Họ & tên: Hoàng Nhật Vy
Lớp: 12a8
A.
MỞ BÀI:
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
Giáo Nguyễn Đăng Mạnh từng nhận định: “Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con Sông Đà
không phải thiên nhiên tri, giác, một sinh thể hoạt động, tính cách,
tính, tâm trạng hẳn hoi khá phức tạp. có hai nét tính cách bản đối lập nhau như
tác giả nói “hung bạo trữ tình…””. Thật vậy, chính sự sáng tạo đó đã thể hiện một phong
cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân, một người nghệ suốt đời đi tìm cái chân, cái
thiện cái m không chỉ người lao động còn tìm được thấy vẻ đẹp ấy thiên nhiên. Thông
qua việc khắc họa nh ảnh của sông Đà, tùy bút đã làm được phong cách sáng tác độc đáo
của nhà văn.
B.
THÂN I:
I.
Tác giả - Tác phẩm:
1.
Tác giả:
- Nguyễn Tuân tác giả lớn của văn học Việt Nam hiện đại với những thành tựu xuất sắc trong
cả hai giai đoạn sáng tác trước sau 1945
- Sáng tác của Nguyễn Tuân mang phong cách riêng độc đảo trong đó nổi bật chất tài hoa, uyênn
bác. một nghệ suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân thường khám phá thế giới phương
diện văn hóa, thẩm mỹ, khám phá con người vẻ đẹp tài hoa nghệ
2.
Tuỳ bút Người lái đò Sông Đà:
- Người lái đò Sông Đà bài tuỳ bút in trong tập Sông Đà (1960) thành quả nghệ thuật đẹp để
trong chuyến đi gian khổ hào hùng tới miền Tây Bắc rộng lớn của Tổ quốc. Sông Đà gồm 15
thiên tuy bút một bài thơ dạng phác thảo.
- Mục đích của chuyến đi cũng cảm hứng chủ đạo của tập tuỳ bút : tìm kiếm chất vàng của
thiên nhiên Tây Bắc nhất chất vàng mười thứ ng mười đã qua thử lửa” tâm hồn
những con người lao động, chiến đấu trên miền núi sông hùng thơ mộng.
- c phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân : tài hoa uyên c.
II.
Phân ch:
1.
Hình tượng sông Đà:
a.
Lời đề từ:
- Câu 1: "Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông”; cảm thán về vẻ đẹp nên thơ, thi vị của các
dòng sông mở vẻ đẹp trữ tình của sông Đà.
- Câu 2: “Chúng thủy giai đông tẩu Đà giang độc bắc hư”: thế chảy độc đáo, nghịch ngược
không giống ai của sông Đà.
Hai đặc điểm này gắn liền với hai tính cách của Sông Đà Sông Đà hiện lên như một sinh
thể sống động, diện mạo, tính cách, nội tâm như con người.
b.
Tính cách hung bạo:
*
Khúc thượng nguồn của sông Đà: lắm thác, nhiều ghềnh, độ dốc lớn, nước chảy xiết:
- Thể hiện qua những so nh: đá “dựng vách thành”, “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như
một cái yết hầu"
- Liên tưởng: khúc thượng nguồn hẹp đến nỗi quãng “con nai con hổ đã lần vọt từ bờ này
sang bờ kia”, “nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách”
- Tạo cảm giác ớn lạnh “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa cũng thấy lạnh"
- Tạo ra ấn tượng của thị giác khi lấy phố để miêu tả mặt sông, lấy nhà cao gợi tả ch đá +
Hình ảnh so sánh về “một khung cửa sổ nào trên cái tầng thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
Gợi cho người đọc ấn tượng về sự hiểm nguy của sông Đà.
*
Tinh hung bạo còn được thể hiện qua những ẩn họa:
- Ghềnh Hát Loóng: “dài hàng cây số nước đá, đá sóng, sóng gió, cuồn cuộn luồng
gió gùn ghè suốt mấy năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt” bất cứ người i đò nào
Biện pháp: điệp từ + điệp cấu trúc pháp + thanh trắc đi liền kề + nhân a.
Giọng văn nhanh, khẩn trương khắc họa tính cách hung n của sông Đà.
- Quãng Tả Mường t:
Những cái hút nước được liên tưởng “như cái giếng tông thả xuống sông để chuẩn
bị làm mỏng cầu" + âm thanh: “ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”
Từ láy tượng hình “lừ lừ”, từ láy tượng thanh tăng nghĩa “ặc ặc” cùng những chi tiết so
sánh mang sắc sặc” thái nhân hóa khi miêu tả nước “thở kều như của cổng cái bị
sặc” “thở và kêu n của cống cái bị sặc”
Người đọc thể hình dung được những cải hút nước với cường lực dữ dội.
Những thuyền khi qua xoáy nước ấy phải vút thật nhanh như “ô sang số ấn ga” để
vượt qua “một quãng đường ợn cạp ra ngoài bờ vực".
Cái hút nước hút thuyền xuống “thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị
dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác khuỷnh sống
i"
Một hiện thực đáng sợ, một thách thức nghiệt ngã đối với những người lao động trên sông
Đà.
Liên tưởng đến một người đang ngồi trên thủng tròn vành dũng cảm đi xuống cái xoáy
nước lại hình ảnh “thành giếng xây toàn bằng ớc sống xanh ve một áng thủy tinh
khối đúc dày” giống như chiếc rừng bị vứt cái “cốc pha nước khổng lồ”.
Đặc tả hút nước sông Đà: sâu, sáng, xanh trong thăm thẳm Kết hợp thủ pháp n học +
thủ pháp điện ảnh Sự hung bạo, hùng của sông Đà.
*
Hung tợn của sông Đà còn thể hiện thác nước hùm beo: Còn xa lắm mới đến cái
thác nhưng đã nghe được âm thanh của tiếng thác:
“Tiếng thác nước nghe như oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích,
giọng gắn mà chế nhạo".
"Như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nửa nổ lửa, đang
phả tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”.
Sử dụng hàng loạt phép so sánh + phóng đại + kết cấu trùng điệp, liên hoàn Sức mạnh
hoang dại của thiên nhiên qua ngòi bút Nguyễn Tuân thật hãi hùng, rùng rợn với sức tàn phá
khủng khiếp.
*
Nhưng dữ dội nhất của sông Đà những bãi đá ngầm, đá tảng trên ng:
- “Cả một chân trời đá”, hòn nổi, hòn chìm “ngàn năm vẫn mai phục” như ý đợi chiếc
thuyền nào xuất hiện nhổm cả dậy, vồ lấy không thương tiếc
Sử dụng thuật ngữ của quân sự, Nguyễn Tuân đã gợi dậy cái sự ẩn hiểm ác của đá sông
Đà
- Nghệ thuật nhân hoá: các tảng đá tuỳ theo kích thước, hình dáng được nhà văn cảm nhận lúc
thì “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm méo mó” bởi sự gồ ghề, lúc to lớn qua dáng “bệ vệ oai phong
lẫm liệt”, lúc “hất hàm” thách thức, lúc khác lại tảng đá nhẵn xanh xuôi chảy từ trên
xuống qua hình ảnh “thẳng đá tưởng... tiu nghỉu cái mặt xanh thất vọng.”
- Một loạt những thuật ngữ của quân sự, thuật, thể thao như thạch trận, cuộc giáp cà, hàng
tiền vệ, boong-ke, pháo đài... một hệ thống dày đặc những động từ mang sắc thái nhân hóa: đá
“biết bày thạch trận”, “đánh khuýp vật vụ hồi”, “đánh tan”, “tiêu diệt”, “vồ lấy”, “túm lấy”
chúng nham hiểm biết bố trí của sinh, cửa tử nhiều vị trí khác nhau để đánh lừa con thuyền:
Tuyến một, thác đá mở ra m cửa trận, bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh lập lập lờ
phía tả ngạn.
Tuyến hai, tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào cửa sinh nằm bên phía
hữu ngan.
Tuyến ba, bên phái bên trái đều luồng chết, luồng sống nằm giữa.
Bằng phép nhân hóa + động từ mạnh
Cực tả hiểm họa đáng sợ trên sông Đà + Vận dụng tri thức của nhiều ngành khoa học, nghệ
thuật khác nhau để miêu tả tính chất hung bạo của sông Đà + Ngôn từ sinh động, giàu tính gợi
hình, nhiều cách liên tưởng độc đáo gây cảm giác lạ đập mạnh vào giác quan người đọc.
Nhấn mạnh những thách thức ghê gớm của thiên nhiên đối với con người lao động phải kiếm
sống, đấu tranh trên con sông Đà này.
c.
Tính trữ tình:
Sau một cái “vặn mình”, khúc hạ lưu sông Đà đã gợi lên bao cảm xúc làm say lòng người
nhiều góc độ:
- Trên cao: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tộc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai cuồn cuộn mù khói Mèo đốt
nương xuân”
Biện pháp so sánh cùng những thanh bằng liên tiếp đầu câu văn cũng làm tăng thêm sự yên
ả, êm đềm, nh lặng cho dòng sông Con sông không những đẹp còn thơ mộng, mềm mại
thướt tha như áng tóc của một kiểu nữ.
- Đẹp theo a:
Mùa xuân: "dòng sông xanh ngọc bích”
Mùa thu: “nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người cầm đi rượu bữa, lừ lừ
cái màu đỏ giận dữ một người bất mãn bục bội mỗi độ thu về" Những từ ngữ
tượng hình đã gợi tả dòng chảy nặng nề, điềm đạm chậm rãi của con sông đầy nặng
phù sa thượng nguồn đổ về hạ lưu.
Đoạn văn nhiều màu sắc Thể hiện tài quan sát tinh tế, uyên bác + ngôn ngữ thể hóa cao
độ nhỏ những so sánh độc đáo, chân xác Vậy ngay c khi dừng lại miêu tả nét thơ mộng trữ
tình của dòng sông, hình ảnh về một sông Đà hung bạo hình như vẫn ám ảnh đâu đây trong sự
quan sát cảm nhận của một nhà n luôn say mê những cảm giác mạnh.
- Vẻ đẹp gợi cảm: Cảm nhận con sông Đà như một “cố nhân”:
Hai chữ “cố nhân” vừa là hình ảnh nhân hóa dòng sông như một người bạn xa nhớ
gần u, vừa đưa đến cho dòng sông chút vương vấn, cổ kinh, xưa của Đường thi.
Hình ảnh so sánh: nhìn dòng sông thấy “loang loáng như trẻ con chiếu gương vào mắt
mình rồi bỏ chạy”
Khi liên tưởng mặt sông giống như “cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba
Đường thi", Nguyễn Tuân đã đem đến cho sông Đà vẻ lãng mạn của hoa khói, sự trong
sáng rực rỡ của sắc xuân, tỏa ra từ câu thơ vời vợi nhớ nhung được coi “thiên cổ lệ
cứ” của Bạch: “Yên hoa tam nguyệt Dương Châu".
Liệt kê: “B sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà” Niềm
say phấn khích, choáng ngợp giữa không gian sông Đà nh mông.
So nh bất ngờ thú vị: “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau
mưa dầm, vui như nổi lại chiêm bao đứt quãng" Giúp người đọc dễ dàng nh dung
cảm giác trìu mến, nâng niu của nhà
Những c, những kỉ niệm của tác giả như được khơi dậy lại, rất đỗi thân quen, bao nhớ
thương văn khi gặp lại con sông. trong hiện tại, bao chung thủy trong tương lai đến, một cố nhân
trái tính vẫn sức hấp dẫn đến l kỳ.
- Sông Đà mang vẻ đẹp hoang dại, tĩnh lặng:
Câu văn êm ru trong những thanh bằng “Thuyền tôi trôi trên sông Đà...” Êm đềm,
yên , một cõi hoang vắng lặng như chưa hề dấu vết của con người.
Hình ảnh so sánh độc đáo: "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “Bờ sông hồn
nhiên như một nỗi niềm cổ ch tuổi xưa”
Cách so sánh mới lạ: gợi ấn tượng về một một dòng sông nhiều huyền thoại.
- Cảnh hai bên bờ sông cùng thi vị: Những hình ảnh thật nhỏ mong manh trong không
gian trong lành, nguyên sơ, thuần khiết với
"Một nương n nhú lên mấy ngô non đầu mùa. C gianh đồi núi đang ra những
nõn búp”
"Một đàn hươu củi đầu ngốn búp giành đẫm sương đêm”
Ảo giác mãnh liệt tới mức nhà văn bỗng “thèm được giật mình một tiếng còi xúp
của một chuyến xe lửa”, để âm thanh của cuộc sống hiện tại giúp nhà văn nhận ra rằng
mình vẫn đang thế giới hiện thực, con người trong nền văn minh hiện đại.
Không gian thanh bình, thanh khiết, tràn đầy sức sống.
- Càng về hạ lưu, sông Đà càng thêm sống động với những âm thanh hình ảnh:
"Đàn dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc i thoi"
Tiếng đẹp nước, những giọng nói êm êm của người xuôi. Thiên nhiên con người
như đang giao cảm, hòa quyện vào nhau.
Tiểu kết: Ngòi bút tài hoa, biến hóa, huy động vốn từ ngữ phong phú thuật tài tình, Nguyễn
Tuân đã thổi linh hồn cho Sông Đà, đề vật tri hiện lên với những hàng loạt các biện pháp nghệ
tính cách đối nghịch với nhau, tạo nên nguồn cảm hứng tận cho nghệ thuật.
2.
Hình ảnh người lái đò:
a.
Hoàn cảnh sống của người lái đò:
- Chính cuộc đấu tranh với thiên nhiên để giành sự sống từ tay về phía mình. Hằng ngày
ông lái đò phải đối mặt với hai kẻ thù chính trên sông nước:
Thác nước luôn đe dọa, gùn ghè có sức mạnh đáng sợ.
Đá sông rất đa dạng với “đá to, đá bé, đá tảng, đã hòn, mặt hòn nào trông cũng ngỗ
ngược” nhăn nhúm nham hiểm. Chúng bày “thạch trận” để tiêu diệt bất c con
thuyền nào đi qua.
- Nếu ai đó nghĩ rằng chở đồ một nghề dễ dàng chỉ cần đến sức khỏe thì chắc hẳn người đó đã
nhầm. Chèo đồ một nghệ thuật đòi hỏi người lái đò sự thông minh, khôn khéo, trí dũng, tài
ba. Cuộc chiến giữa ông lái đò sông Đà một cuộc chiến không cân sức . Bởi sông Đà
một lực lượng hùng hậu, còn ông lão thì chỉ có một minh "đơn phương độc ma" chiến đấu,
khí duy nhất trong tay cán chèo.
b.
Tính cách người lái đò :
- Am hiểu tường tận về sông Đà, giàu kinh nghiệm vượt thác ghềnh: Để chiến đấu với một
Sống Đà quỷ quyệt trong việc bày binh bố trận thì ông lái đò cũng phải:
Nắm chắc tay chèo, giữ vững tinh thần đặc biệt phải “nắm chắc binh pháp của thần
sông thần đán thì mới thể thắng được trong trận đấu sinh tử.
Mặt khác, khi đối diện với những con thác hùng dữ, ông đồ rút ra bài học: “cưỡi lên thác
sông Đà, phải cưỡi đến cũng như cưỡi hổ"
Vượt trùng vi thạch trận, lúc thì ông “tránh rảo bơi chèo lên", khi thi cho thuyền “đè
sắn lên chặt đôi ra để mở đường tiến".
- Dũng cảm, khéo léo, thông minh tài hoa n một nghệ sĩ: tính cách này được thể hiện qua
cuộc chiến với trùng vi thạch trận:
Trước hết trùng vi một:
đá nham hiểm mở ra 5 cửa trận “có bốn cửa tử một của sinh, cửa sinh nằm lập l
phía t ngạn".
mới o trận “mặt nước la vang dậy quanh mình, ùa vào bẻ gãy cán chèo
khí trên cánh tay mình"
“Sóng nước n thể quân liều mạng vào sát nách đã trải thúc gối vào bụng
hông thuyền”
Rồi “đánh miếng đòn độc”, đánh vào chỗ hiểm
Tuy nhiên ông đò vẫn vững vàng “cổ nên vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống
lái” + bình tĩnh “trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh
táo của người cầm lái".
Miêu tả sinh động của trùng vi thứ nhất, NT đã thể hiện sức mạnh ghê gớm của thác dữ qua
đó khắc họa phong thái ung dung của người lái đò. Ông như một viên chỉ huy dũng cảm, bình
tĩnh n mọi đau đón để chiến thắng thạch trận
thể nói Nguyễn Tuân đã rộng m sự uyên bác tài hoa của mình để kho ngôn từ phong phú
sinh động đầy ắp trong mọi lĩnh vực của sự sống, tuôn chảy không ngừng cả các ngôn ngữ quân
sự thể thao, quân sự cũng được huy động với tần số đậm đặc để cực tả đá nước sông Đà. Đây
chính nghệ thuật vẽ mây đầy trăng để gián tiếp ca ngợi chí dũng song toàn của ông lái đò.
trùng vi thứ hai: Ông đò không chỉ dũng mãnh, kiên cường còn thể hiện sự thông minh
của một người lái đò dày dặn kinh nghiệm
Kẻ địch đã thay đổi chiến thuật, chúng tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền
vào “cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn”
cho đá nham hiểm, hung hãn: “dòng thác hùm bao đang hồng hộc tế mạnh trên
sông đá”.
Bọn chúng còn “xô ra định níu thuyền vào tập đoàn của tử
Kinh nghiệm dày dặn trí nhớ siêu phàm được thể hiện trong chi tiết “ông đò vẫn nhớ
mặt bọn này” trong “bốn năm bọn thủy quân” để cách ứng phó phù hợp + những
động tác linh hoạt khi “lái miết một đường chéo”, khi “tránh rảo bơi chèo lên”, khi
“đè sấn lên chặt đôi ra”.
Ông đò bình tĩnh: “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”, sau đó“nắm chặt lấy
cái bờm sống”, “ghì ơng lái”, “bám chắc lấy luồng nước đúng phóng nhanh vào
của sinh”
Triệt để sử dụng phép nhân hóa khiến người đọc liên tưởng sông Đà như một kẻ thù hung
bạo, một con ngựa bất kham đã bị khuất phục.
trùng vi thứ ba: trí dũng tài hoa của ông đò được biểu hiện qua việc ông phải đối điện với sự
thay đổi chiến thuật của Sông Đà:
Đây trùng vi cuối cùng “ít cửa n, bên phải n trái đều luồng chết cả. Cái luồng
sống chặng ba này lại ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”
Nhưng ông đò qua quyết tự tin “cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó”
Hình ảnh con thuyền lao “vút, vút”, qua hình ảnh so sánh về “một mũi tên tre xuyên qua
hơi nước”, con thuyền không còn lao trên mặt nước đã thực sự bay trong làn hơi
nước trên mặt sóng.
Trình độ chèo thuyền của ông đò đã đạt đến mức tài hoa nghệ sĩ. Trong suốt 3 thạch trận ông
đã nh tĩnh thông minh xử các tình huống cuối cùng đã chiến thắng. Tài năng của ông đò
khi y đã bao hàm cả trí tuệ, sự trải nghiệm, sức mạnh thể lực, trình độ điêu luyện bản nh
kiên cường, tất c đều mức phi thưởng toàn diện.
- Một con người bình dị: chiến đấu chiến thắng một kẻ địch hung bạo một cách vẻ vang
nhưng ông đỏ không nói về tích ấy: “cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào v cuộc chiến
thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tọn vừa rồi"
Phẩm chất tốt đẹp của người lao động. Đứng một phương diện o đó người lái đò thường
xuyên chiến đấu với thác dữ nên chiến thắng lẽ thường nhưng đứng phương diện khác, chiến
thắng nhiều lần mà không tự hảo thi phẩm chất ấy ch thấy người anh hùng.
Với cách khám phá mới, Nguyễn Tuân đã thấy chất tài hoa, nghệ ngay trong những con
người làm công việc bình thường trong cuộc sống. NT đã đi tìm “chất vàng mười" của con
người Tây Bắc trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội.
III.
Nghệ thuật:
1.
Giá trị nội dung:
“Người lái đò sông Đà” một áng văn đẹp được làm nền từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha
của một con người muốn dùng văn chương để ngợi ca vẻ đẹp vừa vĩ, hào hùng, vừa trữ tình,
thơ mộng của thiên nhiên nhất của con người lao động bình dị miền Tây Bắc.
Một con sông “hung bạo” “trữ nh”.
Một người lái đò tiêu biểu cho vẻ đẹp của con người Tây Bắc tài trí dũng cảm trong lao
động.
2.
Giá trị nghệ thuật:
- Đậm chất tài hoa, uyên c.
- c phẩm giàu chất thông tin, thời sự. Tác giả đã huy động vốn tri thức chuyên môn của nhiều
ngành n hóa, nghệ thuật khác nhau.
- Lối so sánh, liên tưởng độc đáo.
- Ngôn ngữ giàu có, tinh tế hiện đại, giàu cảm xúc đậm chất tạo hình, rất sắc sảo.
C.
KẾT I:
Viết về người lái đò Sông Đà, viết về một vùng đất của Tổ Quốc, Nguyễn Tuân đã thể hiện
nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết với người lao động thiên nhiên đất nước. Sông Đà càng
đẹp, càng sinh động t ông lái đò hiện lên càng anh dũng, ngoan cường trong lao động, ta lại
càng thấy được bản lĩnh, tấm lòng tài năng của Nguyễn Tuân. Nhà văn đã phát hiện ra trong
con người bình dị ấy “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của núi rừng Tây Bắc. Cuộc sống quanh ta
vốn rất cũ kĩ, tầm thường, gió vẫn thổi, mây vẫn trôi, ngày lại qua ngày. nhà văn chính người
đã mang lại cho ta một thế giới mới, tinh khôi hơn, diệu hơn. Nguyễn Tuân đã làm tròn sứ
mệnh của một nhà văn, ông đã góp phần mang đến cho Thế giới những sắc màu mới. Bước o
thế giới của Nguyễn Tuân, chúng ta như bước o một chân trời với màu sắc huyền riêng biệt,
hấp dẫn độc đáo. Đó chân trời của cái đẹp, của tài hoa sự uyển bác.

Preview text:

Họ & tên: Lã Hoàng Nhật Vy Lớp: 12a8
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ A. ​ MỞ BÀI:
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng nhận định: “Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con Sông Đà
không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá
tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập nhau như
tác giả nói – “hung bạo bà trữ tình…””
. Thật vậy, chính sự sáng tạo đó đã thể hiện một phong
cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân, một người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái chân, cái
thiện cái mỹ không chỉ ở người lao động mà còn tìm được thấy vẻ đẹp ấy ở thiên nhiên. Thông
qua việc khắc họa hình ảnh của sông Đà, tùy bút đã làm rõ được phong cách sáng tác độc đáo của nhà văn. B. THÂN BÀI: I. Tác giả - Tác phẩm: 1. Tác giả:
- Nguyễn Tuân là tác giả lớn của văn học Việt Nam hiện đại với những thành tựu xuất sắc trong
cả hai giai đoạn sáng tác trước và sau 1945
- Sáng tác của Nguyễn Tuân mang phong cách riêng độc đảo trong đó nổi bật chất tài hoa, uyênn
bác. Là một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân thường khám phá thế giới ở phương
diện văn hóa, thẩm mỹ, khám phá con người ở vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ
2. Tuỳ bút Người lái đò Sông Đà:
- Người lái đò Sông Đà là bài tuỳ bút in trong tập Sông Đà (1960) – thành quả nghệ thuật đẹp để
trong chuyến đi gian khổ và hào hùng tới miền Tây Bắc rộng lớn của Tổ quốc. Sông Đà gồm 15
thiên tuy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo.
- Mục đích của chuyến đi – cũng là cảm hứng chủ đạo của tập tuỳ bút : tìm kiếm chất vàng của
thiên nhiên Tây Bắc và nhất là chất vàng mười – thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn
những con người lao động, chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng.
- Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân : tài hoa – uyên bác. II. ​ Phân tích:
1. ​ Hình tượng sông Đà: a. ​ Lời đề từ:
- Câu 1: "Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông”; cảm thán về vẻ đẹp nên thơ, thi vị của các
dòng sông  hé mở vẻ đẹp trữ tình của sông Đà.
- Câu 2: “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc hư”: thế chảy độc đáo, nghịch ngược
không giống ai của sông Đà.
 Hai đặc điểm này gắn liền với hai tính cách của Sông Đà → Sông Đà hiện lên như một sinh
thể sống động, có diện mạo, có tính cách, nội tâm như con người. b. Tính cách hung bạo:
* ​ Khúc thượng nguồn của sông Đà: lắm thác, nhiều ghềnh, độ dốc lớn, nước chảy xiết:

- Thể hiện qua những so sánh: đá “dựng vách thành”, “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu"
- Liên tưởng: khúc thượng nguồn hẹp đến nỗi có quãng “con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này
sang bờ kia”, “nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách”
- Tạo cảm giác ớn lạnh “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh"
- Tạo ra ấn tượng của thị giác khi lấy hè phố để miêu tả mặt sông, lấy nhà cao gợi tả vách đá +
Hình ảnh so sánh về “một khung cửa sổ nào trên cái tầng thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
 Gợi cho người đọc ấn tượng về sự hiểm nguy của sông Đà.
* Tinh hung bạo còn được thể hiện qua những ẩn họa:
- Ghềnh Hát Loóng: “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng
gió gùn ghè suốt mấy năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt”
bất cứ người lái đò nào
 Biện pháp: điệp từ + điệp cấu trúc cú pháp + thanh trắc đi liền kề + nhân hóa.
 Giọng văn nhanh, khẩn trương khắc họa tính cách hung hãn của sông Đà.
- Quãng Tả Mường Vát:
 Những cái hút nước được liên tưởng “như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn
bị làm mỏng cầu" + âm thanh: “ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”
 Từ láy tượng hình “lừ lừ”, từ láy tượng thanh tăng nghĩa “ặc ặc” cùng những chi tiết so
sánh mang sắc sặc” thái nhân hóa khi miêu tả nước “thở và kều như của cổng cái bị
sặc” “thở và kêu như của cống cái bị sặc”

 Người đọc có thể hình dung được những cải hút nước với cường lực dữ dội.
 Những thuyền khi qua xoáy nước ấy phải vút thật nhanh như “ô tô sang số ấn ga” để
vượt qua “một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực".
 Cái hút nước hút thuyền xuống “thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị
dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sống dưới"
 Một hiện thực đáng sợ, một thách thức nghiệt ngã đối với những người lao động trên sông Đà.
 Liên tưởng đến một người đang ngồi trên thủng tròn vành dũng cảm đi xuống cái xoáy
nước lại hình ảnh “thành giếng xây toàn bằng nước sống xanh ve một áng thủy tinh
khối đúc dày” giống như chiếc lá rừng bị vứt cái “cốc pha lê nước khổng lồ”.

 Đặc tả hút nước sông Đà: sâu, sáng, xanh trong thăm thẳm → Kết hợp thủ pháp văn học +
thủ pháp điện ảnh  Sự hung bạo, hùng vĩ của sông Đà.
* ​ Hung tợn của sông Đà còn thể hiện ở thác nước hùm beo: Còn xa lắm mới đến cái
thác nhưng đã nghe được âm thanh của tiếng thác:
“Tiếng thác nước nghe như oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích,
giọng gắn mà chế nhạo".
"Như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nửa nổ lửa, đang
phả tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”.
→ Sử dụng hàng loạt phép so sánh + phóng đại + kết cấu trùng điệp, liên hoàn  Sức mạnh
hoang dại của thiên nhiên qua ngòi bút Nguyễn Tuân thật hãi hùng, rùng rợn với sức tàn phá khủng khiếp.
* ​ Nhưng dữ dội nhất của sông Đà là những bãi đá ngầm, đá tảng trên sông:
- “Cả một chân trời đá”, có hòn nổi, hòn chìm “ngàn năm vẫn mai phục” như có ý đợi chiếc
thuyền nào xuất hiện là nhổm cả dậy, vồ lấy không thương tiếc
 Sử dụng thuật ngữ của quân sự, Nguyễn Tuân đã gợi dậy cái sự bí ẩn và hiểm ác của đá sông Đà
- Nghệ thuật nhân hoá: các tảng đá tuỳ theo kích thước, hình dáng được nhà văn cảm nhận có lúc
thì “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm méo mó” bởi sự gồ ghề, lúc to lớn qua dáng “bệ vệ oai phong
lẫm liệt”
, có lúc “hất hàm” thách thức, lúc khác lại là tảng đá nhẵn xanh xuôi chảy từ trên
xuống qua hình ảnh “thẳng đá tưởng. . tiu nghỉu cái mặt xanh là thất vọng.”
- Một loạt những thuật ngữ của quân sự, võ thuật, thể thao như thạch trận, cuộc giáp lá cà, hàng
tiền vệ, boong-ke, pháo đài. . một hệ thống dày đặc những động từ mang sắc thái nhân hóa: đá
“biết bày thạch trận”, “đánh khuýp vật vụ hồi”, “đánh tan”, “tiêu diệt”, “vồ lấy”, “túm lấy”
chúng nham hiểm biết bố trí của sinh, cửa tử ở nhiều vị trí khác nhau để đánh lừa con thuyền:
 Tuyến một, thác đá mở ra năm cửa trận, bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh lập lập lờ ở phía tả ngạn.
 Tuyến hai, tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào và cửa sinh nằm bên phía hữu ngan.
 Tuyến ba, bên phái bên trái đều là luồng chết, luồng sống nằm ở giữa.
 Bằng phép nhân hóa + động từ mạnh
 Cực tả hiểm họa đáng sợ trên sông Đà + Vận dụng tri thức của nhiều ngành khoa học, nghệ
thuật khác nhau
để miêu tả tính chất hung bạo của sông Đà + Ngôn từ sinh động, giàu tính gợi
hình, nhiều cách liên tưởng độc đáo gây cảm giác lạ và đập mạnh vào giác quan người đọc.
 Nhấn mạnh những thách thức ghê gớm của thiên nhiên đối với con người lao động phải kiếm
sống, đấu tranh trên con sông Đà này. c. Tính trữ tình:
Sau một cái “vặn mình”, khúc hạ lưu sông Đà đã gợi lên bao cảm xúc làm say mê lòng người ở nhiều góc độ:
- Trên cao: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tộc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân”
 Biện pháp so sánh cùng những thanh bằng liên tiếp ở đầu câu văn cũng làm tăng thêm sự yên
ả, êm đềm, bình lặng cho dòng sông  Con sông không những đẹp mà còn thơ mộng, mềm mại
thướt tha như áng tóc của một kiểu nữ. - Đẹp theo mùa:
 Mùa xuân: "dòng sông xanh ngọc bích”
 Mùa thu: “nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người cầm đi vì rượu bữa, lừ lừ
cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bục bội gì mỗi độ thu về"  Những từ ngữ
tượng hình đã gợi tả dòng chảy nặng nề, điềm đạm và chậm rãi của con sông đầy nặng
phù sa ở thượng nguồn đổ về hạ lưu.
 Đoạn văn nhiều màu sắc → Thể hiện tài quan sát tinh tế, uyên bác + ngôn ngữ cá thể hóa cao
độ nhỏ những so sánh độc đáo, chân xác  Vậy là ngay cả khi dừng lại miêu tả nét thơ mộng trữ
tình của dòng sông, hình ảnh về một sông Đà hung bạo hình như vẫn ám ảnh đâu đây trong sự
quan sát và cảm nhận của một nhà văn luôn say mê những cảm giác mạnh.
- Vẻ đẹp gợi cảm: Cảm nhận con sông Đà như một “cố nhân”:
 Hai chữ “cố nhân” vừa là hình ảnh nhân hóa dòng sông như một người bạn cũ xa nhớ
gần yêu, vừa đưa đến cho dòng sông chút vương vấn, cổ kinh, xưa cũ của Đường thi.
 Hình ảnh so sánh: nhìn dòng sông thấy “loang loáng như trẻ con chiếu gương vào mắt
mình rồi bỏ chạy”
 Khi liên tưởng mặt sông giống như “cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba
Đường thi", Nguyễn Tuân đã đem đến cho sông Đà vẻ lãng mạn của hoa khói, sự trong
sáng rực rỡ của sắc xuân, tỏa ra từ câu thơ vời vợi nhớ nhung được coi là “thiên cổ lệ
cứ”
của Lý Bạch: “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu".
 Liệt kê: “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà”  Niềm
say mê phấn khích, choáng ngợp giữa không gian sông Đà mênh mông.
 So sánh bất ngờ thú vị: “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì
mưa dầm, vui như nổi lại chiêm bao đứt quãng"  Giúp người đọc dễ dàng hình dung
cảm giác trìu mến, nâng niu của nhà
 Những kí ức, những kỉ niệm của tác giả như được khơi dậy lại, rất đỗi thân quen, bao nhớ
thương văn khi gặp lại con sông. trong hiện tại, bao chung thủy trong tương lai đến, một cố nhân
trái tính mà vẫn có sức hấp dẫn đến lạ kỳ.
- Sông Đà mang vẻ đẹp hoang dại, tĩnh lặng:
 Câu văn êm ru trong những thanh bằng “Thuyền tôi trôi trên sông Đà. .”  Êm đềm,
yên ả, một cõi hoang sơ vắng lặng như chưa hề có dấu vết của con người.
 Hình ảnh so sánh độc đáo: "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “Bờ sông hồn
nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”
 Cách so sánh mới lạ: gợi ấn tượng về một một dòng sông nhiều huyền thoại.
- Cảnh hai bên bờ sông vô cùng thi vị: Những hình ảnh thật nhỏ bé mong manh trong không
gian trong lành, nguyên sơ, thuần khiết với
"Một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”
"Một đàn hươu củi đầu ngốn búp có giành đẫm sương đêm”
 Ảo giác mãnh liệt tới mức nhà văn bỗng “thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê
của một chuyến xe lửa”, để âm thanh của cuộc sống hiện tại giúp nhà văn nhận ra rằng
mình vẫn đang ở thế giới hiện thực, là con người trong nền văn minh hiện đại.
 Không gian thanh bình, thanh khiết, tràn đầy sức sống.
- Càng về hạ lưu, sông Đà càng thêm sống động với những âm thanh và hình ảnh:
"Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi"
 Tiếng cá đẹp nước, những giọng nói êm êm của người xuôi.  Thiên nhiên và con người
như đang giao cảm, hòa quyện vào nhau.
Tiểu kết: Ngòi bút tài hoa, biến hóa, huy động vốn từ ngữ phong phú và thuật tài tình, Nguyễn
Tuân đã thổi linh hồn cho Sông Đà, đề vật vô tri hiện lên với những hàng loạt các biện pháp nghệ
tính cách đối nghịch với nhau, tạo nên nguồn cảm hứng vô tận cho nghệ thuật.
2. ​ Hình ảnh người lái đò:
a. ​ Hoàn cảnh sống của người lái đò:
- Chính là cuộc đấu tranh với thiên nhiên để giành sự sống từ tay nó về phía mình. Hằng ngày
ông lái đò phải đối mặt với hai kẻ thù chính trên sông nước:
 Thác nước luôn đe dọa, gùn ghè và có sức mạnh đáng sợ.
 Đá sông rất đa dạng với “đá to, đá bé, đá tảng, đã hòn, mặt hòn nào trông cũng ngỗ
ngược” nhăn nhúm và nham hiểm. Chúng bày “thạch trận” để tiêu diệt bất cứ con thuyền nào đi qua.
- Nếu ai đó nghĩ rằng chở đồ là một nghề dễ dàng chỉ cần đến sức khỏe thì chắc hẳn người đó đã
nhầm. Chèo đồ là một nghệ thuật đòi hỏi ở người lái đò sự thông minh, khôn khéo, trí dũng, tài
ba. Cuộc chiến giữa ông lái đò và sông Đà là một cuộc chiến không cân sức . Bởi sông Đà có
một lực lượng hùng hậu, còn ông lão thì chỉ có một minh "đơn phương độc ma" chiến đấu, vũ
khí duy nhất có trong tay là cán chèo.
b. Tính cách người lái đò :
- Am hiểu tường tận về sông Đà, giàu kinh nghiệm vượt thác ghềnh: Để chiến đấu với một
Sống Đà quỷ quyệt trong việc bày binh bố trận thì ông lái đò cũng phải:
 Nắm chắc tay chèo, giữ vững tinh thần và đặc biệt phải “nắm chắc binh pháp của thần
sông thần đán thì mới có thể thắng được trong trận đấu sinh tử.
Mặt khác, khi đối diện với những con thác hùng dữ, ông đồ rút ra bài học: “cưỡi lên thác
sông Đà, phải cưỡi đến cũng như là cưỡi hổ"
 Vượt trùng vi thạch trận, lúc thì ông “tránh mà rảo bơi chèo lên", khi thi cho thuyền “đè
sắn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến".
- Dũng cảm, khéo léo, thông minh tài hoa như một nghệ sĩ: tính cách này được thể hiện qua
cuộc chiến với trùng vi thạch trận:
Trước hết là ở trùng vi một:
 Lũ đá nham hiểm mở ra 5 cửa trận “có bốn cửa tử và một của sinh, cửa sinh nằm lập lờ
phía tả ngạn".
 Và mới vào trận “mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ
khí trên cánh tay mình"
“Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đã trải mà thúc gối vào bụng và
hông thuyền”
 Rồi nó “đánh miếng đòn độc”, đánh vào chỗ hiểm
 Tuy nhiên ông đò vẫn vững vàng “cổ nên vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống
lái” + bình tĩnh “trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh
táo của người cầm lái".

→ Miêu tả sinh động của trùng vi thứ nhất, NT đã thể hiện sức mạnh ghê gớm của thác dữ qua
đó khắc họa phong thái ung dung của người lái đò. Ông như một viên chỉ huy dũng cảm, bình
tĩnh nén mọi đau đón để chiến thắng thạch trận
→ Có thể nói Nguyễn Tuân đã rộng mở sự uyên bác tài hoa của mình để kho ngôn từ phong phú
sinh động đầy ắp trong mọi lĩnh vực của sự sống, tuôn chảy không ngừng cả các ngôn ngữ quân
sự thể thao, quân sự cũng được huy động với tần số đậm đặc để cực tả đá nước sông Đà. Đây
chính là nghệ thuật vẽ mây đầy trăng để gián tiếp ca ngợi chí dũng song toàn của ông lái đò.
Ở trùng vi thứ hai: Ông đò không chỉ dũng mãnh, kiên cường mà còn thể hiện sự thông minh
của một người lái đò dày dặn kinh nghiệm
 Kẻ địch đã thay đổi chiến thuật, chúng tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền
vào “cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn”
 Dù cho lũ đá nham hiểm, hung hãn: “dòng thác hùm bao đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”.
 Bọn chúng còn “xô ra định níu thuyền vào tập đoàn của tử”
 Kinh nghiệm dày dặn và trí nhớ siêu phàm được thể hiện trong chi tiết “ông đò vẫn nhớ
mặt bọn này” trong “bốn năm bọn thủy quân” để có cách ứng phó phù hợp + những
động tác linh hoạt khi “lái miết một đường chéo”, khi “tránh mà rảo bơi chèo lên”, khi
“đè sấn lên mà chặt đôi ra”.
 Ông đò bình tĩnh: “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”, sau đó“nắm chặt lấy
cái bờm sống”, “ghì cương lái”, “bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào của sinh”
→ Triệt để sử dụng phép nhân hóa khiến người đọc liên tưởng sông Đà như một kẻ thù hung
bạo, một con ngựa bất kham đã bị khuất phục.
Ở trùng vi thứ ba: trí dũng tài hoa của ông đò được biểu hiện qua việc ông phải đối điện với sự
thay đổi chiến thuật của Sông Đà:
 Đây là trùng vi cuối cùng “ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng
sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”
 Nhưng ông đò qua quyết và tự tin “cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó”
 Hình ảnh con thuyền lao “vút, vút”, qua hình ảnh so sánh về “một mũi tên tre xuyên qua
hơi nước”, con thuyền không còn lao trên mặt nước mà đã thực sự bay trong làn hơi nước trên mặt sóng.
→ Trình độ chèo thuyền của ông đò đã đạt đến mức tài hoa nghệ sĩ. Trong suốt 3 thạch trận ông
đã bình tĩnh thông minh xử lí các tình huống và cuối cùng đã chiến thắng. Tài năng của ông đò
khi ấy đã bao hàm cả trí tuệ, sự trải nghiệm, sức mạnh thể lực, trình độ điêu luyện và bản lĩnh
kiên cường, tất cả đều ở mức phi thưởng toàn diện.
- Một con người bình dị: chiến đấu và chiến thắng một kẻ địch hung bạo một cách vẻ vang
nhưng ông đỏ không nói về kì tích ấy: “cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến
thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tọn vừa rồi"
 Phẩm chất tốt đẹp của người lao động. Đứng ở một phương diện nào đó người lái đò thường
xuyên chiến đấu với thác dữ nên chiến thắng là lẽ thường nhưng đứng ở phương diện khác, chiến
thắng nhiều lần mà không tự hảo thi phẩm chất ấy chỉ thấy ở người anh hùng.
 Với cách khám phá mới, Nguyễn Tuân đã thấy chất tài hoa, nghệ sĩ ngay trong những con
người làm công việc bình thường trong cuộc sống.  NT đã đi tìm “chất vàng mười" của con
người Tây Bắc trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. III. ​ Nghệ thuật: 1. ​ Giá trị nội dung:
“Người lái đò sông Đà” là một áng văn đẹp được làm nền từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha
của một con người muốn dùng văn chương để ngợi ca vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình,
thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc.
 Một con sông “hung bạo” và “trữ tình”.
 Một người lái đò tiêu biểu cho vẻ đẹp của con người Tây Bắc tài trí dũng cảm trong lao động.
2. ​ Giá trị nghệ thuật:
- Đậm chất tài hoa, uyên bác.
- Tác phẩm giàu chất thông tin, thời sự. Tác giả đã huy động vốn tri thức chuyên môn của nhiều
ngành văn hóa, nghệ thuật khác nhau.
- Lối so sánh, liên tưởng độc đáo.
- Ngôn ngữ giàu có, tinh tế hiện đại, giàu cảm xúc đậm chất tạo hình, rất sắc sảo. C. ​ KẾT BÀI:
Viết về người lái đò Sông Đà, viết về một vùng đất của Tổ Quốc, Nguyễn Tuân đã thể hiện
nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết với người lao động và thiên nhiên đất nước. Sông Đà càng
đẹp, càng sinh động thì ông lái đò hiện lên càng anh dũng, ngoan cường trong lao động, ta lại
càng thấy được bản lĩnh, tấm lòng và tài năng của Nguyễn Tuân. Nhà văn đã phát hiện ra trong
con người bình dị ấy “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của núi rừng Tây Bắc. Cuộc sống quanh ta
vốn rất cũ kĩ, tầm thường, gió vẫn thổi, mây vẫn trôi, ngày lại qua ngày. nhà văn chính là người
đã mang lại cho ta một thế giới mới, tinh khôi hơn, diệu kì hơn. Và Nguyễn Tuân đã làm tròn sứ
mệnh của một nhà văn, ông đã góp phần mang đến cho Thế giới những sắc màu mới. Bước vào
thế giới của Nguyễn Tuân, chúng ta như bước vào một chân trời với màu sắc huyền bí riêng biệt,
hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái đẹp, của tài hoa và sự uyển bác.
Document Outline

  • A. ​MỞ BÀI:
  • NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
  • 2. Tuỳ bút Người lái đò Sông Đà:
  • b. Tính cách hung bạo:
  • * Tinh hung bạo còn được thể hiện qua những ẩn họa:
  • -Quãng Tả Mường Vát:
    • Cái hút nước hút thuyền xuống “thuyền trồng ngay c
  • * ​Hung tợn của sông Đà còn thể hiện ở thác nước hù
    • “Tiếng thác nước nghe như oán trách gì, rồi lại nh
  • * ​Nhưng dữ dội nhất của sông Đà là những bãi đá ng
  • c. Tính trữ tình:
  • -Đẹp theo mùa:
  • -Vẻ đẹp gợi cảm: Cảm nhận con sông Đà như một “cố n
  • -Sông Đà mang vẻ đẹp hoang dại, tĩnh lặng:
    • "Một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Cỏ
  • -Càng về hạ lưu, sông Đà càng thêm sống động với nh
    • "Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng
  • 2. ​Hình ảnh người lái đò:
  • b. Tính cách người lái đò :
    • Và mới vào trận “mặt nước hò la vang dậy quanh mìn
    • Ông đò bình tĩnh: “nắm chắc binh pháp của thần sôn
    • Đây là trùng vi cuối cùng “ít cửa hơn, bên phải bê
  • III. ​Nghệ thuật:
  • 2. ​Giá trị nghệ thuật:
  • C. ​KẾT BÀI: