Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
Nguyễn Tuân một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Với
phong cách tài hoa độc đáo, ông đã mang đến những đóng góp cùng quan trọng
cho nền văn học nước nhà. Cả đời ông say đi tìm cái đẹp trong cuộc sống để từ đó
thổi hồn vào trong tác phẩm của mình những làn gió mới, làm phong phú thêm văn
học dân tộc. Ông là một trong số ít nhà văn thành công vang dội với những tác phẩm
kí, đặc biệt thể tuỳ bút. trong đó, nổi bật tác phẩm “Người lái đò sông Đà”
với vẻ đẹp hung bạo kỳ nhưng cũng đầy chất trữ tình, thơ mộng của một dòng sông
đã góp phần khẳng định tên tuổi của tác giả “Vang bóng một thời”. nhà văn “suốt
đời đi tìm cái đẹp” nên dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, hình tượng con sông Đà
được khắc họa đầy độc đáo đã khiến người đọc không khỏi rung cảm trước “thứ vàng
mười đã qua thử lửa” trong dòng chảy văn học Việt Nam.
Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” được in trong tập “Sông Đà” (1960) - gồm 15
bài tuỳ bút một bài thơ dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời xây
dựng ch nghĩa hội miền Bắc sau ngày giải phóng. Đó thành quả nghệ thuật
đẹp đẽ tác giả đã thu hoạch được trong chuyến đi thực tế năm 1958 tới miền Tây
Bắc rộng lớn, xa xôi. Nguyễn Tuân đã đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ
đội, công nhân và đồng o các dân tộc. Chính thực tiễn xây dựng cuộc sống mới
vùng cao tâm hồn của những con người lao động nơi đây đã đem đến cho nhà văn
một nguồn cảm hứng sáng tạo bất tận. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân,
sông Đà được xem như một công trình thẩm nghệ thuật thiên nhiên ban
tặng cho con người. Con sông ấy được tác giả nhân hóa như con người, mang hai
đặc điểm đối nghịch nhau: vừa hung bạo, dữ dội lại vừa trữ tình, t mộng hiền
hòa, gợi cảm.
Ngay từ lời đề từ của tác phẩm đã tạo ấn tượng đầu tiên cho người đọc về sự
ngạo ngược, lạ thường của sông Đà: “Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc
lưu” (thơ Nguyễn Quang Bích). Câu thơ nói lên sự khác biệt độc nhất nhị của
dòng chảy con sông Đà: Mọi dòng sông đều chảy về hướng Đông, chỉ sông Đà
chảy theo hướng Bắc. Lời đề từ ấy không chỉ khẳng định nét ngạo ngược độc đáo của
sông Đà còn đồng thời lộ nh nghệ của Nguyễn Tuân chứng t sự tài hoa,
uyên bác, sự lịch lãm tính độc đáo của mình trong sáng tạo nghệ thuật.
Sau lời đề từ, tác giả đi vào miêu tả cụ thể con sông với vẻ đẹp dữ dội hùng
thượng nguồn, mở đầu bằng cảnh đá b sông. đoạn này, Sông Đà được tả
như một thực thể mạnh mẽ, hung dữ với thác đá, ghềnh đá, dòng nước xiết chảy.
Nguyễn Tuân đã sử dụng những hình ảnh rất hấp dẫn: “cảnh đá bờ sông, dựng vách
thành”, rồi thì “đúng ngọ mới mặt trời”, vách đá “chẹt lòng sông như yết hầu”,
sinh động với những “con nai con h đã lần vọt qua bờ bên kia”. Qua động từ
“chẹt” người đọc cảm tưởng như vách thành đã lấn át hết c bờ sông ghê rợn, hãi
hùng. Với cách so sánh rất độc đáo, mới lạ nhưng cũng rất lạ lùng khi đem cái “yết
hầu” của con người ra để von với những bức thành đá cao lớn ép chặt lấy lòng
sông Đà, cái hẹp của lòng sông Đà được tác giả tả theo đủ cách khác nhau: nào
chỉ đúng lúc ngọ” giữa buổi trưa, khi mặt trời lên cao nhất, khi chiếu thẳng xuống
lòng sông thì lòng sông mới nhận được chút tia nắng ấm áp ít i khi thời gian trôi
đi t những tia nắng y cũng dần biến mất. Tất cả những hình ảnh ấy gợi nên một nơi
lòng sông nhỏ hẹp, lưu tốc dòng chảy lớn với những vách đá cao vút, vững chãi
nhưng nguy hiểm cùng. Tiếp đến cảm xúc của tác giả khi chèo thuyền qua đoạn
sông này “đang mùa cũng thấy lạnh”. Đây một lối liên tưởng độc đáo, đầy
táo bạo cũng không kém phần tinh tế: so sánh cái lạnh rợn người như đang đứng
giữa mùa hè; không chỉ vậy còn ngột ngạt bởi cái chật hẹp sâu thăm thẳm như
đứng dưới một cái n ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà
thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện. Một câu văn dài với những liên tưởng mới mẻ kết
hợp sử dụng các giác quan, tác giả đã khắc họa vẻ đẹp hung tợn sự bí ẩn của con
sông, tiềm ẩn những sự nguy hiểm khiến con người không thể lường trước được.
Chưa dừng lại đó, sự hung bạo của sông Đà còn sự kết hợp của quần thể
những thác đá, sóng nước. Máy quay của người nghệ đã chuyển từ vách thành qua
cái dữ dội mặt ghềnh Hát Loóng: “dài ng cây s nước đá, đá sóng, sóng
gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”. Đội quân sóng, nước, gió trên sông Đà
đang bắt tay nhau tạo trận địa uy hiếp con người. Nhịp văn ngắn, nhanh, mạnh, dồn
dập như đang muốn tạo cơn cuồng phong bão tố. Hình ảnh điệp nối tiếp luân chuyển
nhau, sóng g sông Đà cứ thế gối lên nhau, lần lượt uy hiếp con người. Nguyễn Tuân
đã đặt vào ba vế câu ba điệp từ xô” để cộng hưởng cho những đợt đánh liên hoàn dữ
dội của sóng nước thác đá như muốn nhấn mạnh sức mạnh của thiên nhiên nơi đây
rất khủng khiếp. Sông Đà như con thủy quái đầm lầy đang cuồng nộ, bản tính gắt
gỏng c giận dỗi với con người. Chúng “gùn ghè” đe dọa con người như thói quen
thường ngày của nó. Các từ láy “cuồn cuộn”, “gùn ghè” vừa gợi âm thanh ghê rợn
vừa gợi những hình ảnh khủng khiếp của nơi đây. Với thủ pháp nhân hóa, sông Đà
hiện lên như những kẻ ngang ngược, dữ tợn, “đòi nợ xuýt” bất cứ người lái đò nào đi
qua quãng ấy. trở thành kẻ thù của con người, sẵn sàng tiêu diệt, nuốt trọn bất cứ
tay lái khinh suất nào: “Quãng này khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng
thuyền ra”.
Bằng cách sử dụng kết hợp nhiều biện pháp tu từ như điệp từ, điệp liên hoàn
tăng tiến, câu văn như bị chặt đứt ra thành nhiều khúc ngắn gọn, tạo nhịp điệu khn
trương, dồn dập, gấp gáp như sự chuyển động của g to sóng lớn. Chỉ với hai câu
văn nhưng bằng sự biến ảo của ngôn từ trong các thủ pháp nghệ thuật, tính hung bạo
của Đà giang hiện ra với hình nh động đậy trước mắt độc giả.
Đem lại ấn tượng mạnh mẽ cho sự hung bạo của sông Đà những cái hút
nước trên sông. Từ “lại như” là t chỉ tần suất, chỉ mức độ xuất hiện của những cái
hút nước. Để miêu t sự dữ dội của những cái hút nước này, Nguyễn Tuân đã sử dụng
một loạt các hình ảnh so sánh sống động, đặc sắc, khiến hiện ra trông giống như
cái giếng tông. Những cái hút nước vốn không hình, khối, không thể cầm
nắm nhưng qua cách so sánh của Nguyễn Tuân đã khiến nó hiện lên rất cụ thể,
hình khối vừa dày, vừa dài, thể thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu.
Gắn liền với hình ảnh âm thanh man rợ khi luồng nước lớn chảy cuộn xiết,
chảy xuống hút nước không thể nào kịp “tiêu hóa được”. vậy, khiến cho âm
thanh của những cái hút nước “thở kêu như cửa cống cái bị sặc”. Nhà văn còn đặc
tả cả hình ảnh âm thanh của hút nước trong chi tiết “cái giếng sâu, nước ặc ặc lên
như rót dầu sôi vào”. Đó là những âm thanh, hình ảnh cho thấy sự dữ tợn sức
mạnh khủng khiếp của những cái hút nước. Một so sánh rất gần gũi gợi lên được sự
chết chóc trong lòng những cái hút nước “trên mặt cái hút nước xoáy tít đáy quay
lừ lừ những cánh quạ đàn”. Mặt cái hút nước quay cuộn xiết theo quán tính khiến
nước chảy xuống đáy bị hút thành một vòng tròn, tác giả hình dung dòng chảy này
như “những cánh quạ đàn” đang bay trên dưới thành đàn, chuẩn bị xâu con mồi
đang bất động dưới đáy cái hút nước. Tất cả đều góp phần làm hiện ra hình nh âm
thanh của một con quái thú đang giận dữ đến ghê người.
Loài thủy quái sông Đà đe dọa con người khiến “không thuyền nào dám men
lại gần” không thể chống cự lại nó, nếu cũng “chèo nhanh để lướt qua quãng
sông”. Hình ảnh được Nguyễn Tuân liên tưởng đến “quãng đò mượn cạp ra ngoài bờ
vực n ô sang s nhấn ga” để người đọc dễ dàng hình dung được cảm giác sợ hãi
nếu phải đi qua quãng sông này. Không dừng lại đó, đã s những hậu quả
thương tâm hút nước đã gây ra cho nhiều gỗ rừng. Nguyễn Tuân đã phát huy
trí tưởng tượng phong phú khi hình dung ra những gỗ to lớn nghênh ngang bị lôi
tụt xuống đáy hút nước hay những chiếc thuyền bị hút “trồng cây chuối ngược rồi vụt
biến đi, bị dìm đi chìm dưới lòng sông đến 10 phút sau mới thấy tan tác khuỷnh
sông dưới”. Các động từ mạnh như “lôi tuột”, “vụt biến”, “tan tác” giúp người đọc
hình dung hút nước sông Đà như một cỗ máy nghiền khổng lồ, làm tan xác cả người
thuyền trong lòng cái hút nước ấy.
Nếu như đoạn hai, sông Đà chỉ mới được như người đòi nợ xuýt” một
cách vô trí thì đây, sông Đà đã thực sự vận động hết công suất tàn ác của mình.
Tất nhiên, đó chỉ những hình ảnh chỉ trong trí tưởng tượng của Nguyễn Tuân
nhưng đã đưa lại ấn tượng thật sâu đậm về sức mạnh khủng khiếp của những cái
hút nước sông Đà.
Sự hung bạo nhất được thể hiện qua thác đá sông Đà, trước hết được miêu tả
thông qua âm thanh của thác nước. Còn xa lắm mới đến thác nhưng “đã thấy tiếng
nước réo gần i lại réo to mãi lên”. giống như tiếng gầm vang của con sông nơi
thượng nguồn, như một bầy thuỷ quái vừa hung hăng, vừa nham hiểm, xảo quyệt.
Nhiều thác nước như bày sẵn thế trận sẵn sàng chặn đánh, tiêu diệt người lái đò. Lúc
thì thác nước khiêu khích, chế nhạo; khi t gầm thét như tiếng một ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa
cũng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Thác nước càng được nhân thêm sức
mạnh, sức ng phá, nhân thêm mối nguy hiểm đối với nhà đò sự góp mặt của
hàng ngàn tảng đá to, nhỏ. Qua cái nhìn tinh tế của Nguyễn Tuân, mỗi hòn đá đều
mang vẻ đó rất du côn của thiên nhiên hoang dại. Mỗi hòn đá được như một
quái vật từ ngàn năm vẫn kiên trì mai phục nơi đây để bày thạch trận trong lòng
sông. Hình như sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn đá, mỗi đứa riêng một nhiệm vụ.
Đứa t dàn hàng ngang, đứa thì đánh giáp cà, lại cả đứa giả bộ lộ hở để
những đứa còn lại phục kích đánh úp cho thuyền không kịp trở tay. Thế mới thấy
đá này mưu mẹo ghê gớm thế nào, chúng không chỉ dàn trận còn bày cả
“trùng vi thạch trận” tới 3 lớp, lớp sau càng nhiều cửa tử, ít cửa sinh, dường như
không đ cho kẻ địch một hội sống còn nào cả. Trùng vi thạch trận của những
phiến đá bày ra hoàn chỉnh làm người ta liên tưởng đến sự bày binh bố trận trong một
cuộc chiến. Dường như Nguyễn Tuân đã tận dụng triệt để nghệ thuật nhân hóa, khiến
con sông Đà vốn tri giác giờ đây lại cảm xúc như chính con người vậy. Sự
biến hóa linh hoạt của trùng vi thạch trận làm sông Đà mang diện mạo tâm địa của
một con thủy quái, kẻ thù số một của con người.
Người lái đò sông Đà quả một trích đoạn xuất sắc trong tập tùy bút Sông Đà,
tác phẩm tiêu biểu nhất trong trong văn học Việt Nam thể loại tùy bút, cũng như
trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân. Bằng cái nhìn chân thực, ngôn từ tinh tế,
chắt lọc, kết hợp với các thủ pháp ngh thuật so sánh, nhân hóa, điệp từ, Nguyễn
Tuân đã thể hiện niềm say mê, hứng khởi khi viết về sự hung bạo của sông Đà khúc
thượng nguồn. Thông qua sự quan sát tài hoa, uyên bác, những cảm giác mãnh liệt,
tác giả đã làm hiện rõ sự hung bạo, hiểm ác của một dòng sông. Khác xa với s mềm
mại, duyên dáng khúc hạ nguồn, sông Đà khúc thượng lưu hiện ra như một con thuỷ
quái với tất cả gió, bão, thác, ghềnh, các dãy núi cao như vực sâu. Chính nét hung bạo
đã giúp trở thành công trình thuật tuyệt vời của tạo hoá. Từ đó tác giả thể hiện
tình cảm ngợi ca nét đẹp hoang sơ, hùng của vùng đất Tây Bắc, khẳng định tim
năng to lớn dòng sông đem lại trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội, đổi
mới đất nước.

Preview text:

Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Với
phong cách tài hoa và độc đáo, ông đã mang đến những đóng góp vô cùng quan trọng
cho nền văn học nước nhà. Cả đời ông say mê đi tìm cái đẹp trong cuộc sống để từ đó
thổi hồn vào trong tác phẩm của mình những làn gió mới, làm phong phú thêm văn
học dân tộc. Ông là một trong số ít nhà văn thành công vang dội với những tác phẩm
kí, đặc biệt là ở thể tuỳ bút. Mà trong đó, nổi bật là tác phẩm “Người lái đò sông Đà”
với vẻ đẹp hung bạo kỳ bí nhưng cũng đầy chất trữ tình, thơ mộng của một dòng sông
đã góp phần khẳng định tên tuổi của tác giả “Vang bóng một thời”. Là nhà văn “suốt
đời đi tìm cái đẹp” nên dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, hình tượng con sông Đà
được khắc họa đầy độc đáo đã khiến người đọc không khỏi rung cảm trước “thứ vàng
mười đã qua thử lửa” trong dòng chảy văn học Việt Nam.
Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” được in trong tập “Sông Đà” (1960) - gồm 15
bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc sau ngày giải phóng. Đó là thành quả nghệ thuật
đẹp đẽ mà tác giả đã thu hoạch được trong chuyến đi thực tế năm 1958 tới miền Tây
Bắc rộng lớn, xa xôi. Nguyễn Tuân đã đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ
đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Chính thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở
vùng cao và tâm hồn của những con người lao động nơi đây đã đem đến cho nhà văn
một nguồn cảm hứng sáng tạo bất tận. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân,
sông Đà được xem như một công trình thẩm mĩ và nghệ thuật mà thiên nhiên ban
tặng cho con người. Con sông ấy được tác giả nhân hóa như con người, mang hai
đặc điểm đối nghịch nhau: vừa hung bạo, dữ dội lại vừa trữ tình, thơ mộng hiền hòa, gợi cảm.
Ngay từ lời đề từ của tác phẩm đã tạo ấn tượng đầu tiên cho người đọc về sự
ngạo ngược, lạ thường của sông Đà: “Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc
lưu” (thơ Nguyễn Quang Bích). Câu thơ nói lên sự khác biệt độc nhất vô nhị của
dòng chảy con sông Đà: Mọi dòng sông đều chảy về hướng Đông, chỉ có sông Đà
chảy theo hướng Bắc. Lời đề từ ấy không chỉ khẳng định nét ngạo ngược độc đáo của
sông Đà mà còn đồng thời hé lộ cá tính nghệ sĩ của Nguyễn Tuân chứng tỏ sự tài hoa,
uyên bác, sự lịch lãm và cá tính độc đáo của mình trong sáng tạo nghệ thuật.
Sau lời đề từ, tác giả đi vào miêu tả cụ thể con sông với vẻ đẹp dữ dội và hùng
vĩ ở thượng nguồn, mở đầu bằng cảnh đá bờ sông. Ở đoạn này, Sông Đà được mô tả
như một thực thể mạnh mẽ, hung dữ với thác đá, ghềnh đá, và dòng nước xiết chảy.
Nguyễn Tuân đã sử dụng những hình ảnh rất hấp dẫn: “cảnh đá bờ sông, dựng vách
thành”, rồi thì “đúng ngọ mới có mặt trời”, vách đá “chẹt lòng sông như yết hầu”,
sinh động với những “con nai con hổ đã có lần vọt qua bờ bên kia”. Qua động từ
“chẹt” người đọc cảm tưởng như vách thành đã lấn át hết cả bờ sông ghê rợn, hãi
hùng. Với cách so sánh rất độc đáo, mới lạ nhưng cũng rất lạ lùng khi đem cái “yết
hầu” của con người ra để ví von với những bức thành đá cao lớn ép chặt lấy lòng
sông Đà, cái hẹp của lòng sông Đà được tác giả mô tả theo đủ cách khác nhau: nào là
chỉ đúng lúc “ngọ” giữa buổi trưa, khi mặt trời lên cao nhất, khi chiếu thẳng xuống
lòng sông thì lòng sông mới nhận được chút tia nắng ấm áp ít ỏi và khi thời gian trôi
đi thì những tia nắng ấy cũng dần biến mất. Tất cả những hình ảnh ấy gợi nên một nơi
lòng sông nhỏ hẹp, lưu tốc dòng chảy lớn với những vách đá cao vút, vững chãi
nhưng nguy hiểm vô cùng. Tiếp đến là cảm xúc của tác giả khi chèo thuyền qua đoạn
sông này “đang mùa hè mà cũng thấy lạnh”. Đây là một lối liên tưởng độc đáo, đầy
táo bạo và cũng không kém phần tinh tế: so sánh cái lạnh rợn người như đang đứng
giữa mùa hè; không chỉ vậy còn ngột ngạt bởi cái chật hẹp và sâu thăm thẳm như
đứng ở dưới một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà
thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện. Một câu văn dài với những liên tưởng mới mẻ kết
hợp sử dụng các giác quan, tác giả đã khắc họa vẻ đẹp hung tợn và sự bí ẩn của con
sông, tiềm ẩn những sự nguy hiểm khiến con người không thể lường trước được.
Chưa dừng lại ở đó, sự hung bạo của sông Đà còn là sự kết hợp của quần thể
những thác đá, sóng nước. Máy quay của người nghệ sĩ đã chuyển từ vách thành qua
cái dữ dội ở mặt ghềnh Hát Loóng: “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô
gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”. Đội quân sóng, nước, gió trên sông Đà
đang bắt tay nhau tạo trận địa uy hiếp con người. Nhịp văn ngắn, nhanh, mạnh, dồn
dập như đang muốn tạo cơn cuồng phong bão tố. Hình ảnh điệp nối tiếp luân chuyển
nhau, sóng gió sông Đà cứ thế gối lên nhau, lần lượt uy hiếp con người. Nguyễn Tuân
đã đặt vào ba vế câu ba điệp từ “xô” để cộng hưởng cho những đợt đánh liên hoàn dữ
dội của sóng nước thác đá như muốn nhấn mạnh sức mạnh của thiên nhiên nơi đây
rất khủng khiếp. Sông Đà như con thủy quái đầm lầy đang cuồng nộ, bản tính gắt
gỏng vô cớ giận dỗi với con người. Chúng “gùn ghè” đe dọa con người như thói quen
thường ngày của nó. Các từ láy “cuồn cuộn”, “gùn ghè” vừa gợi âm thanh ghê rợn
vừa gợi những hình ảnh khủng khiếp của nơi đây. Với thủ pháp nhân hóa, sông Đà
hiện lên như những kẻ ngang ngược, dữ tợn, “đòi nợ xuýt” bất cứ người lái đò nào đi
qua quãng ấy. Nó trở thành kẻ thù của con người, sẵn sàng tiêu diệt, nuốt trọn bất cứ
tay lái khinh suất nào: “Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.
Bằng cách sử dụng kết hợp nhiều biện pháp tu từ như điệp từ, điệp liên hoàn và
tăng tiến, câu văn như bị chặt đứt ra thành nhiều khúc ngắn gọn, tạo nhịp điệu khẩn
trương, dồn dập, gấp gáp như sự chuyển động của gió to và sóng lớn. Chỉ với hai câu
văn nhưng bằng sự biến ảo của ngôn từ trong các thủ pháp nghệ thuật, tính hung bạo
của Đà giang hiện ra với hình ảnh động đậy trước mắt độc giả.
Đem lại ấn tượng mạnh mẽ cho sự hung bạo của sông Đà là những cái hút
nước trên sông. Từ “lại như” là từ chỉ tần suất, chỉ mức độ xuất hiện của những cái
hút nước. Để miêu tả sự dữ dội của những cái hút nước này, Nguyễn Tuân đã sử dụng
một loạt các hình ảnh so sánh sống động, đặc sắc, khiến nó hiện ra trông giống như
cái giếng bê tông. Những cái hút nước vốn không có hình, có khối, không thể cầm
nắm nhưng qua cách so sánh của Nguyễn Tuân đã khiến nó hiện lên rất cụ thể, có
hình khối vừa dày, vừa dài, có thể thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu.
Gắn liền với hình ảnh là âm thanh man rợ khi luồng nước lớn chảy cuộn xiết,
chảy xuống mà hút nước không thể nào kịp “tiêu hóa được”. Vì vậy, nó khiến cho âm
thanh của những cái hút nước “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”. Nhà văn còn đặc
tả cả hình ảnh và âm thanh của hút nước trong chi tiết “cái giếng sâu, nước ặc ặc lên
như rót dầu sôi vào”. Đó là những âm thanh, hình ảnh cho thấy sự dữ tợn và sức
mạnh khủng khiếp của những cái hút nước. Một so sánh rất gần gũi gợi lên được sự
chết chóc trong lòng những cái hút nước là “trên mặt cái hút nước xoáy tít đáy quay
lừ lừ những cánh quạ đàn”. Mặt cái hút nước quay cuộn xiết theo quán tính khiến
nước chảy xuống đáy bị hút thành một vòng tròn, tác giả hình dung dòng chảy này
như “những cánh quạ đàn” đang bay trên dưới thành đàn, chuẩn bị xâu xé con mồi
đang bất động dưới đáy cái hút nước. Tất cả đều góp phần làm hiện ra hình ảnh và âm
thanh của một con quái thú đang giận dữ đến ghê người.
Loài thủy quái sông Đà đe dọa con người khiến “không thuyền nào dám men
lại gần” vì không thể chống cự lại nó, nếu có cũng “chèo nhanh để lướt qua quãng
sông”. Hình ảnh được Nguyễn Tuân liên tưởng đến “quãng đò mượn cạp ra ngoài bờ
vực như ô tô sang số nhấn ga” để người đọc dễ dàng hình dung được cảm giác sợ hãi
nếu phải đi qua quãng sông này. Không dừng lại ở đó, đã có vô số những hậu quả
thương tâm mà hút nước đã gây ra cho nhiều bè gỗ rừng. Nguyễn Tuân đã phát huy
trí tưởng tượng phong phú khi hình dung ra những bè gỗ to lớn nghênh ngang bị lôi
tụt xuống đáy hút nước hay những chiếc thuyền bị hút “trồng cây chuối ngược rồi vụt
biến đi, bị dìm và đi chìm dưới lòng sông đến 10 phút sau mới thấy tan tác ở khuỷnh
sông dưới”. Các động từ mạnh như “lôi tuột”, “vụt biến”, “tan tác” giúp người đọc
hình dung hút nước sông Đà như một cỗ máy nghiền khổng lồ, làm tan xác cả người
và thuyền ở trong lòng cái hút nước ấy.
Nếu như ở đoạn hai, sông Đà chỉ mới được ví như “người đòi nợ xuýt” một
cách vô lí trí thì ở đây, sông Đà đã thực sự vận động hết công suất tàn ác của mình.
Tất nhiên, đó chỉ là những hình ảnh chỉ có trong trí tưởng tượng của Nguyễn Tuân
nhưng nó đã đưa lại ấn tượng thật sâu đậm về sức mạnh khủng khiếp của những cái hút nước sông Đà.
Sự hung bạo nhất được thể hiện qua thác đá sông Đà, trước hết được miêu tả
thông qua âm thanh của thác nước. Còn xa lắm mới đến thác nhưng “đã thấy tiếng
nước réo gần mãi lại réo to mãi lên”. Nó giống như tiếng gầm vang của con sông nơi
thượng nguồn, như một bầy thuỷ quái vừa hung hăng, vừa nham hiểm, xảo quyệt.
Nhiều thác nước như bày sẵn thế trận sẵn sàng chặn đánh, tiêu diệt người lái đò. Lúc
thì thác nước khiêu khích, chế nhạo; khi thì gầm thét như tiếng một ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa
cũng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Thác nước càng được nhân thêm sức
mạnh, sức công phá, nhân thêm mối nguy hiểm đối với nhà đò vì sự góp mặt của
hàng ngàn tảng đá to, nhỏ. Qua cái nhìn tinh tế của Nguyễn Tuân, mỗi hòn đá đều
mang vẻ gì đó rất du côn của thiên nhiên hoang dại. Mỗi hòn đá được ví như một
quái vật từ ngàn năm vẫn kiên trì mai phục ở nơi đây để bày thạch trận trong lòng
sông. Hình như sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn đá, mỗi đứa có riêng một nhiệm vụ.
Đứa thì dàn hàng ngang, đứa thì đánh giáp lá cà, lại có cả đứa giả bộ lộ sơ hở để
những đứa còn lại phục kích đánh úp cho thuyền bè không kịp trở tay. Thế mới thấy
lũ đá này mưu mẹo và ghê gớm thế nào, chúng không chỉ dàn trận mà còn bày cả
“trùng vi thạch trận” có tới 3 lớp, lớp sau càng nhiều cửa tử, ít cửa sinh, dường như là
không để cho kẻ địch một cơ hội sống còn nào cả. Trùng vi thạch trận của những
phiến đá bày ra hoàn chỉnh làm người ta liên tưởng đến sự bày binh bố trận trong một
cuộc chiến. Dường như Nguyễn Tuân đã tận dụng triệt để nghệ thuật nhân hóa, khiến
con sông Đà vốn vô tri vô giác giờ đây lại có cảm xúc như chính con người vậy. Sự
biến hóa linh hoạt của trùng vi thạch trận làm sông Đà mang diện mạo và tâm địa của
một con thủy quái, kẻ thù số một của con người.
Người lái đò sông Đà quả là một trích đoạn xuất sắc trong tập tùy bút Sông Đà,
tác phẩm tiêu biểu nhất trong trong văn học Việt Nam ở thể loại tùy bút, cũng như là
trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân. Bằng cái nhìn chân thực, ngôn từ tinh tế,
chắt lọc, kết hợp với các thủ pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, điệp từ, Nguyễn
Tuân đã thể hiện niềm say mê, hứng khởi khi viết về sự hung bạo của sông Đà khúc
thượng nguồn. Thông qua sự quan sát tài hoa, uyên bác, những cảm giác mãnh liệt,
tác giả đã làm hiện rõ sự hung bạo, hiểm ác của một dòng sông. Khác xa với sự mềm
mại, duyên dáng khúc hạ nguồn, sông Đà khúc thượng lưu hiện ra như một con thuỷ
quái với tất cả gió, bão, thác, ghềnh, các dãy núi cao như vực sâu. Chính nét hung bạo
đã giúp nó trở thành công trình mĩ thuật tuyệt vời của tạo hoá. Từ đó tác giả thể hiện
tình cảm ngợi ca nét đẹp hoang sơ, hùng vĩ của vùng đất Tây Bắc, khẳng định tiềm
năng to lớn mà dòng sông đem lại trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đổi mới đất nước.