùng văn "Bình ngô đại
cáo "- được coi là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ 2 của nước ta, tổng kết
cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh, mở ra một kỉ nguyên
mới cho dân tộc. Bài “Bình Ngô đại cáo” của ông là một "thiên cổ hùng
văn". Ông còn sáng tác rất nhiều tác phẩm về các chủ đề khác nhau như:
về lịch sử thì có "Lam Sơn thực lục", về địa lý thì có "Dư địa chí". "Lam
Sơn thực lục" là cuốn sử về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. "Dư địa chí" viết
về địa lý lịch sử nước ta. "Chí Linh sơn phú" nói về cuộc chiến đấu
chống giặc Minh gian khổ và anh hùng. Các tác phẩm ấy đều là văn
bằng chữ Hán. Về văn học thì có 2 tập thơ trữ tình rất xuất sắc là: "Ức
trai thi tập”“Quốc Âm thi tập". “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi
là tác phẩm xưa nhất bằng Việt ngữ mà chúng ta còn giữ được. Tác
phẩm này rất quan trọng cho công tác nghiên cứu lịch sử văn học Việt
Nam và lịch sử ngôn ngữ Việt Nam.
2. Tác phẩm Bình ngô đại cáo
8
2.1. Thể loại Cáo
Cáo là thể loại văn học xuất hiện từ thời xa xưa ở Trung Quốc thường
được các vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương, một
sự nghiệp hay tuyên ngôn một sự kiện để mọi người cùng biết. Cáo
được viết bằng văn xuôi, văn vần nhưng phần nhiều viết bằng văn biền
ngẫu, có vần hoặc không có vần, câu dài ngắn khác nhau, mỗi cặp hai vế
đối nhau. Lời lẽ trong cáo rất đanh thép lí luận sắc bén, kết cấu chặt chẽ,
mạch lạc.
Cáo du nhập vào nước ta khá sớm. Tuy cáo không được phát triển
thành thể loại lớn trong tiến trình văn học nhưng tính chất của thể văn
này được thể hiện trong văn chính luận có tính chất tuyên cáo.
“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi – một tác phẩm có tính chất luận
chiến, một quy tắc không thành văn nhưng người cầm bút nào cũng phải
tuân thủ ngay trong nhan đề phải ghi rõ loại hình thể loại của chúng.
Nguyên tắc này được xem là bất di bất dịch đối với tất cả các tác phẩm
mang tính chính luận và nghi lễ ở thế kỉ X –XIV.
2.2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:
Mùa đông năm 1427, sau khi diệt viện, chém Liễu Thăng, đuổi Mộc
Thạnh, tổng binh Vương Thông đang cố thủ trong thành Đông Quan
phải xin hàng, cuộc kháng chiến chống giặc Minh hoàn toàn thắng lợi.
Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, lập ra triều đình Hậu Lê, sai
Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo để bố cáo cho toàn dân được biết
chiến thắng vĩ đại của quân dân trong 10 năm chiến đấu gian khổ, từ
nay, nước Việt đã giành lại được nền độc lập, non sông trở lại thái bình.
2.3. Nhan đề “Bình Ngô đại cáo”
9
“Bình” nghĩa là dẹp yên giặc, bình định xong; “Ngô” là giặc Ngô (Nhà
Minh, Trung Quốc); “Đại” tức là lớn; còn “Cáo” nghĩa là báo cáo.
Từ đó suy ra nhan đề “Bình Ngô đại cáo” là bản cáo lớn gửi đến quốc
dân đồng bào về chiến thắng oanh liệt của quân dân ta đánh tan được
quân Ngô. Bản văn viết bằng Hán văn do Nguyễn Trãi viết theo thể văn
biền ngẫu, trình bày sự gian khổ của 10 năm kháng chiến và thắng lợi
chống quân Minh của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đây có thể xem là bản
tuyên ngôn độc lập thứ hai sau bài Nam quốc sơn hà của Lý Thường
Kiệt trong văn học cổ.
2.4. Văn bản Bình Ngô đại cáo
Phiên âm Hán Việt Bản dịch
Đại thiên hành hóa hoàng thượng nhược
viết:
Cái văn:
Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,
Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo.
Duy ngã Đại Việt chi quốc,
Thực vi văn hiến chi bang.
Sơn xuyên chi phong vực ký thù,
Nam bắc chi phong tục diệc dị.
Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã
quốc,
[1]
Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất
phương.
Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,
Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.
Thay trời hành hóa, hoàng thượng
truyền rằng.
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây
nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên
mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có.
10
Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,
Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong.
Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan,
Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.
[2]
Kê chư vãng cổ,
Quyết hữu minh trưng.
Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà,
Trí sử nhân tâm chi oán bạn.
Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;
Nguỵ đảng hoài gian, cánh dĩ mãi ngã quốc.
Hân thương sinh ư ngược diệm,
Hãm xích tử ư họa khanh.
Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn
trạng;
Liên binh kết hấn, nẫm ác đãi nhị thập niên.
Bại nghĩa thương nhân, càn khôn ky hồ dục
tức;
Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mỹ hữu kiết
di.
Khai kim trường, tắc mạo lam chướng nhi
phủ sơn đào sa,
Thái minh châu, tắc xúc giao long nhi hoàn
yêu thộn hải.
Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh,
Điễn vật chức thúy cầm chi võng la.
Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ
sinh,
Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở.
Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt
chi vẫn nha;
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa,
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung
tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng
mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng
luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,
khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn
chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bắt hươu đen, nơi
nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn
cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu
mỡ bấy no nê chưa chán ;
11
Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi
giải vũ.
Châu lý chi chinh dao trọng khốn,
Lư diêm chi trữ trục giai không.
Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc kỳ ô,
Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.
Thần dân chi sở cộng phẫn,
Thiên địa chi sở bất dung.
Dư:
Phấn tích Lam Sơn,
Thê thân hoang dã.
Niệm thế thù khởi khả cộng đái,
Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh.
Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên,
Thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật.
Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao
lược chi thư,
Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong
chi lý.
Đồ hồi chi chí
Ngộ mị bất vong.
Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì,
Chính tặc thế phương trương chi nhật.
Nại dĩ:
Nhân tài thu diệp,
Tuấn kiệt thần tinh.
Bôn tẩu tiền hậu giả ký phạp kỳ nhân,
Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ.
Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục
đông;
Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả.
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay
nào phục dịch cho vừa.
Nặng nề những nổi phu phen,
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi
hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không
rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần dân chịu được?
Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy
năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai
sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy
xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn
đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
12
Nhiên kỳ:
Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương,
Do kỉ chi thành thậm ư chửng nịch.
Phẫn hung đồ chi vị diệt,
Niệm quốc bộ chi tao truân.
Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần,
Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ.
Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm,
Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan.
Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập;
Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.
Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất
bị;
Dĩ quả địch chúng, thường thiết phục dĩ xuất
kỳ.
Tốt năng:
Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,
Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo.
Bồ Đằng chi đình khu điện xế,
Trà Lân chi trúc phá khôi phi.
Sĩ khí dĩ chi ích tăng,
Quân thanh dĩ chi đại chấn.
Trần Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách,
Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh.
Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã
hữu;
Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu
cương.
Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh
vạn lý;
Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm
muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm
còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng,
mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn
cứu người chết đuối.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một
đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần
trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước
sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống
mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch
nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
13
Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ;
Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi.
Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần,
Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ.
Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong;
Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự
khuất.
Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự,
Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô.
Chấp nhất kỷ chi kiến, dĩ giá họa ư tha nhân,
Tham nhất thì chi công, dĩ di tiếu ư thiên hạ.
Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh
vô yếm;
Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nọa tướng, dĩ
du cứu phần.
Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh
do Khâu Ôn nhi tiến,
Bản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân
đồ tự Vân Nam nhi lai.
Dư tiền ký tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kỳ
phong,
Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực.
Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã
quân sở công, kế trụy ư Chi Lăng chi dã;
Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị
ngã quân sở bại, thân tử ư Mã Yên chi sơn.
Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh
trận hãm nhi táng khu,
Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế
cùng nhi vẫn thủ.
Ngã toại nghênh nhận nhi giải,
Bỉ tự đảo qua tương công.
Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi,
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất
vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu
thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân
ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất
cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh
trôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để
ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc Trần Hiệp đã
phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù Lý Lượng cũng đành
bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám
lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta
hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí
cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta
đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn nên đã
thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn
chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho
bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc, để cười
cho tất cả thế gian.
14
Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt.
Viên tuyển tỳ hưu chi sĩ,
Thân mệnh trảo nha chi thần.
Ẩm tượng nhi hà thủy càn,
Ma đao nhi sơn thạch khuyết.
Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn,
Tái cổ nhi điểu tán quân kinh.
Quyết hội nghĩ ư băng đê,
Chấn cương phong ư cảo diệp.
Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản,
Thượng thư Hoàng Phúc diện phược dĩ tựu
cầm.
Cương thi tái Lạng Giang, Lạng Sơn chi đồ,
Chiến huyết xích Xương Giang, Bình Than
chi thủy.
Phong vân vị chi biến sắc,
Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.
Kỳ Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê
Hoa, tự đỗng nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ;
Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Liễu Thăng đại bại
ư Cần Trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc
thoát thân.
Lãnh Câu chi huyết chử phiêu, giang thủy vị
chi ô yết;
Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân
hồng.
Lưỡng lộ cứu binh, ký bất toàn chủng nhi câu
bại,
Các thành cùng khấu, diệc tương giải giáp dĩ
xuất hàng.
Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất
liên chi vĩ;
Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu
sinh chi tâm.
Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động
binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu
chữa cháy
Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng
đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia
đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt
mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt
nguồn lương thực
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu
Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu
Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh
đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh
cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh
nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
15
Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã
Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải
nhi do thả hồn phi phách tán;
Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã
Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn
quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh.
Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;
Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi
đắc tức.
Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn,
Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.
Xã tắc dĩ chi điện an,
Sơn xuyên dĩ chi cải quán.
Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,
Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.
Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,
Vu dĩ tuyết thiên cổ vô cùng chi sỉ.
Thị do thiên địa tổ tông chi linh, hữu dĩ mặc
tương âm hựu, nhi trí nhiên dã.
Ô hô!
Nhất nhung đại định,
ngật thành vô cạnh chi công;
Tứ hải vĩnh thanh,
đản bố duy tân chi cáo.
Bá cáo hà nhĩ,
Hàm sử văn tri.
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để
tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy
đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi
đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải
đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt
phải mờ
Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam
nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân
Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để
thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành
sông, nước sông nghẹn ngào tiếng
khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi,
cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót
chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi
giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy
đuôi xin cứu mạng
Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời
ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm
trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà
vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài
nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn
tim đập chân run.
16
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu
thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân
nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh
thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo
Ai nấy đều hay.
CHƯƠNG 2. GIÁ TRỊ NỘI DUNG TRONG
BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO
I/ Giới thiệu về tư tưởng nhân nghĩa
1.Tư tưởng nhân nghĩa theo quan điểm Nho giáo
17
Tư tưởng nhân nghĩa xuất hiện rất sớm trong truyền thống triết học
Trung Hoa. Theo Khổng Tử, “nhân”“yêu người” và để yêu người
thật sự bằng lòng “nhân” thì phải “hiểu người”. Còn “nghĩa” được
nhấn mạnh là sự cư xử cho thích hợp dựa trên việc “hiểu người”.
“Nhân”“nghĩa” luôn thể hiện phẩm chất cao đẹp của người quân tử.
Xét đến Mạnh Tử, người kế tục Khổng Tử, chữ nhân đứng hàng đầu
trong bốn đức lớn: Nhân – Nghĩa – Lễ – Trí. Chúng bắt nguồn từ bốn
đầu mối của Thiện. Trong đó, lòng thương xót là đầu mối của Nhân. Có
thể nói, những tư tưởng và những quan điểm khác nhau về nhân nghĩa
phản ánh đời sống tinh thần của con người Trung Hoa đã ảnh hưởng sâu
sắc đến tư tưởng truyền thống phương Đông nói chung và Việt Nam nói
riêng. Thế nhưng, sự tiếp nhận của các bậc văn nhân Đại Việt đối với
văn hóa Trung Hoa không phải là sự tiếp nhận thụ động và gieo trồng
lên mảnh đất văn học những hạt mầm có sẵn mà đó là một sự tiếp nhận
có chọn lọc, kết hợp hài hòa những tinh túy của tư tưởng nhân nghĩa
Nho giáo với truyền thống quý báu bao đời của dân tộc Việt Nam như:
“Lá lành đùm lá rách”, “Thương người như thể thương thân”. Do đó,
tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo khi vào nước ta đã được tiếp biến một
cách tích cực. Nhân nghĩa của Nho giáo vì thế hòa quyện cùng với nhân
nghĩa của nhân dân. Nguyễn Trãi đã tiếp thu trọn vẹn những tinh hoa
văn hoá ấy để rồi tác phẩm nào của ông cũng thấm đượm tinh thần nhân
đạo cao đẹp, yêu nước thương dân mà “Bình Ngô đại cáo” là một ví dụ
rõ nét.
2. Tư tưởng nhân nghĩa theo quan điểm của Nguyễn Trãi
Nhân nghĩa vốn là một tư tưởng đạo Nho, là mối quan hệ giữa người
với người dựa trên cơ sở của tình thương và đạo lí. Nhưng ở đây, với
bốn chữ “yên dân”, “trừ bạo”, Nguyễn Trãi đã nâng nó lên một tầm cao
mới, trở thành một lý tưởng xã hội, một đạo lý dân tộc có giá trị đến
18
muôn đời: việc nhân nghĩa ở đời cốt là lo cho dân được ấm no, giúp cho
dân được yên ổn. Nguyễn Trãi đã khẳng định đạo lý “lấy dân làm gốc”
là quy luật tất yếu trong mọi thời đại – dân là nòng cốt, là tài sản, là sức
mạnh, sinh khí của một quốc gia. “Yên dân”, tức là làm cho cuộc sống
của nhân dân được yên ổn, no đủ, hạnh phúc. Nhưng để được “yên dân”
trước phải lo “trừ bạo”, có nghĩa phải vì nhân mà dám đứng lên diệt trừ
bạo tàn, đánh tan quân xâm lược.
II/ Tư tưởng nhân nghĩa trong “Bình Ngô Đại cáo
1. Tư tưởng nhân nghĩa gắn với “yên dân” và “trừ bạo”
Ngay từ những câu đầu đầu tiên bài cáo, Nguyễn Trãi đã “tuyên ngôn”
về nhân nghĩa như để làm chỗ dựa, căn cứ xác đáng cho toàn bài.
Nguyễn Trãi khẳng định nhân nghĩa là một nguyên lí có tính phổ biến,
mặc nhiên thừa nhận thời bấy giờ:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
“Nhân nghĩa” là tấm lòng thương yêu người, là những hành động vì lợi
ích của nhân dân, cộng đồng. Bên cạnh đó, "nhân nghĩa" cũng là sự tôn
trọng lẽ phải, bênh vực lẽ phải. Chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho
giáo nên đối với Nguyễn Trãi, "nhân nghĩa" "yên dân", "trừ bạo",
cuộc sống và sự no ấm của nhân dân phải được đặt lên hàng đầu. Giữa
con người phải có tình yêu thương lẫn nhau, cùng chiến đấu để bảo vệ
đất nước, thoát khỏi đời sống khổ cực, lầm than. Để được như vậy thì
phải diệt trừ những kẻ bạo tàn, những thế lực xâm lược hung hãn, đó
chính là giặc Minh đang xâm chiếm đất nước ta lúc bấy giờ. Tư tưởng
nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là lòng yêu nước, thương dân và tinh
thần chống giặc ngoại xâm quyết liệt. Đây không chỉ là mối quan hệ
19
nằm trong phạm vi giữa con người với con người mà mở rộng ra là mối
quan hệ giữa dân tộc với dân tộc. Soi chiếu vào dòng chảy lịch sử nhân
loại thì ta thấy ngay “nhân nghĩa” mà Nguyễn Trãi nêu ở đây là một
tiền đề có tính tiên nghiệm bởi tiền đề này có nguồn gốc từ phạm trù
nhân nghĩa của Nho giáo. Khổng Tử từng nói đến chữ “nhân”, Mạnh Tử
nói đến chữ “nghĩa”, ghép cả hai từ ấy ta được “nhân nghĩa”. Dẫu được
nhiều người giải thích, có nhiều cách nói, cách hiểu đôi khi khác nhau
nhưng nhìn chung mọi người đều thừa nhận “nhân nghĩa” chính là mối
quan hệ tốt đẹp giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lí.
“Nhân nghĩa”“yên dân trừ bạo” tức là tiêu trừ tham tàn, bạo ngược
bảo vệ cuộc sống yên ổn của người dân. Là một trí thức Nho giáo,
“nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi cũng bao hàm lẽ đó. Tuy nhiên lại phải
nhấn mạnh, khi tuyên ngôn về nhân nghĩa, Nguyễn Trãi không những
chắt lọc lấy cái hạt nhân cơ bản, tích cực của Nho giáo mà còn đem đến
một nội dung mới, lấy ra từ thực tiễn của dân tộc: nhân nghĩa phải gắn
liền với chống quân xâm lược. Đặt vào hoàn cảnh thực tế đất nước như
đã nói ở trên thì người dân mà tác giả nói tới là người dân Đại Việt đang
bị xâm chiếm bờ cõi, và kẻ tàn bạo không ai khác chính là giặc Minh -
cướp nước, xâm chiếm lãnh thổ nước ta. Vậy “nhân nghĩa” còn là
chống xâm lược, chống xâm lược là “nhân nghĩa”. Nội dung này trong
quan niệm của Khổng - Mạnh và Nho gia Trung Quốc hầu như không
nhắc tới. Nêu cao tinh thần nhân nghĩa gắn với yêu nước, chống giặc
ngoại xâm, Nguyễn Trãi đã bóc trần những luận điệu nhân nghĩa xảo trá
của địch, phân định rạch ròi thành hai chiến tuyến, ta là chính nghĩa,
giặc xâm lược là phi nghĩa. Trong “Thư số 8 - Gửi Phương Chính”
Nguyễn Trãi từng nhắc tới: “Nước mày nhân việc nhà Hồ trái đạo,
mượn cái tiếng thương dân đánh kẻ có tội, thật ra là làm việc bạo tàn,
lấn cướp nước ta, bóc lột nhân dân ta… Nhân nghĩa mà như thế ư?”.
Tội ác ấy phải trừng phạt: “Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Quân ở
đây là nhân dân: tập hợp thành đội quân “đại nghĩa - chí nhân” để
20
| 1/31

Preview text:

TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG BÃI CHÁY LỚP 11A10 BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
Tư tưởng và cảm hứng nhân nghĩa trong
“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi Học sinh thực hiện :
Nguyễn Ngọc Huyền Phương Nguyễn Thị Ánh Dương Hoàng Nguyễn Lan Anh
Hoàng Ngọc Anh Lê Thị Thùy Duyên Nguyễn Thùy Dương Cao Hoài Giang
Đinh Quốc Hương Nguyễn Trọng Hoàng Lê Đăng Khoa Vũ Gia Khánh
Vũ Khánh Linh Lê Phương Linh Trần Thị Mai Bùi Xuân Mai
Trần Ngọc Quyên Nguyễn Hà Trang Hạ Long, 2023 1 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài................................................................................ 4
2. Mục đích nghiên cứu.......................................................................... 5
3. Phạm vi nghiên cứu............................................................................ 5
4. Phương pháp nghiên cứu................................................................... 5 PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. TÁC GIẢ - TÁC PHẨM
1. Nguyễn Trãi – cuộc đời và sự nghiệp văn chương............................. 6
2. Tác phẩm “Bình ngô đại cáo”............................................................ 8
CHƯƠNG 2. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG NHÂN NGHĨA
TRONG “BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO”
I/ Giới thiệu về tư tưởng nhân nghĩa
1.Tư tưởng nhân nghĩa theo quan điểm Nho giáo................................. 17 2
2. Tư tưởng nhân nghĩa theo quan điểm của Nguyễn Trãi.................... 18
II/ Tư tưởng nhân nghĩa trong “Bình Ngô Đại cáo”
1. Tư tưởng nhân nghĩa gắn với “yên dân”“trừ bạo”..................... 18
2. Tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện ở việc khẳng định độc lập chủ
quyền của dân tộc................................................................................... 20
3. Tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện ở tấm lòng đồng cảm với người
dân.......................................................................................................... 21
4. Tư tưởng nhân nghĩa thể hiện ở tinh thần chuộng hòa bình, tinh thần
nhân đạo của dân tộc.............................................................................. 25
5. Nghệ thuật tiêu biểu trong tác phẩm.................................................. 27
CHƯƠNG 3: TƯ TƯỞNG NHÂN NGHĨA CỦA
NGUYỄN TRÃI TRONG ĐỊNH HƯỚNG GIÁO DỤC
LỐI SỐNG THẾ HỆ TRẺ VIỆT NAM HIỆN NAY
• Định hướng cho thế hệ trẻ lối sống vì con người............................ 28
• Định hướng cho thế hệ trẻ lối sống vì cộng đồng............................ 28 PHẦN KẾT LUẬN 3 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Bình Ngô đại cáo” là một tuyệt tác bất hủ trong nền văn chương
trung đại và cả trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Đây là một
“hùng văn trong thiên hạ không ai hơn được”, có thể nói mười năm
kháng chiến chống quân Minh, mười năm chiến đấu đọa đày, gian khổ
nhưng rất anh hùng của dân tộc đến nay chỉ còn được gói gọn lại trong
tác phẩm chính luận này. So với thơ văn kháng chiến giai đoạn từ
1945 – 1975 thì không sao kể hết số lượng của nó. Vì vậy, ngoài “hùng
văn”
tác phẩm còn được xem là “bản tuyên ngôn của nước Việt Nam
độc lập”
. Đây chính là chiến tích lừng lẫy của ông cha ta, là mạch máu
nóng xối vào trái tim của mỗi con người Việt Nam hiện đại, không thể
có hòa bình nếu không có những tháng ngày “quật khởi”. Không thể
khai sinh ra một đất nước nếu không có bản “tuyên ngôn độc lập”.
Những lời văn hùng hồn ấy không phải đợi đến ngày 2-9-1945 mới được
vang lên, mà nó đã được tuyên cáo rộng rãi khắp thiên hạ sau cuộc
kháng chiến chống quân Minh thắng lợi. Vì thế, trong quá trình chọn đề
tài, tôi quyết định hướng đến đề tài “Tư tưởng và cảm hứng nhân nghĩa
trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi”
để có cơ hội nghiên cứu sâu
hơn giá trị của tác phẩm, vốn là niềm tự hào của dân tộc. Mặt khác, đến
với đề tài này chúng tôi cũng dễ dàng tiếp cận được nhiều lí giải về tác
phẩm của các tác giả đi trước để có thể mở rộng thêm cách hiểu cho 4
mình trong việc tiếp cận và lí giải vấn đề. Qua nghiên cứu đề tài chúng
tôi cũng đề cao vai trò của Nguyễn Trãi vị anh hùng của dân tộc, danh
nhân văn hóa thế giới. Nghiên cứu văn học ở phương diện giá trị nội
dung tư tưởng là một phương hướng nghiên cứu quen thuộc có tính
truyền thống. Tuy không phải là mới, song hướng nghiên cứu này khi áp
dụng với tác phẩm Bình Ngô đại cáo sẽ cung cấp cho chúng ta có một
cái nhìn đầy đủ hơn về nội dung tư tưởng cũng như quan niệm nghệ
thuật của tác giả để hiểu rõ hơn về “áng thiên cổ hùng văn muôn đời bất hủ” này.
2. Mục đích nghiên cứu
Với bài nghiên cứu này, chúng tôi đi vào giải quyết những yêu cầu sau:
Một là, tìm hiểu đôi nét về tác giả Nguyễn Trãi và tác phẩm “Bình Ngô
đại cáo”
để có được những hiểu biết cơ bản về cuộc đời, sự nghiệp văn
chương của tác giả cũng như khái quát về “bản thiên cổ hùng văn” này.
Hai là, chúng tôi sẽ đi sâu vào tìm hiểu giá trị nội dung của bài cáo để
thấy rõ hơn những tư tưởng cốt lõi mà tác giả thể hiện. Ba là, bên cạnh
những giá trị về nội dung Bình Ngô đại cáo còn là áng văn chính luận
với những nét nghệ thuật đặc sắc, vì thế khi đi vào phân tích “Tư tưởng
và cảm hứng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi”

chúng tôi cũng sẽ đi sâu vào tìm hiểu những giá trị nghệ thuật mà tác giả
đã sử dụng trong tác phẩm.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đến với đề tài “Tư tưởng và cảm hứng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại
cáo của Nguyễn Trãi”
chúng tôi chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu giá trị tư
tưởng của tác phẩm. Để thực hiện nhiệm vụ này, chúng tôi chọn khảo 5
sát, nghiên cứu trên văn bản chữ Hán kết hợp với bản dịch được sử dụng
rộng rãi nhất hiện nay là bản dịch của Bùi Văn Nguyên.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để giúp cho việc nghiên cứu đề tài một cách khoa học, dễ tiếp nhận, ở
đề tài này chúng tôi sử dụng một số phương pháp lịch sử, thu thập tài
liệu, bài nghiên cứu có liên quan đến tác phẩm Bình Ngô đại cáo. Từ đó
chúng tôi tiến hành tổng hợp, phân tích để làm sáng tỏ giá trị nội dung
và nghệ thuật của tác phẩm. 6 PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
1. Nguyễn Trãi – cuộc đời và sự nghiệp văn chương 1.1. Cuộc đời
Nguyễn Trãi sinh năm 1380, hiệu là Ức Trai, quê ở Chi Ngại (Chí
Linh, Hải Dương) sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Cha là
Nguyễn Phi Khanh, một học trò nghèo, học giỏi, đỗ thái học sinh (tiến
sĩ). Mẹ là Trần Thị Thái, con Trần Nguyên Đán, một qúy tộc đời Trần.
Lên sáu tuổi, mất mẹ, lên mười tuổi, ông ngoại qua đời, ông về ở Nhị
Khê, nơi cha dạy học. Năm hai mươi tuổi, năm 1400, ông đỗ thái học
sinh và hai cha con cùng ra làm quan với nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh
cướp nước tạ Nguyễn Phi Khanh bị chúng đưa sang Trung Quốc.
Nguyễn Trãi và một người em đi theo chăm sóc. Nghe lời cha khuyên ,
ông trở về, nhưng bị quân Minh bắt giữ. Sau đó, ông tìm theo Lê Lợi.
Suốt mười năm chiến đấu, ông đã góp công lớn vào chiến thắng vẻ vang
của dân tộc. Đầu năm 1428, quét sạch quân thù, ông hăm hở bắt tay vào
xây dựng lại nước nhà thì bỗng dưng bị nghi oan và bắt giam. Sau đó
ông được tha, nhưng không còn được tin cậy như trước. Ông buồn, xin
về Côn Sơn. Đó là vào những năm 1438 - 1440. Năm 1440, Lê Thái
Tông mời ông trở lại làm việc và giao cho nhiều công việc quan trọng.
Ông đang hăng hái giúp vua thì xảy ra vụ nhà vua chết đột ngột ở Trại
Vải (Lệ Chi Viên, Bắc Ninh). Vốn chứa thù từ lâu đối với Nguyễn Trãi,
bọn gian tà ở triều đình vu cho ông âm mưu giết vua, khép vào tội phải 7
giết cả ba họ năm 1442. Nỗi oan tày trời ấy, hơn hai mươi năm sau,
1464, Lê Thánh Tông mới giải tỏa, rồi cho sưu tầm lại thơ văn ông và
tìm người con trai sống sót cho làm quan.
1.2. Sự nghiệp văn chương
Ngoài là một anh hùng dân tộc, Nguyễn Trãi còn sáng tác rất nhiều tác
phẩm có giá trị cho kho tàng văn học Việt Nam. Thơ văn của ông thấm
nhuần tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân và tình yêu đối với
thiên nhiên. Một số tác phẩm về quân sự và chính trị nổi tiếng, mang lại
rất nhiều bài học ý nghĩa đó là “Quân trung từ mệnh tập”, “Chiếu biểu
viết dưới triều Lê”
và đặc biệt là áng thiên cổ hùng văn "Bình ngô đại
cáo "
- được coi là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ 2 của nước ta, tổng kết
cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh, mở ra một kỉ nguyên
mới cho dân tộc. Bài “Bình Ngô đại cáo” của ông là một "thiên cổ hùng
văn"
. Ông còn sáng tác rất nhiều tác phẩm về các chủ đề khác nhau như:
về lịch sử thì có "Lam Sơn thực lục", về địa lý thì có "Dư địa chí". "Lam
Sơn thực lục"
là cuốn sử về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. "Dư địa chí" viết
về địa lý lịch sử nước ta. "Chí Linh sơn phú" nói về cuộc chiến đấu
chống giặc Minh gian khổ và anh hùng. Các tác phẩm ấy đều là văn
bằng chữ Hán. Về văn học thì có 2 tập thơ trữ tình rất xuất sắc là: "Ức
trai thi tập”
“Quốc Âm thi tập". “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi
là tác phẩm xưa nhất bằng Việt ngữ mà chúng ta còn giữ được. Tác
phẩm này rất quan trọng cho công tác nghiên cứu lịch sử văn học Việt
Nam và lịch sử ngôn ngữ Việt Nam.
2. Tác phẩm Bình ngô đại cáo 8
2.1. Thể loại Cáo
Cáo là thể loại văn học xuất hiện từ thời xa xưa ở Trung Quốc thường
được các vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương, một
sự nghiệp hay tuyên ngôn một sự kiện để mọi người cùng biết. Cáo
được viết bằng văn xuôi, văn vần nhưng phần nhiều viết bằng văn biền
ngẫu, có vần hoặc không có vần, câu dài ngắn khác nhau, mỗi cặp hai vế
đối nhau. Lời lẽ trong cáo rất đanh thép lí luận sắc bén, kết cấu chặt chẽ, mạch lạc.
Cáo du nhập vào nước ta khá sớm. Tuy cáo không được phát triển
thành thể loại lớn trong tiến trình văn học nhưng tính chất của thể văn
này được thể hiện trong văn chính luận có tính chất tuyên cáo.
“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi – một tác phẩm có tính chất luận
chiến, một quy tắc không thành văn nhưng người cầm bút nào cũng phải
tuân thủ ngay trong nhan đề phải ghi rõ loại hình thể loại của chúng.
Nguyên tắc này được xem là bất di bất dịch đối với tất cả các tác phẩm
mang tính chính luận và nghi lễ ở thế kỉ X –XIV.
2.2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:
Mùa đông năm 1427, sau khi diệt viện, chém Liễu Thăng, đuổi Mộc
Thạnh, tổng binh Vương Thông đang cố thủ trong thành Đông Quan
phải xin hàng, cuộc kháng chiến chống giặc Minh hoàn toàn thắng lợi.
Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, lập ra triều đình Hậu Lê, sai
Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo để bố cáo cho toàn dân được biết
chiến thắng vĩ đại của quân dân trong 10 năm chiến đấu gian khổ, từ
nay, nước Việt đã giành lại được nền độc lập, non sông trở lại thái bình.
2.3. Nhan đề “Bình Ngô đại cáo” 9
“Bình” nghĩa là dẹp yên giặc, bình định xong; “Ngô” là giặc Ngô (Nhà
Minh, Trung Quốc); “Đại” tức là lớn; còn “Cáo” nghĩa là báo cáo.
Từ đó suy ra nhan đề “Bình Ngô đại cáo” là bản cáo lớn gửi đến quốc
dân đồng bào về chiến thắng oanh liệt của quân dân ta đánh tan được
quân Ngô. Bản văn viết bằng Hán văn do Nguyễn Trãi viết theo thể văn
biền ngẫu, trình bày sự gian khổ của 10 năm kháng chiến và thắng lợi
chống quân Minh của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đây có thể xem là bản
tuyên ngôn độc lập thứ hai sau bài Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt trong văn học cổ.
2.4. Văn bản Bình Ngô đại cáo Phiên âm Hán Việt Bản dịch
Đại thiên hành hóa hoàng thượng nhược
Thay trời hành hóa, hoàng thượng viết: truyền rằng. Cái văn: Từng nghe:
Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo.
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Duy ngã Đại Việt chi quốc,
Như nước Đại Việt ta từ trước
Thực vi văn hiến chi bang.
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Sơn xuyên chi phong vực ký thù, Núi sông bờ cõi đã chia
Nam bắc chi phong tục diệc dị.
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây quốc,[1] nền độc lập
Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên phương.
mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.
Song hào kiệt thời nào cũng có. 10 Cho nên:
Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong.
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan,
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.[2]
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Kê chư vãng cổ, Việc xưa xem xét, Quyết hữu minh trưng. Chứng cớ còn ghi. Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Trí sử nhân tâm chi oán bạn.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa,
Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân; Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.
Nguỵ đảng hoài gian, cánh dĩ mãi ngã quốc. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung
Hân thương sinh ư ngược diệm, tàn,
Hãm xích tử ư họa khanh.
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế, trạng;
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm.
Liên binh kết hấn, nẫm ác đãi nhị thập niên. Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Bại nghĩa thương nhân, càn khôn ky hồ dục Nặng thuế khóa sạch không đầm núi. tức;
Người bị ép xuống biển dòng lưng
Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mỹ hữu kiết mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng di. luồng.
Khai kim trường, tắc mạo lam chướng nhi
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, phủ sơn đào sa,
khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
Thái minh châu, tắc xúc giao long nhi hoàn Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn yêu thộn hải. chốn lưới chăng,
Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh,
Nhiễu nhân dân, bắt hươu đen, nơi
Điễn vật chức thúy cầm chi võng la. nơi cạm đặt.
Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, sinh,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn
Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở. cùng.
Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu chi vẫn nha;
mỡ bấy no nê chưa chán ; 11
Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay giải vũ. nào phục dịch cho vừa.
Châu lý chi chinh dao trọng khốn,
Nặng nề những nổi phu phen,
Lư diêm chi trữ trục giai không.
Tan tác cả nghề canh cửi.
Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc kỳ ô, Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi
Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác. hết tội,
Thần dân chi sở cộng phẫn,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không
Thiên địa chi sở bất dung. rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha, Dư:
Ai bảo thần dân chịu được? Phấn tích Lam Sơn, Thê thân hoang dã. Ta đây:
Niệm thế thù khởi khả cộng đái,
Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh. Núi Lam sơn dấy nghĩa
Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên, Chốn hoang dã nương mình
Thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật. Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao Căm giặc nước thề không cùng sống lược chi thư,
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy
Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong năm trời chi lý.
Nếm mật nằm gai, há phải một hai Đồ hồi chi chí sớm tối. Ngộ mị bất vong.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy
Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì, xét đã tinh,
Chính tặc thế phương trương chi nhật.
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ. Nại dĩ:
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi Nhân tài thu diệp,
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, Tuấn kiệt thần tinh.
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Bôn tẩu tiền hậu giả ký phạp kỳ nhân,
Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ. Lại ngặt vì:
Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông;
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả. Nhân tài như lá mùa thu, 12
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần, Nhiên kỳ:
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm
Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương, muốn tiến về Đông,
Do kỉ chi thành thậm ư chửng nịch.
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm
Phẫn hung đồ chi vị diệt, còn dành phía tả.
Niệm quốc bộ chi tao truân.
Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần, Thế mà:
Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ.
Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm, Trông người, người càng vắng bóng,
Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan.
mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập;
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn
Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm. cứu người chết đuối.
Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất Phần vì giận quân thù ngang dọc, bị;
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Dĩ quả địch chúng, thường thiết phục dĩ xuất Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần, kỳ.
Lúc Khôi Huyện quân không một đội. Tốt năng:
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần
Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo.
trúc ngọn cờ phấp phới
Bồ Đằng chi đình khu điện xế,
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước
Trà Lân chi trúc phá khôi phi.
sông chén rượu ngọt ngào. Sĩ khí dĩ chi ích tăng,
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống
Quân thanh dĩ chi đại chấn. mạnh,
Trần Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch
Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh. nhiều.
Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã hữu; Trọn hay:
Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương.
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh Lấy chí nhân để thay cường bạo. vạn lý;
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay. 13
Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ; Sĩ khí đã hăng
Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi. Quân thanh càng mạnh.
Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần, Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất
Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ. vía,
Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong;
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu
Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự thoát thân. khuất.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân
Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự, ta chiếm lại,
Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô.
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất
Chấp nhất kỷ chi kiến, dĩ giá họa ư tha nhân, cũ thu về.
Tham nhất thì chi công, dĩ di tiếu ư thiên hạ. Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để
Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh ngàn năm. vô yếm;
Phúc tâm quân giặc Trần Hiệp đã
Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nọa tướng, dĩ phải bêu đầu du cứu phần.
Mọt gian kẻ thù Lý Lượng cũng đành
Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh bỏ mạng. do Khâu Ôn nhi tiến,
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám
Bản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân lửa cháy lại càng cháy đồ tự Vân Nam nhi lai.
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta
Dư tiền ký tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kỳ hăng lại càng hăng. phong,
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí
Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực. cùng lực kiệt,
Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta
quân sở công, kế trụy ư Chi Lăng chi dã; đây mưu phạt tâm công.
Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị Tưởng chúng biết lẽ ăn năn nên đã
ngã quân sở bại, thân tử ư Mã Yên chi sơn. thay lòng đổi dạ
Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn trận hãm nhi táng khu, chuốc tội gây oan.
Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho cùng nhi vẫn thủ. bao nhiêu kẻ khác,
Ngã toại nghênh nhận nhi giải,
Tham công danh một lúc, để cười
Bỉ tự đảo qua tương công. cho tất cả thế gian.
Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi, 14
Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt. Bởi thế:
Viên tuyển tỳ hưu chi sĩ,
Thằng nhãi con Tuyên Đức động
Thân mệnh trảo nha chi thần. binh không ngừng
Ẩm tượng nhi hà thủy càn,
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu
Ma đao nhi sơn thạch khuyết. chữa cháy
Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn,
Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng
Tái cổ nhi điểu tán quân kinh.
đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Quyết hội nghĩ ư băng đê,
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia
Chấn cương phong ư cảo diệp.
đường từ Vân Nam tiến sang.
Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản,
Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt
Thượng thư Hoàng Phúc diện phược dĩ tựu mũi tiên phong cầm.
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt
Cương thi tái Lạng Giang, Lạng Sơn chi đồ, nguồn lương thực
Chiến huyết xích Xương Giang, Bình Than Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu chi thủy. Thăng thất thế
Phong vân vị chi biến sắc,
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu
Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang. Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh
Kỳ Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê đại bại tử vong
Hoa, tự đỗng nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ; Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh
Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Liễu Thăng đại bại cùng kế tự vẫn.
ư Cần Trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá thoát thân.
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh
Lãnh Câu chi huyết chử phiêu, giang thủy vị nhau chi ô yết;
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc hồng.
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Lưỡng lộ cứu binh, ký bất toàn chủng nhi câu Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh bại,
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Các thành cùng khấu, diệc tương giải giáp dĩ Voi uống nước, nước sông phải cạn. xuất hàng.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất
Đánh hai trận tan tác chim muông. liên chi vĩ;
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ. sinh chi tâm.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội, 15
Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để
Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải tự xin hàng.
nhi do thả hồn phi phách tán;
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy
Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã đường
Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn
Xương Giang, Bình Than, máu trôi
quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh. đỏ nước
Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành; Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải
Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đổi, đắc tức.
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt
Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn, phải mờ
Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn. Xã tắc dĩ chi điện an,
Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam
Sơn xuyên dĩ chi cải quán.
nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân
Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.
Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để
Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ, thoát thân.
Vu dĩ tuyết thiên cổ vô cùng chi sỉ.
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành
Thị do thiên địa tổ tông chi linh, hữu dĩ mặc sông, nước sông nghẹn ngào tiếng
tương âm hựu, nhi trí nhiên dã. khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, Ô hô!
cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót Nhất nhung đại định, chẳng kịp,
ngật thành vô cạnh chi công;
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi Tứ hải vĩnh thanh, giáp ra hàng đản bố duy tân chi cáo.
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng Bá cáo hà nhĩ,
Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời Hàm sử văn tri. ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm
trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài
nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run. 16
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh
thiêng đã lặng thầm phù trợ; Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn. Xa gần bá cáo Ai nấy đều hay.
CHƯƠNG 2. GIÁ TRỊ NỘI DUNG TRONG BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO
I/ Giới thiệu về tư tưởng nhân nghĩa
1.Tư tưởng nhân nghĩa theo quan điểm Nho giáo
17
Tư tưởng nhân nghĩa xuất hiện rất sớm trong truyền thống triết học
Trung Hoa. Theo Khổng Tử, “nhân”“yêu người” và để yêu người
thật sự bằng lòng “nhân” thì phải “hiểu người”. Còn “nghĩa” được
nhấn mạnh là sự cư xử cho thích hợp dựa trên việc “hiểu người”.
“Nhân”“nghĩa” luôn thể hiện phẩm chất cao đẹp của người quân tử.
Xét đến Mạnh Tử, người kế tục Khổng Tử, chữ nhân đứng hàng đầu
trong bốn đức lớn: Nhân – Nghĩa – Lễ – Trí. Chúng bắt nguồn từ bốn
đầu mối của Thiện. Trong đó, lòng thương xót là đầu mối của Nhân. Có
thể nói, những tư tưởng và những quan điểm khác nhau về nhân nghĩa
phản ánh đời sống tinh thần của con người Trung Hoa đã ảnh hưởng sâu
sắc đến tư tưởng truyền thống phương Đông nói chung và Việt Nam nói
riêng. Thế nhưng, sự tiếp nhận của các bậc văn nhân Đại Việt đối với
văn hóa Trung Hoa không phải là sự tiếp nhận thụ động và gieo trồng
lên mảnh đất văn học những hạt mầm có sẵn mà đó là một sự tiếp nhận
có chọn lọc, kết hợp hài hòa những tinh túy của tư tưởng nhân nghĩa
Nho giáo với truyền thống quý báu bao đời của dân tộc Việt Nam như:
“Lá lành đùm lá rách”, “Thương người như thể thương thân”. Do đó,
tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo khi vào nước ta đã được tiếp biến một
cách tích cực. Nhân nghĩa của Nho giáo vì thế hòa quyện cùng với nhân
nghĩa của nhân dân. Nguyễn Trãi đã tiếp thu trọn vẹn những tinh hoa
văn hoá ấy để rồi tác phẩm nào của ông cũng thấm đượm tinh thần nhân
đạo cao đẹp, yêu nước thương dân mà “Bình Ngô đại cáo” là một ví dụ rõ nét.
2. Tư tưởng nhân nghĩa theo quan điểm của Nguyễn Trãi
Nhân nghĩa vốn là một tư tưởng đạo Nho, là mối quan hệ giữa người
với người dựa trên cơ sở của tình thương và đạo lí. Nhưng ở đây, với
bốn chữ “yên dân”, “trừ bạo”, Nguyễn Trãi đã nâng nó lên một tầm cao
mới, trở thành một lý tưởng xã hội, một đạo lý dân tộc có giá trị đến 18
muôn đời: việc nhân nghĩa ở đời cốt là lo cho dân được ấm no, giúp cho
dân được yên ổn. Nguyễn Trãi đã khẳng định đạo lý “lấy dân làm gốc”
là quy luật tất yếu trong mọi thời đại – dân là nòng cốt, là tài sản, là sức
mạnh, sinh khí của một quốc gia. “Yên dân”, tức là làm cho cuộc sống
của nhân dân được yên ổn, no đủ, hạnh phúc. Nhưng để được “yên dân”
trước phải lo “trừ bạo”, có nghĩa phải vì nhân mà dám đứng lên diệt trừ
bạo tàn, đánh tan quân xâm lược.
II/ Tư tưởng nhân nghĩa trong “Bình Ngô Đại cáo
1. Tư tưởng nhân nghĩa gắn với “yên dân” và “trừ bạo”
Ngay từ những câu đầu đầu tiên bài cáo, Nguyễn Trãi đã “tuyên ngôn”
về nhân nghĩa như để làm chỗ dựa, căn cứ xác đáng cho toàn bài.
Nguyễn Trãi khẳng định nhân nghĩa là một nguyên lí có tính phổ biến,
mặc nhiên thừa nhận thời bấy giờ:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
.
“Nhân nghĩa” là tấm lòng thương yêu người, là những hành động vì lợi
ích của nhân dân, cộng đồng. Bên cạnh đó, "nhân nghĩa" cũng là sự tôn
trọng lẽ phải, bênh vực lẽ phải. Chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho
giáo nên đối với Nguyễn Trãi, "nhân nghĩa""yên dân", "trừ bạo",
cuộc sống và sự no ấm của nhân dân phải được đặt lên hàng đầu. Giữa
con người phải có tình yêu thương lẫn nhau, cùng chiến đấu để bảo vệ
đất nước, thoát khỏi đời sống khổ cực, lầm than. Để được như vậy thì
phải diệt trừ những kẻ bạo tàn, những thế lực xâm lược hung hãn, đó
chính là giặc Minh đang xâm chiếm đất nước ta lúc bấy giờ. Tư tưởng
nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là lòng yêu nước, thương dân và tinh
thần chống giặc ngoại xâm quyết liệt. Đây không chỉ là mối quan hệ 19
nằm trong phạm vi giữa con người với con người mà mở rộng ra là mối
quan hệ giữa dân tộc với dân tộc. Soi chiếu vào dòng chảy lịch sử nhân
loại thì ta thấy ngay “nhân nghĩa” mà Nguyễn Trãi nêu ở đây là một
tiền đề có tính tiên nghiệm bởi tiền đề này có nguồn gốc từ phạm trù
nhân nghĩa của Nho giáo. Khổng Tử từng nói đến chữ “nhân”, Mạnh Tử
nói đến chữ “nghĩa”, ghép cả hai từ ấy ta được “nhân nghĩa”. Dẫu được
nhiều người giải thích, có nhiều cách nói, cách hiểu đôi khi khác nhau
nhưng nhìn chung mọi người đều thừa nhận “nhân nghĩa” chính là mối
quan hệ tốt đẹp giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lí.
“Nhân nghĩa”“yên dân trừ bạo” tức là tiêu trừ tham tàn, bạo ngược
bảo vệ cuộc sống yên ổn của người dân. Là một trí thức Nho giáo,
“nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi cũng bao hàm lẽ đó. Tuy nhiên lại phải
nhấn mạnh, khi tuyên ngôn về nhân nghĩa, Nguyễn Trãi không những
chắt lọc lấy cái hạt nhân cơ bản, tích cực của Nho giáo mà còn đem đến
một nội dung mới, lấy ra từ thực tiễn của dân tộc: nhân nghĩa phải gắn
liền với chống quân xâm lược. Đặt vào hoàn cảnh thực tế đất nước như
đã nói ở trên thì người dân mà tác giả nói tới là người dân Đại Việt đang
bị xâm chiếm bờ cõi, và kẻ tàn bạo không ai khác chính là giặc Minh -
cướp nước, xâm chiếm lãnh thổ nước ta. Vậy “nhân nghĩa” còn là
chống xâm lược, chống xâm lược là “nhân nghĩa”. Nội dung này trong
quan niệm của Khổng - Mạnh và Nho gia Trung Quốc hầu như không
nhắc tới. Nêu cao tinh thần nhân nghĩa gắn với yêu nước, chống giặc
ngoại xâm, Nguyễn Trãi đã bóc trần những luận điệu nhân nghĩa xảo trá
của địch, phân định rạch ròi thành hai chiến tuyến, ta là chính nghĩa,
giặc xâm lược là phi nghĩa. Trong “Thư số 8 - Gửi Phương Chính”
Nguyễn Trãi từng nhắc tới: “Nước mày nhân việc nhà Hồ trái đạo,
mượn cái tiếng thương dân đánh kẻ có tội, thật ra là làm việc bạo tàn,
lấn cướp nước ta, bóc lột nhân dân ta… Nhân nghĩa mà như thế ư?”
.
Tội ác ấy phải trừng phạt: “Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Quân ở
đây là nhân dân: tập hợp thành đội quân “đại nghĩa - chí nhân” để 20