Vài câu hỏi ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội

Vài câu hỏi ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Thông tin:
37 trang 8 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Vài câu hỏi ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội

Vài câu hỏi ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

41 21 lượt tải Tải xuống
Vận dụng tư tưởng HCM trong xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Nội dung bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền được Đảng ta
vận dụng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thứ nhất, Lãnh tụ Hồ Chí Minh xác định bản chất dân chủ của Nhà nước ta: “Nước ta
nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc
đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc
của dân. Chính quyền từ đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung
ương đến do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành lực lượng đều nơi dân” .
1
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân; vấn đề cốt tử
làm sao để nhân dân thực sự làm chủ vận mệnh của đất nước. Để quyền làm chủ của nhân
dân được bảo đảm thực thi trong cuộc sống, cần xây dựng hoàn thiện thể chế,
phương thức, chế thực hiện. Người chỉ rõ, phải xây dựng nền dân chủ hội chủ
nghĩa, trong đó nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng Nhà nước pháp quyền
và các tổ chức xã hội do chính họ lập ra và quản lý. Theo đó, nhân dân vừa là người cử ra
chính quyền các cấp, vừa người quản lý, kiểm tra, kiểm soát toàn bộ hoạt động của bộ
máy quyền lực đó. Quan điểm về quyền làm chủ đất nước hội của nhân dân được
Lãnh tụ Hồ Chí Minh Đảng ta đề cập hết sức đầy đủ sâu sắc; được thể chế hóa
trong các bản Hiến pháp. Điều 2, Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Nhà nước Cộng hòa
hội chủ nghĩa Việt Nam Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa của Nhân dân, do
Nhân dân, Nhân dân; 2. Nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm
chủ, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân đội ngũ trí thức; 3. Quyền lực Nhà nước thống
nhất sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ đất nước vàhội của nhân dân được Đảng ta
đúc kết thành chế, chính sách quản lý, điều hành đất nước: Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, Nhân dân làm chủ. chế đó phát huy được tính tích cực, chủ động của các tổ
chức chính trị - xã hội, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, đáp ứng đòi
hỏi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Thứ hai, Nhà nước pháp quyền Đảng ta y dựng nhà nước tôn trọng pháp luật,
được tổ chức hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp pháp luật. Ngay sau khi tổ
chức thành công Cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc hội đầu tiên (06/01/1946), Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chỉ đạo khẩn trương xây dựng thông qua Hiến pháp năm 1946, đặt
nền móng cho việc y dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quá trình chỉ đạo xây
dựng Hiến pháp pháp luật, tổ chức vận hành nhà nước, Hồ Chí Minh luôn nhắc
nhở, Nhà nước ta Nhà nước của n, pháp luật của ta pháp luật dân chủ, bảo vệ
quyền lợi của nhân dân, nhưng phải nghiêm minh phát huy hiệu lực thực tế: “Nghiêm
chỉnh thực hiện dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ địch. Triệt để chấp hành mọi
chế độ pháp luật của Nhà nước” . Người luôn nêu gương trong việc khuyến khích
2
nhân dân phê bình, giám sát công việc của Chính phủ; đồng thời, nhắc nhở cán bộ các
cấp, các ngành, trước hết cán bộ thuộc ngành hành pháp pháp phải gương mẫu
trong việc tuân thủ pháp luật. Để tiến tới một nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, có hiệu lực,
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, biết quản nhà nước, thành thạo nghiệp vụ hành
chính nhất phải đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công tư, tận tâm, tận lực
suốt đời phục vụ nhân dân. Đồng thời, luôn đề phòng chủ động khắc phục những tiêu
cực trong hoạt động của Nhà nước, kiên quyết chống ba thứ giặc nội xâm là: Tham ô,
lãng phí, quan liêu. Cùng với đó, Người rất coi trọng việc giáo dục pháp luật cho nhân
dân, góp phần nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn hóa chính trị và
tính tích cực công dân, khuyến khích nhân dân tham gia vào các công việc của Nhà nước.
Thứ ba, Nhà nước ta do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp
công nhân với tính nhân dân tính dân tộc rộng rãi. Sinh thời, Hồ Chí Minh thường
nhắc nhở các tổ chức đảng đảng viên: Đảng ta đảng cầm quyền chứ không phải
đảng trị, mọi cán bộ, đảng viên phải biết tôn trọng Nhà nước, gương mẫu chấp hành Hiến
pháp pháp luật ca Nhà nước. Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Người căn dặn: “Đảng
ta một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong
sạch, phải xứng đáng người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” .
3
Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng hội chủ
nghĩa, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân dân phải tiếp tục quán
triệt sâu sắc tưởng, học tập, làm theo tấm gương Hồ Chí Minh về quyền làm chủ đất
nước hội của nhân dân. Bởi, đây nền tảng tưởng, luận quan trọng trong tổ
chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền kiểu mới do nhân dân làm chủ.
Vận dụng tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân và vì dân trong tình hình mới
Xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa một bước đột phá trong duy về
xây dựng nhà nước trong thời kỳ đổi mới của Đảng ta trên nền tảng tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Đó là cơ sở chính trị cho việc tiếp tục đẩy mạnh
việc nghiên cứu về nhà nước pháp quyền thúc đẩy việc đổi mới một cách căn bản,
hệ thống tổ chức phương thức hoạt động của nhà nước Việt Nam hiện nay. Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng, khẳng định “Tiếp tục xây dựng hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân nhân dân do
Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị” . Do vậy, trong thực
4
hiện cần tiếp tục quán triệt và vận dụng linh hoạt, sáng tạo tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Trước hết, nắm vững mục tiêu tôn trọng, bảo vệ, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, tất cả độc lập dân tộc, dân chủ, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Lựa chọn ra
thực thi những chế, hình thức dân chủ hữu hiệu để nhân dân quyết định những công
việc trọng đại của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn đã chỉ rõ, chừng nào
khi nào Nhà nước chưa tạo đủ điều kiện để nhân dân thực hiện phát huy quyền làm
chủ của mình sở, hoặc để xảy ra dân chủ cực đoan, dân chủ quá trớn, gây trở ngại
cho hoạt động điều hành quản của bộ máy chính quyền sở, thì chừng đó quyền
lực Nhà nước địa phương bị suy giảm, cản trở việc thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân.
Nội dung này ý nghĩa rất quan trọng, nhất khi các thế lực thù địch đang lợi dụng
chiêu bài “dân chủ” “nhân quyền” cũng như các thủ đoạn khác để vu cáo, xuyên tạc
chế độ dân chủ, chống phá cách mạng nước ta. vậy, phải nâng cao dân trí, động viên,
giáo dục tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân sử dụng quyền làm chủ, quyền lực của
mình tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Thứ hai, xây dựng nhà nước luôn đi đôi khắc phục được những căn bệnh cố hữu của các
nhà nước kiểu cũ. Tuyệt đối không hồ trước những luận điệu xuyên tạc của các thế
lực thù địch đối với các giá trị văn hóa dân chủ hội chủ nghĩa. Đồng thời, kiên quyết
chống luận điệu xuyên tạc, mị dân, núp dưới chiêu bài “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”
sản để xuyên tạc những giá trị dân chủ hội chủ nghĩa Đảng nhân dân ta đã
xây dựng, vun đắp trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ giải phóng dân tộc,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức. Theo Hồ Chí Minh,
để xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả phải kết hợp chặt chẽ giữa “đức
trị” và “pháp trị”, kết hợp giữa “xây” và “chống”, không được coi nhẹ mặt nào. Xây là ra
sức giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng cho nhân dân, trước hết cán bộ,
công chức, đảng viên, những người có chức, có quyền, đi đôi với việc chống chủ nghĩa cá
nhân, dùng pháp luật nghiêm trị những kẻ vi phạm pháp luật thoái hóa đạo đức, làm
hại dân, hại nước. Cán bộ các cấp trong bộ máy công quyền nhà nước từ Trung ương đến
cơ sở phải thực sự gần dân, biết lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, làm việc gì
cũng phải bàn bạc kỹ học hỏi kinh nghiệm của nhân dân, thực sự yêu dân, kính dân,
tin cậy và trọng dân.
Thứ tư, luôn đề phòng chủ động khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà
nước, kiên quyết chống ba thứ giặc nội xâm tham ô, lãng phí, quan liêu. Theo Hồ Chí
Minh, sức mạnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước phụ thuộc vào tính nghiêm
minh của việc thi hành pháp luật s trong sạch, gương mẫu về đạo đức của những
người cầm quyền. Vì vậy, phải luôn nêu cao cảnh giác với những biểu hiện tha hóa, biến
chất của đội ngũ cán bộ, công chức, giữ cho Nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh.
Thứ năm, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong các
quan quyền lực của Nhà nước về phẩm chất chính trị, đạo đức, phong cách, năng lực
lãnh đạo, quản để họ thực sự “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, toàn
tâm, toàn ý phục vụ lợi ích của nhân dân. Cùng với nâng cao bản lĩnh chính trị, giáo dục
đạo đức cách mạng, phải đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức nhà nước đủ tri thức
về chính trị học, hội học, về hệ thống chính trị, pháp luật, quản hành chính nhà
nước, về tổ chức lao động khoa học và tâm lý quản lý, v.v.
Thứ sáu, tăng cường vai trò lãnh đạo đổi mới phương thức cầm quyền, lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân dân, đáp ứng đòi hỏi của sự
nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới. Bởi, thực tiễn đã
chỉ rõ: sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước hội nhân tố quyết định để bảo
đảm Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam Nhà nước của dân, do dân,
dân, bảo đảm cho hệ thống chính trị đủ khả năng đưa đất nước ta từng bước vượt qua
nguy cơ, thách thức, vững vàng đi theo con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân vẫn
mãi có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn sâu sắc. Ngày nay, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi
mới hội nhập, Đảng ta tiếp tục kế thừa tưởng của Người để xây dựng Nhà nước
pháp quyền của nhân dân, do nhân dân nhân dân điều cùng cần thiết đúng
đắn.
Từ việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức,
sinh viên Việt Nam rèn luyện đạo đức của bản thân hiện
nay như thế nào ?
1. Những quan điểm cơ bản nhất của Hồ Chí Minh về đạo đức
Chủ tịch Hồ Chí Minh có quan niệm mới, tiến bộ về đạo đức của con người mới. Đó là:
- Thứ nhất, đạo đức là gốc, là nền tảng của con người. Người coi, đạo đức của con người
như trời có bốn mùa, đất có bốn phương,con người có bốn đức “cần, kiệm, liêm, chính”;
- Thứ hai, đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân: “Vô luận
chung trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết”;
- Thứ ba, gần gũi với quần chúng nhân dân: “đạo đức cách mạng là hòa mình với quần
chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng. Do lời nói và việc làm, đảng
viên, đoàn viên và cán bộ làm cho dân tin, dân phục, dân yêu…”;
- Thứ tư, không ngừng học tập lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin: “Học tập chủ nghĩa Mác –
Lênin là học cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân; là học
tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào
hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm. Lý luận đi đôi với thực tiễn”.
Như vậy, đạo đức cách mạng chính là nội hàm bao trùm, xuyên suốt để mỗi cán bộ, đảng
viên, đoàn viên, thanh niên tu dưỡng và rèn luyện.
2. Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
2.1. Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh cho rằng, đối với các dân tộc phương Đông giàu tình cảm, trọng đạo lý,
việc tu dưỡng đạo đức của mỗi nhân, mỗi con người vai trò cùng quan trọng.
Riêng với thế hệ trẻ, việc tu dưỡng này còn quan trọng hơn, vì họ là "người chủ tương lai
của nước nhà"; cái cầu nối giữa các thế hệ - "người tiếp sức cách mạng cho thế hệ
thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai". Chính vì
vậy, việc giáo dục đạo đức chăm lo cho việc rèn luyện đạo đức của sinh viên đã được
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm từ rất sớm. Nói chuyện với sinh viên, Người khẳng định:
"Thanh niên phải đức, tài. tài không đức như một anh làm kinh tế tài
chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm đượcích lợi cho xã
hội mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm
hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho loài người".
Người chỉ rõ việc thực hành tốt đạo đức cách mạng trong đời sống hàng ngày của mỗi
nhân không chỉ tác dụng tôn vinh, nâng cao giá trị chính họ còn tạo sức mạnh nội
sinh, giúp họ vượt qua khó khăn, thử thách. Người viết: "có đạo đức cách mạng thì khi
gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước... khi gặp thuận lợi
thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phát, khiêm tốn, "lo trước thiên
hạ, vui sau thiên hạ"; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng
thụ; không công thuần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa".
Nhấn mạnh vai trò của đạo đức trong đời sống của mỗi nhân trong hội. Hồ Chí
Minh không phân biệt đạo đức cách mạngđạo đức đời thường, đạo đức cán bộđạo
đức công dân. Người chỉ rõ, trong hội mỗi người công việc, tài năng vị trí khác
nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều
là người cao thượng.
- Kiên trì tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh
Cũng như với cán bộ, đảng viên các tầng lớp nhân dân khác, đối với tầng lớp sinh
viên, thanh niên trí thức, Hồ Chí Minh đã sớm xác định những phẩm chất đạo đức cần
thiết để họ có phương hướng phấn đấu rèn luyện. Trong Bài nói tại Đại hội sinh viên Việt
Nam lần thứ hai (7-5-1958), những phẩm chất đó được Người tóm tắt trong "Sáu cái yêu:
+ Yêu Tổ quốc, Yêu như thế nào? Yêuphải làm sao cho Tổ quốc ta giàu mạnh.
Muốn cho Tổ quốc giàu mạnh thì phải ra sức lao động, ra sức tăng gia sản xuất, thực
hành tiết kiệm.
+ Yêu nhân dân: Mình phải hiểu sinh hoạt của nhân dân biết nhân dân còn cực
khổ như thế nào, biết chia sẻ những lo lắng, những vui buồn, những công tác nặng nhọc
với nhân dân.
+ Yêu chủ nghĩa hội: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ
nghĩa hội, tiến lên chủ nghĩa hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm
thêm. Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm.
+ Yêu lao động: Muốn thật thà yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa hội
thì phải yêu lao động, vì không có lao động thì chỉ là nói suông.
+ Yêu khoa học và kỷ luật: bởi vì tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có khoa học và
kỷ luật".
Theo người, để được những phẩm chất như vậy, sinh viên phải rèn luyện cho mình
những đức tính như: trung thành, tận tụy, thật thà chính trực. Phải xác định nhiệm
vụ của mình, "không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hoi mình đã
làm cho nước nhà. Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước nhà nhiều hơn. Mình đã
lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào". Trong học tập, rèn luyện, phải kết hợp
luận với thực hành, học tập với lao động; phải chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa
nhân, chống tưởng hám danh, hám lợi. "Chống tâm ham sung sướng tránh khó
nhọc. Chống thói xem khinh lao động, nhất là lao động chân tay. Chống lười biếng, xa xỉ.
Chống cách sinh hoạt ủy mị. Chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang". Phải trả lời được
câu hỏi: Học để làm gì? Học để phục vụ ai? Phải xác định thế nào tốt, thế nào
xấu? Ai bạn, ai thù?... Người chỉ rõ: "Đối với người, ai làm lợi ích cho nhân dân,
cho Tổ quốc ta đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc ta tức là
kẻ thù. Đối với mình, những tư tưởng và hành động có lợi ích cho Tổ quốc, cho đồng bào
là bạn. Những tư tưởng và hành động có hại cho Tổ quốc và đồng bào là kẻ thù... Điều
phải, thì phải cố làm cho kỳ được, dù là việc nhỏ. Điều gì trái, thì hết sức tránh, dù là một
điều trái nhỏ".
2.2. Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
- Thực trạng đạo đức lối sống trong sinh viên hiện nay:
Đạo đức Hồ Chi Minh đạo đức cách mạng nêu cao chủ nghĩa tập thể, tiêu diệt chủ
nghĩa nhân, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, ngã vị tha, chí công tư. Dưới
ngọn cờ của tư tưởng đó trong từng giai đoạn cách mạng, thế hệ trẻ Việt Nam đã lập được
nhiều kỳ tích to lớn, đóng góp vào tiến trình chung của lịch sử dân tộc.
Đi vào nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa hội nhập quốc tế một nền
đạo đức mới đã và đang hình thành cùng với công cuộc đổi mới của Đảng, là nguồn động
lực quan trọng của công cuộc phát triển đất nước. Đó là nền đạo đức vừa phát huy những
giá trị truyền thống của dân tộc như: yêu nước, thương người, sống nghĩa tình trọn vẹn,
cần, kiệm, liêm, chính, chí công với những yêu cầu mới. những nội dung mới do
đòi hỏi của dân tộc thời đại. Nhờ đó phần lớn sinh viên, thanh niên trí thức vẫn giữ
được lối sống tình nghĩa, trong sạch, lành mạnh: khiêm tốn, luôn cần cù và sáng tạo trong
học tập: sống bản lĩnh, chí lập thân, lập nghiệp, năng động, nhạy bén, dám đổi mặt
với những khó khăn thách thức, dám chịu trách nhiệm, không lại, chây lười; luôn gắn
với nhân dân, đồng hành cùng dân tộc phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng văn minh.
Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế do sự bùng phát
của lối sống thực dụng chạy theo danh lợi bất chấp đạo đã dẫn đến những tiêu cực
trong hội ngày càng phổ biến. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa hội
chưa được khắc phục, sự chống phá của các thế lực phản động quốc tế nhằm thực hiện
âm mưu "diễn biến hòa bình" đã tác động không nhỏ đến đời sống đạo đức công dân. ảnh
hưởng lớn đến tâm tư, tình cảm, ý chí phấn đấu của sinh viên, thanh niên tri thức. Hậu
quả là đã có một bộ phận sinh viên phai nhạt niềm tin, lý tưởng, mất phương hướng phấn
đấu, không trí lập thân, lập nghiệp: chạy theo lối sống thực dụng, sống thử, sống dựa
dẫm, thiếu trách nhiệm, thờ ơ với gia đình hội, sa vào nghiện ngập, hút xách: thiếu
trung thực, gian lận trong thi cử, chạy điểm, chạy thầy, chạy trường, mua bằng cấp... Đâv
là những biểu hiện không thể coi thường.
- Học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh không chỉ một
nhà đạo đức học lỗi lạc còn một tấm gương đạo đức song. Chính điều này đã
đem lại cho tưởng tấm gương đạo đức của người một sức sống mãnh liệt sự
cổ lớn lao không chỉ với nhân dân Việt Nam còn cả với nhân dân thế giới trong
cuộc đấu tranh dân chủ tiến bộ hội. Để trở thành người ích cho hội, người
chủ tương lai của nước nhà thế hệ trẻ Việt Nam nói chung sinh viên, thanh niên trí
thức nói riêng cần phải học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Dưới đây
là một số nội dung cơ bản:
+ Một là, học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp giải phóng con người.
Chủ tịch Hồ CMinh là con người Việt Nam đẹp nhất và là một trong những con người
đẹp nhất của thời đại chúng ta.
Ngay từ thủa thiếu thời, Hồ Chí Minh đã lựa chọn một cách rõ ràng và dứt khoát mục tiêu
hiến dâng cả cuộc đời mình cho cách mạng. Người đã chấp nhận mọi sự hy sinh, luôn
kiên định, dũng cảm sáng suốt để vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, "thắng không
kiêu, bại không nản", "giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy
không thể khuất phục" nhằm thực hiện bằng được mục tiêu đó. Người nói: Bài học
chính trong đời tôi là tuyệt đối và hoàn toàn cống hiến đời mình cho sự nghiệp giải phóng
thống nhất Tổ quốc, giải phóng giai cấp công nhân dân tộc bị áp bức, cho sự thắng
lợi của chủ nghĩa hội cho sự hợp tác anh em hòa bình giữa các dân tộc; "Một ngày
đồng bào còn chịu khổ một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên" Đến lúc phải rời
thế giới này điều luyến tiếc duy nhất của người "không được phục vụ lâu hơn nữa,
nhiều hơn nữa".
Tấm gương nước, dân suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng hội, giải phóng con người của Hồ Chí Minh đã được nhân dân thế giới bạn
bè quốc tế thừa nhận và kính phục. Họ đã dùng những lời lẽ đẹp đẽ và trang trọng nhất để
ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh: "nhà cách mạng triệt để", "nhà hoạt động quốc tế thần
thoại", "một nhân vật nổi bật nhất trong thời đại chúng ta", "một tấm gương sáng chói
những phẩm chất cách mạng nhân đạo cao cả nhất. Hiếm một nhà lãnh đạo nào
trong những giờ phút thử thách lại tỏ ra sáng suốt, bình tĩnh, gan dạ, quên mình, kiên nghị
dũng cảm một cách phi thường như vậy"; một con người "mà cái chết mầm sống
của sự sống và là nguồn cổ vũ đời đời bất diệt"...
+ Hai học cần, kiệm, liêm, chính, chí công tư, đòi riêng trong sáng, nếp sống
giản dị và đức khiêm tốn phi thường.
Hồ Chí Minh thường dạy cán bộ, đảng viên phải cần, kiệm, liêm, chinh, chí công vô tư, ít
lòng ham muốn vật chất, đó cách người cán bộ cách mạng tự mình, Người đã
gương mẫu thực hiện. Suốt đời Người sống trong sạch, thực hành cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư, luôn vì nước, vì dân, vì con người, không gợn chút riêng tư. Cố thủ tướng
Phạm Văn Đồng viết:"Hồ Chủ tịch không có cái gì riêng. Cái gì của nước, của dân là của
Người. Quyền lợi tối cao của nước, lợi ích hàng ngày của dân là sự lo lắng đêm ngày của
Người. Gia đình của Người là đại gia đình Việt Nam".
lãnh tụ cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi khinh mọi s xa hoa, không ưa chuộng
những nghi thức trang trọng cầu kỳ, suốt đời giữ một nếp sống thanh bạch, tao nhã, giản
dị, khiêm tốn, khắc khổ, cần lao tranh đấu để mưu cầu hạnh phúc cho dân. Toàn thể
nhân dân Việt Nam và thế giới đều biết bộ ka ki bạc màu, đôi dép lốp mòn, cái nhà sàn gỗ
đơn của Chủ tịch Hồ Chí Minh... Nói về những đức tính đại của Hồ Chí Minh.
X.Asienđê - vị Tổng thống anh hùng của nước Cộng hòa Chile đã khái quát: "Nếu như
muốn tìm một sự tiêu biểu cho tất cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì đó đức
tính vô cùng giản dị và sự khiêm tốn phi thường".
+ Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân
hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với
con người.
Hồ Chí Minh tình thương yêu bao la đối với con người. Tình thương đó gắn liền với
niềm tin tuyệt đối vào sức mạnh trí tuệ của nhân dân. Người luôn dạy cán bộ đảng
viên, việc lợi cho dân phải hết sức làm, việc hại cho dân phải hết sức tránh:
phải gần dân, hiểu dân, học dân, kính trọng nhân dân: hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân.
Người phê phán quyết liệt đầu óc "quan cách mạng" tự mình. Người thường xuyên đi
xuống sở để tìm hiểu. "lắng nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, của những
người không quan trọng". người uy tín rất cao sức hấp dẫn rất lớn song không
bao giờ Hồ Chí Minh đặt mình cao hơn nhân dân chỉ tâm niệm suốt đời công bộc của
nhân dân, "như một người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trước mặt trận".
Với tình thương yêu bao la, Hồ Chí Minh dành cho tất cả, chia sẻ với mỗi người những
nỗi đau riêng. Người nói trong "mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng
gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của
tôi". Cách mạng Tháng Tám thành công, cũng là lúc Việt Nam vừa trải qua nạn đói khủng
khiếp. Hồ Chí Minh chủ trương tăng gia sản xuất, mỗi tháng mỗi người nhịn ăn ba bữa để
góp gạo cứu đói người cũng đóng góp lon gạo của mình như mọi người dân. Đi thăm
trại binh trong chiến dịch biên giới về. Người không còn áo khoác ngoài Người đã
cho tên quan ba thầy thuốc người Pháp bị rét cóng...
Lòng nhân ái, khoan dung, nhân hậu của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ đại nghĩa của dân
tộc, nên có sức mạnh và sự cảm hóa to lớn trong việc xây dựng và tái tạo lương tri. Ở Hồ
Chí Minh, thương người một tình cảm lớn cho nên khi làm cách mạng Hồ Chí Minh
đặt vấn đề tự do và hạnh phúc đi đôi. Đó chính là biểu hiện chủ nghĩa nhân văn cộng sản,
vừa thánh thiện, vừa gần gũi, đã làm xúc động trái tim nhân loại Người được suy tôn
như "một ông thánh cộng sản"; "một con người của huyền thoại", cố Thủ tướng Phạm
Văn Đồng cũng lẫn bình luận: Lòng nhân đạo, tình thương đồng bào, đó điều sâu
sắc nhất tốt đẹp nhất trong con người Hồ Chủ tịch.
+ Bốn là, học tấm gương về ý chí nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua
mọi thứ thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống
Cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh một chuỗi những năm tháng cùng gian khổ.
Hai lần ngồi tù, một lần đã nhận án tử hình, có giai đoạn hoạt động sôi nổi được đánh giá
rất cao, giai đoạn bị hiểu nhầm, nghi kỵ, không được giao nhiệm vụ. Song, nhờ ý chí
nghị lực tinh thần to lớn, Hồ Chí Minh đã bình tĩnh, kiên cường, chủ động vượt qua
mọi thử thách, gian nguy, kiên trì mục đích cuộc sống, bảo vệ chân lý, giữ vững quan
điểm cách mạng của mình. Người đã làm thơ để tự răn:
"Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần càng phải cao".
Dũng cảm, quyết tâm, bền bỉ, bất khuất những đặc trưng trong nhân cách Hồ Chí
Minh. Một tờ báo nước ngoài đã viết: "Đằng sau cốt cách dịu dàng của Cụ Hồ một ý
chí sắt thép, Dưới cái bề ngoài giản dị là một tinh thần quật khởi anh hùng không có gì uy
hiếp nổi"
Trong tình hình hiện nay để phong trào "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh" của sinh viên hiệu quả đòi hỏi phải sự phối kết hợp của nhiều nhân tố: sự
giáo dục và việc tự tu dưỡng, rèn luyện của sinh viên; sự nêu gương của mọi người trong
xã hội, của bố mẹ trong gia đình, của cán bộ, đảng viên, của các thầy, cô giáo, các cán bộ
quản giáo dục sự hướng dẫn của luận hội pháp luật. Nếu coi thường một
trong những nhân tố trên, việc học tập rèn luyện sẽ khó đạt được kết quả như mong
muốn.
3. Sinh viên Việt Nam học và làm theo lời Bác
3.1. Một số thành tự đạt được
- Trong thời gian qua, với sự quan tâm của Đảng và nhà nước, gia đình, nhà trường, toàn
xã hội, sự nỗ lực của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh niên
Việt Nam và Hội Sinh viên Việt Nam, công tác giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên
đã đạt được những thành tựu nhất định, góp phần đào tạo ra một thế hệ thanh niên đủ sức
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
- Thế hệ trẻ ngày nay ngày càng năng động, hội nhập quốc tế, thông minh, tự tin, tự chủ,
nhiều bạn trẻ có những thành tựu từ khi còn rất sớm. Đa số sinh viên tin vào sự lãnh đạo
của Đảng, sống có trách nhiệm, có ước mơ, hoài bão, dám nghĩ, dám làm, dám thành
công.
3.2. Vấn đề đặt ra
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh của sinh viên hiện nay còn một số hạn chế:
- Nội dung giáo dục hiện nay chưa kết hợp tốt giữa giáo dục đạo đức, giáo dục văn hóa
với giáo dục khoa học, công nghệ và kỹ thuật, nội dung chưa phù hợp với nhu cầu và xu
thế thị trường lao động trong nước và quốc tế.
- Đặc biệt có một thời gian dài, chúng ta xem nhẹ việc giáo dục đạo đức cho thanh niên,
nếu có thì chỉ mang tính hình thức, kém hiệu quả.
- Nhìn chung, nội dung giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay vẫn chỉ mới tập
trung vào những vấn đề như giáo dục tư tưởng chính trị, giáo dục tri thức, giáo dục nghề
nghiệp, công ăn, việc làm... Trong khi đó có những nội dung cơ bản, quan trọng và cấp
bách vẫn chưa được quan tâm đúng mức, trong đó đặc biệt là những vấn đề giáo dục đạo
đức.
- Phương pháp giáo dục thanh niên thời gian qua vẫn chủ yếu sử dụng phương pháp
truyền thống, còn lạc hậu, chậm đổi mới, chậm hiện đại hóa, chưa gắn với đời sống xã
hội và lao động nghề nghiệp, chưa phát huy tính năng động, sáng tạo và năng lực thực
hành của thanh niên…
- Vẫn còn một bộ phận sinh viên không có chí hướng rõ ràng, chưa hiểu biết đầy đủ
truyền thống cách mạng của Đảng, của dân tộc, ít quan tâm đến tình hình của đất nước,
quốc tế. Một bộ phận sinh viên “nhạt Đảng, phai Đoàn, xa chính trị”, không có ý thức
vươn lên trong học tập và rèn luyện, có những sinh viên giảm sút niềm tin, thiếu niềm tin,
bản lĩnh non kém, thậm chí bị các thế lực thù địch lôi kéo, kích động tham gia vào các
hoạt động vi phạm pháp luật.
- Một bộ phận sinh viên hiện đang chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt, lợi ích cá nhân của
mình. Số này chỉ quan tâm đến việc học tập chuyên môn; tập trung vào việc đi học, sau
đó, đi làm thêm, ít quan tâm tới các vấn đề xã hội, chính trị; ít tham gia các phong trào,
các hoạt động xã hội.
- Một bộ phận sinh viên còn chịu tác động ảnh hưởng của các hoạt động tuyên truyền
xuyên tạc của các thế lực thù địch; tư tưởng còn bị dao động; nhiều lúc còn mơ hồ, thiếu
kiên định, thiếu hoài bão, không tích cực tham gia các phong trào và hoạt động xã hội.
3.3. Nhiệm vụ, giải pháp
Hội viên, sinh viên cần chủ động, tích cực, thường xuyên tìm hiểu, tuyên truyền tư tưởng
tấm gương Hồ Chí Minh về tinh thần trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm, góp
phần nâng cao nhận thức và ý chí quyết tâm thực hành trong sinh viên.
Kết quả học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh phụ thuộc nhiều
vào snỗ lực của thanh niên, sinh viên, tác động to lớn đến tương lai của nhân
đất nước.
Mỗi khi thanh niên, sinh viên tích cực nêu cao trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với
làm, đồng thời tuyên truyền tinh thần đó cho hội, đặc biệt đối với thiếu niên, nhi
đồng, càng có ý nghĩa lớn lao, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ.
- Trong công tác, sinh hoạt, cuộc sống đời thường, hội viên, sinh viên cần:
Dành thời gian thỏa đáng tìm hiểu tư tưởng, đạo đức, phong cách và tấm
gương Hồ Chí Minh về tinh thần trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm.
Tự soi mình, sửa mình và rèn luyện, tạo được thói quen cho bản thân làm theo
lời Bác dạy.
Phấn đấu trở thành tấm gương sáng về nêu cao tinh thần trách nhiệm, tính
trung thực, luôn nói đi đôi với làm để cho người khác noi theo.
Tham gia tích cực, hiệu quả các phong trào của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh
viên các cấp. Phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện đạt danh hiệu "Sinh viên 5 tốt" với
các tiêu chí: Đạo đức tốt, Học tập tốt, Thể lực tốt, Tình nguyện tốt, Hội nhập
tốt.
- Hội viên, sinh viên không chỉ có nhiệm vụ tích cực học tập và làm theo Bác về
trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm mà còn phải:
Tích cực tuyên truyền, làm cho nhiều xung quanh mình có nhận thức đúng
đắn, đầy đủ về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng, lợi ích to lớn của tinh thần
trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm; chỉ rõ tác hại của những hành vi vô
trách nhiệm, sự giả dối, nói một đàng làm một nẻo, hoặc "nói thì hay mà làm
thì dở" đối với bản thân, gia đình và xã hội.
Chú ý phát hiện, tuyên dương, nhân rộng các gương điển hình thanh niên, sinh
viên hoặc các cơ sở Đoàn, Hội có những ý tưởng, sáng kiến, cách làm hiệu quả
trong thực hành theo tưởng, tấm gương của Bác về tinh thần trách nhiệm,
trung thực nói đi đôi với làm.
- Mỗi đoàn viên, hội viên, thanh niên, sinh viên cần xác định trách nhiệm của
mình đối với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân; sẵn sàng xung phong cống hiến, hy
sinh vì sự nghiệp chung của đất nước:
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Chúng ta không một phút nào
được quên tưởng cao cả của mình phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc
lập, cho chủ nghĩa hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta trên toàn thế
giới".
"Nhiệm vụ của thanh niên không phải hỏi nước nhà đã cho mình những gì.
phải tự hỏi mình đã làm cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích
lợi nước nhà nhiều hơn? Mình đã lợi ích nước nhà hy sinh phấn đấu
chừng nào?".
Phải dám nghĩ, dám làm dám chịu trách nhiệm. Sẵn sàng nhận nhiệm vụ
trách nhiệm với nhiệm vụ của mình, nỗ lực hết sức mình để hoàn thành
nhiệm vụ, không tránh né, đùn đẩy nhiệm vụ qua cho hoàn cảnh hay người
khác. Sẵn sàng nhận lỗi gánh chịu hậu quả xấu đến với mình khi mình
không hoàn thành nhiệm vụ, không đổ thừa cho hoàn cảnh hay người khác.
- Không ngừng học tập, rèn luyện, thực hành đạo đức cách mạng, nêu cao tinh thần
trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm:
Đạo đức cách mạng có thể tóm tắt trong mấy điểm:
Trung thành: Trọn đời trung thành với sự nghiệp cách mạng, Với Tổ quốc, với
Đảng, với giai cấp.
Dũng cảm.
Không sợ khổ, không sợ khó, thực hiện:
"Đâu cần thanh niên có, việc gì khó thanh niên làm",
"gian khổ thì đi trước, hưởng thụ sau mọi người".
Khiêm tốn: Không nên tự cho mình tài giỏi, không khoe công, không tự
phụ.
Cần nâng cao nhận thức về phẩm chất trung thực, trách nhiệm trong công việc trong
cuộc sống, coi đó là đức tính cần thiết và quý báu, là phẩm giá của mỗi người.
- Học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về trung thực, trách nhiệm,
trước hết phải nói đi đôi với làm, phải tạo ra sự chuyển biến về tình cảm nhân
cách:
Tôn trọng chân lý, yêu cái đúng, ghét cái sai, tôn trọng sự thật, lẽ phải.
Sống ngay thẳng, thật thà, dũng cảm nhận lỗi khi mình mắc khuyết điểm.
Phải tự giác phấn đấu, rèn luyện đạo đức, tự phê bình, phê bình, cầu thị, sửa
chữa khuyết điểm, khắc phục những mặt hạn chế, tiêu cực, phát huy ưu điểm
và mặt tích cực.
- Không ngừng học tập, rèn luyện, thực hành đạo đức cách mạng, nêu cao tinh thần
trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm:
Mỗi hội viên, sinh viên cần xây dựng lối sống trong sáng, giản dị, chân tình.
Phải thật sự trung thực, trách nhiệm với chính mình, với gia đình, người thân,
bạn bè, đồng chí, với Tổ quốc và nhân dân.
Phải khắc phục cho được tình trạng thiếu trung thực, dối mình, dối người, dối
Đảng, dối dân.
Phải chống lại thói Ích kỷ, tính tham lam; kiên quyết đấu tranh với thói
cảm, "đục nước béo cò" khi người khác gặp hoạn nạn.
Phải đấu tranh với tệ làm ăn chụp giật, quay cóp, học hộ, thi hộ, bằng giả, mua
bán tri thức...
Đã trung thực với chính mình thì không bao giờ từ bỏ trách nhiệm của mình.
Trung thực và trách nhiệm góp phần để khắc phục suy thoái vềtưởng chính
trị, đạo đức, lối sống trong Đảng, trong xã hội.
Để làm được như vậy, trước hết phải nâng cao nhận thức về phẩm chất trung
thực, trách nhiệm trong công việc trong cuộc sống, coi đó đức tính cân
thiết và quý báu, là phẩm giá của mỗi người.
- Mỗi đoàn viên, hội viên, thanh niên, sinh viên gắn tinh thần trách nhiệm, được tính
trung thực, nói đi đôi với làm và thực hiện các nhiệm vụ chính trị, công việc chuyên
môn của cơ quan, đơn vị, địa phương, tổ chức đoàn, hội, đội:
Hội viên, sinh viên cần Chủ động học tập kiến thức, tích cực tu dưỡng đạo
đức, rèn luyện sức khỏe, lối sống lành mạnh, không vướng vào tệ nạn
hội, không nói dối thầy cô, cha mẹ.
Không gian lận trong thi cử, làm tròn trách nhiệm của người con ngoan, trò
giỏi.
Tích cực vận dụng kiến thức học được từ nhà trường áp dụng vào cuộc sống
hằng ngày, vào công việc.
Từ việc vận dụng tư tưởng HCM về đoàn kết quốc tế, đề
xuất giải pháp thực hiện chiến lược đoàn kết quốc tế ở Việt
Nam hiện nay
1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
Đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết là đoàn kết trong phong trào cộng
sản, công nhân quốc tế đoàn kết trong các nước hội chủ nghĩa anh em. Đoàn kết
quốc tế là nhân tố bảo đảm sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội cũng như thắng lợi của công
cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, phi thực dân hóa trên phạm vi toàn thế giới.
Người khẳng định: “Cuộc đấu tranh kiên quyết của các dân tộc bị áp bức nhất định sẽ
đánh bại bọn đế quốc thực dân. Chủ nghĩa hội cuối cùng sẽ toàn thắng trên khắp thế
giới. Trong sự nghiệp đấu tranh vĩ đại ấy, sự đoàn kết giữa lực lượng các nước xã hội chủ
nghĩa sự đoàn kết nhất trí giữa các đảng cộng sản công nhân tất cả các nước ý
nghĩa quan trọng bậc nhất”(1).
Nhằm đạt được thắng lợi cuối cùng ấy, Người yêu cầu cách mạng sản thế giới, các
đảng cộng sản công nhân quốc tế phải đoàn kết thống nhất, gắn mật thiết như anh
em một nhà. Người luôn tâm niệm:
“Quan sơn muôn dặm một nhà
Bốn phương vô sản đều là anh em”(2)
Muốn làm được như vậy, Hồ Chí Minh cho rằng, các đảng cộng sản và công nhân quốc tế
phải tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên quyết đấu tranh chống những
khuynh hướng tư tưởng sai lầm, lệch lạc như chủ nghĩa dân tộc tư sản, chủ nghĩa sô vanh,
giáo điều,…
Cùng với quan điểm về đoàn kết trong phong trào cộng sản công nhân quốc tế, trong
suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh còn chủ trương đoàn kết với tất cả các
dân tộc, các lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Trước và sau khi tuyên bố độc lập, trên cương vị người đứng đầu Chính phủ lâm thời Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần gửi điện, thư đến nguyên thủ
các nước như Tổng thống Truman ( Hoa Kỳ), Tưởng Giới Thạch (Trung Hoa) và Nguyên
soái Stalin (Liên Xô) bày tỏ quan điểm ngoại giao, mở rộng quan hệ với các nước, nhất là
các cường quốc để tranh thủ công nhận địa vị pháp lý của nước Việt Nam độc lập, qua đó
xác lập vị thế chủ nhà trong việc giao tiếp với các thế lực bên ngoài, bảo vệ chế độ dân
chủ cộng hòa non trẻ vừa mới được thành lập.
Ngày sau ngày tuyên bố độc lập, Chính phủ đã ra “Thông cáo về chính sách đối ngoại”
khẳng định mục tiêu phấn đấu cho “nền độc lập hoàn toàn vĩnh viễn” tưởng
bản thân thiện hợp tác với tất cả các nước, từ các nước Đồng minh, các nước láng
giềng, các dân tộc đang đấu tranh giải phóng cho đến nhân dân Pháp, kể cả kiều dân Pháp
đều được bảo đảm sinh mệnh và tài sản nếu họ tôn trọng chủ quyền của Việt Nam.
Tình đoàn kết quốc tế cao cả theo Người còn được thể hiện đậm nét trong mối tình đoàn
kết keo sơn gắn bó, đặc biệt giữa ba nước Việt Nam-Lào-Campuchia. Ba nước trên bán
đảo Đông Dương có đoàn kết chặt chẽ thì mới đánh thắng kẻ thù xâm lược, Người khẳng
định: “Sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân ba nước Việt Nam, Campuchia Lào
đoàn kết chặt chẽ nhất định sẽ giành được thắng lợi cuối cùng”(3).
tưởng Hồ Chí Minh về tình đoàn kết quốc tế cao đẹp còn được thể hiện đậm nét
tình đoàn kết với nhân dân tiến bộ trên thế giới. Ngay trong những năm đầu kháng chiến
ác liệt, Người cùng với Trung ương Đảng tiến hành nhiều hoạt động ngoại giao để tranh
thủ sự đồng tình, ủng hộ của Đảng Cộng sản Pháp nhân dân Pháp. Người cũng viết
nhiều bức thư, gửi những lời nhắn nhủ đến nhân dân Mỹ để làm tính chất xâm lược
của đội quân viễn chinh Mỹ, nêu bật tính chính nghĩa của nhân dân Việt Nam trong cuộc
kháng chiến chống xâm lược. Những hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thu phục
trái tim nhân dân thế giới, đi vào lòng người, tạo nên sức mạnh tinh thần ủng hộ Việt
Nam. Tổng kết thành quả của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Chính đã
biết kết hợp phong trào cách mạng nước ta với phong trào cách mạng của giai cấp công
nhân quốc tế của các dân tộc bị áp bức, Đảng ta đã vượt được mọi khó khăn, đưa
giai cấp công nhân và nhân dân ta đến những thắng lợi vẻ vang ngày nay”(4).
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, ủng hộ quốc tế vào giải quyết các
vấn đề quốc tế hiện nay
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, Đảng và Chính phủ Việt Nam luôn
tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân các nước đối với cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược Mỹ. Nhờ quan điểm đoàn kết đúng đắn đó của Người
Pháp Mỹ đã dấy lên phong trào các tầng lớp nhân n đòi chính phủ phải chấm dứt
chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Ngày nay, trong bối cảnh thế giới nhiều biến đổi, thời thách thức đan xen lẫn
nhau, vấn đề đoàn kết đấu tranh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tếnhững
thuận lợi và khó khăn mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, phát huy sự ủng hộ quốc
tế là cơ sở quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam hoạch định chủ trương, đường lối đối
ngoại và giải quyết các vấn đề quốc tế:
Một là, vận dụng tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ, dựa vào sức mình chính
làm nền tảng để mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát
triển bền vững không làm phương hại đến chủ quyền quốc gia, bản sắc văn hóa dân
tộc
Năm 1947, khi trả lời một nhà báo nước ngoài về quan niệm độc lập của Việt Nam, Hồ
Chí Minh nói rõ: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi,
không có sự can thiệp ở ngoài vào”(5).
Các quốc gia, dân tộc trên thế giới đang tham gia sâu rộng vào quá trình toàn cầu hóa, hội
nhập quốc tế, hợp tác cùng phát triển trong hòa bình hữu nghị. Chiến tranh, xung đột
cục bộ vẫn xảy ra, chủ nghĩa khủng bố những hành vi tàn ác chà đạp quyền sống của
con người. Đặc biệt, thái độ “lớn ép nhỏ”, lợi ích chủ nghĩan tộc cực đoan đã kéo
theo các hành vi xâm phạm độc lập, chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo của nước khác, bất
chấp luận luật pháp quốc tế. Trong đó, những phức tạp Biển Đông đã, đang
tiếp tục gây phức tạp, đe dọa đến hòa bình, ổn định của Việt Nam các nước trong khu
vực. Với truyền thống hòa hiếu, Việt Nam luôn mong muốn cùng các nước xây dựng
củng cố lòng tin chiến lược hòa bình, hợp tác, phát triển trên nguyên tắc tôn trọng độc
lập, chủ quyền, bình đẳng cùng lợi. Việt Nam kiên định nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các
quốc gia thành viên trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; không ngừng nỗ lực
làm sâu sắc thêm và xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, đối tác hợp tác cùng có lợi với
các quốc gia. Đối với các nguy thách thức về an ninh khu vực đang hiện hữu như
bán đảo Triều Tiên, Biển Hoa Đông, Biển Đông… Việt Nam trước sau như một kiên trì
nguyên tắc giải quyết bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, tôn trọng độc
lập chủ quyền lợi ích chính đáng của nhau. Các bên liên quan đều phải kiềm chế,
không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực.
Hai là, tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là sở luận quan trọng để Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ quốc tế trong bối cảnh mới
Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
non trẻ đứng trước muôn vàn thử thách, cùng một lúc phải đương đầu với giặc đói, giặc
dốt, giặc ngoại xâm. Trong thời khắc ngàn cân treo sợi tóc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khéo léo sử dụng ngoại giao đa phương để phục vụ mục tiêu của cách mạng. Thông cáo
về Chính sách ngoại giao do Hồ Chí Minh ký ngày 3-10-1945 thể hiện quan điểm đối
ngoại thân thiện thành thực hợp tác trên lập trường bình đẳng, tương ái; tôn trọng nền
độc lập của Việt Nam, hữu nghị, hợp tác và bình đẳng; đối với các dân tộc nhược tiểu trên
toàn cầu thì thân thiện, hợp tác chặt chẽ.
Có thể thấy rằng, tư duy đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ của nước ta được
hình thành từ rất sớm. Ngay từ tháng 6-1947, trả lời nhà báo Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh
bày tỏ mong muốn của Việt Nam làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ không gây
thù oán với một ai. Nhờ chính sách ngoại giao đa phương hóa quan hệ, ngoại giao Việt
Nam đã phá được thế bị bao vây, lập, cấm vận, khẳng định tính hợp pháp, hợp hiến
của chính quyền cách mạng khu vực trên thế giới. Qua hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, đến giai đoạn đất nước bước vào công cuộc đổi mới, giương
cao ngọn cờ độc lập dân tộc đoàn kết quốc tế, ngoại giao Việt Nam đã tranh thủ được
sự ủng hộ to lớn về vật chất tinh thần của bạnquốc tế, góp phần tạo nên sức mạnh
tổng hợp của đất nước phục vụ đắc lực vào cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc
công cuộc đổi mới đất nước.
Ba là, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế để tạo ra môi trường quốc tế
hòa bình, ổn định, hữu nghị với các nước láng giềng, các nước trong khu vực, các nước
lớn để tập trung mọi nguồn lực phát triển đất nước
Để xây dựng một thế giới hòa bình, phát triển tốt đẹp, theo Hồ Chí Minh các dân tộc cần
xích lại gần nhau, thông qua tiếp xúc, trao đổi để hiểu biết nhau hơn, tin cậy nhau, cùng
nhau giải quyết các xung đột. Người luôn tâm niệm: “với một sự tin cẩn lẫn nhau, những
dân tộc tự do bình đẳng vẫn thể giải quyết những vấn đề khó khăn nhất” “Thế
giới hòa bình thể thực hiện được nếu các nước trên thế giới, nhất những nước lớn,
đều sẵn sàng giải quyết những xích mích giữa các nước bằng thương lượng”(6).
Bằng những cố gắng không mệt mỏi của mình, Người đã sáng lập ra các tổ chức quốc
tế, đoàn kết các dân tộc đấu tranh vì độc lập, tự do vào những năm 20 của thế kỷ XX. Tư
tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh về giải quyết những bất đồng trong quan hệ quốc tế
lấy hữu nghị thay cho hận thù, đối thoại thay cho đối đầu, hòa bình thay cho chiến tranh,
luôn mong muốn tình hữu nghị, hòa bình, sự hợp tác thân thiện giữa các quốc gia, dân
tộc, giữa các nước trên thế giới.
Trong bối cảnh thế giới, khu vực và đất nước có nhiều biến đổi, thời cơ và thách thức đan
xen lẫn nhau, tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế sở luận vững chắc, lâu
dài cho cách mạng Việt Nam về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đảng
Cộng sản, nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới luôn phát huy cao nhất tinh thần đoàn
kết quốc tế cao cả của Người, để Người không còn day dứt trước lúc đi xa: “… tôi càng
tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi
càng đau lòng bấy nhiêu sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em”(7) cũng thực
hiện sự mong muốn của Người Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào
việc khôi phục lại đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin
chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”(8).
Vận dụng tư tưởng HCM về văn hóa vào xây dựng nền văn
hóa Việt Nam hiện nay
A. LỜI MỞ ĐẦU
Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại của Việt Nam. Người không chỉ cống hiến cả cuộc
đời mình cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước xã hội chủ
nghĩa mà còn để lại những di sản vô cùng quý giá cho nước ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là hệ tư tưởng của đảng, của dân tộc ta mà còn là kim
chỉ nam cho mọi đường lối, chính sách của Đảng để tiếp tục sự nghiệp cách mạng giải
phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tưởng về văn hóa chiếm một vị trí quan trọng.
Văn hóa có vai trò to lớn trong đời sống của mỗi quốc gia dân tộc. Theo Người, tiến lên
chủ nghĩa xã hội phải có cả vật chất lẫn tinh thần, song con người là nhân tố quyết định.
Để đưa đất nước đi lên, không thể không đặt trọng tâm vào kinh tế, nhưng chủ thể của
hoạt động kinh tế lại chính là con người và thước đo trình độ con người lại chính là văn
hóa. Người nhấn mạnh: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề chú ý đến,
cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Vì thế, văn hóa
không thể đứng ngoài “mà phải ở trong kinh tế và chính trị” và ngược lại kinh tế, chính
trị cũng nằm “trong văn hóa”. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa và
giải quyết những vấn đề xã hội; nếu chỉ coi tăng trưởng kinh tế là mục tiêu duy nhất thì
chẳng những môi trường văn hóa – xã hội bị hủy hoại mà mục tiêu kinh tế cũng không
đạt được. Hơn nữa, văn hóa là linh hồn, bản sắc dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng, văn hóa
không thể tách rời với quốc gia dân tộc, văn hóa trước hết là văn hóa của một dân tộc, nó
mang tâm hồn, diện mạo dân tộc, đó chính là bản sắc dân tộc của văn hóa. Để xây dựng
một nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng và nhà nước ta phải có những
chính sách, biện pháp đúng đắn trên cơ sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.
B. NỘI DUNG
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
1. Khái niệm văn hóa
Khái niệm “văn hóa” có nghĩa rộng, bao gồm nội hàm phong phú. Chính vì vậy có rất
nhiều định nghĩa về văn hóa. Trong Mục đọc sách ở phần cuối tác phẩm Nhật ký trong tù
được viết trong thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm từ 29-8-1942 đến
10-9-1943 tại Quảng Tây (Trung Quốc), lãnh tụ Hồ Chí Minh viết: "Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với
biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và
đòi hỏi của sự sinh tồn". Định nghĩa về văn hóa của Hồ Chí Minh có rất nhiều điểm gần
với quan niệm hiện đại về văn hóa, đồng thời, khắc phục được quan niệm phiến diện về
văn hóa trong lịch sử và hiện tại, hoặc chỉ đề cập đến lĩnh vực tinh thần, trong văn học
nghệ thuật, hoặc chỉ đề cập đến lĩnh vực giáo dục, phản ánh trình độ học vấn Trên thực
tế, văn hóa bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và những gía trị tinh thần mà loài
người đã sáng tạo ra, nhằm đáp ứng sự sinh tồn và cũng là mục đích cuộc sống của loài
người.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề chung của văn hóa
Cùng với định nghĩa về văn hóa, Hồ Chí Minh còn đưa ra Năm điểm lớn định hướng cho
việc xây dựng nền văn hóa dân tộc , bao gồm: xây dựng tâm lý, luân lý,xã hội, chính trị
và kinh tế. Như vậy, ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến văn hóa, đã thấy rõ
vai trò, vị trí của văn hóa trong đời sống xã hội. Vì thế, ngay khi giành được độc lập, Hồ
Chí Minh đã bắt tay vào việc xây dựng, kiến tạo một nền văn hóa mới ở Việt Nam trên tất
cả mọi lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức đến tâm lý con người, đã sớm đưa
văn hóa vào chiến lược phát triển đất nước.
Vị trí và vai trò của văn hóa cũng được Hồ Chí Minh xác định rõ trong quan điểm của
mình. Thứ nhất, văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng.
Văn hóa được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội.
Chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng, chính trị giải
phóng sẽ mở đường cho văn hóa phát triển. Theo Người: “Xã hội thế nào, văn nghệ thế
ấy Dưới chế độ thực dân và phong kiến, nhân dân ta bị nô lệ, thì văn nghệ cũng bị nô lệ,
bị tồi tàn, không thể phát triển được”. Chúng ta phải tiến hành cách mạng giải phóng dân
tộc để giải phóng chính quyền, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó giải phóng
văn hóa, mở đường cho văn hóa phát triển. Kinh tế phải đi trước một bước. Xây dựng
kinh tế để làm nền tảng cho việc xây dựng văn hóa. Hai là, văn hóa không thể đưng ngoài
mà phải ở trong kinh tế và chính trị, phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy sự phát
triển của kinh tế. Người cho rằng, văn hóa có tính tích cực, chủ động, đóng vai trò to lớn
như một động lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế và chính trị. Văn hóa phải tham gia
thực hiện những nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế. Bên cạnh
đó, kinh tế và chính trị cũng phải có tính văn hóa, điều mà chủ nghĩa xã hội và thời đại
đang đòi hỏi.
Nền văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh bao hàm ba tính chất: tính dân tộc, tính khoa
học và tính đại chúng. Điều đó có nghĩa là: văn hóa mỗi dân tộc đều có bản sắc đặc trưng
riêng, giúp phân biệt, không nhâm lẫn với văn hóa của các dân tộc khác. Đồng thời, phải
có tính hiện đại, tiên tiến, thuận với trào lưu tiến hóa của thời đại. Và nên văn hóa ấy phải
phục vụ nhân dân và do nhân dân xây dựng nên. Theo Hồ Chí Minh, văn hóa có ba chức
năng. Một là, bồi dưỡng lý tưởng, tư tưởng đúng đắn, tình cảm cao đẹp. Hai là, mở rộng
hiểu biết, nâng cao dân trí. Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt
đẹp, lành mạnh, hướng con người tới cái chân, thiện, mỹ để hoàn thiện bản thân. Hồ Chí
Minh chia văn hóa làm ba lĩnh vực: văn hóa giáo dục, văn hóa văn nghệ và văn hóa đời
sống.
II. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa vào việc xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong công cuộc đổi mới đất
nước hiện nay
1. Thực trạng nền văn hóa Việt Nam trong thời gian qua
a. Thành tựu
Trong điều kiện đất nước ta đi lên xã hội chủ nghĩa, trải qua hơn mười năm đổi mới, cùng
với những thay đổi tích cực của nền kinh tế xã hội, văn hóa Việt Nam cũng đã đạt được
những thành tựu đáng kể. Trong lĩnh vực tư tưởng, lối sống và đạo đức, chúng ta luôn đi
theo con đường chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây chính là con
đường đúng đắn mà nước ta đã kiên định từ đầu, vận dụng sáng tạo để phát triển nền văn
hóa dân tộc, đảm bảo cho đời sống tinh thần xã hội phát triển đúng hướng. Đảng ta luôn
lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tương Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho mọi hành động. Các cán bộ, đảng viên luôn có ý thức phấn đấu cho độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, tinh thần trách nhiệm và năng lực tổ chức thực tiễn. Nhiều nét mới
trong giá trị văn hóa và chuẩn mực đạo đức từng bước hình thành. Mỗi công dân được
khuyến khích và có cơ hội phát huy tính năng động, tích cực, sở trường và năng lực cá
nhân. Do đó, không khí dân chủ trong xã hội ngày càng tăng lên. Thế hệ trẻ tiếp thu
nhanh những kiến thức mới và có ý chí vươn lên lâp thân, lập nghiệp, xây dựng và bảo vệ
tổ quốc.Những việc làm thiết thực hướng về cội nguồn, về cách mạng và kháng chiến,
nhớ ơn các anh hùng dân tộc, quý trọng danh nhân văn hóa, đền ơn đáp nghĩa những
người có công với đất nước, lá lành đùm lá rách trở thành phong trào quần chúng. Mọi
công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.
Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, không ai được xâm
phạm quyền tự do ấy.
Sự nghiệp giáo dục thu được những thành tựu quan trọng, góp phần nâng cao dân trí,
trình độ học vấn của nhân dân, làm tăng thêm sức mạnh nội sinh. Ứng dụng khoa học - kĩ
thuật ngày càng phổ biến trong hoạt động sản xuất và đời sống giúp nâng cao chất lượng
cuộc sống người dân, hiệu quả sản xuất. Trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật, các hoạt động
sáng tạo có bước phát triển mới. Các bộ môn nghệ thuật truyền thống được giữ gìn, phát
huy và nhiều bộ môn nghệ thuật mới được sáng tạo thêm hoặc học hỏi từ các nước bạn bè
trên thế giới. Hoạt động lý luận, phê bình đã đạt được những kết quả tích cực, khẳng định
mạnh mẽ văn nghệ cách mạng và kháng chiến, đẩy lùi một bước những quan điểm sai
trái. Số đông văn nghệ sĩ được rèn luyện và thử thách trong thực tiễn cách mạng, có vốn
sống, giàu lòng yêu nước; trước những biến động của thời cuộc và những khó khăn của
đời sống vẫn giữ gìn được phẩm chất, kiên định quan điểm sáng tác phục vụ nhân dân,
làm sứ mệnh người nghệ sĩ - chiến sĩ. Nhiều văn nghệ sĩ tuổi cao, vẫn tiếp tục sự nghiệp
sáng tạo, lớp trẻ có nhiều cố gắng tìm tòi cái mới. Văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu
số có bước tiến đáng kể. Đội ngũ những nhà văn hoá người dân tộc thiểu số phát triển cả
về số lượng, chất lượng, đã có những đóng góp quan trọng vào hầu hết các lĩnh vực văn
học, nghệ thuật.
Thông tin đại chúng phát triển nhanh cả về số lượng và quy mô, về nội dung và hình
thức, về in ấn, phát hành, truyền dẫn, ngày càng phát huy vai trò quan trọng trong đời
sống văn hoá tinh thần của xã hội. Hệ thống mạng thông tin trong nước và quốc tế được
thiết lập, tạo khả năng lựa chọn, khai thác các nguồn thông tin bổ ích phục vụ đông đảo
công chúng. Đội ngũ các nhà báo ngày càng đông và có bước trưởng thành về chính trị,
tư tưởng và nghiệp vụ. Hoạt động giao lưu văn hoá với nước ngoài được mở rộng. Chúng
ta có dịp tiếp xúc rộng rãi với những thành tựu văn hoá nhân loại, đồng thời giới thiệu với
nhân dân các nước khác những giá trị tốt đẹp, độc đáo của văn hoá Việt Nam. Đảng và
Nhà nước đã quan tâm tăng cường bộ máy tổ chức, ban hành nhữngvăn bản pháp luật
nhằm điều chỉnh hoạt động của ngành văn hoá. Cơ sở vật chất phục vụ cho các hoạt động
văn hóa được nâng cao, xây dựng thêm nhiều nhà văn hoá, câu lạc bộ, bảo tàng, thư viện,
cửa hàng sách báo, khu vui chơi giải trí…và đã có những phương thức hoạt động mới có
hiệu quả.
b. Yếu kém
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền văn hóa nước ta vẫn còn tồn tại
nhiều yếu kém.
Trước hết là ở trong nhận thức tư tưởng, trong đạo đức và lối sống của người dân, ngay
cả trong nội bộ cán bộ, đảng viên.Trước những biến động chính trị phức tạp trên thế giới,
một số người dao động, hoài nghi về con đường xã hội chủ nghĩa, phủ nhận thành quả
của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta, phủ nhận lịch sử cách mạng hào hùng của nước Việt Nam ta dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng Sản. Nhiều người còn sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn
hoá dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ…đang gây hại đến thuần phong
mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên tình
nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, bạn bè, đồng chí, đồng nghiệp. Hoạt động buôn lậu và
nạn tham nhũng phát triển. Ma tuý, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác gia tăng. Nạn mê
tín dị đoan khá phổ biến, gây nghiều hậu quả xấu cho nhân dân. Nhiều hủ tục cũ và mới
lan tràn, nhất là trong việc cưới xin, tang lễ, lễ hội…
Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền. Nạn tham nhũng, dùng tiền của Nhà
nước tiêu xài phung phí, ăn chơi sa đoạ không được ngăn chặn có hiệu quả. Hiện tượng
quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, kèn cựa địa vị, cục bộ, địa phương, bè phái
mất đoàn kết khá phổ biến. Những tệ nạn đó gây sự bất bình của nhân dân, làm tổn
thương uy tín của Đảng, của Nhà nước.
Nhiều biểu hiện tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo làm cho xã hội lo lắng như sự
suy thoái đạo lý trong quan hệ thầy trò, bạn bè, môi trường giáo dục xuống cấp, lối sống
thiếu lý tưởng, hoài bão, ăn chơi, nghiện ma tuý…ở một bộ phận học sinh, sinh viên.
Nhiều học sinh, sinh viên có hiện tượng coi nhẹ giáo dục đạo đức, thẩm mỹ và các bộ
môn chính trị, khoa học xã hội và nhân văn, những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc ta.
Đời sống văn học, nghệ thuật còn những mặt bất cập. Nhiều tác phẩm được tạo ra chỉ với
mục đích thương mại mà không mang tính nghệ thuật, nhân văn . Trong sáng tác và lý
luận, phê bình, đã có lúc nảy sinh khuynh hướng phủ nhận thành tựu văn học cách mạng
và kháng chiến, đối lập văn nghệ với chính trị, nhìn xã hội với thái độ bi quan. Một số
ngành nghệ thuật như điện ảnh, sân khấu, đặc biệt là sân khấu truyền thống gặp rất nhiều
khó khăn, chưa hướng tới được đông đảo nhân dân.Lãnh đạo quản lý trong xuất bản văn
học, nghệ thuật còn nhiều sơ sở. Thiếu sự đầu tư trọng điểm và lâu dài cho sự ra đời
những tác phẩm lớn, cho việc giữ gìn và phát triển những ngành nghệ thuật truyền thống.
Về thông tin đại chúng, còn nhiều sản phẩm chất lượng thấp, chưa kịp thời phát hiện và
lý giải những vấn đề lớn do cuộc sống đặt ra. Báo chí chưa biểu dương đúng mức những
điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực, cũng như thiếu sự phê phán kịp thời những việclàm
trái với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đạo đức xã hội. Không ít trường
hợp thông tin thiếu chính xác, làm lộ bí mật quốc gia. Xu hướng lạm dụng quảng cáo để
thu lợi còn khá phổ biến. Một số ít nhà báo đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thông tin
thiếu trung thực, gây tác động xấu đến dư luận xã hội, nhưng chưa được xử lý kịp thời
theo pháp luật.
Giao lưu văn hoá với nước ngoài chưa tích cực và chủ động, còn nhiều sơ hở. Số văn hoá
phẩm đồi trụy, phản động xâm nhập vào nước ta còn quá lớn, trong khi đó, số tác phẩm
văn hoá có giá trị của ta đưa ra bên ngoài còn quá ít. Lực lượng hoạt động văn hoá - văn
nghệ trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiện nay không nhỏ, đã có những
công trình nghiên cứu, tác phẩm văn học, nghệ thuật tốt hướng về Tổ quốc. Song chúng
ta còn thiếu những biện pháp tích cực giúp đồng bào tìm hiểu sâu văn hoá dân tộc, liên hệ
mật thiết với tổ quốc, góp phần đấu tranh với những hoạt động chống phá đối với Tổ
quốc.
Chính sách khuyến khích và định hướng đầu tư xã hội cho phát triển văn hoá còn chưa
rõ. Ở nhiều vùng nông thôn, nhất là vùng sâu,vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu
số, vùng căn cứ cách mạng, kháng chiến trước đây, đời sống văn hoá còn quá nghèo nàn.
Để khắc phục được những yếu kém, phát huy những lợi thế đó, Đảng và nhà nước ta phải
có những chính sách đúng đắn, hợp lý,từ đó xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên cơ sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay
a. Nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
Theo Hiến pháp sửa đổi (1993) thì nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc tức là nền văn
hóa mang đầy đủ các nội dung về yếu tố dân tộc, dân chủ, nhân văn và hiện đại. Tính dân
tộc thể hiện qua 3 khía cạnh : là nền văn hóa có cội nguồn, gốc rễ dân tộc, phát triển dựa
trên điều kiện sức mạnh của dân tộc và phát triển luôn luôn vì lợi ích dân tộc, vì hạnh
phúc, phồn vinh của dân tộc. Tính dân chủ được biểu hiện thông qua sự mở rộng và phát
triển dân chủ để khẳng định chủ thể của nền văn hóa thuộc về nhân dân, để khai thác triệt
để tiềm nặng văn hóa dân tộc, phát hiện và phát triển những tài năng văn hóa. Tính nhân
văn của nền văn hóa biểu hiện sự trân trọng những giá trị của con người, nền văn hóa
thấm nhuần những giá trị nhân đạo sâu sắc và phát triển nhấn mạnh quy luật quan hệ
nhân tính, khẳng định vai trò văn hóa ở con người, khoan dung và mang nặng tính người.
Tính hiện đại của nền văn hóa thể hiện qua việc phát triển nền văn hóa dựa trên cơ sở vật
chất ngày càng hiện đại, dựa trên khoa học - công nghệ hiện đại và phục vụ cho việc đào
tạo, giáo dục con người theo hướng hiện đại, phát triển dựa trên tư tưởng tiến bộ xã hội.
Như vậy, nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc được hiểu qua hai đặctrưng: tiên
tiến và đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ
xã hội mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội theo
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mang tinh thần dân chủ, nền văn hóa
mà trong đó dân chủ là yếu tố làm thay đổi nhiều mặt của đời sống văn hóa dân tộc, là
tiền đề quan trọng cho sự phát triểnvăn hóa, tạo động lực cho sự phát triển tài năng, nhu
cầu sáng tạo của quần chúng nhân dân. Đó là nền văn hóa mang tính nhân văn, nhân đạo
sâu sắc, phản ánh mối quan hệ hài hòa giữa con người và con người, giữa con người với
tự nhiên, phát triển vì sự phát triển toàn diện và hạnh phúc của con người, mang tính hiện
đại về trình độ dân trí, khoa học, công nghệ Nền văn hóa tiên tiến không chỉ trong nội
dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội
dung. Nền văn hóa tiên tiến cũng là nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Tính chất dân
tộc luôn luôn gắn bó với tính chất tiên tiến của nền văn hóa và hai mặt này liên quan biện
chứng với nhau. Bản sắc văn hóa của một dân tộc là những đặc trưng về văn hóa, về đời
sống tinh thần dân tộc ấy, là những nét đặc biệt, độc đáo về tinh thần, về văn hóa, vềch
sống và sức sáng tạo để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Bản sắc văn hóa dân tộc
Việt Nam là hạt nhân của tinh thần sáng tạo của dân tộc, truyền từ đời này sang đời khác,
được làm giàu thêm bằng kinh nghiệm cuộc sống và sự sáng tạo của các thế hệ. Qua các
thời đại lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, yêu nước đã trở thành một giá trị
truyền thống của văn hóa dân tộc. Nó trở thành giá trị cao nhất trong các thang bậc giá trị
văn hóa Việt Nam và là một động lực cực kỳ to lớn. Chính vì vậy, nền văn hóa đậm đà
bản sắc dân tộc trước hết là nền văn hóa yêu nước. Có thể nói yêu nước và tiến bộ vừa là
đặc trưng bao quát nhất của nền văn hóa tiên tiến, vừa là đặc trưng của bản sắc dân tộc.
b. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa vào xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay Nền văn
hóa đậm đà bản sắc dân tộc chỉ có thể phát triển bền vững và phát huy đầy đủ bản sắc của
nó trên cơ sở tiếp thu được những tinh hoa trí tuệ của loài người, nền văn hóa tiên tiến
phải là nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc nhưng không thể tách khỏi quan hệ với thế
giới. Bởi xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra tất yếu xu thế đó là khách quan, mang tính
thời đại. Hơn nữa, toàn cầu hóa là một quá trình đầy mâu thuẩn, phức tạp, mặt tất yếu kỹ
thuật, kinh tế là mặt tích cực cólợi ta phải tận dụng, song cũng không thể bỏ qua mặt xã
hội kinh tế, mặt bản chất giai cấp của quá trình toàn cầu hóa.
Yêu cầu đó đòi hỏi phải quán triệt sâu sắc di sản văn hóa Hồ Chí Minh. Tăng cường và
đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và phát huy vai trò của các
đoàn thể nhân dân đối với các hoạt động văn hóa, xã hội, đồng thời tạo nên sự tham gia
tích cực hơn nữa của toàn xã hội trong công tác này. Trước những yêu cầu bức xúc của sự
nghiệp đổi mới, đòi hỏi phải quan tâm sâu sắc, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh
về văn hóa nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là yêu
cầu khách quan. Chúng ta cần triển khai thực hiện những biện pháp cơ bản sau:
Một là, nâng cao nhận thức về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển những giá trị xã
hội chủ nghĩa.
Văn hóa là sản phẩm hoạt động sáng tạo của con người. Nó không phải là cái gì tồn tại tự
nó, bên ngoài cộng đồng nhân loại, mà là toàn bộ những giá trị bao gồm hệ thống tri thức,
hành động, kinh nghiệm xã hội, tạo thành môi trường văn hóa nuôi dưỡng đời sống tinh
thần của con người, hướng con người vươn tới những lý tưởng cao đẹp và quyết tâm
phấn đấu vì tương lai, hạnh phúc và sự hoàn thiện con người. Phong trào văn hóa, đấu
tranh trên lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật những thắng lợi trên lĩnh vực này tạo thêm
những tiền đề cho sự nghiệp giải phóng và sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩ. Thực
tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh hùng hồn sức mạnh của văn hóa Việt Nam khi
nó được khơi dậytrong lòng dân tộc. Với sức mạnh truyền thống văn hóa Việt Nam, kết
hợp với tinh hoa văn hóa nhân loại, nhân dân ta đã giành được thắng lợi huy hoàng trong
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc xâm lược Mỹ. Trong thời kỳ đấu tranh
giành chính quyền, chủ nghĩa xã hội là lý tưởng, nguyện vọng của quần chúng, trở thành
động lực cách mạng to lớn; phong trào văn hóa, đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa - ngh
thuật và những thắng lợi trên lĩnh vực này tạo thêmnhững tiền đề cho sự nghiệp giải
phóng và sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sức mạnh diệu kỳ của văn hóa đã nâng
tầm vóc dân tộc Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ qua nhắc nhở chúng ta phải đặc biệt coi
trọng yếu tố văn hóa trong quá trình đổi mới đất nước hiện nay. Trong bối cảnh ngày nay,
cần có sự thống nhất cao về nhận thức trong toàn bộ hệ thống chính trị và toàn xã hội về
tầm quan trọng của văn hóa cả về lĩnh vực lý luận, thực tiễn và công tác chỉ đạo xây dựng
phát triển văn hóa. Đường lối phát triển văn hóa là hình ảnh phản chiếu bản chất của chế
độ xã hội. Thể hiện bản chất khác nhau giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, không
chỉ ở hệ thống chính trị, hệ thống kinh tế, mà còn ở chính sách văn hóa, phát triển văn
hóa lành mạnh, phát triển những giá trị công bằng, bình đẳng, nhân đạo, tiến bộ là mục
tiêu hướng tới của công cuộc đi lên xã hội chủ nghĩa. Xây dựng và phát triển văn hóa liên
quan và tác động chặt chẽ với các lĩnh vực khác, cùng nhằm đảm bảo đẩy mạnh phát triển
kinh tế - xã hội, nhu cầugiữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, xét trên cả
khía cạnh nộidung và hình thức, phát triển văn hóa chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng
trong quá trình đổi mới đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa mà mỗi tổ chức
Đảng và toàn bộ hệ thống chính trị và toàn xã hội phủ nhận thức rõ và thực hiệnnghiêm
túc. Do vậy cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền trước tiên là trong các cấp ủy Đảng,
và toàn bộ Đảng viên, sau đó là tuyên truyền cho toàn xã hội nhận thức một cách đúng
đắn, đầy đủ tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hóa, vai trò của văn hóa, yêu cầu xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường
và hội nhập kinh tế quốc tế.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đáng, phát huy vai trò quản lý của Nhà nước, phát
huy vai trò của các đoàn thể nhân dân, đồng thời đẩy mạnh công tác xã hội hóa trong
xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đối
với mọi hoạt động văn hóa là vấn đề có tính nguyên tắc, là nhân tố quyết định thắng lợi
của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ngày nay. Sự lãnh
đạo của Đảng là vấn đề bảo đảm về chính trị, tư tưởng để xây dựng nền văn hóa trên nền
tảng của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, đi đúng quỹ đạo và mục tiêu xác định. Có
phát huy vai trò quản lý của Nhà nước mới tập trung được nguồn đầu tư đúng hướng đi
liền với tăng cường quản lý, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời phát huy
vai trò của các đoàn thể nhân dân, thực hiện xã hội hóa công tác xã hội, nhằm phát huy
cao nhất tiềm năng, sức mạnh của các đoàn thể, của cá nhân, cộng đồng và của toàn xã
hội vào việc đầu tư, lưu giữ, củng cố các giá trị văn hóa vào giải quyết các vấn đề xã hội.
Nhà nước cần phải tăng cường quản lý văn hóa, tuy nhiên sự quản lý của Nhà nước thông
qua hệ thống pháp luật và có những cách thức phù hợp, linh hoạt. Nhà nước đầu tư vào
những lĩnh vực, những khía cạnh không hoặc ít có khả năngxã hội hóa. Xã hội hóa xây
dựng, phát triển văn hóa trước hết ở việc huy động các nguồn lực đóng góp vào sự nghiệp
xây dựng và phát triển văn hóa. Có nhữngchính sách mang lại quyền lợi thiết thân cho
chính người dân, thì đó chính là "đem tài dân, sức dân làm lợi cho dân". Xã hội hóa
không chỉ có ý nghĩa giải quyết vấn đề tài chính, mà còn khẳng định truyền thống nhân
nghĩa, tăng thêm trách nhiệm của cộng đồng, xây dựng tinh thần đoàn kết dân tộc nếu
không phát huy sức mạnh của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, thì Nhà nước tự
mình không thể đảm đương nổi. Thực tế những năm qua cho thấy, nhiều chương trìnhxoá
đói, giảm nghèo, lao động và việc làm, để đền ơn đáp nghĩa, hỗ trợ nhân đạo, toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư chỉ thành công khiphát huy đầy đủ vai
trò của các tổ chức đoàn thể xã hội, doanh nghiệp và cá nhân trong xã hội. Đó chính là
thực hiện phương châm cái gì xã hội làm tốt hơn Nhà nước thì để xã hội làm, Nhà nước
chỉ hướng dẫn, hỗ trợ bằng định chế luật pháp; cái gì mà xã hội không thể làm hoặc làm
không tốt, thì Nhà nước có trách nhiệm phải làm; mặt khác Nhà nước phải quan tâm xây
dựng, hoàn thiện cơ chế chính sách, chế tài ổn định đáp ứng yêu cầu xã hội hóa hoạt động
văn hóa.
Ba là, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với xây dựng và
phát triển văn hóa, xã hội.
Thống nhất giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, đòi hỏi việc xác địnhmỗi chính
sách kinh tế đều nhằm thực hiện mục tiêu văn hóa. Đảng và Nhà nước phải lãnh đạo, tìm
giải pháp tạo động lực phát triển kinh tế từ trong cội nguồn và sức mạnh văn hóa, không
chạy theo mục tiêu kinh tế đơn thuần với bất cứ giá nào. Mặt khác, mỗi chính sách phát
triển văn hóa của Nhà nước đều phải dựa trên cơ sở và khả năng kinh tế nhất định và phù
hợp với thực lực kinh tế của đất nước.
Trong điều kiện hiện nay, để đẩy mạnh phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc, Đảng, Nhà nước phải tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế, nhằm tạo điều kiện
vật chất để phát triển văn hóa. Bởi chúng ta không thể thực hiện các mục tiêu phát triển
văn hóa, xã hội nếu tách rời với các khả năng kinh tế, khôngxuất phát từ thực trạng kinh
tế - xã hội. Tuy vậy cũng không phải cứ có tăngtrưởng kinh tế là tự nó giải quyết được
các vấn đề văn hóa. Trong nhiều trườnghợp có tăng trưởng kinh tế mà không có quan
điểm đúng đắn về văn hóa thì thành quả tăng trưởng kinh tế cũng chệch khỏi các mục tiêu
văn hóa, xã hội. Do đó, không phải chờ đến khi kinh tế phát triển mới giải quyết các vấn
đề văn hóa, mà trong từng hoàn cảnh, điều kiện, bước đi của tăng trưởng kinh tế cần lựa
chọn mức độ, hình thức và biện pháp phát triển văn hóa cho phù hợp. Đường lối phát
triển văn hóa - xã hội đúng đắn thì sẽ tạo ra động lực đối với sự phát triển của đất nước.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, nếu không có quan
điểm phát triển văn hóa, xã hội đúng đắn, sẽ có nguy cơ đẩy xã hội đi đến phân cực thái
quá, giữa người giàu và người nghèo, giữa nông thôn và thành thị, giữa vùng thuận lợi và
vùng khó khăn cùng nhiều tệ nạn xã hội sẽ xuất hiện, giá trị truyền thống bị mai một, văn
hóa - văn nghệ chạy theo thị hiếuthấp hèn Những biểu hiện ấy nếu để tích tụ lâu ngày sẽ
không chỉ kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội, mà còn đe dọa đến sự ổn định chính trị.
Do vậy Đảng và Nhà nước cần quan tâm đề ra cách tổ chức, thực hiện có hiệu quả đường
lối, chủ trương, chính sách, pháp luật để giải quyết đúng đắn, hài hòa quan hệ giữa phát
triển kinh tế với xây dựng phát triển văn hóa.
Bốn là, xây dựng văn hóa phải bắt đầu với tư cách là chủ thể của văn hóa.
Con người là chủ thể chân chính sáng tạo ra những giá trị văn hóa, đồng thời là sản phẩm
của môi trường văn hóa. Những phẩm chất cá nhân của con người được hình thành và
phát triển trong quá trình phát triển của nền văn hóa. Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: Phải làm
thế nào cho văn hóa đi sâu vào tâm lý quốc dân, nghĩa là làm cho văn hóa phải sửa đổi
được tham nhũng, lười biếng, xa hoa, xa xỉ. Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi.
Ngày nay, trước tác động của kinh tế thị trường và hội nhập, những cơ hội và thách thức,
trước cả thăng hoa và cám dỗ, văn hóa phải trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn
thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng, phát huy truyền thống yêu nước, ý chí
tự lực, tự cường, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Văn hóa phải tham gia tích cực vào việc
phát triển nguồn nhân lực, đào luyện nhân tài cho đất nước. Đảng và Nhà nước phải lãnh
đạo để mọi hoạt động văn hóa đều nhằm vào xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, thể chất, năng lực, tính sáng tạo, có ý thức cộng
đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, có lối sống văn hóa, quan hệ hài
hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội.
Năm là, giữ vững và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình giao lưu
hội nhập quốc tế.
Trước xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa của thế giới hiện nay, không một quốc gia nào có
thể phát triển trong sự tách biệt với thế giới. Tình hình đó đang mở ra thời cơ lớn để tiếp
thu những tinh hoa văn hóa, văn minh nhân loại, làm phong phú thêm cho văn hóa dân
tộc.Tuy nhiên, quá trình đó không phải chỉ diễn ra theo chiều thuận, mà có cả chiều
nghịch. Nếu không có một bản lĩnh vững vàng, một chiến lược phát triển văn hóa đúng
đắn thì việc mở cửa giao lưu sẽ dẫn đến nguy cơ sùng ngoại, đánh mất bản sắc văn hóa
dân tộc, văn hóa chỉ còn là bản sao vụng về, mờ nhạt của một thứ văn hóa vay mượn,
ngoại lai. Do vậy, chúng ta ghi nhớ tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh: Bảo vệ bản sắc văn
hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại là hai mặt của một quá trình, hai mặt
đó luôn luôn kết hợp chặt chẽ với nhau, bất cứ một sự lệch lạc nào cũng đưa đến những
tổn hại cho việc xây dựng nền văn hóa mới. Trong lãnh đạo, xây dựng phát triển văn hóa,
Đảng ta nhấn mạnh: Phải lấy bản sắc văn hóa dân tộc làm nền tảng, làm bản lĩnh, nền
tảng, bản lĩnh có vững vàng thì mới tiếp thu được những tinh hoa văn hóa nhân loại đúng
đắn; mới chắt lọc được những gì thực sự là tinh hoa và mới vứt bỏ được những gì là phế
thải của bất cứ loại phản văn hóa nào từ bên ngoài. Bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc phải
gắn liền với lãnh đạo việc nâng cao nhận thức, tư tưởng, nâng cao những hiểu biết về văn
hóa, khoa học hiện đại của quần chúng nhân dân, để quần chúng phân biệt được những gì
thực sự là chân, thiện, mỹ với những cái giả, cái ác, cái xấu; nhận cái hay, bỏ cái dở. Cần
quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh: Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm, cũ mà
xấu thì phải bỏ; mới mà hay thì phải làm; mới mà dở, hoặc không phù hợp với con người
Việt Nam thì không tiếp nhận.Giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống, vun trồng
những giá trị nội sinh của dân tộc, tạo cơ sở vững chắc để tiếp thu tinh hoa văn hóa của
nhân loại và thời đại ngày nay đang là yêu cầu khách quan trong quá trình xây dựng nền
văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam. Điều đó đòi hỏi Đảng, Nhà nước,
các đoàn thể nhân dân phải tiếp tục quan tâm sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
C. KẾT LUẬN :
Vận dụng tốt tư tưởng Hồ Chí Minh về Đời sống văn hóa mới là điều cần thiết, cấp bách
trong thời đại hiện nay - thời đại kinh tế thị trường kéo theo nguy cơ biến đổi các giá trị
văn hóa truyền thống. Thực hiện câu nói của Bác Hồ: "Văn hóa soi đường cho quốc dân
đi", việc xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong những năm sắp tới là khát vọng
to lớn và quyết tâm chiến lược của Ðảng ta nhằm phát triển mạnh mẽ văn hóa dân tộc,
chấn hưng đất nước, đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên sánh vai với các
nước trên thế giới. Điều đó đòi hỏi phải có sự đồng lòng của toàn dân tộc ta trong việc
xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, từ đó làm nền tảng để thực
hiện công cuộc đổi mới đất nước, đi lên xã hội chủ nghĩa.
Thế hệ trẻ là những chủ nhân tương lai của đất nước, gánh trên vai trách nhiệm xây dựng,
bảo vệ và phát triển đất nước. Là thế hệ trẻ - những người được lĩnh hội tri thức, thế h
sinh viên cần góp sức của mình vào công cuộc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, lấy đó làm nền tảng phát triển kinh tế, chính trị, xã hội cho đất nước.
Muốn thế, mỗi sinh viên phải luôn có ý thức nỗ lực học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh. Có như vậy, nền văn hóa của dân tộc ta mới thực sự là nền văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Việt Nam ta mới có thể “bước tới đài vinh quang để
sánh vai cùng các cường quốc năm châu”.
Từ quan điểm HCM đoàn kết toàn đân tộc, vận dụng vào
việc xây dựng khối đại đoàn kết ở Việt Nam hiện nay ?
Đại đoàn kết truyền thống quý báu của dân tộc ta, được hun đúc trong quá trình dựng
nước giữ nước; nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu nhân tố ý nghĩa quyết
định bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Bài viết phân tích tưởng Hồ Chí
Minh quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc, đề ra giải pháp tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm xây dựng phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc. Theo Người, cách mạng sự nghiệp của quần chúng, không
phải là việc một, hai người có thể làm được. Do đó, cần đoàn kết toàn dân tộc, có nghĩa là
phải tập hợp được tất cả mọi người Việt Namo một khối trong cuộc đấu tranh chung.
Hồ Chí Minh khẳng định, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc phải kế thừa truyền thống
yêu nước, nhân nghĩa, tinh thần cộng đồng của dân tộc Việt Nam, phải lòng khoan
dung, độ lượng, tin vào nhân dân, tin vào con người.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, đoàn kết làm nên sức mạnh cội nguồn của mọi thành công:
“Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng
lợi”; “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,/Thành công, thành công, đại thành công”; tăng
cường đoàn kết toàn dân tộc một nhiệm vụ bản, nhất quán, lâu dài, sống còn của
cách mạng.
Đại đoàn kết trongtưởng Hồ Chí Minh không chỉphương pháp tổ chức, tập hợp lực
lượng, mà cao hơn là một bộ phận hữu cơ, một tư tưởng xuyên suốt trong đường lối chiến
lược cách mạng. Người khẳng định: “Đoàn kết một chính sách dân tộc, không phải
một thủ đoạn chính trị”. Đoàn kết toàn dân tộc vừađiều kiện tiên quyết, sống còn, vừa
là tôn chỉ, mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc không chỉ dừng lại trong nhận thức, phải được cụ thể hóa trong mọi bước đi,
tình huống của cách mạng. Người nhấn mạnh “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất
và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà”.
Hồ Chí Minh chỉ ra lực lượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc toàn dân trong đó,
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng.
Theo nghĩa đó, đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các chính đảng, đoàn
thể, các dân tộc, tôn giáo, kể cả những người trước đây lầm đường lạc lối nhưng đã biết
hối cải, quay về với chính nghĩa của dân tộc; đoàn kết rộng rãi tất cả những lực lượng và
bộ phận có thể tranh thủ. Theo Người, mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng người đều có thể còn
những hạn chế, nhược điểm. Nhưng, lợi ích chung của cách mạng phải lòng
khoan dung, độ lượng, trân trọng phần thiện nhỏ nhất mỗi người mới thể tập
hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng. “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ, thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng
thật thà đoàn kết với họ”. “Ai tài, sức, đức, lòng phụng sự Tổ quốc phục
vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.
2. Quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc
Kế thừa, vận dụng tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết toàn dân tộc, trong lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp
luật về dân tộc, tôn giáo, thanh niên, phụ nữ, công nhân, nông dân, trí thức, văn nghệ sĩ,
người Việt Nam ở nước ngoài... nhằm khơi dậy, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc.
Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta xác định xây dựng phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc là động lực chủ yếu trong tiến trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan điểm
này được Đảng đề ra từ Đại hội VI (năm 1986) không ngừng được bổ sung, phát triển
qua mỗi kỳ Đại hội Đảng. Bốn bài học lịch sử mà Đại hội VI chỉ ra đã bao hàm tinh thần
đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó nổi bật bài học lấy dân làm gốc kết hợp sức
mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, thực hiện đoàn kết quốc tế. Dân gốc,
nền tảng của xã hội, là động lực phát triển của đất nước. Quan điểm này đã trở thành linh
hồn của đường lối đổi mới, là gốc của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc đã được nâng lên một bước phát triển mới, trong Nghị
quyết số 07-NQ/TW ngày 17-11-1993 của Bộ Chính trị (khóa VII) về đại đoàn kết toàn
dân tộc tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất. Nghị quyết đã thể hiện sự kế thừa
phát triển tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khẳng định yếu
tố dân tộc một “đặc điểm cực kỳ quan trọng”, đồng thời chỉ phải tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân, củng cố mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, đưa khối đại
đoàn kết toàn dân tộc lên tầm cao mới.
Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc, Đảng ta
luôn luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân. Đó đường lối chiến lược,
nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” mục tiêu cao đẹp
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đại hội X nhấn mạnh: “Đại đoàn
kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ
chức đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của
Đảng chính sách, pháp luật của Nhà nước ý nghĩa quan trọng hàng đầu”. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội (bổ sung, phát triển
năm 2011) đã khẳng định, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết toàn Đảng, đoàn
kết toàn dân, đoàn kết quốc tế một bài học kinh nghiệm của cách mạng nước ta trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo
của nhân dân để xây dựng bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một đất nước Việt
Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái
với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước,
nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước,
tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.
Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Mọi hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ đảng
viên, công chức, viên chức phải phục vụ lợi ích của nhân dân. Giải quyết hài hòa các mối
quan hệ lợi ích trong hội, bảo về quyền lợi ích hợp pháp chính đáng của nhân dân;
không ngừng cải thiện nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”.
Hiện nay, bối cảnh quốc tế, khu vực có những diễn biến nhanh, phức tạp, khó dự báo; đan
xen cả thời cơ và thách thức, thuận lợi và khó khăn, đối với sự nghiệp đổi mới nói chung,
với xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc nói riêng. Lợi dụng quá trình mở
cửa, hội nhập, các thế lực thù địch đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa bình”, kích động
tưởng ly khai, chia rẽ dân tộc, tạo ra mâu thuẫn, gây xung đột xã hội, làm mất ổn định
chính trị - xã hội. Những vấn đề đó đang đặt ra nhiều thách thức lớn đối với khối đại đoàn
kết toàn dân tộc.
3. Giải pháp tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay
Đại đoàn kết toàn dân tộc đường lối chiến lược, động lực nguồn lực to lớn trong
xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phát huy
mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; tôn
trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao
tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết
mọi người Việt Nam trong ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân
với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết dân tộc.
Để khắc phục những hạn chế trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc thời
gian qua, đồng thời tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới, cần
thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, nâng cao nhận thức về vai trò, sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc
Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền để các cấp, các ngành, các lực lượng, mọi người dân
nhận thức rõ và đúng về sự cần thiết của tăng cường đại đoàn kết toàn dân. Tuyên truyền,
làm cho mỗi cán bộ, đảng viên, mọi người Việt Nam nhận thức sâu sắc lời căn dặn trong
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đoàn kết một truyền thống cực kỳ quý báu của
Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn
kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Đồng thời, phải quán triệt và
thực hiện lời dạy của Người: “Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta
độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay
ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi...”. Quán triệt
thực hiện quan điểm đại đoàn kết toàn dân tộc đường lối chiến lược của cách mạng
Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tiếp tục thể chế hóa cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về đại
đoàn kết toàn dân tộc. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, cácchế, chính sách
về dân tộc, tôn giáo, chính sách xã hội nhằm khuyến khích, động viên, phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hoàn thiện những
chính sách cụ thể, quan tâm các tầng lớp, giai cấp trong hội, như: công nhân, nông
dân, trí thức, doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi; các chính
sách xã hội, nhấtchính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, những người có công
với cách mạng, tạo điều kiện để họ khắc phục khó khăn, bảo đảm cuộc sống, tích cực
tham gia xây dựngbảo vệ Tổ quốc, v.v.. Phổ biến thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở
sở, giải quyết tốt những vấn đề hội bức xúc. Các cấp ủy đảng chính quyền phải
thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết khó khăn, vướng
mắc yêu cầu chính đáng của nhân dân; tin dân tôn trọng dân. Hoàn thiện hệ thống
pháp luật để “bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”, nhân dân thực sự
làm chủ, được bày tỏ nguyện vọng của mình thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân.
Kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Cấp ủy đảng, Mặt trận Tổ quốc các cấp các đoàn thể tham gia tuyên
truyền sâu rộng để mọi tầng lớp nhân dân nhận thức rõ âm mưu thâm độc của các thế lực
thù địch lợi dụng những mặt còn hạn chế, yếu kém của các cấp chính quyền và vấn đề tín
ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Từ đó, nâng cao tinh
thần cảnh giác, sự nhạy bén trong nhận diện tích cực tham gia đấu tranh với những
quan điểm sai trái, thù địch.
Hai là, tăng cường vai trò của Đảng, Nhà nước các tổ chức chính trị - hội trong
củng cố và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Toàn bộ sự lãnh đạo của Đảng, quản của Nhà nước hướng vào tăng cường củng cố,
phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thông qua đường lối, chính sách, pháp
luật, tạo sở cho s thống nhất các lợi ích, thống nhất về ý chí hành động của các
giai cấp, tầng lớp, nhất là giữa giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức.
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại
hội XII của Đảng khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các đoàn thể nhân dân
đổi mới cả về nội dung và phương thức hoạt động; phát huy ngày càng tốt hơn vai trò tập
hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; cùng Đảng, Nhà nước chăm lo, bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tham gia xây dựng Đảng, quản
nhà nước, quản hội; thường xuyên tổ chức các cuộc vận động, phong trào thi đua
yêu nước, góp phần tích cực vào những thành tựu chung của đất nước”. Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam các đoàn thể phải “cầu nối” giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân để nhân
dân tin tưởng, chủ động phản ánh, góp ý kiến, tham gia bàn bạc những vấn đề quan trọng
của đất nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp phải chủ động phối hợp với chính
quyền giải quyết triệt để những vấn đề hội bức xúc, lợi ích chính đáng của nhân dân
trên cơ sở tin nhân dân và tôn trọng nhân dân.
Tăng cường vai trò giám sát phản biện hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các
tổ chức đoàn thể để tạo sự đồng thuận, nhất trí cao, ổn định xã hội, phát triển toàn diện và
bền vững đất nước.
Ba là, phát huy vai trò của nhân dân trong khối đại đoàn kết dân tộc
Trân trọng, tôn vinh những đóng góp, công hiến của nhân dân; chế chính sách đặc
biệt để thu hút nhân tài. Tôn vinh những doanh nhân nhiều đóng góp cho sự nghiệp
phát triển đất nước. “Xóa bỏ rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển
kinh tế tư nhân lành mạnh và đúng định hướng. Phát huy mặt tích cực có lợi cho đất nước
của kinh tế nhân...”. chế, chính sách phù hợp, tạo thuận lợi cho thế hệ trẻ học
tập, nghiên cứu, lao động, giải trí, phát triển trí tuệ, kỹ năng, thể lực để cống hiến cho đất
nước. Tôn trọng tạo điều kiện, hội để nhân dân tham gia thảo luận, góp ý những
vấn đề quan trọng của đất nước.
“Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo”. Quán triệt, thực hiện
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc: “... vận động tất cả lực
lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn
dân”; “Ai tài, đức, sức, lòng phụng sự Tổ quốc phục vụ nhân dân thì ta
đoàn kết với họ” để xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thực hiện tốt chính sách bình đẳng giới; hoàn thiện chính sách pháp luật về tín ngưỡng,
tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Đối với đồng
bào định cư nước ngoài, cần chính sách hỗ trợ con ổn định cuộc sống, phát triển
kinh tế, góp phần tăng cường hợp tác hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước.
Đồng thời, “... tạo điều kiện để đồng bào giữ gìnphát huy bản sắc văn hóa dân tộc;
cơ chế, chính sách thu hút đồng bào hướng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng và bảo vệ đất
nước”.
Tiếp tục thực hiện tốt các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo trong nhân dân để phát triển kinh tế, làm giàu chính đáng cho
bản thân, cho gia đình, nêu cao tính cộng đồng và truyền thống nhân ái, tham gia xóa đói
giảm nghèo.
| 1/37

Preview text:

Vận dụng tư tưởng HCM trong xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền được Đảng ta
vận dụng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Thứ nhất, Lãnh tụ Hồ Chí Minh xác định bản chất dân chủ của Nhà nước ta: “Nước ta là
nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc
đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc
của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung
ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”1.
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân; vấn đề cốt tử là
làm sao để nhân dân thực sự làm chủ vận mệnh của đất nước. Để quyền làm chủ của nhân
dân được bảo đảm và thực thi trong cuộc sống, cần xây dựng và hoàn thiện thể chế,
phương thức, cơ chế thực hiện. Người chỉ rõ, phải xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, trong đó nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng Nhà nước pháp quyền
và các tổ chức xã hội do chính họ lập ra và quản lý. Theo đó, nhân dân vừa là người cử ra
chính quyền các cấp, vừa là người quản lý, kiểm tra, kiểm soát toàn bộ hoạt động của bộ
máy quyền lực đó. Quan điểm về quyền làm chủ đất nước và xã hội của nhân dân được
Lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng ta đề cập hết sức đầy đủ và sâu sắc; được thể chế hóa
trong các bản Hiến pháp. Điều 2, Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân; 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm
chủ, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; 3. Quyền lực Nhà nước là thống
nhất có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ đất nước và xã hội của nhân dân được Đảng ta
đúc kết thành cơ chế, chính sách quản lý, điều hành đất nước: Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, Nhân dân làm chủ. Cơ chế đó phát huy được tính tích cực, chủ động của các tổ
chức chính trị - xã hội, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, đáp ứng đòi
hỏi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Thứ hai, Nhà nước pháp quyền mà Đảng ta xây dựng là nhà nước tôn trọng pháp luật,
được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Ngay sau khi tổ
chức thành công Cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc hội đầu tiên (06/01/1946), Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chỉ đạo khẩn trương xây dựng và thông qua Hiến pháp năm 1946, đặt
nền móng cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Quá trình chỉ đạo xây
dựng Hiến pháp và pháp luật, tổ chức và vận hành nhà nước, Hồ Chí Minh luôn nhắc
nhở, Nhà nước ta là Nhà nước của dân, pháp luật của ta là pháp luật dân chủ, bảo vệ
quyền lợi của nhân dân, nhưng phải nghiêm minh và phát huy hiệu lực thực tế: “Nghiêm
chỉnh thực hiện dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ địch. Triệt để chấp hành mọi
chế độ và pháp luật của Nhà nước” .2 Người luôn nêu gương trong việc khuyến khích
nhân dân phê bình, giám sát công việc của Chính phủ; đồng thời, nhắc nhở cán bộ các
cấp, các ngành, trước hết là cán bộ thuộc ngành hành pháp và tư pháp phải gương mẫu
trong việc tuân thủ pháp luật. Để tiến tới một nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, có hiệu lực,
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có
trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, biết quản lý nhà nước, thành thạo nghiệp vụ hành
chính và nhất là phải có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tận tâm, tận lực
suốt đời phục vụ nhân dân. Đồng thời, luôn đề phòng và chủ động khắc phục những tiêu
cực trong hoạt động của Nhà nước, kiên quyết chống ba thứ giặc nội xâm là: Tham ô,
lãng phí, quan liêu. Cùng với đó, Người rất coi trọng việc giáo dục pháp luật cho nhân
dân, góp phần nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn hóa chính trị và
tính tích cực công dân, khuyến khích nhân dân tham gia vào các công việc của Nhà nước.
Thứ ba, Nhà nước ta do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp
công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc rộng rãi. Sinh thời, Hồ Chí Minh thường
nhắc nhở các tổ chức đảng và đảng viên: Đảng ta là đảng cầm quyền chứ không phải
đảng trị, mọi cán bộ, đảng viên phải biết tôn trọng Nhà nước, gương mẫu chấp hành Hiến
pháp và pháp luật của Nhà nước. Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Người căn dặn: “Đảng
ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong
sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”3.
Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân phải tiếp tục quán
triệt sâu sắc tư tưởng, học tập, làm theo tấm gương Hồ Chí Minh về quyền làm chủ đất
nước và xã hội của nhân dân. Bởi, đây là nền tảng tư tưởng, lý luận quan trọng trong tổ
chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền kiểu mới do nhân dân làm chủ.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân và vì dân trong tình hình mới

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một bước đột phá trong tư duy về
xây dựng nhà nước trong thời kỳ đổi mới của Đảng ta trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Đó là cơ sở chính trị cho việc tiếp tục đẩy mạnh
việc nghiên cứu về nhà nước pháp quyền và thúc đẩy việc đổi mới một cách căn bản, có
hệ thống tổ chức và phương thức hoạt động của nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng, khẳng định “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do
Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”4. Do vậy, trong thực
hiện cần tiếp tục quán triệt và vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Trước hết, nắm vững mục tiêu là tôn trọng, bảo vệ, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, tất cả vì độc lập dân tộc, dân chủ, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Lựa chọn ra và
thực thi những cơ chế, hình thức dân chủ hữu hiệu để nhân dân quyết định những công
việc trọng đại của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn đã chỉ rõ, chừng nào
và khi nào Nhà nước chưa tạo đủ điều kiện để nhân dân thực hiện phát huy quyền làm
chủ của mình ở cơ sở, hoặc để xảy ra dân chủ cực đoan, dân chủ quá trớn, gây trở ngại
cho hoạt động điều hành và quản lý của bộ máy chính quyền cơ sở, thì chừng đó quyền
lực Nhà nước ở địa phương bị suy giảm, cản trở việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Nội dung này có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là khi các thế lực thù địch đang lợi dụng
chiêu bài “dân chủ” và “nhân quyền” cũng như các thủ đoạn khác để vu cáo, xuyên tạc
chế độ dân chủ, chống phá cách mạng nước ta. Vì vậy, phải nâng cao dân trí, động viên,
giáo dục và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân sử dụng quyền làm chủ, quyền lực của
mình tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Thứ hai, xây dựng nhà nước luôn đi đôi khắc phục được những căn bệnh cố hữu của các
nhà nước kiểu cũ. Tuyệt đối không mơ hồ trước những luận điệu xuyên tạc của các thế
lực thù địch đối với các giá trị văn hóa dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, kiên quyết
chống luận điệu xuyên tạc, mị dân, núp dưới chiêu bài “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”
tư sản để xuyên tạc những giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã
xây dựng, vun đắp trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ giải phóng dân tộc,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức. Theo Hồ Chí Minh,
để xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả phải kết hợp chặt chẽ giữa “đức
trị” và “pháp trị”, kết hợp giữa “xây” và “chống”, không được coi nhẹ mặt nào. Xây là ra
sức giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng cho nhân dân, trước hết là cán bộ,
công chức, đảng viên, những người có chức, có quyền, đi đôi với việc chống chủ nghĩa cá
nhân, dùng pháp luật nghiêm trị những kẻ vi phạm pháp luật và thoái hóa đạo đức, làm
hại dân, hại nước. Cán bộ các cấp trong bộ máy công quyền nhà nước từ Trung ương đến
cơ sở phải thực sự gần dân, biết lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, làm việc gì
cũng phải bàn bạc kỹ và học hỏi kinh nghiệm của nhân dân, thực sự yêu dân, kính dân, tin cậy và trọng dân.
Thứ tư, luôn đề phòng và chủ động khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà
nước, kiên quyết chống ba thứ giặc nội xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu. Theo Hồ Chí
Minh, sức mạnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước phụ thuộc vào tính nghiêm
minh của việc thi hành pháp luật và sự trong sạch, gương mẫu về đạo đức của những
người cầm quyền. Vì vậy, phải luôn nêu cao cảnh giác với những biểu hiện tha hóa, biến
chất của đội ngũ cán bộ, công chức, giữ cho Nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh.
Thứ năm, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong các
cơ quan quyền lực của Nhà nước về phẩm chất chính trị, đạo đức, phong cách, năng lực
lãnh đạo, quản lý để họ thực sự là “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, toàn
tâm, toàn ý phục vụ lợi ích của nhân dân. Cùng với nâng cao bản lĩnh chính trị, giáo dục
đạo đức cách mạng, phải đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức nhà nước có đủ tri thức
về chính trị học, xã hội học, về hệ thống chính trị, pháp luật, quản lý hành chính nhà
nước, về tổ chức lao động khoa học và tâm lý quản lý, v.v.
Thứ sáu, tăng cường vai trò lãnh đạo và đổi mới phương thức cầm quyền, lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, đáp ứng đòi hỏi của sự
nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới. Bởi, thực tiễn đã
chỉ rõ: sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là nhân tố quyết định để bảo
đảm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì
dân, bảo đảm cho hệ thống chính trị có đủ khả năng đưa đất nước ta từng bước vượt qua
nguy cơ, thách thức, vững vàng đi theo con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân vẫn
mãi có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn sâu sắc. Ngày nay, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi
mới và hội nhập, Đảng ta tiếp tục kế thừa tư tưởng của Người để xây dựng Nhà nước
pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là điều vô cùng cần thiết và đúng đắn.
Từ việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức,
sinh viên Việt Nam rèn luyện đạo đức của bản thân hiện nay như thế nào ?
1. Những quan điểm cơ bản nhất của Hồ Chí Minh về đạo đức
Chủ tịch Hồ Chí Minh có quan niệm mới, tiến bộ về đạo đức của con người mới. Đó là:
- Thứ nhất, đạo đức là gốc, là nền tảng của con người. Người coi, đạo đức của con người
như trời có bốn mùa, đất có bốn phương,con người có bốn đức “cần, kiệm, liêm, chính”;
- Thứ hai, đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân: “Vô luận
chung trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết”;
- Thứ ba, gần gũi với quần chúng nhân dân: “đạo đức cách mạng là hòa mình với quần
chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng. Do lời nói và việc làm, đảng
viên, đoàn viên và cán bộ làm cho dân tin, dân phục, dân yêu…”;
- Thứ tư, không ngừng học tập lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin: “Học tập chủ nghĩa Mác –
Lênin là học cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân; là học
tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào
hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm. Lý luận đi đôi với thực tiễn”.
Như vậy, đạo đức cách mạng chính là nội hàm bao trùm, xuyên suốt để mỗi cán bộ, đảng
viên, đoàn viên, thanh niên tu dưỡng và rèn luyện.
2. Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
2.1. Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh cho rằng, đối với các dân tộc phương Đông giàu tình cảm, trọng đạo lý,
việc tu dưỡng đạo đức của mỗi cá nhân, mỗi con người có vai trò vô cùng quan trọng.
Riêng với thế hệ trẻ, việc tu dưỡng này còn quan trọng hơn, vì họ là "người chủ tương lai
của nước nhà"; là cái cầu nối giữa các thế hệ - "người tiếp sức cách mạng cho thế hệ
thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai". Chính vì
vậy, việc giáo dục đạo đức và chăm lo cho việc rèn luyện đạo đức của sinh viên đã được
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm từ rất sớm. Nói chuyện với sinh viên, Người khẳng định:
"Thanh niên phải có đức, có tài. Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài
chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã
hội mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm
hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho loài người".
Người chỉ rõ việc thực hành tốt đạo đức cách mạng trong đời sống hàng ngày của mỗi cá
nhân không chỉ có tác dụng tôn vinh, nâng cao giá trị chính họ mà còn tạo sức mạnh nội
sinh, giúp họ vượt qua khó khăn, thử thách. Người viết: "có đạo đức cách mạng thì khi
gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước... khi gặp thuận lợi và
thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phát, khiêm tốn, "lo trước thiên
hạ, vui sau thiên hạ"; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng
thụ; không công thuần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa".
Nhấn mạnh vai trò của đạo đức trong đời sống của mỗi cá nhân trong xã hội. Hồ Chí
Minh không phân biệt đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường, đạo đức cán bộ và đạo
đức công dân. Người chỉ rõ, trong xã hội mỗi người có công việc, tài năng và vị trí khác
nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng.
- Kiên trì tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh
Cũng như với cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân khác, đối với tầng lớp sinh
viên, thanh niên trí thức, Hồ Chí Minh đã sớm xác định những phẩm chất đạo đức cần
thiết để họ có phương hướng phấn đấu rèn luyện. Trong Bài nói tại Đại hội sinh viên Việt
Nam lần thứ hai (7-5-1958), những phẩm chất đó được Người tóm tắt trong "Sáu cái yêu:
+ Yêu Tổ quốc, Yêu như thế nào? Yêu là phải làm sao cho Tổ quốc ta giàu mạnh.
Muốn cho Tổ quốc giàu mạnh thì phải ra sức lao động, ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm.
+ Yêu nhân dân: Mình phải hiểu rõ sinh hoạt của nhân dân biết nhân dân còn cực
khổ như thế nào, biết chia sẻ những lo lắng, những vui buồn, những công tác nặng nhọc với nhân dân.
+ Yêu chủ nghĩa xã hội: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ
nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm
thêm. Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm.
+ Yêu lao động: Muốn thật thà yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội
thì phải yêu lao động, vì không có lao động thì chỉ là nói suông.
+ Yêu khoa học và kỷ luật: bởi vì tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có khoa học và kỷ luật".
Theo người, để có được những phẩm chất như vậy, sinh viên phải rèn luyện cho mình
những đức tính như: trung thành, tận tụy, thật thà và chính trực. Phải xác định rõ nhiệm
vụ của mình, "không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hoi mình đã
làm gì cho nước nhà. Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước nhà nhiều hơn. Mình đã vì
lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào". Trong học tập, rèn luyện, phải kết hợp
lý luận với thực hành, học tập với lao động; phải chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá
nhân, chống tư tưởng hám danh, hám lợi. "Chống tâm lý ham sung sướng và tránh khó
nhọc. Chống thói xem khinh lao động, nhất là lao động chân tay. Chống lười biếng, xa xỉ.
Chống cách sinh hoạt ủy mị. Chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang". Phải trả lời được
câu hỏi: Học để làm gì? Học để phục vụ ai? Phải xác định rõ thế nào là tốt, thế nào là
xấu? Ai là bạn, ai là thù?... Người chỉ rõ: "Đối với người, ai làm gì lợi ích cho nhân dân,
cho Tổ quốc ta đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc ta tức là
kẻ thù. Đối với mình, những tư tưởng và hành động có lợi ích cho Tổ quốc, cho đồng bào
là bạn. Những tư tưởng và hành động có hại cho Tổ quốc và đồng bào là kẻ thù... Điều gì
phải, thì phải cố làm cho kỳ được, dù là việc nhỏ. Điều gì trái, thì hết sức tránh, dù là một điều trái nhỏ".
2.2. Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
- Thực trạng đạo đức lối sống trong sinh viên hiện nay:
Đạo đức Hồ Chi Minh là đạo đức cách mạng nêu cao chủ nghĩa tập thể, tiêu diệt chủ
nghĩa cá nhân, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, vô ngã vị tha, chí công vô tư. Dưới
ngọn cờ của tư tưởng đó trong từng giai đoạn cách mạng, thế hệ trẻ Việt Nam đã lập được
nhiều kỳ tích to lớn, đóng góp vào tiến trình chung của lịch sử dân tộc.
Đi vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế một nền
đạo đức mới đã và đang hình thành cùng với công cuộc đổi mới của Đảng, là nguồn động
lực quan trọng của công cuộc phát triển đất nước. Đó là nền đạo đức vừa phát huy những
giá trị truyền thống của dân tộc như: yêu nước, thương người, sống nghĩa tình trọn vẹn,
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư với những yêu cầu mới. những nội dung mới do
đòi hỏi của dân tộc và thời đại. Nhờ đó phần lớn sinh viên, thanh niên trí thức vẫn giữ
được lối sống tình nghĩa, trong sạch, lành mạnh: khiêm tốn, luôn cần cù và sáng tạo trong
học tập: sống có bản lĩnh, có chí lập thân, lập nghiệp, năng động, nhạy bén, dám đổi mặt
với những khó khăn thách thức, dám chịu trách nhiệm, không ỷ lại, chây lười; luôn gắn
bó với nhân dân, đồng hành cùng dân tộc phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng văn minh.
Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế do sự bùng phát
của lối sống thực dụng chạy theo danh lợi bất chấp đạo lý đã dẫn đến những tiêu cực
trong xã hội ngày càng phổ biến. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
chưa được khắc phục, sự chống phá của các thế lực phản động quốc tế nhằm thực hiện
âm mưu "diễn biến hòa bình" đã tác động không nhỏ đến đời sống đạo đức công dân. ảnh
hưởng lớn đến tâm tư, tình cảm, ý chí phấn đấu của sinh viên, thanh niên tri thức. Hậu
quả là đã có một bộ phận sinh viên phai nhạt niềm tin, lý tưởng, mất phương hướng phấn
đấu, không có trí lập thân, lập nghiệp: chạy theo lối sống thực dụng, sống thử, sống dựa
dẫm, thiếu trách nhiệm, thờ ơ với gia đình và xã hội, sa vào nghiện ngập, hút xách: thiếu
trung thực, gian lận trong thi cử, chạy điểm, chạy thầy, chạy trường, mua bằng cấp... Đâv
là những biểu hiện không thể coi thường.
- Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh không chỉ là một
nhà đạo đức học lỗi lạc mà còn là một tấm gương đạo đức vô song. Chính điều này đã
đem lại cho tư tưởng và tấm gương đạo đức của người có một sức sống mãnh liệt và sự
cổ vũ lớn lao không chỉ với nhân dân Việt Nam mà còn cả với nhân dân thế giới trong
cuộc đấu tranh vì dân chủ và tiến bộ xã hội. Để trở thành người có ích cho xã hội, người
chủ tương lai của nước nhà thế hệ trẻ Việt Nam nói chung và sinh viên, thanh niên trí
thức nói riêng cần phải học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Dưới đây
là một số nội dung cơ bản:
+ Một là, học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp giải phóng con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người Việt Nam đẹp nhất và là một trong những con người
đẹp nhất của thời đại chúng ta.
Ngay từ thủa thiếu thời, Hồ Chí Minh đã lựa chọn một cách rõ ràng và dứt khoát mục tiêu
hiến dâng cả cuộc đời mình cho cách mạng. Người đã chấp nhận mọi sự hy sinh, luôn
kiên định, dũng cảm và sáng suốt để vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, "thắng không
kiêu, bại không nản", "giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy
vũ không thể khuất phục" nhằm thực hiện bằng được mục tiêu đó. Người nói: Bài học
chính trong đời tôi là tuyệt đối và hoàn toàn cống hiến đời mình cho sự nghiệp giải phóng
và thống nhất Tổ quốc, giải phóng giai cấp công nhân và dân tộc bị áp bức, cho sự thắng
lợi của chủ nghĩa xã hội cho sự hợp tác anh em và hòa bình giữa các dân tộc; "Một ngày
đồng bào còn chịu khổ là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên" Đến lúc phải rời
thế giới này điều luyến tiếc duy nhất của người là "không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa".
Tấm gương vì nước, vì dân suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng con người của Hồ Chí Minh đã được nhân dân thế giới và bạn
bè quốc tế thừa nhận và kính phục. Họ đã dùng những lời lẽ đẹp đẽ và trang trọng nhất để
ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh: "nhà cách mạng triệt để", "nhà hoạt động quốc tế thần
thoại", "một nhân vật nổi bật nhất trong thời đại chúng ta", "một tấm gương sáng chói
những phẩm chất cách mạng và nhân đạo cao cả nhất. Hiếm có một nhà lãnh đạo nào
trong những giờ phút thử thách lại tỏ ra sáng suốt, bình tĩnh, gan dạ, quên mình, kiên nghị
và dũng cảm một cách phi thường như vậy"; một con người "mà cái chết là mầm sống
của sự sống và là nguồn cổ vũ đời đời bất diệt"...
+ Hai là học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đòi riêng trong sáng, nếp sống
giản dị và đức khiêm tốn phi thường.
Hồ Chí Minh thường dạy cán bộ, đảng viên phải cần, kiệm, liêm, chinh, chí công vô tư, ít
lòng ham muốn vật chất, đó là tư cách người cán bộ cách mạng và tự mình, Người đã
gương mẫu thực hiện. Suốt đời Người sống trong sạch, thực hành cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư, luôn vì nước, vì dân, vì con người, không gợn chút riêng tư. Cố thủ tướng
Phạm Văn Đồng viết:"Hồ Chủ tịch không có cái gì riêng. Cái gì của nước, của dân là của
Người. Quyền lợi tối cao của nước, lợi ích hàng ngày của dân là sự lo lắng đêm ngày của
Người. Gia đình của Người là đại gia đình Việt Nam".
Là lãnh tụ cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi khinh mọi sự xa hoa, không ưa chuộng
những nghi thức trang trọng cầu kỳ, suốt đời giữ một nếp sống thanh bạch, tao nhã, giản
dị, khiêm tốn, khắc khổ, cần lao và tranh đấu để mưu cầu hạnh phúc cho dân. Toàn thể
nhân dân Việt Nam và thế giới đều biết bộ ka ki bạc màu, đôi dép lốp mòn, cái nhà sàn gỗ
đơn sơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh... Nói về những đức tính vĩ đại của Hồ Chí Minh.
X.Asienđê - vị Tổng thống anh hùng của nước Cộng hòa Chile đã khái quát: "Nếu như
muốn tìm một sự tiêu biểu cho tất cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì đó là đức
tính vô cùng giản dị và sự khiêm tốn phi thường".
+ Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và
hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với con người.
Hồ Chí Minh có tình thương yêu bao la đối với con người. Tình thương đó gắn liền với
niềm tin tuyệt đối vào sức mạnh và trí tuệ của nhân dân. Người luôn dạy cán bộ đảng
viên, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh:
phải gần dân, hiểu dân, học dân, kính trọng nhân dân: hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân.
Người phê phán quyết liệt đầu óc "quan cách mạng" và tự mình. Người thường xuyên đi
xuống cơ sở để tìm hiểu. "lắng nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, của những
người không quan trọng". Là người có uy tín rất cao và sức hấp dẫn rất lớn song không
bao giờ Hồ Chí Minh đặt mình cao hơn nhân dân chỉ tâm niệm suốt đời là công bộc của
nhân dân, "như một người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trước mặt trận".
Với tình thương yêu bao la, Hồ Chí Minh dành cho tất cả, chia sẻ với mỗi người những
nỗi đau riêng. Người nói trong "mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và
gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của
tôi". Cách mạng Tháng Tám thành công, cũng là lúc Việt Nam vừa trải qua nạn đói khủng
khiếp. Hồ Chí Minh chủ trương tăng gia sản xuất, mỗi tháng mỗi người nhịn ăn ba bữa để
góp gạo cứu đói và người cũng đóng góp lon gạo của mình như mọi người dân. Đi thăm
trại tù binh trong chiến dịch biên giới về. Người không còn áo khoác ngoài vì Người đã
cho tên quan ba thầy thuốc người Pháp bị rét cóng...
Lòng nhân ái, khoan dung, nhân hậu của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ đại nghĩa của dân
tộc, nên có sức mạnh và sự cảm hóa to lớn trong việc xây dựng và tái tạo lương tri. Ở Hồ
Chí Minh, thương người là một tình cảm lớn cho nên khi làm cách mạng Hồ Chí Minh
đặt vấn đề tự do và hạnh phúc đi đôi. Đó chính là biểu hiện chủ nghĩa nhân văn cộng sản,
vừa thánh thiện, vừa gần gũi, đã làm xúc động trái tim nhân loại và Người được suy tôn
như "một ông thánh cộng sản"; "một con người của huyền thoại", cố Thủ tướng Phạm
Văn Đồng cũng có lẫn bình luận: Lòng nhân đạo, tình thương đồng bào, đó là điều sâu
sắc nhất tốt đẹp nhất trong con người Hồ Chủ tịch.
+ Bốn là, học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua
mọi thứ thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống
Cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh là một chuỗi những năm tháng vô cùng gian khổ.
Hai lần ngồi tù, một lần đã nhận án tử hình, có giai đoạn hoạt động sôi nổi được đánh giá
rất cao, có giai đoạn bị hiểu nhầm, nghi kỵ, không được giao nhiệm vụ. Song, nhờ ý chí
và nghị lực tinh thần to lớn, Hồ Chí Minh đã bình tĩnh, kiên cường, chủ động vượt qua
mọi thử thách, gian nguy, kiên trì mục đích cuộc sống, bảo vệ chân lý, giữ vững quan
điểm cách mạng của mình. Người đã làm thơ để tự răn:
"Muốn nên sự nghiệp lớn, Tinh thần càng phải cao".
Dũng cảm, quyết tâm, bền bỉ, bất khuất là những đặc trưng trong nhân cách Hồ Chí
Minh. Một tờ báo nước ngoài đã viết: "Đằng sau cốt cách dịu dàng của Cụ Hồ là một ý
chí sắt thép, Dưới cái bề ngoài giản dị là một tinh thần quật khởi anh hùng không có gì uy hiếp nổi"
Trong tình hình hiện nay để phong trào "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh" của sinh viên có hiệu quả đòi hỏi phải có sự phối kết hợp của nhiều nhân tố: sự
giáo dục và việc tự tu dưỡng, rèn luyện của sinh viên; sự nêu gương của mọi người trong
xã hội, của bố mẹ trong gia đình, của cán bộ, đảng viên, của các thầy, cô giáo, các cán bộ
quản lý giáo dục và sự hướng dẫn của dư luận xã hội và pháp luật. Nếu coi thường một
trong những nhân tố trên, việc học tập và rèn luyện sẽ khó đạt được kết quả như mong muốn.
3. Sinh viên Việt Nam học và làm theo lời Bác
3.1. Một số thành tự đạt được
- Trong thời gian qua, với sự quan tâm của Đảng và nhà nước, gia đình, nhà trường, toàn
xã hội, sự nỗ lực của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh niên
Việt Nam và Hội Sinh viên Việt Nam, công tác giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên
đã đạt được những thành tựu nhất định, góp phần đào tạo ra một thế hệ thanh niên đủ sức
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
- Thế hệ trẻ ngày nay ngày càng năng động, hội nhập quốc tế, thông minh, tự tin, tự chủ,
nhiều bạn trẻ có những thành tựu từ khi còn rất sớm. Đa số sinh viên tin vào sự lãnh đạo
của Đảng, sống có trách nhiệm, có ước mơ, hoài bão, dám nghĩ, dám làm, dám thành công. 3.2. Vấn đề đặt ra
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh của sinh viên hiện nay còn một số hạn chế:
- Nội dung giáo dục hiện nay chưa kết hợp tốt giữa giáo dục đạo đức, giáo dục văn hóa
với giáo dục khoa học, công nghệ và kỹ thuật, nội dung chưa phù hợp với nhu cầu và xu
thế thị trường lao động trong nước và quốc tế.
- Đặc biệt có một thời gian dài, chúng ta xem nhẹ việc giáo dục đạo đức cho thanh niên,
nếu có thì chỉ mang tính hình thức, kém hiệu quả.
- Nhìn chung, nội dung giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay vẫn chỉ mới tập
trung vào những vấn đề như giáo dục tư tưởng chính trị, giáo dục tri thức, giáo dục nghề
nghiệp, công ăn, việc làm... Trong khi đó có những nội dung cơ bản, quan trọng và cấp
bách vẫn chưa được quan tâm đúng mức, trong đó đặc biệt là những vấn đề giáo dục đạo đức.
- Phương pháp giáo dục thanh niên thời gian qua vẫn chủ yếu sử dụng phương pháp
truyền thống, còn lạc hậu, chậm đổi mới, chậm hiện đại hóa, chưa gắn với đời sống xã
hội và lao động nghề nghiệp, chưa phát huy tính năng động, sáng tạo và năng lực thực hành của thanh niên…
- Vẫn còn một bộ phận sinh viên không có chí hướng rõ ràng, chưa hiểu biết đầy đủ
truyền thống cách mạng của Đảng, của dân tộc, ít quan tâm đến tình hình của đất nước,
quốc tế. Một bộ phận sinh viên “nhạt Đảng, phai Đoàn, xa chính trị”, không có ý thức
vươn lên trong học tập và rèn luyện, có những sinh viên giảm sút niềm tin, thiếu niềm tin,
bản lĩnh non kém, thậm chí bị các thế lực thù địch lôi kéo, kích động tham gia vào các
hoạt động vi phạm pháp luật.
- Một bộ phận sinh viên hiện đang chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt, lợi ích cá nhân của
mình. Số này chỉ quan tâm đến việc học tập chuyên môn; tập trung vào việc đi học, sau
đó, đi làm thêm, ít quan tâm tới các vấn đề xã hội, chính trị; ít tham gia các phong trào, các hoạt động xã hội.
- Một bộ phận sinh viên còn chịu tác động ảnh hưởng của các hoạt động tuyên truyền
xuyên tạc của các thế lực thù địch; tư tưởng còn bị dao động; nhiều lúc còn mơ hồ, thiếu
kiên định, thiếu hoài bão, không tích cực tham gia các phong trào và hoạt động xã hội.
3.3. Nhiệm vụ, giải pháp
Hội viên, sinh viên cần chủ động, tích cực, thường xuyên tìm hiểu, tuyên truyền tư tưởng
và tấm gương Hồ Chí Minh về tinh thần trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm, góp
phần nâng cao nhận thức và ý chí quyết tâm thực hành trong sinh viên.
Kết quả học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh phụ thuộc nhiều
vào sự nỗ lực của thanh niên, sinh viên, có tác động to lớn đến tương lai của cá nhân và đất nước.
Mỗi khi thanh niên, sinh viên tích cực nêu cao trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với
làm, đồng thời tuyên truyền tinh thần đó cho xã hội, đặc biệt là đối với thiếu niên, nhi
đồng, càng có ý nghĩa lớn lao, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ.
- Trong công tác, sinh hoạt, cuộc sống đời thường, hội viên, sinh viên cần:
Dành thời gian thỏa đáng tìm hiểu tư tưởng, đạo đức, phong cách và tấm
gương Hồ Chí Minh về tinh thần trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm.
Tự soi mình, sửa mình và rèn luyện, tạo được thói quen cho bản thân làm theo lời Bác dạy.
Phấn đấu trở thành tấm gương sáng về nêu cao tinh thần trách nhiệm, tính
trung thực, luôn nói đi đôi với làm để cho người khác noi theo.
Tham gia tích cực, hiệu quả các phong trào của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh
viên các cấp. Phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện đạt danh hiệu "Sinh viên 5 tốt" với
các tiêu chí: Đạo đức tốt, Học tập tốt, Thể lực tốt, Tình nguyện tốt, Hội nhập tốt.
- Hội viên, sinh viên không chỉ có nhiệm vụ tích cực học tập và làm theo Bác về
trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm mà còn phải:

Tích cực tuyên truyền, làm cho nhiều xung quanh mình có nhận thức đúng
đắn, đầy đủ về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng, lợi ích to lớn của tinh thần
trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm; chỉ rõ tác hại của những hành vi vô
trách nhiệm, sự giả dối, nói một đàng làm một nẻo, hoặc "nói thì hay mà làm
thì dở" đối với bản thân, gia đình và xã hội.
Chú ý phát hiện, tuyên dương, nhân rộng các gương điển hình thanh niên, sinh
viên hoặc các cơ sở Đoàn, Hội có những ý tưởng, sáng kiến, cách làm hiệu quả
trong thực hành theo tư tưởng, tấm gương của Bác về tinh thần trách nhiệm,
trung thực nói đi đôi với làm.
- Mỗi đoàn viên, hội viên, thanh niên, sinh viên cần xác định rõ trách nhiệm của
mình đối với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân; sẵn sàng xung phong cống hiến, hy
sinh vì sự nghiệp chung của đất nước:

Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Chúng ta không một phút nào
được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc
lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới".
"Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì.
Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích
lợi nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào?".
Phải dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm. Sẵn sàng nhận nhiệm vụ và
có trách nhiệm với nhiệm vụ của mình, nỗ lực hết sức mình để hoàn thành
nhiệm vụ, không tránh né, đùn đẩy nhiệm vụ qua cho hoàn cảnh hay người
khác. Sẵn sàng nhận lỗi và gánh chịu hậu quả xấu đến với mình khi mình
không hoàn thành nhiệm vụ, không đổ thừa cho hoàn cảnh hay người khác.
- Không ngừng học tập, rèn luyện, thực hành đạo đức cách mạng, nêu cao tinh thần
trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm:
Đạo đức cách mạng có thể tóm tắt trong mấy điểm:
Trung thành: Trọn đời trung thành với sự nghiệp cách mạng, Với Tổ quốc, với Đảng, với giai cấp. Dũng cảm.
Không sợ khổ, không sợ khó, thực hiện:
"Đâu cần thanh niên có, việc gì khó thanh niên làm",
"gian khổ thì đi trước, hưởng thụ sau mọi người".
Khiêm tốn: Không nên tự cho mình là tài giỏi, không khoe công, không tự phụ.
Cần nâng cao nhận thức về phẩm chất trung thực, trách nhiệm trong công việc và trong
cuộc sống, coi đó là đức tính cần thiết và quý báu, là phẩm giá của mỗi người.
- Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về trung thực, trách nhiệm,
trước hết phải nói đi đôi với làm, phải tạo ra sự chuyển biến về tình cảm và nhân cách:

Tôn trọng chân lý, yêu cái đúng, ghét cái sai, tôn trọng sự thật, lẽ phải.
Sống ngay thẳng, thật thà, dũng cảm nhận lỗi khi mình mắc khuyết điểm.
Phải tự giác phấn đấu, rèn luyện đạo đức, tự phê bình, phê bình, cầu thị, sửa
chữa khuyết điểm, khắc phục những mặt hạn chế, tiêu cực, phát huy ưu điểm và mặt tích cực.
- Không ngừng học tập, rèn luyện, thực hành đạo đức cách mạng, nêu cao tinh thần
trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm:

Mỗi hội viên, sinh viên cần xây dựng lối sống trong sáng, giản dị, chân tình.
Phải thật sự trung thực, trách nhiệm với chính mình, với gia đình, người thân,
bạn bè, đồng chí, với Tổ quốc và nhân dân.
Phải khắc phục cho được tình trạng thiếu trung thực, dối mình, dối người, dối Đảng, dối dân.
Phải chống lại thói Ích kỷ, tính tham lam; kiên quyết đấu tranh với thói vô
cảm, "đục nước béo cò" khi người khác gặp hoạn nạn.
Phải đấu tranh với tệ làm ăn chụp giật, quay cóp, học hộ, thi hộ, bằng giả, mua bán tri thức...
Đã trung thực với chính mình thì không bao giờ từ bỏ trách nhiệm của mình.
Trung thực và trách nhiệm góp phần để khắc phục suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống trong Đảng, trong xã hội.
Để làm được như vậy, trước hết phải nâng cao nhận thức về phẩm chất trung
thực, trách nhiệm trong công việc và trong cuộc sống, coi đó là đức tính cân
thiết và quý báu, là phẩm giá của mỗi người.
- Mỗi đoàn viên, hội viên, thanh niên, sinh viên gắn tinh thần trách nhiệm, được tính
trung thực, nói đi đôi với làm và thực hiện các nhiệm vụ chính trị, công việc chuyên
môn của cơ quan, đơn vị, địa phương, tổ chức đoàn, hội, đội:

Hội viên, sinh viên cần Chủ động học tập kiến thức, tích cực tu dưỡng đạo
đức, rèn luyện sức khỏe, có lối sống lành mạnh, không vướng vào tệ nạn xã
hội, không nói dối thầy cô, cha mẹ.
Không gian lận trong thi cử, làm tròn trách nhiệm của người con ngoan, trò giỏi.
Tích cực vận dụng kiến thức học được từ nhà trường áp dụng vào cuộc sống
hằng ngày, vào công việc.
Từ việc vận dụng tư tưởng HCM về đoàn kết quốc tế, đề
xuất giải pháp thực hiện chiến lược đoàn kết quốc tế ở Việt Nam hiện nay
1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
Đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết là đoàn kết trong phong trào cộng
sản, công nhân quốc tế và đoàn kết trong các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Đoàn kết
quốc tế là nhân tố bảo đảm sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội cũng như thắng lợi của công
cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, phi thực dân hóa trên phạm vi toàn thế giới.
Người khẳng định: “Cuộc đấu tranh kiên quyết của các dân tộc bị áp bức nhất định sẽ
đánh bại bọn đế quốc thực dân. Chủ nghĩa xã hội cuối cùng sẽ toàn thắng trên khắp thế
giới. Trong sự nghiệp đấu tranh vĩ đại ấy, sự đoàn kết giữa lực lượng các nước xã hội chủ
nghĩa và sự đoàn kết nhất trí giữa các đảng cộng sản và công nhân tất cả các nước có ý
nghĩa quan trọng bậc nhất”(1).
Nhằm đạt được thắng lợi cuối cùng ấy, Người yêu cầu cách mạng vô sản thế giới, các
đảng cộng sản và công nhân quốc tế phải đoàn kết thống nhất, gắn bó mật thiết như anh
em một nhà. Người luôn tâm niệm:
“Quan sơn muôn dặm một nhà
Bốn phương vô sản đều là anh em”(2)
Muốn làm được như vậy, Hồ Chí Minh cho rằng, các đảng cộng sản và công nhân quốc tế
phải tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên quyết đấu tranh chống những
khuynh hướng tư tưởng sai lầm, lệch lạc như chủ nghĩa dân tộc tư sản, chủ nghĩa sô vanh, giáo điều,…
Cùng với quan điểm về đoàn kết trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, trong
suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh còn chủ trương đoàn kết với tất cả các
dân tộc, các lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Trước và sau khi tuyên bố độc lập, trên cương vị người đứng đầu Chính phủ lâm thời Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần gửi điện, thư đến nguyên thủ
các nước như Tổng thống Truman ( Hoa Kỳ), Tưởng Giới Thạch (Trung Hoa) và Nguyên
soái Stalin (Liên Xô) bày tỏ quan điểm ngoại giao, mở rộng quan hệ với các nước, nhất là
các cường quốc để tranh thủ công nhận địa vị pháp lý của nước Việt Nam độc lập, qua đó
xác lập vị thế chủ nhà trong việc giao tiếp với các thế lực bên ngoài, bảo vệ chế độ dân
chủ cộng hòa non trẻ vừa mới được thành lập.
Ngày sau ngày tuyên bố độc lập, Chính phủ đã ra “Thông cáo về chính sách đối ngoại”
khẳng định mục tiêu phấn đấu cho “nền độc lập hoàn toàn và vĩnh viễn” mà tư tưởng cơ
bản là thân thiện và hợp tác với tất cả các nước, từ các nước Đồng minh, các nước láng
giềng, các dân tộc đang đấu tranh giải phóng cho đến nhân dân Pháp, kể cả kiều dân Pháp
đều được bảo đảm sinh mệnh và tài sản nếu họ tôn trọng chủ quyền của Việt Nam.
Tình đoàn kết quốc tế cao cả theo Người còn được thể hiện đậm nét trong mối tình đoàn
kết keo sơn gắn bó, đặc biệt giữa ba nước Việt Nam-Lào-Campuchia. Ba nước trên bán
đảo Đông Dương có đoàn kết chặt chẽ thì mới đánh thắng kẻ thù xâm lược, Người khẳng
định: “Sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân ba nước Việt Nam, Campuchia và Lào
đoàn kết chặt chẽ nhất định sẽ giành được thắng lợi cuối cùng”(3).
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tình đoàn kết quốc tế cao đẹp còn được thể hiện đậm nét ở
tình đoàn kết với nhân dân tiến bộ trên thế giới. Ngay trong những năm đầu kháng chiến
ác liệt, Người cùng với Trung ương Đảng tiến hành nhiều hoạt động ngoại giao để tranh
thủ sự đồng tình, ủng hộ của Đảng Cộng sản Pháp và nhân dân Pháp. Người cũng viết
nhiều bức thư, gửi những lời nhắn nhủ đến nhân dân Mỹ để làm rõ tính chất xâm lược
của đội quân viễn chinh Mỹ, nêu bật tính chính nghĩa của nhân dân Việt Nam trong cuộc
kháng chiến chống xâm lược. Những hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thu phục
trái tim nhân dân thế giới, đi vào lòng người, tạo nên sức mạnh tinh thần ủng hộ Việt
Nam. Tổng kết thành quả của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Chính vì đã
biết kết hợp phong trào cách mạng nước ta với phong trào cách mạng của giai cấp công
nhân quốc tế và của các dân tộc bị áp bức, mà Đảng ta đã vượt được mọi khó khăn, đưa
giai cấp công nhân và nhân dân ta đến những thắng lợi vẻ vang ngày nay”(4).
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, ủng hộ quốc tế vào giải quyết các
vấn đề quốc tế hiện nay

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, Đảng và Chính phủ Việt Nam luôn
tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân các nước đối với cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và xâm lược Mỹ. Nhờ quan điểm đoàn kết đúng đắn đó của Người mà ở
Pháp và Mỹ đã dấy lên phong trào các tầng lớp nhân dân đòi chính phủ phải chấm dứt
chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Ngày nay, trong bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi, thời cơ và thách thức đan xen lẫn
nhau, vấn đề đoàn kết đấu tranh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có những
thuận lợi và khó khăn mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, phát huy sự ủng hộ quốc
tế là cơ sở quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam hoạch định chủ trương, đường lối đối
ngoại và giải quyết các vấn đề quốc tế:
Một là, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ, dựa vào sức mình là chính
làm nền tảng để mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát
triển bền vững và không làm phương hại đến chủ quyền quốc gia, bản sắc văn hóa dân tộc
Năm 1947, khi trả lời một nhà báo nước ngoài về quan niệm độc lập của Việt Nam, Hồ
Chí Minh nói rõ: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi,
không có sự can thiệp ở ngoài vào”(5).
Các quốc gia, dân tộc trên thế giới đang tham gia sâu rộng vào quá trình toàn cầu hóa, hội
nhập quốc tế, hợp tác cùng phát triển trong hòa bình và hữu nghị. Chiến tranh, xung đột
cục bộ vẫn xảy ra, chủ nghĩa khủng bố và những hành vi tàn ác chà đạp quyền sống của
con người. Đặc biệt, thái độ “lớn ép nhỏ”, lợi ích và chủ nghĩa dân tộc cực đoan đã kéo
theo các hành vi xâm phạm độc lập, chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo của nước khác, bất
chấp dư luận và luật pháp quốc tế. Trong đó, những phức tạp ở Biển Đông đã, đang và
tiếp tục gây phức tạp, đe dọa đến hòa bình, ổn định của Việt Nam và các nước trong khu
vực. Với truyền thống hòa hiếu, Việt Nam luôn mong muốn cùng các nước xây dựng và
củng cố lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, phát triển trên nguyên tắc tôn trọng độc
lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Việt Nam kiên định nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các
quốc gia và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; không ngừng nỗ lực
làm sâu sắc thêm và xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, đối tác hợp tác cùng có lợi với
các quốc gia. Đối với các nguy cơ và thách thức về an ninh khu vực đang hiện hữu như
bán đảo Triều Tiên, Biển Hoa Đông, Biển Đông… Việt Nam trước sau như một kiên trì
nguyên tắc giải quyết bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, tôn trọng độc
lập chủ quyền và lợi ích chính đáng của nhau. Các bên liên quan đều phải kiềm chế,
không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực.
Hai là, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là cơ sở lý luận quan trọng để Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ quốc tế trong bối cảnh mới
Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
non trẻ đứng trước muôn vàn thử thách, cùng một lúc phải đương đầu với giặc đói, giặc
dốt, giặc ngoại xâm. Trong thời khắc ngàn cân treo sợi tóc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khéo léo sử dụng ngoại giao đa phương để phục vụ mục tiêu của cách mạng. Thông cáo
về Chính sách ngoại giao do Hồ Chí Minh ký ngày 3-10-1945 thể hiện quan điểm đối
ngoại thân thiện và thành thực hợp tác trên lập trường bình đẳng, tương ái; tôn trọng nền
độc lập của Việt Nam, hữu nghị, hợp tác và bình đẳng; đối với các dân tộc nhược tiểu trên
toàn cầu thì thân thiện, hợp tác chặt chẽ.
Có thể thấy rằng, tư duy đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ của nước ta được
hình thành từ rất sớm. Ngay từ tháng 6-1947, trả lời nhà báo Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh
bày tỏ mong muốn của Việt Nam là làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây
thù oán với một ai. Nhờ chính sách ngoại giao đa phương hóa quan hệ, ngoại giao Việt
Nam đã phá được thế bị bao vây, cô lập, cấm vận, khẳng định tính hợp pháp, hợp hiến
của chính quyền cách mạng ở khu vực và trên thế giới. Qua hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, đến giai đoạn đất nước bước vào công cuộc đổi mới, giương
cao ngọn cờ độc lập dân tộc và đoàn kết quốc tế, ngoại giao Việt Nam đã tranh thủ được
sự ủng hộ to lớn về vật chất và tinh thần của bạn bè quốc tế, góp phần tạo nên sức mạnh
tổng hợp của đất nước và phục vụ đắc lực vào cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và
công cuộc đổi mới đất nước.
Ba là, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế để tạo ra môi trường quốc tế
hòa bình, ổn định, hữu nghị với các nước láng giềng, các nước trong khu vực, các nước
lớn để tập trung mọi nguồn lực phát triển đất nước
Để xây dựng một thế giới hòa bình, phát triển tốt đẹp, theo Hồ Chí Minh các dân tộc cần
xích lại gần nhau, thông qua tiếp xúc, trao đổi để hiểu biết nhau hơn, tin cậy nhau, cùng
nhau giải quyết các xung đột. Người luôn tâm niệm: “với một sự tin cẩn lẫn nhau, những
dân tộc tự do và bình đẳng vẫn có thể giải quyết những vấn đề khó khăn nhất” và “Thế
giới hòa bình có thể thực hiện được nếu các nước trên thế giới, nhất là những nước lớn,
đều sẵn sàng giải quyết những xích mích giữa các nước bằng thương lượng”(6).
Bằng những cố gắng không mệt mỏi của mình, Người đã sáng lập ra các tổ chức quốc
tế, đoàn kết các dân tộc đấu tranh vì độc lập, tự do vào những năm 20 của thế kỷ XX. Tư
tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh về giải quyết những bất đồng trong quan hệ quốc tế là
lấy hữu nghị thay cho hận thù, đối thoại thay cho đối đầu, hòa bình thay cho chiến tranh,
luôn mong muốn tình hữu nghị, hòa bình, sự hợp tác thân thiện giữa các quốc gia, dân
tộc, giữa các nước trên thế giới.
Trong bối cảnh thế giới, khu vực và đất nước có nhiều biến đổi, thời cơ và thách thức đan
xen lẫn nhau, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là cơ sở lý luận vững chắc, lâu
dài cho cách mạng Việt Nam về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đảng
Cộng sản, nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới luôn phát huy cao nhất tinh thần đoàn
kết quốc tế cao cả của Người, để Người không còn day dứt trước lúc đi xa: “… tôi càng
tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi
càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em”(7) và cũng thực
hiện sự mong muốn của Người là “ Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào
việc khôi phục lại đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và
chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”(8).
Vận dụng tư tưởng HCM về văn hóa vào xây dựng nền văn
hóa Việt Nam hiện nay A. LỜI MỞ ĐẦU
Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại của Việt Nam. Người không chỉ cống hiến cả cuộc
đời mình cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước xã hội chủ
nghĩa mà còn để lại những di sản vô cùng quý giá cho nước ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là hệ tư tưởng của đảng, của dân tộc ta mà còn là kim
chỉ nam cho mọi đường lối, chính sách của Đảng để tiếp tục sự nghiệp cách mạng giải
phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về văn hóa chiếm một vị trí quan trọng.
Văn hóa có vai trò to lớn trong đời sống của mỗi quốc gia dân tộc. Theo Người, tiến lên
chủ nghĩa xã hội phải có cả vật chất lẫn tinh thần, song con người là nhân tố quyết định.
Để đưa đất nước đi lên, không thể không đặt trọng tâm vào kinh tế, nhưng chủ thể của
hoạt động kinh tế lại chính là con người và thước đo trình độ con người lại chính là văn
hóa. Người nhấn mạnh: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề chú ý đến,
cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Vì thế, văn hóa
không thể đứng ngoài “mà phải ở trong kinh tế và chính trị” và ngược lại kinh tế, chính
trị cũng nằm “trong văn hóa”. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa và
giải quyết những vấn đề xã hội; nếu chỉ coi tăng trưởng kinh tế là mục tiêu duy nhất thì
chẳng những môi trường văn hóa – xã hội bị hủy hoại mà mục tiêu kinh tế cũng không
đạt được. Hơn nữa, văn hóa là linh hồn, bản sắc dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng, văn hóa
không thể tách rời với quốc gia dân tộc, văn hóa trước hết là văn hóa của một dân tộc, nó
mang tâm hồn, diện mạo dân tộc, đó chính là bản sắc dân tộc của văn hóa. Để xây dựng
một nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng và nhà nước ta phải có những
chính sách, biện pháp đúng đắn trên cơ sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa. B. NỘI DUNG
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa 1. Khái niệm văn hóa
Khái niệm “văn hóa” có nghĩa rộng, bao gồm nội hàm phong phú. Chính vì vậy có rất
nhiều định nghĩa về văn hóa. Trong Mục đọc sách ở phần cuối tác phẩm Nhật ký trong tù
được viết trong thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm từ 29-8-1942 đến
10-9-1943 tại Quảng Tây (Trung Quốc), lãnh tụ Hồ Chí Minh viết: "Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với
biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và
đòi hỏi của sự sinh tồn". Định nghĩa về văn hóa của Hồ Chí Minh có rất nhiều điểm gần
với quan niệm hiện đại về văn hóa, đồng thời, khắc phục được quan niệm phiến diện về
văn hóa trong lịch sử và hiện tại, hoặc chỉ đề cập đến lĩnh vực tinh thần, trong văn học
nghệ thuật, hoặc chỉ đề cập đến lĩnh vực giáo dục, phản ánh trình độ học vấn Trên thực
tế, văn hóa bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và những gía trị tinh thần mà loài
người đã sáng tạo ra, nhằm đáp ứng sự sinh tồn và cũng là mục đích cuộc sống của loài người.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề chung của văn hóa
Cùng với định nghĩa về văn hóa, Hồ Chí Minh còn đưa ra Năm điểm lớn định hướng cho
việc xây dựng nền văn hóa dân tộc , bao gồm: xây dựng tâm lý, luân lý,xã hội, chính trị
và kinh tế. Như vậy, ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến văn hóa, đã thấy rõ
vai trò, vị trí của văn hóa trong đời sống xã hội. Vì thế, ngay khi giành được độc lập, Hồ
Chí Minh đã bắt tay vào việc xây dựng, kiến tạo một nền văn hóa mới ở Việt Nam trên tất
cả mọi lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức đến tâm lý con người, đã sớm đưa
văn hóa vào chiến lược phát triển đất nước.
Vị trí và vai trò của văn hóa cũng được Hồ Chí Minh xác định rõ trong quan điểm của
mình. Thứ nhất, văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng.
Văn hóa được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội.
Chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng, chính trị giải
phóng sẽ mở đường cho văn hóa phát triển. Theo Người: “Xã hội thế nào, văn nghệ thế
ấy Dưới chế độ thực dân và phong kiến, nhân dân ta bị nô lệ, thì văn nghệ cũng bị nô lệ,
bị tồi tàn, không thể phát triển được”. Chúng ta phải tiến hành cách mạng giải phóng dân
tộc để giải phóng chính quyền, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó giải phóng
văn hóa, mở đường cho văn hóa phát triển. Kinh tế phải đi trước một bước. Xây dựng
kinh tế để làm nền tảng cho việc xây dựng văn hóa. Hai là, văn hóa không thể đưng ngoài
mà phải ở trong kinh tế và chính trị, phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy sự phát
triển của kinh tế. Người cho rằng, văn hóa có tính tích cực, chủ động, đóng vai trò to lớn
như một động lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế và chính trị. Văn hóa phải tham gia
thực hiện những nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế. Bên cạnh
đó, kinh tế và chính trị cũng phải có tính văn hóa, điều mà chủ nghĩa xã hội và thời đại đang đòi hỏi.
Nền văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh bao hàm ba tính chất: tính dân tộc, tính khoa
học và tính đại chúng. Điều đó có nghĩa là: văn hóa mỗi dân tộc đều có bản sắc đặc trưng
riêng, giúp phân biệt, không nhâm lẫn với văn hóa của các dân tộc khác. Đồng thời, phải
có tính hiện đại, tiên tiến, thuận với trào lưu tiến hóa của thời đại. Và nên văn hóa ấy phải
phục vụ nhân dân và do nhân dân xây dựng nên. Theo Hồ Chí Minh, văn hóa có ba chức
năng. Một là, bồi dưỡng lý tưởng, tư tưởng đúng đắn, tình cảm cao đẹp. Hai là, mở rộng
hiểu biết, nâng cao dân trí. Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt
đẹp, lành mạnh, hướng con người tới cái chân, thiện, mỹ để hoàn thiện bản thân. Hồ Chí
Minh chia văn hóa làm ba lĩnh vực: văn hóa giáo dục, văn hóa văn nghệ và văn hóa đời sống.
II. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa vào việc xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay

1. Thực trạng nền văn hóa Việt Nam trong thời gian qua a. Thành tựu
Trong điều kiện đất nước ta đi lên xã hội chủ nghĩa, trải qua hơn mười năm đổi mới, cùng
với những thay đổi tích cực của nền kinh tế xã hội, văn hóa Việt Nam cũng đã đạt được
những thành tựu đáng kể. Trong lĩnh vực tư tưởng, lối sống và đạo đức, chúng ta luôn đi
theo con đường chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây chính là con
đường đúng đắn mà nước ta đã kiên định từ đầu, vận dụng sáng tạo để phát triển nền văn
hóa dân tộc, đảm bảo cho đời sống tinh thần xã hội phát triển đúng hướng. Đảng ta luôn
lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tương Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho mọi hành động. Các cán bộ, đảng viên luôn có ý thức phấn đấu cho độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, tinh thần trách nhiệm và năng lực tổ chức thực tiễn. Nhiều nét mới
trong giá trị văn hóa và chuẩn mực đạo đức từng bước hình thành. Mỗi công dân được
khuyến khích và có cơ hội phát huy tính năng động, tích cực, sở trường và năng lực cá
nhân. Do đó, không khí dân chủ trong xã hội ngày càng tăng lên. Thế hệ trẻ tiếp thu
nhanh những kiến thức mới và có ý chí vươn lên lâp thân, lập nghiệp, xây dựng và bảo vệ
tổ quốc.Những việc làm thiết thực hướng về cội nguồn, về cách mạng và kháng chiến,
nhớ ơn các anh hùng dân tộc, quý trọng danh nhân văn hóa, đền ơn đáp nghĩa những
người có công với đất nước, lá lành đùm lá rách trở thành phong trào quần chúng. Mọi
công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.
Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, không ai được xâm phạm quyền tự do ấy.
Sự nghiệp giáo dục thu được những thành tựu quan trọng, góp phần nâng cao dân trí,
trình độ học vấn của nhân dân, làm tăng thêm sức mạnh nội sinh. Ứng dụng khoa học - kĩ
thuật ngày càng phổ biến trong hoạt động sản xuất và đời sống giúp nâng cao chất lượng
cuộc sống người dân, hiệu quả sản xuất. Trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật, các hoạt động
sáng tạo có bước phát triển mới. Các bộ môn nghệ thuật truyền thống được giữ gìn, phát
huy và nhiều bộ môn nghệ thuật mới được sáng tạo thêm hoặc học hỏi từ các nước bạn bè
trên thế giới. Hoạt động lý luận, phê bình đã đạt được những kết quả tích cực, khẳng định
mạnh mẽ văn nghệ cách mạng và kháng chiến, đẩy lùi một bước những quan điểm sai
trái. Số đông văn nghệ sĩ được rèn luyện và thử thách trong thực tiễn cách mạng, có vốn
sống, giàu lòng yêu nước; trước những biến động của thời cuộc và những khó khăn của
đời sống vẫn giữ gìn được phẩm chất, kiên định quan điểm sáng tác phục vụ nhân dân,
làm sứ mệnh người nghệ sĩ - chiến sĩ. Nhiều văn nghệ sĩ tuổi cao, vẫn tiếp tục sự nghiệp
sáng tạo, lớp trẻ có nhiều cố gắng tìm tòi cái mới. Văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu
số có bước tiến đáng kể. Đội ngũ những nhà văn hoá người dân tộc thiểu số phát triển cả
về số lượng, chất lượng, đã có những đóng góp quan trọng vào hầu hết các lĩnh vực văn học, nghệ thuật.
Thông tin đại chúng phát triển nhanh cả về số lượng và quy mô, về nội dung và hình
thức, về in ấn, phát hành, truyền dẫn, ngày càng phát huy vai trò quan trọng trong đời
sống văn hoá tinh thần của xã hội. Hệ thống mạng thông tin trong nước và quốc tế được
thiết lập, tạo khả năng lựa chọn, khai thác các nguồn thông tin bổ ích phục vụ đông đảo
công chúng. Đội ngũ các nhà báo ngày càng đông và có bước trưởng thành về chính trị,
tư tưởng và nghiệp vụ. Hoạt động giao lưu văn hoá với nước ngoài được mở rộng. Chúng
ta có dịp tiếp xúc rộng rãi với những thành tựu văn hoá nhân loại, đồng thời giới thiệu với
nhân dân các nước khác những giá trị tốt đẹp, độc đáo của văn hoá Việt Nam. Đảng và
Nhà nước đã quan tâm tăng cường bộ máy tổ chức, ban hành nhữngvăn bản pháp luật
nhằm điều chỉnh hoạt động của ngành văn hoá. Cơ sở vật chất phục vụ cho các hoạt động
văn hóa được nâng cao, xây dựng thêm nhiều nhà văn hoá, câu lạc bộ, bảo tàng, thư viện,
cửa hàng sách báo, khu vui chơi giải trí…và đã có những phương thức hoạt động mới có hiệu quả. b. Yếu kém
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền văn hóa nước ta vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém.
Trước hết là ở trong nhận thức tư tưởng, trong đạo đức và lối sống của người dân, ngay
cả trong nội bộ cán bộ, đảng viên.Trước những biến động chính trị phức tạp trên thế giới,
một số người dao động, hoài nghi về con đường xã hội chủ nghĩa, phủ nhận thành quả
của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta, phủ nhận lịch sử cách mạng hào hùng của nước Việt Nam ta dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng Sản. Nhiều người còn sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn
hoá dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ…đang gây hại đến thuần phong
mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên tình
nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, bạn bè, đồng chí, đồng nghiệp. Hoạt động buôn lậu và
nạn tham nhũng phát triển. Ma tuý, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác gia tăng. Nạn mê
tín dị đoan khá phổ biến, gây nghiều hậu quả xấu cho nhân dân. Nhiều hủ tục cũ và mới
lan tràn, nhất là trong việc cưới xin, tang lễ, lễ hội…
Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền. Nạn tham nhũng, dùng tiền của Nhà
nước tiêu xài phung phí, ăn chơi sa đoạ không được ngăn chặn có hiệu quả. Hiện tượng
quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, kèn cựa địa vị, cục bộ, địa phương, bè phái
mất đoàn kết khá phổ biến. Những tệ nạn đó gây sự bất bình của nhân dân, làm tổn
thương uy tín của Đảng, của Nhà nước.
Nhiều biểu hiện tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo làm cho xã hội lo lắng như sự
suy thoái đạo lý trong quan hệ thầy trò, bạn bè, môi trường giáo dục xuống cấp, lối sống
thiếu lý tưởng, hoài bão, ăn chơi, nghiện ma tuý…ở một bộ phận học sinh, sinh viên.
Nhiều học sinh, sinh viên có hiện tượng coi nhẹ giáo dục đạo đức, thẩm mỹ và các bộ
môn chính trị, khoa học xã hội và nhân văn, những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
Đời sống văn học, nghệ thuật còn những mặt bất cập. Nhiều tác phẩm được tạo ra chỉ với
mục đích thương mại mà không mang tính nghệ thuật, nhân văn . Trong sáng tác và lý
luận, phê bình, đã có lúc nảy sinh khuynh hướng phủ nhận thành tựu văn học cách mạng
và kháng chiến, đối lập văn nghệ với chính trị, nhìn xã hội với thái độ bi quan. Một số
ngành nghệ thuật như điện ảnh, sân khấu, đặc biệt là sân khấu truyền thống gặp rất nhiều
khó khăn, chưa hướng tới được đông đảo nhân dân.Lãnh đạo quản lý trong xuất bản văn
học, nghệ thuật còn nhiều sơ sở. Thiếu sự đầu tư trọng điểm và lâu dài cho sự ra đời
những tác phẩm lớn, cho việc giữ gìn và phát triển những ngành nghệ thuật truyền thống.
Về thông tin đại chúng, còn nhiều sản phẩm chất lượng thấp, chưa kịp thời phát hiện và
lý giải những vấn đề lớn do cuộc sống đặt ra. Báo chí chưa biểu dương đúng mức những
điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực, cũng như thiếu sự phê phán kịp thời những việclàm
trái với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đạo đức xã hội. Không ít trường
hợp thông tin thiếu chính xác, làm lộ bí mật quốc gia. Xu hướng lạm dụng quảng cáo để
thu lợi còn khá phổ biến. Một số ít nhà báo đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thông tin
thiếu trung thực, gây tác động xấu đến dư luận xã hội, nhưng chưa được xử lý kịp thời theo pháp luật.
Giao lưu văn hoá với nước ngoài chưa tích cực và chủ động, còn nhiều sơ hở. Số văn hoá
phẩm đồi trụy, phản động xâm nhập vào nước ta còn quá lớn, trong khi đó, số tác phẩm
văn hoá có giá trị của ta đưa ra bên ngoài còn quá ít. Lực lượng hoạt động văn hoá - văn
nghệ trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiện nay không nhỏ, đã có những
công trình nghiên cứu, tác phẩm văn học, nghệ thuật tốt hướng về Tổ quốc. Song chúng
ta còn thiếu những biện pháp tích cực giúp đồng bào tìm hiểu sâu văn hoá dân tộc, liên hệ
mật thiết với tổ quốc, góp phần đấu tranh với những hoạt động chống phá đối với Tổ quốc.
Chính sách khuyến khích và định hướng đầu tư xã hội cho phát triển văn hoá còn chưa
rõ. Ở nhiều vùng nông thôn, nhất là vùng sâu,vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu
số, vùng căn cứ cách mạng, kháng chiến trước đây, đời sống văn hoá còn quá nghèo nàn.
Để khắc phục được những yếu kém, phát huy những lợi thế đó, Đảng và nhà nước ta phải
có những chính sách đúng đắn, hợp lý,từ đó xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên cơ sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay
a. Nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
Theo Hiến pháp sửa đổi (1993) thì nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc tức là nền văn
hóa mang đầy đủ các nội dung về yếu tố dân tộc, dân chủ, nhân văn và hiện đại. Tính dân
tộc thể hiện qua 3 khía cạnh : là nền văn hóa có cội nguồn, gốc rễ dân tộc, phát triển dựa
trên điều kiện sức mạnh của dân tộc và phát triển luôn luôn vì lợi ích dân tộc, vì hạnh
phúc, phồn vinh của dân tộc. Tính dân chủ được biểu hiện thông qua sự mở rộng và phát
triển dân chủ để khẳng định chủ thể của nền văn hóa thuộc về nhân dân, để khai thác triệt
để tiềm nặng văn hóa dân tộc, phát hiện và phát triển những tài năng văn hóa. Tính nhân
văn của nền văn hóa biểu hiện sự trân trọng những giá trị của con người, nền văn hóa
thấm nhuần những giá trị nhân đạo sâu sắc và phát triển nhấn mạnh quy luật quan hệ
nhân tính, khẳng định vai trò văn hóa ở con người, khoan dung và mang nặng tính người.
Tính hiện đại của nền văn hóa thể hiện qua việc phát triển nền văn hóa dựa trên cơ sở vật
chất ngày càng hiện đại, dựa trên khoa học - công nghệ hiện đại và phục vụ cho việc đào
tạo, giáo dục con người theo hướng hiện đại, phát triển dựa trên tư tưởng tiến bộ xã hội.
Như vậy, nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc được hiểu qua hai đặctrưng: tiên
tiến và đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ
xã hội mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội theo
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mang tinh thần dân chủ, nền văn hóa
mà trong đó dân chủ là yếu tố làm thay đổi nhiều mặt của đời sống văn hóa dân tộc, là
tiền đề quan trọng cho sự phát triểnvăn hóa, tạo động lực cho sự phát triển tài năng, nhu
cầu sáng tạo của quần chúng nhân dân. Đó là nền văn hóa mang tính nhân văn, nhân đạo
sâu sắc, phản ánh mối quan hệ hài hòa giữa con người và con người, giữa con người với
tự nhiên, phát triển vì sự phát triển toàn diện và hạnh phúc của con người, mang tính hiện
đại về trình độ dân trí, khoa học, công nghệ Nền văn hóa tiên tiến không chỉ trong nội
dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội
dung. Nền văn hóa tiên tiến cũng là nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Tính chất dân
tộc luôn luôn gắn bó với tính chất tiên tiến của nền văn hóa và hai mặt này liên quan biện
chứng với nhau. Bản sắc văn hóa của một dân tộc là những đặc trưng về văn hóa, về đời
sống tinh thần dân tộc ấy, là những nét đặc biệt, độc đáo về tinh thần, về văn hóa, về cách
sống và sức sáng tạo để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Bản sắc văn hóa dân tộc
Việt Nam là hạt nhân của tinh thần sáng tạo của dân tộc, truyền từ đời này sang đời khác,
được làm giàu thêm bằng kinh nghiệm cuộc sống và sự sáng tạo của các thế hệ. Qua các
thời đại lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, yêu nước đã trở thành một giá trị
truyền thống của văn hóa dân tộc. Nó trở thành giá trị cao nhất trong các thang bậc giá trị
văn hóa Việt Nam và là một động lực cực kỳ to lớn. Chính vì vậy, nền văn hóa đậm đà
bản sắc dân tộc trước hết là nền văn hóa yêu nước. Có thể nói yêu nước và tiến bộ vừa là
đặc trưng bao quát nhất của nền văn hóa tiên tiến, vừa là đặc trưng của bản sắc dân tộc.
b. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa vào xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay Nền văn
hóa đậm đà bản sắc dân tộc chỉ có thể phát triển bền vững và phát huy đầy đủ bản sắc của
nó trên cơ sở tiếp thu được những tinh hoa trí tuệ của loài người, nền văn hóa tiên tiến
phải là nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc nhưng không thể tách khỏi quan hệ với thế
giới. Bởi xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra là tất yếu xu thế đó là khách quan, mang tính
thời đại. Hơn nữa, toàn cầu hóa là một quá trình đầy mâu thuẩn, phức tạp, mặt tất yếu kỹ
thuật, kinh tế là mặt tích cực cólợi ta phải tận dụng, song cũng không thể bỏ qua mặt xã
hội kinh tế, mặt bản chất giai cấp của quá trình toàn cầu hóa.
Yêu cầu đó đòi hỏi phải quán triệt sâu sắc di sản văn hóa Hồ Chí Minh. Tăng cường và
đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và phát huy vai trò của các
đoàn thể nhân dân đối với các hoạt động văn hóa, xã hội, đồng thời tạo nên sự tham gia
tích cực hơn nữa của toàn xã hội trong công tác này. Trước những yêu cầu bức xúc của sự
nghiệp đổi mới, đòi hỏi phải quan tâm sâu sắc, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh
về văn hóa nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là yêu
cầu khách quan. Chúng ta cần triển khai thực hiện những biện pháp cơ bản sau:
Một là, nâng cao nhận thức về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển những giá trị xã hội chủ nghĩa.
Văn hóa là sản phẩm hoạt động sáng tạo của con người. Nó không phải là cái gì tồn tại tự
nó, bên ngoài cộng đồng nhân loại, mà là toàn bộ những giá trị bao gồm hệ thống tri thức,
hành động, kinh nghiệm xã hội, tạo thành môi trường văn hóa nuôi dưỡng đời sống tinh
thần của con người, hướng con người vươn tới những lý tưởng cao đẹp và quyết tâm
phấn đấu vì tương lai, hạnh phúc và sự hoàn thiện con người. Phong trào văn hóa, đấu
tranh trên lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật và những thắng lợi trên lĩnh vực này tạo thêm
những tiền đề cho sự nghiệp giải phóng và sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩ. Thực
tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh hùng hồn sức mạnh của văn hóa Việt Nam khi
nó được khơi dậytrong lòng dân tộc. Với sức mạnh truyền thống văn hóa Việt Nam, kết
hợp với tinh hoa văn hóa nhân loại, nhân dân ta đã giành được thắng lợi huy hoàng trong
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc xâm lược Mỹ. Trong thời kỳ đấu tranh
giành chính quyền, chủ nghĩa xã hội là lý tưởng, nguyện vọng của quần chúng, trở thành
động lực cách mạng to lớn; phong trào văn hóa, đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa - nghệ
thuật và những thắng lợi trên lĩnh vực này tạo thêmnhững tiền đề cho sự nghiệp giải
phóng và sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sức mạnh diệu kỳ của văn hóa đã nâng
tầm vóc dân tộc Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ qua nhắc nhở chúng ta phải đặc biệt coi
trọng yếu tố văn hóa trong quá trình đổi mới đất nước hiện nay. Trong bối cảnh ngày nay,
cần có sự thống nhất cao về nhận thức trong toàn bộ hệ thống chính trị và toàn xã hội về
tầm quan trọng của văn hóa cả về lĩnh vực lý luận, thực tiễn và công tác chỉ đạo xây dựng
phát triển văn hóa. Đường lối phát triển văn hóa là hình ảnh phản chiếu bản chất của chế
độ xã hội. Thể hiện bản chất khác nhau giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, không
chỉ ở hệ thống chính trị, hệ thống kinh tế, mà còn ở chính sách văn hóa, phát triển văn
hóa lành mạnh, phát triển những giá trị công bằng, bình đẳng, nhân đạo, tiến bộ là mục
tiêu hướng tới của công cuộc đi lên xã hội chủ nghĩa. Xây dựng và phát triển văn hóa liên
quan và tác động chặt chẽ với các lĩnh vực khác, cùng nhằm đảm bảo đẩy mạnh phát triển
kinh tế - xã hội, nhu cầugiữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, xét trên cả
khía cạnh nộidung và hình thức, phát triển văn hóa chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng
trong quá trình đổi mới đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa mà mỗi tổ chức
Đảng và toàn bộ hệ thống chính trị và toàn xã hội phủ nhận thức rõ và thực hiệnnghiêm
túc. Do vậy cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền trước tiên là trong các cấp ủy Đảng,
và toàn bộ Đảng viên, sau đó là tuyên truyền cho toàn xã hội nhận thức một cách đúng
đắn, đầy đủ tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hóa, vai trò của văn hóa, yêu cầu xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường
và hội nhập kinh tế quốc tế.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đáng, phát huy vai trò quản lý của Nhà nước, phát
huy vai trò của các đoàn thể nhân dân, đồng thời đẩy mạnh công tác xã hội hóa trong
xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đối
với mọi hoạt động văn hóa là vấn đề có tính nguyên tắc, là nhân tố quyết định thắng lợi
của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ngày nay. Sự lãnh
đạo của Đảng là vấn đề bảo đảm về chính trị, tư tưởng để xây dựng nền văn hóa trên nền
tảng của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, đi đúng quỹ đạo và mục tiêu xác định. Có
phát huy vai trò quản lý của Nhà nước mới tập trung được nguồn đầu tư đúng hướng đi
liền với tăng cường quản lý, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời phát huy
vai trò của các đoàn thể nhân dân, thực hiện xã hội hóa công tác xã hội, nhằm phát huy
cao nhất tiềm năng, sức mạnh của các đoàn thể, của cá nhân, cộng đồng và của toàn xã
hội vào việc đầu tư, lưu giữ, củng cố các giá trị văn hóa vào giải quyết các vấn đề xã hội.
Nhà nước cần phải tăng cường quản lý văn hóa, tuy nhiên sự quản lý của Nhà nước thông
qua hệ thống pháp luật và có những cách thức phù hợp, linh hoạt. Nhà nước đầu tư vào
những lĩnh vực, những khía cạnh không hoặc ít có khả năngxã hội hóa. Xã hội hóa xây
dựng, phát triển văn hóa trước hết ở việc huy động các nguồn lực đóng góp vào sự nghiệp
xây dựng và phát triển văn hóa. Có nhữngchính sách mang lại quyền lợi thiết thân cho
chính người dân, thì đó chính là "đem tài dân, sức dân làm lợi cho dân". Xã hội hóa
không chỉ có ý nghĩa giải quyết vấn đề tài chính, mà còn khẳng định truyền thống nhân
nghĩa, tăng thêm trách nhiệm của cộng đồng, xây dựng tinh thần đoàn kết dân tộc nếu
không phát huy sức mạnh của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, thì Nhà nước tự
mình không thể đảm đương nổi. Thực tế những năm qua cho thấy, nhiều chương trìnhxoá
đói, giảm nghèo, lao động và việc làm, để đền ơn đáp nghĩa, hỗ trợ nhân đạo, toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư chỉ thành công khiphát huy đầy đủ vai
trò của các tổ chức đoàn thể xã hội, doanh nghiệp và cá nhân trong xã hội. Đó chính là
thực hiện phương châm cái gì xã hội làm tốt hơn Nhà nước thì để xã hội làm, Nhà nước
chỉ hướng dẫn, hỗ trợ bằng định chế luật pháp; cái gì mà xã hội không thể làm hoặc làm
không tốt, thì Nhà nước có trách nhiệm phải làm; mặt khác Nhà nước phải quan tâm xây
dựng, hoàn thiện cơ chế chính sách, chế tài ổn định đáp ứng yêu cầu xã hội hóa hoạt động văn hóa.
Ba là, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với xây dựng và
phát triển văn hóa, xã hội.
Thống nhất giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, đòi hỏi việc xác địnhmỗi chính
sách kinh tế đều nhằm thực hiện mục tiêu văn hóa. Đảng và Nhà nước phải lãnh đạo, tìm
giải pháp tạo động lực phát triển kinh tế từ trong cội nguồn và sức mạnh văn hóa, không
chạy theo mục tiêu kinh tế đơn thuần với bất cứ giá nào. Mặt khác, mỗi chính sách phát
triển văn hóa của Nhà nước đều phải dựa trên cơ sở và khả năng kinh tế nhất định và phù
hợp với thực lực kinh tế của đất nước.
Trong điều kiện hiện nay, để đẩy mạnh phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc, Đảng, Nhà nước phải tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế, nhằm tạo điều kiện
vật chất để phát triển văn hóa. Bởi chúng ta không thể thực hiện các mục tiêu phát triển
văn hóa, xã hội nếu tách rời với các khả năng kinh tế, khôngxuất phát từ thực trạng kinh
tế - xã hội. Tuy vậy cũng không phải cứ có tăngtrưởng kinh tế là tự nó giải quyết được
các vấn đề văn hóa. Trong nhiều trườnghợp có tăng trưởng kinh tế mà không có quan
điểm đúng đắn về văn hóa thì thành quả tăng trưởng kinh tế cũng chệch khỏi các mục tiêu
văn hóa, xã hội. Do đó, không phải chờ đến khi kinh tế phát triển mới giải quyết các vấn
đề văn hóa, mà trong từng hoàn cảnh, điều kiện, bước đi của tăng trưởng kinh tế cần lựa
chọn mức độ, hình thức và biện pháp phát triển văn hóa cho phù hợp. Đường lối phát
triển văn hóa - xã hội đúng đắn thì sẽ tạo ra động lực đối với sự phát triển của đất nước.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, nếu không có quan
điểm phát triển văn hóa, xã hội đúng đắn, sẽ có nguy cơ đẩy xã hội đi đến phân cực thái
quá, giữa người giàu và người nghèo, giữa nông thôn và thành thị, giữa vùng thuận lợi và
vùng khó khăn cùng nhiều tệ nạn xã hội sẽ xuất hiện, giá trị truyền thống bị mai một, văn
hóa - văn nghệ chạy theo thị hiếuthấp hèn Những biểu hiện ấy nếu để tích tụ lâu ngày sẽ
không chỉ kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội, mà còn đe dọa đến sự ổn định chính trị.
Do vậy Đảng và Nhà nước cần quan tâm đề ra cách tổ chức, thực hiện có hiệu quả đường
lối, chủ trương, chính sách, pháp luật để giải quyết đúng đắn, hài hòa quan hệ giữa phát
triển kinh tế với xây dựng phát triển văn hóa.
Bốn là, xây dựng văn hóa phải bắt đầu với tư cách là chủ thể của văn hóa.
Con người là chủ thể chân chính sáng tạo ra những giá trị văn hóa, đồng thời là sản phẩm
của môi trường văn hóa. Những phẩm chất cá nhân của con người được hình thành và
phát triển trong quá trình phát triển của nền văn hóa. Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: Phải làm
thế nào cho văn hóa đi sâu vào tâm lý quốc dân, nghĩa là làm cho văn hóa phải sửa đổi
được tham nhũng, lười biếng, xa hoa, xa xỉ. Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi.
Ngày nay, trước tác động của kinh tế thị trường và hội nhập, những cơ hội và thách thức,
trước cả thăng hoa và cám dỗ, văn hóa phải trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn
thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng, phát huy truyền thống yêu nước, ý chí
tự lực, tự cường, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Văn hóa phải tham gia tích cực vào việc
phát triển nguồn nhân lực, đào luyện nhân tài cho đất nước. Đảng và Nhà nước phải lãnh
đạo để mọi hoạt động văn hóa đều nhằm vào xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, thể chất, năng lực, tính sáng tạo, có ý thức cộng
đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, có lối sống văn hóa, quan hệ hài
hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội.
Năm là, giữ vững và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình giao lưu hội nhập quốc tế.
Trước xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa của thế giới hiện nay, không một quốc gia nào có
thể phát triển trong sự tách biệt với thế giới. Tình hình đó đang mở ra thời cơ lớn để tiếp
thu những tinh hoa văn hóa, văn minh nhân loại, làm phong phú thêm cho văn hóa dân
tộc.Tuy nhiên, quá trình đó không phải chỉ diễn ra theo chiều thuận, mà có cả chiều
nghịch. Nếu không có một bản lĩnh vững vàng, một chiến lược phát triển văn hóa đúng
đắn thì việc mở cửa giao lưu sẽ dẫn đến nguy cơ sùng ngoại, đánh mất bản sắc văn hóa
dân tộc, văn hóa chỉ còn là bản sao vụng về, mờ nhạt của một thứ văn hóa vay mượn,
ngoại lai. Do vậy, chúng ta ghi nhớ tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh: Bảo vệ bản sắc văn
hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại là hai mặt của một quá trình, hai mặt
đó luôn luôn kết hợp chặt chẽ với nhau, bất cứ một sự lệch lạc nào cũng đưa đến những
tổn hại cho việc xây dựng nền văn hóa mới. Trong lãnh đạo, xây dựng phát triển văn hóa,
Đảng ta nhấn mạnh: Phải lấy bản sắc văn hóa dân tộc làm nền tảng, làm bản lĩnh, nền
tảng, bản lĩnh có vững vàng thì mới tiếp thu được những tinh hoa văn hóa nhân loại đúng
đắn; mới chắt lọc được những gì thực sự là tinh hoa và mới vứt bỏ được những gì là phế
thải của bất cứ loại phản văn hóa nào từ bên ngoài. Bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc phải
gắn liền với lãnh đạo việc nâng cao nhận thức, tư tưởng, nâng cao những hiểu biết về văn
hóa, khoa học hiện đại của quần chúng nhân dân, để quần chúng phân biệt được những gì
thực sự là chân, thiện, mỹ với những cái giả, cái ác, cái xấu; nhận cái hay, bỏ cái dở. Cần
quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh: Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm, cũ mà
xấu thì phải bỏ; mới mà hay thì phải làm; mới mà dở, hoặc không phù hợp với con người
Việt Nam thì không tiếp nhận.Giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống, vun trồng
những giá trị nội sinh của dân tộc, tạo cơ sở vững chắc để tiếp thu tinh hoa văn hóa của
nhân loại và thời đại ngày nay đang là yêu cầu khách quan trong quá trình xây dựng nền
văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam. Điều đó đòi hỏi Đảng, Nhà nước,
các đoàn thể nhân dân phải tiếp tục quan tâm sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. C. KẾT LUẬN :
Vận dụng tốt tư tưởng Hồ Chí Minh về Đời sống văn hóa mới là điều cần thiết, cấp bách
trong thời đại hiện nay - thời đại kinh tế thị trường kéo theo nguy cơ biến đổi các giá trị
văn hóa truyền thống. Thực hiện câu nói của Bác Hồ: "Văn hóa soi đường cho quốc dân
đi", việc xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong những năm sắp tới là khát vọng
to lớn và quyết tâm chiến lược của Ðảng ta nhằm phát triển mạnh mẽ văn hóa dân tộc,
chấn hưng đất nước, đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên sánh vai với các
nước trên thế giới. Điều đó đòi hỏi phải có sự đồng lòng của toàn dân tộc ta trong việc
xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, từ đó làm nền tảng để thực
hiện công cuộc đổi mới đất nước, đi lên xã hội chủ nghĩa.
Thế hệ trẻ là những chủ nhân tương lai của đất nước, gánh trên vai trách nhiệm xây dựng,
bảo vệ và phát triển đất nước. Là thế hệ trẻ - những người được lĩnh hội tri thức, thế hệ
sinh viên cần góp sức của mình vào công cuộc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, lấy đó làm nền tảng phát triển kinh tế, chính trị, xã hội cho đất nước.
Muốn thế, mỗi sinh viên phải luôn có ý thức nỗ lực học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh. Có như vậy, nền văn hóa của dân tộc ta mới thực sự là nền văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Việt Nam ta mới có thể “bước tới đài vinh quang để
sánh vai cùng các cường quốc năm châu”.
Từ quan điểm HCM đoàn kết toàn đân tộc, vận dụng vào
việc xây dựng khối đại đoàn kết ở Việt Nam hiện nay ?
Đại đoàn kết là truyền thống quý báu của dân tộc ta, được hun đúc trong quá trình dựng
nước và giữ nước; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết
định bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Bài viết phân tích tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc, đề ra giải pháp tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm xây dựng và phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc. Theo Người, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, không
phải là việc một, hai người có thể làm được. Do đó, cần đoàn kết toàn dân tộc, có nghĩa là
phải tập hợp được tất cả mọi người Việt Nam vào một khối trong cuộc đấu tranh chung.
Hồ Chí Minh khẳng định, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc phải kế thừa truyền thống
yêu nước, nhân nghĩa, tinh thần cộng đồng của dân tộc Việt Nam, phải có lòng khoan
dung, độ lượng, tin vào nhân dân, tin vào con người.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, đoàn kết làm nên sức mạnh và là cội nguồn của mọi thành công:
“Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng
lợi”; “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,/Thành công, thành công, đại thành công”; tăng
cường đoàn kết toàn dân tộc là một nhiệm vụ cơ bản, nhất quán, lâu dài, sống còn của cách mạng.
Đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là phương pháp tổ chức, tập hợp lực
lượng, mà cao hơn là một bộ phận hữu cơ, một tư tưởng xuyên suốt trong đường lối chiến
lược cách mạng. Người khẳng định: “Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là
một thủ đoạn chính trị”. Đoàn kết toàn dân tộc vừa là điều kiện tiên quyết, sống còn, vừa
là tôn chỉ, mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc không chỉ dừng lại trong nhận thức, mà phải được cụ thể hóa trong mọi bước đi,
tình huống của cách mạng. Người nhấn mạnh “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất
và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà”.
Hồ Chí Minh chỉ ra lực lượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là toàn dân trong đó,
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng.
Theo nghĩa đó, đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các chính đảng, đoàn
thể, các dân tộc, tôn giáo, kể cả những người trước đây lầm đường lạc lối nhưng đã biết
hối cải, quay về với chính nghĩa của dân tộc; đoàn kết rộng rãi tất cả những lực lượng và
bộ phận có thể tranh thủ. Theo Người, mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng người đều có thể còn
có những hạn chế, nhược điểm. Nhưng, vì lợi ích chung của cách mạng phải có lòng
khoan dung, độ lượng, trân trọng phần thiện dù là nhỏ nhất ở mỗi người mới có thể tập
hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng. “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ, thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng
thật thà đoàn kết với họ”. “Ai có tài, có sức, có đức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục
vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.
2. Quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc
Kế thừa, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết toàn dân tộc, trong lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp
luật về dân tộc, tôn giáo, thanh niên, phụ nữ, công nhân, nông dân, trí thức, văn nghệ sĩ,
người Việt Nam ở nước ngoài... nhằm khơi dậy, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta xác định xây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc là động lực chủ yếu trong tiến trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan điểm
này được Đảng đề ra từ Đại hội VI (năm 1986) và không ngừng được bổ sung, phát triển
qua mỗi kỳ Đại hội Đảng. Bốn bài học lịch sử mà Đại hội VI chỉ ra đã bao hàm tinh thần
đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó nổi bật là bài học lấy dân làm gốc và kết hợp sức
mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, thực hiện đoàn kết quốc tế. Dân là gốc, là
nền tảng của xã hội, là động lực phát triển của đất nước. Quan điểm này đã trở thành linh
hồn của đường lối đổi mới, là gốc của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc đã được nâng lên một bước phát triển mới, trong Nghị
quyết số 07-NQ/TW ngày 17-11-1993 của Bộ Chính trị (khóa VII) về đại đoàn kết toàn
dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất. Nghị quyết đã thể hiện sự kế thừa và
phát triển tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khẳng định yếu
tố dân tộc là một “đặc điểm cực kỳ quan trọng”, đồng thời chỉ rõ phải tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, đưa khối đại
đoàn kết toàn dân tộc lên tầm cao mới.
Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc, Đảng ta
luôn luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân. Đó là đường lối chiến lược, là
nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” vì mục tiêu cao đẹp
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đại hội X nhấn mạnh: “Đại đoàn
kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ
chức đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu”. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011) đã khẳng định, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết toàn Đảng, đoàn
kết toàn dân, đoàn kết quốc tế là một bài học kinh nghiệm của cách mạng nước ta trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo
của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một đất nước Việt
Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái
với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước,
nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước,
tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.
Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Mọi hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ đảng
viên, công chức, viên chức phải phục vụ lợi ích của nhân dân. Giải quyết hài hòa các mối
quan hệ lợi ích trong xã hội, bảo về quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của nhân dân;
không ngừng cải thiện nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”.
Hiện nay, bối cảnh quốc tế, khu vực có những diễn biến nhanh, phức tạp, khó dự báo; đan
xen cả thời cơ và thách thức, thuận lợi và khó khăn, đối với sự nghiệp đổi mới nói chung,
với xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc nói riêng. Lợi dụng quá trình mở
cửa, hội nhập, các thế lực thù địch đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa bình”, kích động
tư tưởng ly khai, chia rẽ dân tộc, tạo ra mâu thuẫn, gây xung đột xã hội, làm mất ổn định
chính trị - xã hội. Những vấn đề đó đang đặt ra nhiều thách thức lớn đối với khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
3. Giải pháp tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là động lực và nguồn lực to lớn trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là phát huy
mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; tôn
trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao
tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết
mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân
với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết dân tộc.
Để khắc phục những hạn chế trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc thời
gian qua, đồng thời tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới, cần
thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, nâng cao nhận thức về vai trò, sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc
Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền để các cấp, các ngành, các lực lượng, mọi người dân
nhận thức rõ và đúng về sự cần thiết của tăng cường đại đoàn kết toàn dân. Tuyên truyền,
làm cho mỗi cán bộ, đảng viên, mọi người Việt Nam nhận thức sâu sắc lời căn dặn trong
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của
Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn
kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Đồng thời, phải quán triệt và
thực hiện lời dạy của Người: “Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta
độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay
ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi...”. Quán triệt và
thực hiện quan điểm đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng
Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về đại
đoàn kết toàn dân tộc. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ chế, chính sách
về dân tộc, tôn giáo, chính sách xã hội nhằm khuyến khích, động viên, phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hoàn thiện những
chính sách cụ thể, quan tâm các tầng lớp, giai cấp trong xã hội, như: công nhân, nông
dân, trí thức, doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi; các chính
sách xã hội, nhất là chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, những người có công
với cách mạng, tạo điều kiện để họ khắc phục khó khăn, bảo đảm cuộc sống, tích cực
tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, v.v.. Phổ biến và thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở
cơ sở, giải quyết tốt những vấn đề xã hội bức xúc. Các cấp ủy đảng và chính quyền phải
thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết khó khăn, vướng
mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân; tin dân và tôn trọng dân. Hoàn thiện hệ thống
pháp luật để “bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”, nhân dân thực sự
làm chủ, được bày tỏ nguyện vọng của mình thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Cấp ủy đảng, Mặt trận Tổ quốc các cấp và các đoàn thể tham gia tuyên
truyền sâu rộng để mọi tầng lớp nhân dân nhận thức rõ âm mưu thâm độc của các thế lực
thù địch lợi dụng những mặt còn hạn chế, yếu kém của các cấp chính quyền và vấn đề tín
ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Từ đó, nâng cao tinh
thần cảnh giác, sự nhạy bén trong nhận diện và tích cực tham gia đấu tranh với những
quan điểm sai trái, thù địch.
Hai là, tăng cường vai trò của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong
củng cố và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Toàn bộ sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước hướng vào tăng cường củng cố,
phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thông qua đường lối, chính sách, pháp
luật, tạo cơ sở cho sự thống nhất các lợi ích, thống nhất về ý chí và hành động của các
giai cấp, tầng lớp, nhất là giữa giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức.
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại
hội XII của Đảng khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có
đổi mới cả về nội dung và phương thức hoạt động; phát huy ngày càng tốt hơn vai trò tập
hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; cùng Đảng, Nhà nước chăm lo, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tham gia xây dựng Đảng, quản lý
nhà nước, quản lý xã hội; thường xuyên tổ chức các cuộc vận động, phong trào thi đua
yêu nước, góp phần tích cực vào những thành tựu chung của đất nước”. Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể phải là “cầu nối” giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân để nhân
dân tin tưởng, chủ động phản ánh, góp ý kiến, tham gia bàn bạc những vấn đề quan trọng
của đất nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp phải chủ động phối hợp với chính
quyền giải quyết triệt để những vấn đề xã hội bức xúc, lợi ích chính đáng của nhân dân
trên cơ sở tin nhân dân và tôn trọng nhân dân.
Tăng cường vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
tổ chức đoàn thể để tạo sự đồng thuận, nhất trí cao, ổn định xã hội, phát triển toàn diện và bền vững đất nước.
Ba là, phát huy vai trò của nhân dân trong khối đại đoàn kết dân tộc
Trân trọng, tôn vinh những đóng góp, công hiến của nhân dân; có cơ chế chính sách đặc
biệt để thu hút nhân tài. Tôn vinh những doanh nhân có nhiều đóng góp cho sự nghiệp
phát triển đất nước. “Xóa bỏ rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển
kinh tế tư nhân lành mạnh và đúng định hướng. Phát huy mặt tích cực có lợi cho đất nước
của kinh tế tư nhân...”. Có cơ chế, chính sách phù hợp, tạo thuận lợi cho thế hệ trẻ học
tập, nghiên cứu, lao động, giải trí, phát triển trí tuệ, kỹ năng, thể lực để cống hiến cho đất
nước. Tôn trọng và tạo điều kiện, cơ hội để nhân dân tham gia thảo luận, góp ý những
vấn đề quan trọng của đất nước.
“Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo”. Quán triệt, thực hiện tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc: “... vận động tất cả lực
lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn
dân”; “Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta
đoàn kết với họ” để xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thực hiện tốt chính sách bình đẳng giới; hoàn thiện chính sách pháp luật về tín ngưỡng,
tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Đối với đồng
bào định cư ở nước ngoài, cần có chính sách hỗ trợ bà con ổn định cuộc sống, phát triển
kinh tế, góp phần tăng cường hợp tác hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước.
Đồng thời, “... tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; có
cơ chế, chính sách thu hút đồng bào hướng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng và bảo vệ đất nước”.
Tiếp tục thực hiện tốt các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo trong nhân dân để phát triển kinh tế, làm giàu chính đáng cho
bản thân, cho gia đình, nêu cao tính cộng đồng và truyền thống nhân ái, tham gia xóa đói giảm nghèo.