lOMoARcPSD| 58097008
*
Câu 1
Vai trò của ngân sách nhà nước với nền kinh tế:
Thnht: Quản lý điều ết vĩ mô nền kinh tế
Ngân sách Nhà nước công cụ định ớng hình thành cơcấu kinh tế
mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền.
Thông qua hoạt động chi ngân sách, nhà nước sẽ cung cấpkinh phí đầu
cho sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các doanh
nghiệp thuộc các ngành then chốt trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kin
thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế.
Nguồn kinh phí trong ngân sách cũng thđược sử dụngđể hỗ trcho
sự phát triển của các doanh nghiệp, đảm bảo nh n định về cấu hoặc
chuẩn bị cho việc chuyển sang cấu mới hợp hơn. Thhai: Đối với kinh
tế
Kích thích sự tăng trưởng kinh tế theo sự định hướng pháriển kinh tế
hội thông qua xác công cthuế thuế suất của nhà nước sẽ góp phần
kích thích sản xuất phát triển thu hút sự đầu tư của các doanh nghiệp.
Ngoài ra Nhà nước còn dùng ngân sách Nhà nước đầu vàocơ shạ
tầng tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động.
Câu 2: * Cơ cấu thu ngân sách của Việt Nam
Quy mô thu NSNN có sự thay đổi qua từng giai đoạn, sau một thời gian
dài liên tục mở rộng, thì từ năm 2011 đến nay đã bắt đầu xu hướng giảm. T
lệ động viên NSNN bình quân đã tăng từ 24,2% GDP giai đoạn 2001 - 2005 lên
26,3% GDP giai đoạn 2006 - 2010. Tuy nhiên, trong 5 năm gần đây, quy thu
NSNN của Việt Nam đang giảm dần, bình quân giai đoạn 2011 - 2015 ước chỉ
đạt 22,7% GDP. Sự giảm dần về quy thu NSNN những năm gần đây do nhiều
nguyên nhân, trong đó các nguyên nhân chủ yếu là: (i) Tăng trưởng kinh tế
thấp hơn dự báo; (ii) Chủ trương giảm mức động viên đthúc đẩy sản xuất
lOMoARcPSD| 58097008
*
trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế khó khăn; (iii) Ssụt giảm sthu từ dầu
thô do giá dầu giảm; (iv) Ttrọng thu từ thuế nhập khẩu giảm do cắt giảm hàng
rào thuế quan và (v) Nguồn thu từ đất đai tăng chậm.
Cơ cấu thu NSNN đã dịch chuyển theo hướng bền vững hơn với sự tăng
dần về tỷ trọng của các loại thuế ổn định, gắn với sản xuất, êu dùng trong
ớc như thuế TNDN, TNCN, GTGT TTĐB. Ttrọng thu nội địa trong tổng
thu NSNN (trừ dầu) đã tăng từ 50,8% m 2001 lên 64,4% năm 2010 đến
năm 2015 ước bằng khoảng 74,1%
4
. Tốc độ tăng thu từ thuế TNDN, thuế TNCN,
thuế GTGT và thuế TTĐB cơ bản luôn cao hơn so với tốc độ tăng của tổng thu
NSNN từ thuế, phí, lphí. Cụ thể, so với năm 2001, quy thu NSNN năm
2015 từ thuế TNDN (không kể dầu thô) ước tăng 10,1 lần, từ thuế TNCN tăng
27,03 lần, từ thuế GTGT (từ hàng trong nước) tăng13,23 lần và thuế TTĐB
(hàng trong nước) tăng 10,01 lần, trong khi tốc độ tăng thu NSNN từ thuế, phí
lệ phí ước chỉ ở mức 8,74 lần.
Trong hệ thống thuế Việt Nam hiện nay, các sắc thuế êu dùng đóng vai
trò rất quan trọng và xu hướng ngày càng tăng. Diễn biến y cũng phù hợp
với xu hướng trên thế giới những năm gần đây khi nhiều quốc gia đã liên tc
đưa ra các biện pháp nhằm tăng cường vai trò của thuế êu dùng, giảm dần
mức động viên từ thuế thu nhập để tăng cường nh hấp dẫn của môi trường
đầu tư. Riêng tỷ trọng tổng thu từ thuế GTGT (bao gồm cả hàng trong nước và
hàng nhập khẩu, trừ phần hoàn thuế) trong tổng thu NSNN đã tăng từ 18,6%
năm 2001 lên khoảng 28,6% năm 2015. Trong khi đó, tỷ lệ động viên từ thuế
TNDN và thuế TNCN tuy có tăng từ mức 16,4% năm 2001 ước lên 22,3% năm
2015 nhưng từ năm
2011 đến nay thay đổi rất ít (năm 2011, tỷ lệ này đã là
21,7%). Vai trò của thuế thu nhập trong thu NSNN của Việt Nam dự báo sẽ ếp
tục giảm khi mức thuế suất thuế TNDN phổ thông giảm theo lộ trình từ 22%
xuống 20% từ ngày 01/01/2016.
lOMoARcPSD| 58097008
*
* Nhân tố tác động đến cơ cấu thu NSNN:
(i) Nhóm nhân tố ch quan tác động đến quy cấu thu
NSNN: Bộ máy quảnthu NSNN; các chính sách về thu NSNN, đặc biệt chính
sách về thuế
(ii) Nhóm nhân tố khách quan tác động đến quy cấu thu
NSNN: Sự phát triển của nền kinh tế mục êu phát triển KT - XH; thực trạng
quy và cấu chi của NSNN; lợi thế so sánh về tài nguyên thiên nhiên; yếu
tố rủi ro như biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh; phản hồi của các chủ th
nộp thuế; sự hội nhập quốc tế... Câu 3: * Các phương thức chuyển giá:
Một là: chuyển giá thông qua hình thức nâng cao giá trị tài sản góp vốn:
Việc nâng giá trtài sản vốn góp khi thành lập mới doanh nghiệp hoặc
khi bổ sung nguồn vốn góp đối với dự án đầu tư dưới dạng doanh nghiệp liên
doanh sẽ làm cho phần vốn góp của doanh nghiệp vốn FDI được tăng cao,
nhđó, doanh nghiệp vốn FDI tăng sự chi phối trong các quyết định liên
quan đến hoạt động của dự án liên doanh và tăng tỷ sut lợi nhuận được chia.
Ngoài ra, khi dán kết thúc hoạt động thì tlệ trgiá tài sản được chia cao hơn
giúp doanh nghiệp có vốn FDI thu về dòng ền cao hơn.
Đối với các doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài thì việc nâng
tài sản góp vốn sẽ giúp doanh nghiệp có vốn FDI tăng mức khẩu hao trích hàng
năm, làm tăng chi phí đầu vào, từ đó sẽ giúp doanh nghiệp vốn FDI nhanh
hoàn vốn đầu cố định, giảm thiểu rủi ro đầu tư, giảm thiểu sthuế thu nhập
doanh nghiệp phải đóng cho quốc gia ếp nhận đầu tư. Khi nâng giá trị vốn
góp bằng cách định giá cao hơn giá trthc của các TSCĐ thì các doanh nghiệp
vốn FDI đã chuyển bớt một phần lợi nhuận của doanh nghiệp ra nước ngoài.
Hai là: chuyển giá thông qua việc nâng cao giá nguyên vật liệu đầu vào của
sản xuất kinh doanh, hạ thp giá bán sản phẩm cho công ty liên kết:
Phương pháp này được thực hiện thông qua việc điều ết giá mua, bán
hàng hóa, thành phẩm, bán thành phẩm các nguyên liệu, vật liệu giữa 2
lOMoARcPSD| 58097008
*
doanh nghiệp của MNCs quan hệ liên kết với nhau theo cách sản phẩm đầu
ra của doanh nghiệp này đầu vào của doanh nghiệp kia; trường hợp thuế
suất thuế thu nhập doanh nghiệp của doanh nghiệp đầu ra cao hơn doanh
nghiệp đầu vào thì doanh nghiệp đầu ra sẽ bán cho doanh nghiệp đầu vào vi
giá thấp, dẫn đến lợi nhuận của doanh nghiệp đầu ra thấp, thuế thu nhập
doanh nghiệp phải nộp thấp; còn nếu thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
ở doanh nghiệp đầu ra thấp hơn doanh nghiệp đầu vào thì doanh nghiệp đu
ra sẽ bán với giá cao hơn, dẫn đến lợi nhuận của doanh nghiệp đầu vào giảm,
thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp thấp. Như vậy, phương thức chuyển giá
y đã làm lợi nhuận giảm, qua đó các MNCs đã tối thiếu hóa số thuế thu nhập
doanh nghiệp phải nộp
Ba là: chuyển giá thông qua chuyển giao công nghệ, thương hiu:
Các MNCs y dựng các phòng nghiên cứu và phát triển sản phẩm tại
các quốc gia thuế sut thuế thu nhập doanh nghiệp cao, mọi chi phí đều do
thành viên MNCs tại quốc gia này gánh chịu, dẫn đến thuế thu nhập doanh
nghiệp phải nộp thấp, nhưng kết quả của việc nghiên cứu phát triển sn
phẩm thì các thành viên khác vẫn được áp dụng như nhau, dẫn đến khi các
MNCs góp vốn, chuyển nhượng bản quyền của sản phẩm thì rất khó xác định
giá trị bởi sự độc quyền của tài sản và khó có thể m thấy giá thị trường trong
các giao dịch y. Chính vậy, chuyển giá thông qua chuyển giao công nghệ
đã giúp các MNCs thu lợi lớn thông qua việc thu hồi vốn song thuế thu nhập
doanh nghiệp phải nộp rt thấp Bốn là: chuyển giá tài chính:
Các MNCs thực hiện hình thức này bằng cách áp dụng các hình thức tài
trkhác nhau giữa các công ty con. Bằng hình thức y, các công ty con tạo ra
cấu vốn và nguồn vốn bất hợp như dùng nguồn vốn dưới dạng cho vay
từ công ty mđể tài trợ cho tài sản cố định tài sản đầu dài hạn mà không
tăng vốn góp và vốn chủ sở hữu nhằm đẩy chi phí hoạt động tài chính lên cao
như chi phí chênh lệch tỷ giá, chi phí lãi vay,… và chuyển một phần lợi nhuận
lOMoARcPSD| 58097008
*
về ớc dưới dạng lãi vay, chi phí bảo lãnh vay vốn để tránh thuế, tránh lỗ do
chênh lệch tỷ giá về sau. Hoặc là các công ty mẹ sẽ buộc các công ty con đóng
tại nước thuế suất cao tài trợ bằng nợ vay nhiều hơn để ng lợi từ tấm
chắn thuế, đồng thời sẽ chuyển phần vốn cổ phần cho công ty con quc
gia thuế suất thấp hơn. Cách làm này giúp cho các MNCs vẫn đảm bảo được
cấu trúc vốn của toàn công ty được tăng thêm. Trong thực tế, các quốc gia
thkhông lãi suất giống nhau nên các công ty sẽ so sánh giá trị lợi thế từ
tấm chắn thuế và từ lãi vay để quyết định vn đề vay vốn
Năm là: chuyển giá thông qua hình thức nâng chi phí các dịch vụ hành chính
và quản lý:
Các MNCs thực hiện hình thức y bằng cách kê khai cao các chi pdịch
vụ tư vn quản , đào tạo chuyên viên, chuyển người của các công ty con qua
công ty mẹ để học tập, hoặc ép các công ty con trả lương cao cho các chuyên
gia đến từ công ty mẹ hoặc các công ty thành viên, trả chi phí lớn cho các công
ty vấn trung gian thuộc MNCs nhằm chuyển một phần lợi nhuận của các
công ty con ra khỏi nước ếp nhận đầu tư, dẫn đến chi phí hành chính của các
công ty con lớn, lợi nhuận thấp hoặc bị lỗ, từ đó các MNCs đã tối thiểu hóa số
thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp.
Trường hợp một chương trình quảng cáo nhằm y dựng thương hiệu
cho sản phẩm trên phạm vi khu vực đầu tư, nhưng chi phí lại được các MNCs
phân bổ hết về cho thành viên trsở tại quốc gia thuế suất thuế thu
nhập doanh nghiệp cao để chuyn lợi nhuận vớc, để thu hồi vốn đầu tư
Sáu là: chuyển giá thông qua các trung tâm tái tạo hóa đơn:
Các MNCs thành lập nhiều công ty các quốc gia khác nhau, hoc
trong cùng một quốc gia, trong đó MNCs thành lập ra một công ty trung gian
không nhiệm vụ sản xuất, hoặc chỉ thực hiện khâu đóng gói hoặc hoàn thiện
chi ết nhỏ của hàng hóa, sản phẩm. Thực chất, công ty này đóng vai trò
trung gian giữa công ty mẹ và công ty con và có nhiệm vụ:
lOMoARcPSD| 58097008
*
(i) rà soát lại giá thành của sản phẩm, hàng hóa trước khi được bán;
(ii) xử vấn đề chênh lệch tỷ giá ngoại tệ với giá trị của nguyên tệ
được thanh toán giữa công ty mẹ với công ty con và với trung tâm tái tạo hóa
đơn;
(iii) điu phối dòng ền đến các công ty con có nhu cầu về vn.
Thông thường các MNCs điều ết việc bán hàng hóa được ghi trên
chứng từ hóa đơn ở công ty nơi sản xuất hàng hóa và xuất bán cho trung tâm
tái tạo hóa đơn, sau đó trung tâm này lại xuất hóa đơn và chứng từ kèm theo
để viết bán cho công ty con. Trung tâm tái tạo hóa đơn được hưởng một khoản
ền chênh lệch về giá bán (ền hoa hồng) được viết thông qua hóa đơn bán
hàng. Nhưng trong thực tế, hàng hóa được chuyển giao trực ếp từ công ty
sản xuất đến công ty phân phối không qua trung tâm tái tạo hóa đơn * Liên
hệ Việt Nam:
Trường hợp điển hình những biểu hiện “đáng ngờ” về chuyển giá,
phải nói đến Công ty Coca-Cola Việt Nam. Trong hơn 20 năm đầu tư, kinh
doanh tại Việt Nam, Coca-Cola liên tục báo lỗ, lỗ lũy kế nh đến 30/9/2011 của
công ty này đã lên tới 3.768 tỷ đồng, vượt cả svốn đầu ban đầu 2.950
tỷ đồng.
Do lỗ liên tục như vậy nên Coca-Cola Việt Nam không phải đóng thuế
thu nhập DN, trong khi doanh thu liên tục tăng từ 20-30%/năm. Tuy lỗ lớn như
vậy nhưng DN này đã có kế hoch đầu tư thêm 300 triệu USD tại Việt Nam.
Một công ty khác nằm trong diện nghi vấn chuyển giá với giá trị lớn lên đến
hơn 1.200 tỷ đồng Công ty PepsiCo Việt Nam. Tkhi thành lập năm 1991,
gần 20 năm qua PepsiCo lỗ liên tục, cho đến một số năm gần đây mới có lãi
nhưng tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu rất thấp, chỉ trên 2%. Mặc vậy, PepsiCo
Việt Nam vẫn liên tục mở rộng đầu tư, xây dựng các nhà máy mới Đồng Nai
(45 triệu USD), Bắc Ninh (73 triệu USD).
Câu 4
lOMoARcPSD| 58097008
*
Giống nhau:
Thuế êu thụ đặc biệt và Thuế giá trị gia tăng đều là thuếgián thu.
Đối tượng chịu thuế người êu dùng cuối cùng của sảnphẩm đó, áp
dụng rộng rãi tới mọi tổ chức, cá nhân.
Đều hướng tới đối tượng chịu thuế là hàng hóa và dịch vụ.
Khác nhau:
Tiêu Thuế êu thụ đặc biệt chí (Thuế
TTĐB)
Thuế giá trị gia tăng
lOMoARcPSD| 58097008
*
(Thuế GTGT)
Phm Áp dụng đối với một số vi áp loi
hàng hóa, dịch vụ dng mang nh chất xa
xỉ, ảnh hưởng đến sức khỏe hay không
khuyến khích sử dụng.Ví dụ như rượu, bia,
Phạm vi áp dụng rộng, phát sinh trong quá
trình sản xuất, lưu thông, êu thụ.
thuốc lá,… Đối
Các tổ chức, nhân sn
ợng xuất, nhập khẩu
hàng hóa np hay kinh
doanh dịch vụ thuế
thuộc đối tượng chịu thuế
êu thụ đặc bit.
Khái Thuế êu thụ đặc biệt là Thuế giá trị gia tăng là niệm loại thuế
đánh vào hành vi loại thuế nh trên giá êu thụ một số loại hàng tr
tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ thuộc diện hóa, dịch vụ phát sinh chịu
thuế TTĐB. trong quá trình từ sản
xuất, lưu thông đến êu
dùng. Mục Thuế TTĐB nhằm điều ết Thuế GTGT góp phần đích
thu nhập của người êu thúc đẩy phát triển sản dùng, góp phần tăng
thu xuất, mở rộng lưu cho Ngân sách nhà nước, thông phân phối hàng
tăng cường quản lý sản hóa.
xuất kinh doanh đối với nhiều hàng
hóa, dịch vchịu thuế.
Đặc Chđánh thuế một lần loại thuế thu điểm khâu sản xuất, nhập
khẩu nhiều giai đoạn.
hoặc kinh doanh dịch vụ. Phthuộc vào yếu tố Danh mc
hàng hóa và chi phí cộng thêm dịch vụ chịu thuế không
ngoài giá bán của nhiều và hay thay đổi. người cung cấp.
lOMoARcPSD| 58097008
*
Các tổ chức, nhân sản xuất, kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ chịu GTGT (sau đây gọi là
cơ sở kinh doanh) và
Căn cứ Gồm 2 căn cứ: Giá nh nh
thuế và thuế suất thuế Giá nh thuế
giá bán ra, giá cung ứng dịch vụ chưa thuế
TTĐB chưa thuế GTGT, bao gồm các
khoản thu thêm, được thu(nếu có) mà cơ sở
kinh doanh được hưởng.
– Thuế suất: dựa trên những loại
hàng hóa và loại hình kinh doanh
nhất định.
Câu 5:
tổ chức, nhân nhập khẩu
hàng hóa chịu thuế giá trị gia
tăng (sau đây gọi người
nhập khẩu). Gồm 2 căn cứ:
Giá nh thuế thuế sut
Giá nh thuế giá bán hàng
hóa, dịch v chưa thuế
GTGT.Thuế suất: phụ thuộc
vào từng danh mục hàng hóa
nhất định.
* Nguyên nhân dẫn đến nợ côngThnhất: Đầu ạt. Đường xá, cầu
đường được y dựng và mở rộng, chi phí được lấy từ ngân sách nhà nước.
Mà ngân sách này là đi vay từ các tổ chức n dụng trong nước và ngoài nước.
Theo thống kê, y dựng đường mất khoảng 20 triệu USD/km. Trong khi
theo nh toán, đường xá sau khi được xây dựng xong và đi vào sử dụng trong
2 năm đã phải tu sửa. Tương tự, mới đây Việt Nam bỏ chi phí xây dựng tượng
đài một cách phung phí với chi phí lớn. Với những chi phí bất hợp như vậy,
tỷ lệ nợ công của Việt Nam sngày càng tăng nhanh. Ngoài ra, các doanh
nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ nên Nhà nước còn phải gánh
thêm khoản nợ.
Thhai: Có hiện tượng tham nhũng, thất thoát. Lãi phải trcho cho các
khoản đi vay quá lớn, trong khi phần lớn số vốn vay lại không được sử dụng
hiệu quả do nhiều do như tham nhũng, thất thoát, chậm ến độ... Điều đó
dẫn đến các khoản lãi ngày càng trầm trọng. Trong chi êu Chính phủ, chi
thường xuyên chiếm 71%, chi trnợ chiếm 24,5%, còn lại 4,5% tổng ngân sách
lOMoARcPSD| 58097008
*
cho đầu tư. Bên cạnh đó, chưa sự minh bạch trong sử dụng vốn vay. Việt
Nam rất nhiều dự án chậm ến độ so với dự kiến. Càng kéo dài, trì trệ thì
càng lỗ, trong khi đó thì gánh nặng trlãi của các khoản vay lại ngày càng tăng.
Đặt ra câu hỏi liệu nguồn vốn đã thực sự được đầu đúng hướng các
nhà lãnh đạo đã thực sự đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu khi quá nhiều
dự án thua lỗ, chậm trễ, phải thay đổi nhiều nhà thầu mới có thể hoàn thành.
* Đánh giá nh hình nợ công của Việt Nam trongthời gian qua:
Tỉ lệ nợ công của Việt Nam trong những năm gần đây có xu hướng giảm
dần. T61,4% GDP (năm 2017) xuống còn 58,3% GDP (năm 2018), 55,9% GDP
năm 2020 và đến năm 2021 là 43,1%. Năm 2022, mức nợ công được dự nh
tương đương với năm 2021, khoảng 43 - 44% GDP. Cùng với đó, nợ chính phủ,
nợ chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương cũng giảm dần. Cụ th,
nợ chính phủ cũng giảm từ 51,7% GDP năm 2017 xuống còn đến 39,1% GDP
năm 2021. Nợ chính phủ bảo lãnh giảm từ 9,1% GDP năm 2017 xuống 3,8%
GDP năm 2021. Nchính quyền địa phương năm 2021 chkhoảng 0,6% GDP
trong khi năm 2017 bằng 1,1% GDP.
Tính đến hết năm 2021, nợ ớc ngoài của quốc gia giảm còn 38,4%
GDP so với năm 2017 49% GDP. Nghĩa vụ trnợ ớc ngoài của quốc gia
nh trên tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2021 6,2%, nghĩa vụ trnợ của
Chính phủ so thu ngân sách nhà nước khoảng 21,8%.
Vđối tác đa phương của Việt Nam, Ngân hàng Thế giới (WB) cho vay
nhiu nhất khoảng 380 nghìn tỷ đồng, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho
vay hơn 188 nghìn tỷ đồng. Ngoài ra, các chủ nợ song phương của Việt Nam
đang Nhật Bản cho vay hơn 316 nghìn tỷ đồng; Hàn Quốc hơn 32 nghìn tỷ
đồng, Pháp hơn 30 nghìn tỷ đồng; Đức hơn 14.349 tỷ đồng…
Diễn biến nợ và nghĩa vụ trnợ của Chính phủ vẫn nằm trong dự báo
từ đầu năm và trong tầm kiểm soát cho dù biến động tỷ giá khá mạnh. Cụ th,
nợ bằng USD 455 nghìn tỷ đồng, chiếm 13,9%; nợ bằng JPY 346
lOMoARcPSD| 58097008
*
nghìn tỷ đồng, chiếm 10,5%; nợ bằng EUR 179 nghìn tđồng, chiếm 5,5%
còn lại là dư nợ bằng các loại ền khác chiếm 4%.
Báo cáo đánh giá xếp hạng n nhiệm Việt Nam năm 2021 của Fitch
Rangs cũng cho thấy, nợ chính phủ của Việt Nam thấp hơn đáng kể so với các
quốc gia cùng mức xếp hạng n nhiệm BB’. Kết quả này một phần phản ánh
việc Việt Nam đã sớm thành công trong việc ngăn chặn dịch Covid-19. Tlệ nợ
chính phủ gộp trên GDP của Việt Nam được dự báo khoảng 42% GDP vào năm
2023, thấp hơn tương đối so với mức trung bình của các nước cùng xếp
hạng (khoảng 56%).
Xét về cấu, nguồn vay của Chính phủ hiện nay phần lớn đến từ các
kênh trong nước, chiếm khoảng 90% lượng huy động hằng năm của Chính phủ.
Đối với nguồn vốn vay này, phát hành trái phiếu vẫn phương án chiếm tỷ
trọng cao. Theo số liệu năm 2021, kỳ hạn bình quân của trái phiếu 13,92
năm và lãi suất phát hành bình quân là 2,3%/năm. Hiện nay, mức thanh khoản
trái phiếu chính phủ được đánh giá vẫn sự duy trì ổn định. Trong khi đó,
10% lượng huy động còn lại của Chính phủ là từ khoản vay nước ngoài (từ các
tổ chức như WB, ADB và Nhật Bản) với kỳ hạn khoảng 20 - 30 năm, lãi suất ưu
đãi khoảng 1,2%/năm.
Tính đến nay, thể thấy các chỉ êu an toàn ncông đảm bảo nằm
trong mức trần, ngưỡng nợ được Quốc hội cho phép tại Nghị quyết s
23/2021/QH15: Trần nợ công hằng năm không quá 60% GDP, trần nợ chính
phhàng năm không quá 50% GDP, trần nợ ớc ngoài quốc gia hằng năm
không quá 50% GDP, nghĩa vụ trnợ trực ếp của Chính phủ so với thu ngân
sách nhà nước không quá 25%, trả nợ ớc ngoài của quốc gia so với kim
ngạch xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ (không bao gồm trnợ gốc ngắn hạn) không
quá 25%.
* Liên hệ trên thế giới
Kinh nghiệm từ Nht Bản
lOMoARcPSD| 58097008
*
Những nhân tố đóng góp vào mức an toàn nợ công Nhật Bản, đó là:
Thnhất, trái phiếu chính phủ ổn định ít phụ thuộc vào giới đầu
trái phiếu quốc tế. Tđầu thập niên 1990, khi ngân sách Chính phủ Nhật Bản
bắt đầu thâm hụt, Nhật Bản đã bù đắp cho khoản thâm hụt y bằng cách phát
hành trái phiếu để vay nợ, chủ yếu từ nguồn ền ết kiệm nội địa lên tới 17
nghìn tỷ USD. Sự khác biệt klớn giữa nợ công của Nhật Bản với nợ công của
Hy Lạp, thhin:
- Khác biệt thứ nhất, 95% trái phiếu chính phủ của Nhật Bản do
người dân Nhật Bản nắm giữ, trong khi 70% nchính phủ Hy Lạp do người
ớc ngoài nắm giữ;
- Khác biệt thứ hai, lợi tức trái phiếu Nhật Bản chỉ chạm mức cao
nhất là 1,4%, trong khi đó Hy Lạp đã ếp cận ngưỡng 8%.
- Khác biệt thứ ba, phần lớn trái phiếu chính phủ ớng tới người
mua dân chúng Nhật Bản (chiếm tới 95% trái phiếu chính phủ). Khoảng 50%
tài sản chính trị (khoảng 1.400 nghìn tỷ yen) được ch trữ ới dạng ền mặt
và gửi ngân hàng (tỷ lệ y ở Mỹ chlà 14%), trong đó, phần lớn được đầu tư
vào trái phiếu chính phủ thông qua hệ thống ngân hàng.
Những sự khác biệt này cho thấy, Nhật Bản vẫn thể đảo ngược nh
thế để tránh nguy vỡ nợ. Nhờ nợ trái phiếu chính phủ được nắm giữ
bên ngoài Nhật Bản rất nhỏ (chỉ khoảng gần 6%) nên việc đảo nợ cũng được
thực hiện dễ dàng không phụ thuộc nhiều vào nh hình cung cầu trên thị
trường quốc tế.
Theo đánh giá của quan xếp hạng n nhiệm quốc tế Standard &
Poors (S&P), triển vọng đối với trái phiếu chính phủ Nhật Bản hin n định và
Nhật Bản “không quá gần” với khủng hoảng, ít nhất là trong ngắn hạn, nhờ 3
yếu tố cơ bản: (1) Cán cân thanh toán quốc tế mạnh và dtrngoại hối hơn
1000 tỷ USD; (2) Tlệ ết kiệm cá nhân vẫn lớn hơn nợ công; (3) Đa phần trái
phiếu chính phủ Nht Bản được các nđầu trong nước nắm giữ. Do ít phụ
lOMoARcPSD| 58097008
*
thuộc vào giới đầu trái phiếu quốc tế, nên Chính phủ Nht Bản sẽ chgặp
thách thức trong vấn đề vay nợ khi các nđầu tư trong nước không còn mặn
mà với trái phiếu Nhật Bản. Những thế mạnh y đã giúp Nhật Bản giữ đưc
thị trường trái phiếu bình ổn.
Hơn nữa, toàn bộ trái phiếu chính phNhật Bản được định giá bằng
đồng yên. Nhật Bản không có nợ bằng ngoại tệ. Do đó, Ngân hàng Trung ương
Nhật Bản (B0J) trở thành người bảo lãnh hiệu quả cho tất cả các khoản nợ của
chính phủ Nhật Bản. Trong trường hợp xảy ra bán tháo trên thtrường trái
phiếu chính phNhật Bản, B0J thể can thiệp mua toàn bộ số trái phiếu
bằng cách in thêm ền. Khả năng ền tệ hóa số nợ của B0J là không hạn chế.
Hạn chế duy nhất đó mức độ lạm phát Nhật Bản muốn duy trì. Tuy nhiên,
khi mà Nhật Bản vẫn trong nh trạng giảm phát thì khả năng bảo vthtrường
trái phiếu của B0J là có thể.
Thhai, phần lớn nợ công Nhật Bản nằm trong tay các nhà đầu nội
địa. Phần lớn nợ công của Nhật Bản (khoảng 95%) nằm trong tay các nhà đu
trong nước, nên Nhật Bản vẫn chưa phải trải qua những như Hy Lạp
(năm 2010) tránh được tác động bất lợi từ những biến động thất thường
của thị trường tài chính thế gii. Bởi vy, việc quan xếp hạng n nhiệm quốc
tế Standard & Poors (S&P) cắt giảm điểm n nhiệm nợ công của Nhật Bản sẽ
không có nhiều tác động xấu tới nh hình tài khóa của nước này, trừ khi Nhật
Bản phải huy động vốn từ thị trường quốc tế. Khi đó, Nhật Bản buộc phải trả
mức lãi suất cao hơn để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài và lãi suất vay nợ
chính phủ cao sẽ kéo theo mức lãi suất cao mà các công ty và người êu dùng
Nhật Bản phải trả. Lúc đó, điểm n nhiệm nợ công sẽ tác động mạnh hơn
tới Nhật Bản, thay vì hầu như không ảnh hưởng gì trong thời điểm hiện tại.
Hơn nữa, Nhật Bản cũng là “chủ nợ” của nhiều nước. Trong vị thế là nước cho
vay, Nhật Bản đã giúp tăng lòng n của nhà đầu giảm các nguy về ền
tệ. Nếu Nhật Bản khó khăn trong việc huy động tài chính trong nước thì họ có
lOMoARcPSD| 58097008
*
thsử dụng tài sản ớc ngoài làm nguồn tài chính bổ sung. Thực tế thì Nhật
Bản cũng thặng tài khoản vãng lai trong nhiều năm, qua đó, giúp dự tr
ngoại tệ tăng lên
Thba, lãi suất thấp nên chi phí nợ thấp hơn nhiều so với các nước khác.
Điều này có được một phần là do chính sách ền tệ của Nhật Bản. Ngân hàng
Trung ương Nhật Bản (BOJ) hạ lãi suất qua đêm liên ngân hàng (OCR) xuống
mức 0,1% từ cuối năm 2008 để đối phó với cuộc khủng hoảng. Thậm chí cả
trước khi cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu diễn ra, để kích thích
nhu cầu, BOJ cũng đã giữ OCR ở mức bằng 0% hoặc gần bằng 0% trong nhiều
năm.
Thtư, hệ số sử dụng vốn đầu ICOR của Nhật Bản hiệu quả nguồn
dự trữ ngoại tệ mạnh. Mặc dù tỉ lệ nợ công của Nhật Bản cao hơn 200% GDP,
song chỉ số hiệu quả vốn đầu tư ICOR (hệ số sinh lời từ đồng vốn đầu tư) của
Nhật Bản chỉ vào khoảng 3,0, do vy khả năng trnợ không quá khó. Bên cạnh
đó, dtrữ ngoại tệ của Nhật Bản cũng ở mức rt cao.
Nhật Bản không hề lo lắng về nợ công của mình. Một do thể thy
sự an toàn nợ công của Nhật Bản đó việc hầu hết trái phiếu chính phủ do
các nhà đầu nội địa nắm giữ. Theo nghiên cứu của Ngân hàng Deutsche
Bank năm 2011 thì đất nước này có tỷ lệ nợ ớc ngoài/nợ công thấp nhất.
Kể từ sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, nhiều quốc gia trên
thế giới đã không ngừng hoàn thiện các quy định liên quan đến quản lý rủi ro
đảm bảo bền vững nợ công. Để quản nợ công hiệu quả, phần lớn các
ớc đều hướng đến việc y dựng thực thi các khuôn khổ pháp đồng
bộ, thể thông qua một đạo luật riêng hoặc lồng ghép vào các văn bản
pháp luật liên quan đến quản lý tài chính công.
T thực ễn các nước trên thế giới thể khái quát một số kinh
nghiệm quản lý nợ công như sau:
lOMoARcPSD| 58097008
*
Thnht, khi nhắc tới nợ công, cần chú ý về mục êu quản nợ công
cần đạt được trên 3 khía cạnh bản, đó là: Đảm bảo huy động kịp thời nhu
cầu vốn cho chính phủ; đạt được mức chi phí vay nợ thấp nhất thể và
mức rủi ro phợp. Việc xác định được c mục êu quản nợ công phù hợp
với bối cảnh yêu cầu của từng quốc gia rất quan trọng, đây căn cứ
quyết định mô hình quản lý nợ mà từng quốc gia sẽ xây dựng.
Phạm vi quản lý nợ công của các nước thường tập trung vào các vn đ
như: Khuôn khthchế chung đối với các hoạt động quản nợ; nguyên tắc,
yêu cầu đối với quản lý rủi ro; cơ chế phối hợp giữa cơ quan có liên quan, đặc
biệt là giữa cơ quan tài chính và ngân hàng trung ương; cơ chế thúc đẩy công
khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình đối với các hoạt động liên quan đến
các yêu cầu quản lý nợ công.
Đồng thời, nhiều quốc gia cũng rất chú trọng đến việc xây dựng và thực
hiện các chiến lược, kế hoạch quản nợ công, qua đó, đra các quan điểm,
biện pháp, cách thức để đạt được mục êu về quản lý nợ; đảm bảo xử lý hiệu
quả, hài hòa giữa các yêu cầu liên quan đến rủi ro danh mục nợ và chi phí vay
nợ trong trung dài hạn (như Ba Lan, Trung Quốc, Thái Lan...).
Thhai, về cấu thể chế quản nợ tại các nước trên thế giới, hiện
nay, chưa có chuẩn mực quốc tế hay thông lệ quốc tế chung về mô hình quản
lý nợ công mà tùy thuộc vào thchế, bối cảnh và đặc thù mỗi nước mà có các
quy định về mô hình tổ chức quản lý nợ công phù hợp.
Yêu cầu đặt ra việc xác định hình tổ chức cơ quan quản lý nợ công
cũng như phương thức cách thức phối hợp giữa các quan liên quan
đến quản nợ công cần phải gắn với các mục êu về quản nợ công. Xu
ớng hiện nay là hợp nhất các chức năng liên quan đến quản lý nợ công vào
một cơ quan để hạn chế sự chia cắt trong các khâu của quy trình quản lý nợ.
lOMoARcPSD| 58097008
*
Thba, về quản lý rủi ro và đảm bảo bền vững ncông, ktừ sau khủng
hoảng kinh tế toàn cầu, nhiều quốc gia trên thế giới đã không ngừng hoàn
thiện các quy định liên quan đến quảnrủi ro và đảm bảo bền vững nợ công.
Để đánh giá mức độ bền vững nợ công cũng như các rủi ro liên quan,
bên cạnh quy mô nợ công trên GDP, nhiều nước còn sử dụng các chỉ êu khác
như nghĩa vụ trnợ hàng năm so với GDP và thu ngân sách; chi trả lãi vay so
với chi thường xuyên; tỷ lệ trlãi vay so với nợ; tỷ lệ giữa vay mới so với s
trả nợ cũ; nghĩa vụ nợ dự phòng so với thu ngân sách.
Để đảm bảo an ninh tài chính công, hầu hết các nước đều đưa ra nhiều
biện pháp kiểm soát, hạn chế việc vay nợ quá mức của chính quyền địa
phương; phổ biến đưa ra giới hạn về mức nợ chính quyền địa phương
có thể vay. Kinh nghiệm của các nước cũng đã cho thấy, quản nợ công hiệu
quả, an toàn không chỉ giới hạn việc duy trì mức nợ công trong phạm vi các
chỉ số (các ngưỡng) nợ đề ra.
Kinh nghiệm từ Hoa K
Trong giai đoạn 2000-2007, hàng năm tỷ lệ nợ công của Mỹ tăng thêm
khoảng 50%. Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đã làm trầm trọng thêm nh
trạng thâm hụt ngân sách và nợ công của nền kinh tế số một thế gii.
Tnăm 1917, Quốc hội Mỹ đã ban hành Luật quy định về mức trần tối
đa cho phép Chính phủ thể đi vay để trang trải thêm các chi êu trong ngân
sách quốc gia. Mức trần nợ đầu ên được thiết lập năm 1917 11,5 tỷ USD.
Theo lý thuyết thì bằng cách thiết lập các giới hạn y, Quốc hội cho phép B
Tài chính quyền vay nợ mức cần thiết, đồng thời Quốc hội cũng thể
kiểm soát được hoạt động chi êu của Chính phủ. Tuy nhiên trên thực tế, điều
y không giúp ích được nhiều. Việc quyết định giới hạn trần nợ công thông
thường mang nh chính trnhiều hơn việc bỏ phiếu thường được diễn ra
sau khi các nhà lập pháp đã thông qua việc tăng chi êu và cắt giảm thuế.
lOMoARcPSD| 58097008
*
Từ năm 1962-2011, Quốc hội Mỹ đã 75 lần điều chỉnh trần nợ công. Để
đảm bảo chi êu công, trong vòng 87 năm (1913-2001), Mỹ đã phát hành
ợng trái phiếu trị giá khoảng 6 nghìn tUSD, nhưng chỉ trong 5 năm sau đó
ến cuối năm 2006), con số này đã lên tới 8,6 nghìn tỷ USD. Kể từ khi nắm
quyền đến nay, Tổng thống Obama đã 2 lần đạo luật nâng trần nợ công, (lần
th nhất vào năm 2009 lần thứ hai vào năm 2011). Tuy nhiên, đến
31/12/2012, mức nợ công của Mỹ đã một lần nữa chạm trần 16,4 nghìn t
USD, buộc Bộ Tài chính Mỹ phải ến hành các biện pháp điều chỉnh ngân sách.
Trong tương lai tới đây, nhiều khả năng trần nợ công thể lại phải ếp tục
nâng thêm để mở đường cho Chính phủ Mỹ phát hành thêm trái phiếu vay nợ.
Tính đến ngày 8/2/2018, khoản nợ công của chính phủ Mỹ đã xấp xỉ 20,5
nghìn tỉ USD. Nếu chia bình quân đầu người, thì mỗi công dân Mỹ (ttr
sinh cho tới người đã nghỉ hưu) đang phải gánh khoản nợ công 63.217 USD.
Còn nếu chia bình quân cho đối tượng người lao động đóng thuế, thì trung
bình mỗi người đang phải gánh 170.400 USD nợ công chính phủ.
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hàng năm của Mỹ 19,6 nghìn tỉ USD.
Do đó khoản nợ công của Mỹ hiện nay xấp xỉ 107% tổng giá trị của các hàng
hóa và dịch vụ mà nước này sản xuất trong một năm. Lãi suất của số nợ hin
nay là 185 tỉ USD.
Khoản nợ khổng lồ này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, bao gồm các
khoản chi êu quá mức của chính phủ liên bang, kinh tế chậm tăng trưởng,
chính phủ không thu đthuế. Chính phủ Mỹ chi khoảng 4 nghìn tỉ USD mỗi
năm, nhưng thâm hụt từ khoảng 600 đến 700 tỉ USD. Tất nhiên những khoản
thâm hụt thuế - tức thâm hụt ngân sách này cũng được nh vào nợ công.
Nguyên nhân gia tăng nợ công
Thnhất, hiệu quả của các gói kích thích kinh tế khổng lồ chưa cao. Đ
đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính ền tệ đánh dấu bằng sự sụp đổ của
thị trường bất động sản, Chính phủ Mỹ đã thực hiện chính sách nới lỏng định
lOMoARcPSD| 58097008
*
ợng, cụ th liên ếp tung ra những gói cứu trợ khổng lồ. Vào tháng
11/2008, FED đã tung ra gói kích thích đầu ên (QE1) để thể thúc đẩy nền
kinh tế. Ngày 9/9/2011, Tổng thống Mỹ Obama đã công bố kế hoạch kích thích
nền kinh tế Mtr giá 447 tUSD. Đây là gói kích thích lớn, có thể gọi là “QE2
ỡi” được NTrắng đưa ra. Ngày 13/9/2012, FED đã tung ra gói QE3 và cam
kết sẽ gilãi suất ngắn hạn mức gần 0% ít nhất cho đến giữa năm 2015,
đồng thời sẽ mua vào 40 tỷ USD tài sản mỗi tháng và việc nới lỏng định lượng
y sẽ là không giới hạn. Ngày 13/12/2012, FED lại công bố sẽ tung ra gói kích
thích kinh tế QE4 vào đầu năm 2013. Theo đó, FED mở rộng chương trình mua
tài sản thêm 45 tỷ USD/tháng kể từ 1/1/2013 nhằm thúc đẩy nền kinh tế.
Mặc dù các gói kích cầu thời gian vừa qua đã giúp nền kinh tế Mỹ khi
sắc, tuy nhiên cũng đã làm qubóngnợ công ngày càng “phình to”, gây
bất lợi cho nền kinh tế Mỹ trong dài hạn.
Thhai, chính sách thuế bất hợp . Trong những thập niên gần đây,
Chính phủ Mỹ luôn đề cao vấn đề bảo hộ môi trường kinh doanh tự do và hạn
chế những can thiệp của Chính phủ. Để thực hiện phương châm này, Mduy
trì mức thuế thấp với mục êu kích thích kinh tế tăng trưởng để gia tăng thu
ngân sách không phải theo đuổi chính sách đánh thuế cao để tăng thu.
Các tổng thống Mỹ tthời R. Reagan đến nay đều duy trì chính sách cắt giảm
thuế mạnh tay. Trên thực tế, Mỹ nước mức thuế thấp nhất so với các
ớc phát triển được coi một địa điểm đầu tưởng cho các doanh
nghiệp. Mức thuế huy động so với tổng GDP Mỹ ch bằng khoảng % so với
các nước phát triển khác.
Tuy nhiên, một số bất bình đẳng trong chế thuế dụ như tới
45% số hộ gia đình tại Mỹ không phải đóng thuế trong khi 3% số người thu
nhập cao lại đóng p tới 52% tổng số các loại thuế. Việc nguồn thu liên tục
giảm trong khi chi êu cho các chương trình phúc lợi xã hội và đặc biệt chi
phí khổng lồ cho hai cuộc chiến tại Afghanistan, Iraq đã làm cho ngân sách
lOMoARcPSD| 58097008
*
Chính phủ vốn đã bắt đầu thâm hụt từ năm 2000 càng trở nên nghiêm trọng.
Cho tới năm 2008, Chính phủ Mỹ tăng chi êu tới 6,6%, trong khi nguồn thu
ngân sách chỉ tăng 2,8%. Trong nhiệm kỳ của Tổng thống Obama chi êu
công tăng 6,2% còn thu ngân sách giảm 0,5%. Sự mất cân đối trong cấu thu
chi ngân sách đã làm gia tăng khoản nợ công của Chính phủ.
Thba, chính sách vay nợ ớc ngoài để phát triển kinh tế. Hiện nay Mỹ
vẫn nước bị thâm hụt tài khoản vãng lai lớn nhất với số thâm hụt thương
mại hàng năm lên tới hàng trăm tỷ USD. Tuy nhiên do đồng USD được thừa
nhận là đồng ền định giá và thanh toán quốc tế cho nên nh trạng này là cơ
hội giúp Mỹ thể phát hành USD với số ợng không hạn chế để mua hàng
hóa giá rẻ của các nước. Mặt khác, nh trạng thâm hụt thương mại khiến các
ớc tăng thêm thu nhập bằng ngoại tệ (USD) thể sử dụng số ngoại tệ
có được từ xuất siêu thương mại với Mỹ để đầu tư mua trái phiếu Chính ph
Mỹ, dù đây một khoản đầu không mang lại lợi nhuận cao nhưng độ n
cậy và ổn định. Cuộc khủng hoảng nợ công tại một số ớc châu Âu cũng góp
phần làm cho nhu cầu trái phiếu Chính phủ Mỹ tăng mạnh mặc dù lãi suất trái
phiếu đã hạ xuống mức thấp gần như kỷ lục 3,1. Việc lãi suất trái phiếu hạ
làm giảm bớt áp lực phải trlãi của Chính phủ Mỹ khuyến khích việc phát
hành thêm trái phiếu mới. Ngoài ra, đồng USD hiện đang giảm giá so với tất cả
các đồng ền mạnh trên thế giới làm cũng khuyến khích việc đi vay của Mỹ
rõ ràng một đồng hôm nay mua được nhiều hàng hóa hơn so với lúc phải trả.
Như vậy các điều kiện hiện tại rất thuận lợi cho Chính phủ Mỹ sử dụng chính
sách vay nợ ớc ngoài để phục hồi kinh tế. Tuy chính sách y có thể đem lại
lợi ích trước mắt cho nền kinh tế Mỹ nhưng rõ ràng đồng thời góp phần
làm trầm trọng thêm nh trạng nợ công của Chính phủ Mỹ.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58097008 Câu 1
Vai trò của ngân sách nhà nước với nền kinh tế:
Thứ nhất: Quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Ngân sách Nhà nước là công cụ định hướng hình thành cơcấu kinh tế
mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền. –
Thông qua hoạt động chi ngân sách, nhà nước sẽ cung cấpkinh phí đầu
tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các doanh
nghiệp thuộc các ngành then chốt trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện
thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. –
Nguồn kinh phí trong ngân sách cũng có thể được sử dụngđể hỗ trợ cho
sự phát triển của các doanh nghiệp, đảm bảo tính ổn định về cơ cấu hoặc
chuẩn bị cho việc chuyển sang cơ cấu mới hợp lý hơn. Thứ hai: Đối với kinh tế
Kích thích sự tăng trưởng kinh tế theo sự định hướng pháttriển kinh tế
– xã hội thông qua xác công cụ thuế và thuế suất của nhà nước sẽ góp phần
kích thích sản xuất phát triển thu hút sự đầu tư của các doanh nghiệp. –
Ngoài ra Nhà nước còn dùng ngân sách Nhà nước đầu tư vàocơ sở hạ
tầng tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động.
Câu 2: * Cơ cấu thu ngân sách của Việt Nam
Quy mô thu NSNN có sự thay đổi qua từng giai đoạn, sau một thời gian
dài liên tục mở rộng, thì từ năm 2011 đến nay đã bắt đầu xu hướng giảm. Tỷ
lệ động viên NSNN bình quân đã tăng từ 24,2% GDP giai đoạn 2001 - 2005 lên
26,3% GDP giai đoạn 2006 - 2010. Tuy nhiên, trong 5 năm gần đây, quy mô thu
NSNN của Việt Nam đang giảm dần, bình quân giai đoạn 2011 - 2015 ước chỉ
đạt 22,7% GDP. Sự giảm dần về quy mô thu NSNN những năm gần đây do nhiều
nguyên nhân, trong đó các nguyên nhân chủ yếu là: (i) Tăng trưởng kinh tế
thấp hơn dự báo; (ii) Chủ trương giảm mức động viên để thúc đẩy sản xuất * lOMoAR cPSD| 58097008
trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế khó khăn; (iii) Sự sụt giảm số thu từ dầu
thô do giá dầu giảm; (iv) Tỷ trọng thu từ thuế nhập khẩu giảm do cắt giảm hàng
rào thuế quan và (v) Nguồn thu từ đất đai tăng chậm.
Cơ cấu thu NSNN đã dịch chuyển theo hướng bền vững hơn với sự tăng
dần về tỷ trọng của các loại thuế ổn định, gắn với sản xuất, tiêu dùng trong
nước như thuế TNDN, TNCN, GTGT và TTĐB. Tỷ trọng thu nội địa trong tổng
thu NSNN (trừ dầu) đã tăng từ 50,8% năm 2001 lên 64,4% năm 2010 và đến
năm 2015 ước bằng khoảng 74,1%4. Tốc độ tăng thu từ thuế TNDN, thuế TNCN,
thuế GTGT và thuế TTĐB cơ bản luôn cao hơn so với tốc độ tăng của tổng thu
NSNN từ thuế, phí, lệ phí. Cụ thể, so với năm 2001, quy mô thu NSNN năm
2015 từ thuế TNDN (không kể dầu thô) ước tăng 10,1 lần, từ thuế TNCN tăng
27,03 lần, từ thuế GTGT (từ hàng trong nước) tăng13,23 lần và thuế TTĐB
(hàng trong nước) tăng 10,01 lần, trong khi tốc độ tăng thu NSNN từ thuế, phí
và lệ phí ước chỉ ở mức 8,74 lần.
Trong hệ thống thuế Việt Nam hiện nay, các sắc thuế tiêu dùng đóng vai
trò rất quan trọng và có xu hướng ngày càng tăng. Diễn biến này cũng phù hợp
với xu hướng trên thế giới những năm gần đây khi nhiều quốc gia đã liên tục
đưa ra các biện pháp nhằm tăng cường vai trò của thuế tiêu dùng, giảm dần
mức động viên từ thuế thu nhập để tăng cường tính hấp dẫn của môi trường
đầu tư. Riêng tỷ trọng tổng thu từ thuế GTGT (bao gồm cả hàng trong nước và
hàng nhập khẩu, trừ phần hoàn thuế) trong tổng thu NSNN đã tăng từ 18,6%
năm 2001 lên khoảng 28,6% năm 2015. Trong khi đó, tỷ lệ động viên từ thuế
TNDN và thuế TNCN tuy có tăng từ mức 16,4% năm 2001 ước lên 22,3% năm 2015 nhưng từ năm
2011 đến nay thay đổi rất ít (năm 2011, tỷ lệ này đã là
21,7%). Vai trò của thuế thu nhập trong thu NSNN của Việt Nam dự báo sẽ tiếp
tục giảm khi mức thuế suất thuế TNDN phổ thông giảm theo lộ trình từ 22%
xuống 20% từ ngày 01/01/2016. * lOMoAR cPSD| 58097008
* Nhân tố tác động đến cơ cấu thu NSNN: (i)
Nhóm nhân tố chủ quan tác động đến quy mô và cơ cấu thu
NSNN: Bộ máy quản lý thu NSNN; các chính sách về thu NSNN, đặc biệt chính sách về thuế (ii)
Nhóm nhân tố khách quan tác động đến quy mô và cơ cấu thu
NSNN: Sự phát triển của nền kinh tế và mục tiêu phát triển KT - XH; thực trạng
quy mô và cơ cấu chi của NSNN; lợi thế so sánh về tài nguyên thiên nhiên; yếu
tố rủi ro như biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh; phản hồi của các chủ thể
nộp thuế; sự hội nhập quốc tế... Câu 3: * Các phương thức chuyển giá:
Một là: chuyển giá thông qua hình thức nâng cao giá trị tài sản góp vốn:
Việc nâng giá trị tài sản vốn góp khi thành lập mới doanh nghiệp hoặc
khi bổ sung nguồn vốn góp đối với dự án đầu tư dưới dạng doanh nghiệp liên
doanh sẽ làm cho phần vốn góp của doanh nghiệp có vốn FDI được tăng cao,
nhờ đó, doanh nghiệp có vốn FDI tăng sự chi phối trong các quyết định liên
quan đến hoạt động của dự án liên doanh và tăng tỷ suất lợi nhuận được chia.
Ngoài ra, khi dự án kết thúc hoạt động thì tỷ lệ trị giá tài sản được chia cao hơn
giúp doanh nghiệp có vốn FDI thu về dòng tiền cao hơn.
Đối với các doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài thì việc nâng
tài sản góp vốn sẽ giúp doanh nghiệp có vốn FDI tăng mức khẩu hao trích hàng
năm, làm tăng chi phí đầu vào, từ đó sẽ giúp doanh nghiệp có vốn FDI nhanh
hoàn vốn đầu tư cố định, giảm thiểu rủi ro đầu tư, giảm thiểu số thuế thu nhập
doanh nghiệp phải đóng cho quốc gia tiếp nhận đầu tư. Khi nâng giá trị vốn
góp bằng cách định giá cao hơn giá trị thực của các TSCĐ thì các doanh nghiệp
có vốn FDI đã chuyển bớt một phần lợi nhuận của doanh nghiệp ra nước ngoài.
Hai là: chuyển giá thông qua việc nâng cao giá nguyên vật liệu đầu vào của
sản xuất kinh doanh, hạ thấp giá bán sản phẩm cho công ty liên kết:
Phương pháp này được thực hiện thông qua việc điều tiết giá mua, bán
hàng hóa, thành phẩm, bán thành phẩm và các nguyên liệu, vật liệu giữa 2 * lOMoAR cPSD| 58097008
doanh nghiệp của MNCs có quan hệ liên kết với nhau theo cách sản phẩm đầu
ra của doanh nghiệp này là đầu vào của doanh nghiệp kia; trường hợp thuế
suất thuế thu nhập doanh nghiệp của doanh nghiệp đầu ra cao hơn doanh
nghiệp đầu vào thì doanh nghiệp đầu ra sẽ bán cho doanh nghiệp đầu vào với
giá thấp, dẫn đến lợi nhuận của doanh nghiệp đầu ra thấp, thuế thu nhập
doanh nghiệp phải nộp thấp; còn nếu thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
ở doanh nghiệp đầu ra thấp hơn doanh nghiệp đầu vào thì doanh nghiệp đầu
ra sẽ bán với giá cao hơn, dẫn đến lợi nhuận của doanh nghiệp đầu vào giảm,
thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp thấp. Như vậy, phương thức chuyển giá
này đã làm lợi nhuận giảm, qua đó các MNCs đã tối thiếu hóa số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp
Ba là: chuyển giá thông qua chuyển giao công nghệ, thương hiệu:
Các MNCs xây dựng các phòng nghiên cứu và phát triển sản phẩm tại
các quốc gia có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp cao, mọi chi phí đều do
thành viên MNCs tại quốc gia này gánh chịu, dẫn đến thuế thu nhập doanh
nghiệp phải nộp thấp, nhưng kết quả của việc nghiên cứu và phát triển sản
phẩm thì các thành viên khác vẫn được áp dụng như nhau, dẫn đến khi các
MNCs góp vốn, chuyển nhượng bản quyền của sản phẩm thì rất khó xác định
giá trị bởi sự độc quyền của tài sản và khó có thể tìm thấy giá thị trường trong
các giao dịch này. Chính vì vậy, chuyển giá thông qua chuyển giao công nghệ
đã giúp các MNCs thu lợi lớn thông qua việc thu hồi vốn song thuế thu nhập
doanh nghiệp phải nộp rất thấp Bốn là: chuyển giá tài chính:
Các MNCs thực hiện hình thức này bằng cách áp dụng các hình thức tài
trợ khác nhau giữa các công ty con. Bằng hình thức này, các công ty con tạo ra
cơ cấu vốn và nguồn vốn bất hợp lý như dùng nguồn vốn dưới dạng cho vay
từ công ty mẹ để tài trợ cho tài sản cố định và tài sản đầu tư dài hạn mà không
tăng vốn góp và vốn chủ sở hữu nhằm đẩy chi phí hoạt động tài chính lên cao
như chi phí chênh lệch tỷ giá, chi phí lãi vay,… và chuyển một phần lợi nhuận * lOMoAR cPSD| 58097008
về nước dưới dạng lãi vay, chi phí bảo lãnh vay vốn để tránh thuế, tránh lỗ do
chênh lệch tỷ giá về sau. Hoặc là các công ty mẹ sẽ buộc các công ty con đóng
tại nước có thuế suất cao tài trợ bằng nợ vay nhiều hơn để hưởng lợi từ tấm
lá chắn thuế, đồng thời sẽ chuyển phần vốn cổ phần cho công ty con ở quốc
gia có thuế suất thấp hơn. Cách làm này giúp cho các MNCs vẫn đảm bảo được
cấu trúc vốn của toàn công ty được tăng thêm. Trong thực tế, các quốc gia có
thể không có lãi suất giống nhau nên các công ty sẽ so sánh giá trị lợi thế từ
tấm chắn thuế và từ lãi vay để quyết định vấn đề vay vốn
Năm là: chuyển giá thông qua hình thức nâng chi phí các dịch vụ hành chính và quản lý:
Các MNCs thực hiện hình thức này bằng cách kê khai cao các chi phí dịch
vụ tư vấn quản lý, đào tạo chuyên viên, chuyển người của các công ty con qua
công ty mẹ để học tập, hoặc ép các công ty con trả lương cao cho các chuyên
gia đến từ công ty mẹ hoặc các công ty thành viên, trả chi phí lớn cho các công
ty tư vấn trung gian thuộc MNCs nhằm chuyển một phần lợi nhuận của các
công ty con ra khỏi nước tiếp nhận đầu tư, dẫn đến chi phí hành chính của các
công ty con lớn, lợi nhuận thấp hoặc bị lỗ, từ đó các MNCs đã tối thiểu hóa số
thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp.
Trường hợp một chương trình quảng cáo nhằm xây dựng thương hiệu
cho sản phẩm trên phạm vi khu vực đầu tư, nhưng chi phí lại được các MNCs
phân bổ hết về cho thành viên có trụ sở tại quốc gia có thuế suất thuế thu
nhập doanh nghiệp cao để chuyển lợi nhuận về nước, để thu hồi vốn đầu tư
Sáu là: chuyển giá thông qua các trung tâm tái tạo hóa đơn:
Các MNCs thành lập nhiều công ty ở các quốc gia khác nhau, hoặc ở
trong cùng một quốc gia, trong đó MNCs thành lập ra một công ty trung gian
không có nhiệm vụ sản xuất, hoặc chỉ thực hiện khâu đóng gói hoặc hoàn thiện
chi tiết nhỏ của hàng hóa, sản phẩm. Thực chất, công ty này đóng vai trò là
trung gian giữa công ty mẹ và công ty con và có nhiệm vụ: * lOMoAR cPSD| 58097008 (i)
rà soát lại giá thành của sản phẩm, hàng hóa trước khi được bán; (ii)
xử lý vấn đề chênh lệch tỷ giá ngoại tệ với giá trị của nguyên tệ
được thanh toán giữa công ty mẹ với công ty con và với trung tâm tái tạo hóa đơn; (iii)
điều phối dòng tiền đến các công ty con có nhu cầu về vốn.
Thông thường các MNCs điều tiết việc bán hàng hóa được ghi trên
chứng từ hóa đơn ở công ty nơi sản xuất hàng hóa và xuất bán cho trung tâm
tái tạo hóa đơn, sau đó trung tâm này lại xuất hóa đơn và chứng từ kèm theo
để viết bán cho công ty con. Trung tâm tái tạo hóa đơn được hưởng một khoản
tiền chênh lệch về giá bán (tiền hoa hồng) được viết thông qua hóa đơn bán
hàng. Nhưng trong thực tế, hàng hóa được chuyển giao trực tiếp từ công ty
sản xuất đến công ty phân phối mà không qua trung tâm tái tạo hóa đơn * Liên hệ Việt Nam:
Trường hợp điển hình có những biểu hiện “đáng ngờ” về chuyển giá,
phải nói đến Công ty Coca-Cola Việt Nam. Trong hơn 20 năm đầu tư, kinh
doanh tại Việt Nam, Coca-Cola liên tục báo lỗ, lỗ lũy kế tính đến 30/9/2011 của
công ty này đã lên tới 3.768 tỷ đồng, vượt cả số vốn đầu tư ban đầu là 2.950 tỷ đồng.
Do lỗ liên tục như vậy nên Coca-Cola Việt Nam không phải đóng thuế
thu nhập DN, trong khi doanh thu liên tục tăng từ 20-30%/năm. Tuy lỗ lớn như
vậy nhưng DN này đã có kế hoạch đầu tư thêm 300 triệu USD tại Việt Nam.
Một công ty khác nằm trong diện nghi vấn chuyển giá với giá trị lớn lên đến
hơn 1.200 tỷ đồng là Công ty PepsiCo Việt Nam. Từ khi thành lập năm 1991,
gần 20 năm qua PepsiCo lỗ liên tục, cho đến một số năm gần đây mới có lãi
nhưng tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu rất thấp, chỉ trên 2%. Mặc dù vậy, PepsiCo
Việt Nam vẫn liên tục mở rộng đầu tư, xây dựng các nhà máy mới ở Đồng Nai
(45 triệu USD), Bắc Ninh (73 triệu USD). Câu 4 * lOMoAR cPSD| 58097008 Giống nhau: –
Thuế tiêu thụ đặc biệt và Thuế giá trị gia tăng đều là thuếgián thu. –
Đối tượng chịu thuế là người tiêu dùng cuối cùng của sảnphẩm đó, áp
dụng rộng rãi tới mọi tổ chức, cá nhân. –
Đều hướng tới đối tượng chịu thuế là hàng hóa và dịch vụ. Khác nhau:
Tiêu Thuế tiêu thụ đặc biệt chí (Thuế TTĐB)
Thuế giá trị gia tăng * lOMoAR cPSD| 58097008
Khái Thuế tiêu thụ đặc biệt là Thuế giá trị gia tăng là niệm loại thuế
đánh vào hành vi loại thuế tính trên giá tiêu thụ một số loại hàng trị
tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ thuộc diện hóa, dịch vụ phát sinh chịu
thuế TTĐB. trong quá trình từ sản
xuất, lưu thông đến tiêu
dùng. Mục Thuế TTĐB nhằm điều tiết Thuế GTGT góp phần đích
thu nhập của người tiêu thúc đẩy phát triển sản dùng, góp phần tăng
thu xuất, mở rộng lưu cho Ngân sách nhà nước, thông phân phối hàng
tăng cường quản lý sản hóa.
xuất kinh doanh đối với nhiều hàng
hóa, dịch vụ chịu thuế.
Đặc – Chỉ đánh thuế một lần ở – Là loại thuế thu ở điểm khâu sản xuất, nhập khẩu nhiều giai đoạn.
hoặc kinh doanh dịch vụ. – Phụ thuộc vào yếu tố – Danh mục
hàng hóa và chi phí cộng thêm dịch vụ chịu thuế không
ngoài giá bán của nhiều và hay thay đổi. người cung cấp. (Thuế GTGT)
Phạm Áp dụng đối với một số vi áp loại thuốc lá,… Đối
hàng hóa, dịch vụ dụng mang tính chất xa
Các tổ chức, cá nhân sản
xỉ, ảnh hưởng đến sức khỏe hay không tượng xuất, nhập khẩu
khuyến khích sử dụng.Ví dụ như rượu, bia, hàng hóa nộp hay kinh
Phạm vi áp dụng rộng, phát sinh trong quá doanh dịch vụ thuế
trình sản xuất, lưu thông, tiêu thụ.
thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. * lOMoAR cPSD| 58097008
Các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ chịu GTGT (sau đây gọi là cơ sở kinh doanh) và Căn cứ
Gồm 2 căn cứ: Giá tính tính tổ chức, cá nhân nhập khẩu
thuế và thuế suất thuế – Giá tính thuế là hàng hóa chịu thuế giá trị gia
giá bán ra, giá cung ứng dịch vụ chưa có thuế tăng (sau đây gọi là người
TTĐB và chưa có thuế GTGT, bao gồm các nhập khẩu). Gồm 2 căn cứ:
khoản thu thêm, được thu(nếu có) mà cơ sở Giá tính thuế và thuế suất – kinh doanh được hưởng.
Giá tính thuế là giá bán hàng
– Thuế suất: dựa trên những loại hóa, dịch vụ chưa có thuế
hàng hóa và loại hình kinh doanh GTGT. – Thuế suất: phụ thuộc nhất định.
vào từng danh mục hàng hóa nhất định. Câu 5:
* Nguyên nhân dẫn đến nợ côngThứ nhất: Đầu tư ồ ạt. Đường xá, cầu
đường được xây dựng và mở rộng, chi phí được lấy từ ngân sách nhà nước.
Mà ngân sách này là đi vay từ các tổ chức tín dụng trong nước và ngoài nước.
Theo thống kê, xây dựng đường xá mất khoảng 20 triệu USD/km. Trong khi
theo tính toán, đường xá sau khi được xây dựng xong và đi vào sử dụng trong
2 năm đã phải tu sửa. Tương tự, mới đây Việt Nam bỏ chi phí xây dựng tượng
đài một cách phung phí với chi phí lớn. Với những chi phí bất hợp lí như vậy,
tỷ lệ nợ công của Việt Nam sẽ ngày càng tăng nhanh. Ngoài ra, các doanh
nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ nên Nhà nước còn phải gánh thêm khoản nợ.
Thứ hai: Có hiện tượng tham nhũng, thất thoát. Lãi phải trả cho cho các
khoản đi vay quá lớn, trong khi phần lớn số vốn vay lại không được sử dụng
hiệu quả do nhiều lý do như tham nhũng, thất thoát, chậm tiến độ... Điều đó
dẫn đến các khoản lãi ngày càng trầm trọng. Trong chi tiêu Chính phủ, chi
thường xuyên chiếm 71%, chi trả nợ chiếm 24,5%, còn lại 4,5% tổng ngân sách * lOMoAR cPSD| 58097008
cho đầu tư. Bên cạnh đó, chưa có sự minh bạch trong sử dụng vốn vay. Việt
Nam có rất nhiều dự án chậm tiến độ so với dự kiến. Càng kéo dài, trì trệ thì
càng lỗ, trong khi đó thì gánh nặng trả lãi của các khoản vay lại ngày càng tăng.
Đặt ra câu hỏi là liệu nguồn vốn đã thực sự được đầu tư đúng hướng và các
nhà lãnh đạo đã thực sự đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu khi mà có quá nhiều
dự án thua lỗ, chậm trễ, phải thay đổi nhiều nhà thầu mới có thể hoàn thành.
* Đánh giá tình hình nợ công của Việt Nam trongthời gian qua:
Tỉ lệ nợ công của Việt Nam trong những năm gần đây có xu hướng giảm
dần. Từ 61,4% GDP (năm 2017) xuống còn 58,3% GDP (năm 2018), 55,9% GDP
năm 2020 và đến năm 2021 là 43,1%. Năm 2022, mức nợ công được dự tính
tương đương với năm 2021, khoảng 43 - 44% GDP. Cùng với đó, nợ chính phủ,
nợ chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương cũng giảm dần. Cụ thể,
nợ chính phủ cũng giảm từ 51,7% GDP năm 2017 xuống còn đến 39,1% GDP
năm 2021. Nợ chính phủ bảo lãnh giảm từ 9,1% GDP năm 2017 xuống 3,8%
GDP năm 2021. Nợ chính quyền địa phương năm 2021 chỉ khoảng 0,6% GDP
trong khi năm 2017 bằng 1,1% GDP.
Tính đến hết năm 2021, nợ nước ngoài của quốc gia giảm còn 38,4%
GDP so với năm 2017 là 49% GDP. Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia
tính trên tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2021 là 6,2%, nghĩa vụ trả nợ của
Chính phủ so thu ngân sách nhà nước khoảng 21,8%.
Về đối tác đa phương của Việt Nam, Ngân hàng Thế giới (WB) cho vay
nhiều nhất khoảng 380 nghìn tỷ đồng, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho
vay hơn 188 nghìn tỷ đồng. Ngoài ra, các chủ nợ song phương của Việt Nam
đang là Nhật Bản cho vay hơn 316 nghìn tỷ đồng; Hàn Quốc hơn 32 nghìn tỷ
đồng, Pháp hơn 30 nghìn tỷ đồng; Đức hơn 14.349 tỷ đồng…
Diễn biến dư nợ và nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ vẫn nằm trong dự báo
từ đầu năm và trong tầm kiểm soát cho dù biến động tỷ giá khá mạnh. Cụ thể,
dư nợ bằng USD là 455 nghìn tỷ đồng, chiếm 13,9%; dư nợ bằng JPY là 346 * lOMoAR cPSD| 58097008
nghìn tỷ đồng, chiếm 10,5%; dư nợ bằng EUR là 179 nghìn tỷ đồng, chiếm 5,5%
và còn lại là dư nợ bằng các loại tiền khác chiếm 4%.
Báo cáo đánh giá xếp hạng tín nhiệm Việt Nam năm 2021 của Fitch
Ratings cũng cho thấy, nợ chính phủ của Việt Nam thấp hơn đáng kể so với các
quốc gia có cùng mức xếp hạng tín nhiệm ‘BB’. Kết quả này một phần phản ánh
việc Việt Nam đã sớm thành công trong việc ngăn chặn dịch Covid-19. Tỷ lệ nợ
chính phủ gộp trên GDP của Việt Nam được dự báo khoảng 42% GDP vào năm
2023, thấp hơn tương đối so với mức trung bình của các nước có cùng xếp hạng (khoảng 56%).
Xét về cơ cấu, nguồn vay của Chính phủ hiện nay phần lớn đến từ các
kênh trong nước, chiếm khoảng 90% lượng huy động hằng năm của Chính phủ.
Đối với nguồn vốn vay này, phát hành trái phiếu vẫn là phương án chiếm tỷ
trọng cao. Theo số liệu năm 2021, kỳ hạn bình quân của trái phiếu là 13,92
năm và lãi suất phát hành bình quân là 2,3%/năm. Hiện nay, mức thanh khoản
trái phiếu chính phủ được đánh giá vẫn có sự duy trì ổn định. Trong khi đó,
10% lượng huy động còn lại của Chính phủ là từ khoản vay nước ngoài (từ các
tổ chức như WB, ADB và Nhật Bản) với kỳ hạn khoảng 20 - 30 năm, lãi suất ưu đãi khoảng 1,2%/năm.
Tính đến nay, có thể thấy các chỉ tiêu an toàn nợ công đảm bảo nằm
trong mức trần, ngưỡng nợ được Quốc hội cho phép tại Nghị quyết số
23/2021/QH15: Trần nợ công hằng năm không quá 60% GDP, trần nợ chính
phủ hàng năm không quá 50% GDP, trần nợ nước ngoài quốc gia hằng năm
không quá 50% GDP, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu ngân
sách nhà nước không quá 25%, trả nợ nước ngoài của quốc gia so với kim
ngạch xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ (không bao gồm trả nợ gốc ngắn hạn) không quá 25%.
* Liên hệ trên thế giới
Kinh nghiệm từ Nhật Bản * lOMoAR cPSD| 58097008
Những nhân tố đóng góp vào mức an toàn nợ công Nhật Bản, đó là:
Thứ nhất, trái phiếu chính phủ ổn định và ít phụ thuộc vào giới đầu tư
trái phiếu quốc tế. Từ đầu thập niên 1990, khi ngân sách Chính phủ Nhật Bản
bắt đầu thâm hụt, Nhật Bản đã bù đắp cho khoản thâm hụt này bằng cách phát
hành trái phiếu để vay nợ, chủ yếu từ nguồn tiền tiết kiệm nội địa lên tới 17
nghìn tỷ USD. Sự khác biệt khá lớn giữa nợ công của Nhật Bản với nợ công của Hy Lạp, thể hiện: -
Khác biệt thứ nhất, 95% trái phiếu chính phủ của Nhật Bản do
người dân Nhật Bản nắm giữ, trong khi 70% nợ chính phủ Hy Lạp do người nước ngoài nắm giữ; -
Khác biệt thứ hai, lợi tức trái phiếu Nhật Bản chỉ chạm mức cao
nhất là 1,4%, trong khi đó Hy Lạp đã tiếp cận ngưỡng 8%. -
Khác biệt thứ ba, phần lớn trái phiếu chính phủ hướng tới người
mua là dân chúng Nhật Bản (chiếm tới 95% trái phiếu chính phủ). Khoảng 50%
tài sản chính trị (khoảng 1.400 nghìn tỷ yen) được tích trữ dưới dạng tiền mặt
và gửi ngân hàng (tỷ lệ này ở Mỹ chỉ là 14%), trong đó, phần lớn được đầu tư
vào trái phiếu chính phủ thông qua hệ thống ngân hàng.
Những sự khác biệt này cho thấy, Nhật Bản vẫn có thể đảo ngược tình
thế để tránh nguy cơ vỡ nợ. Nhờ dư nợ trái phiếu chính phủ được nắm giữ
bên ngoài Nhật Bản rất nhỏ (chỉ khoảng gần 6%) nên việc đảo nợ cũng được
thực hiện dễ dàng mà không phụ thuộc nhiều vào tình hình cung cầu trên thị trường quốc tế.
Theo đánh giá của Cơ quan xếp hạng tín nhiệm quốc tế Standard &
Poor’s (S&P), triển vọng đối với trái phiếu chính phủ Nhật Bản hiện ổn định và
Nhật Bản “không quá gần” với khủng hoảng, ít nhất là trong ngắn hạn, nhờ 3
yếu tố cơ bản: (1) Cán cân thanh toán quốc tế mạnh và dự trữ ngoại hối hơn
1000 tỷ USD; (2) Tỷ lệ tiết kiệm cá nhân vẫn lớn hơn nợ công; (3) Đa phần trái
phiếu chính phủ Nhật Bản được các nhà đầu tư trong nước nắm giữ. Do ít phụ * lOMoAR cPSD| 58097008
thuộc vào giới đầu tư trái phiếu quốc tế, nên Chính phủ Nhật Bản sẽ chỉ gặp
thách thức trong vấn đề vay nợ khi các nhà đầu tư trong nước không còn mặn
mà với trái phiếu Nhật Bản. Những thế mạnh này đã giúp Nhật Bản giữ được
thị trường trái phiếu bình ổn.
Hơn nữa, toàn bộ trái phiếu chính phủ Nhật Bản được định giá bằng
đồng yên. Nhật Bản không có nợ bằng ngoại tệ. Do đó, Ngân hàng Trung ương
Nhật Bản (B0J) trở thành người bảo lãnh hiệu quả cho tất cả các khoản nợ của
chính phủ Nhật Bản. Trong trường hợp xảy ra bán tháo trên thị trường trái
phiếu chính phủ Nhật Bản, B0J có thể can thiệp và mua toàn bộ số trái phiếu
bằng cách in thêm tiền. Khả năng tiền tệ hóa số nợ của B0J là không hạn chế.
Hạn chế duy nhất đó là mức độ lạm phát mà Nhật Bản muốn duy trì. Tuy nhiên,
khi mà Nhật Bản vẫn trong tình trạng giảm phát thì khả năng bảo vệ thị trường
trái phiếu của B0J là có thể.
Thứ hai, phần lớn nợ công Nhật Bản nằm trong tay các nhà đầu tư nội
địa. Phần lớn nợ công của Nhật Bản (khoảng 95%) nằm trong tay các nhà đầu
tư trong nước, nên Nhật Bản vẫn chưa phải trải qua những gì như ở Hy Lạp
(năm 2010) và tránh được tác động bất lợi từ những biến động thất thường
của thị trường tài chính thế giới. Bởi vậy, việc Cơ quan xếp hạng tín nhiệm quốc
tế Standard & Poor’s (S&P) cắt giảm điểm tín nhiệm nợ công của Nhật Bản sẽ
không có nhiều tác động xấu tới tình hình tài khóa của nước này, trừ khi Nhật
Bản phải huy động vốn từ thị trường quốc tế. Khi đó, Nhật Bản buộc phải trả
mức lãi suất cao hơn để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài và lãi suất vay nợ
chính phủ cao sẽ kéo theo mức lãi suất cao mà các công ty và người tiêu dùng
Nhật Bản phải trả. Lúc đó, điểm tín nhiệm nợ công sẽ có tác động mạnh hơn
tới Nhật Bản, thay vì hầu như không có ảnh hưởng gì trong thời điểm hiện tại.
Hơn nữa, Nhật Bản cũng là “chủ nợ” của nhiều nước. Trong vị thế là nước cho
vay, Nhật Bản đã giúp tăng lòng tin của nhà đầu tư và giảm các nguy cơ về tiền
tệ. Nếu Nhật Bản khó khăn trong việc huy động tài chính trong nước thì họ có * lOMoAR cPSD| 58097008
thể sử dụng tài sản ở nước ngoài làm nguồn tài chính bổ sung. Thực tế thì Nhật
Bản cũng thặng dư tài khoản vãng lai trong nhiều năm, qua đó, giúp dự trữ ngoại tệ tăng lên
Thứ ba, lãi suất thấp nên chi phí nợ thấp hơn nhiều so với các nước khác.
Điều này có được một phần là do chính sách tiền tệ của Nhật Bản. Ngân hàng
Trung ương Nhật Bản (BOJ) hạ lãi suất qua đêm liên ngân hàng (OCR) xuống
mức 0,1% từ cuối năm 2008 để đối phó với cuộc khủng hoảng. Thậm chí cả
trước khi cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu diễn ra, để kích thích
nhu cầu, BOJ cũng đã giữ OCR ở mức bằng 0% hoặc gần bằng 0% trong nhiều năm.
Thứ tư, hệ số sử dụng vốn đầu tư ICOR của Nhật Bản hiệu quả và nguồn
dự trữ ngoại tệ mạnh. Mặc dù tỉ lệ nợ công của Nhật Bản cao hơn 200% GDP,
song chỉ số hiệu quả vốn đầu tư ICOR (hệ số sinh lời từ đồng vốn đầu tư) của
Nhật Bản chỉ vào khoảng 3,0, do vậy khả năng trả nợ không quá khó. Bên cạnh
đó, dự trữ ngoại tệ của Nhật Bản cũng ở mức rất cao.
Nhật Bản không hề lo lắng về nợ công của mình. Một lý do có thể thấy
sự an toàn nợ công của Nhật Bản đó là việc hầu hết trái phiếu chính phủ do
các nhà đầu tư nội địa nắm giữ. Theo nghiên cứu của Ngân hàng Deutsche
Bank năm 2011 thì đất nước này có tỷ lệ nợ nước ngoài/nợ công thấp nhất.
Kể từ sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, nhiều quốc gia trên
thế giới đã không ngừng hoàn thiện các quy định liên quan đến quản lý rủi ro
và đảm bảo bền vững nợ công. Để quản lý nợ công hiệu quả, phần lớn các
nước đều hướng đến việc xây dựng và thực thi các khuôn khổ pháp lý đồng
bộ, có thể là thông qua một đạo luật riêng hoặc lồng ghép vào các văn bản
pháp luật liên quan đến quản lý tài chính công.
Từ thực tiễn các nước trên thế giới có thể khái quát một số kinh
nghiệm quản lý nợ công như sau: * lOMoAR cPSD| 58097008
Thứ nhất, khi nhắc tới nợ công, cần chú ý về mục tiêu quản lý nợ công
cần đạt được trên 3 khía cạnh cơ bản, đó là: Đảm bảo huy động kịp thời nhu
cầu vốn cho chính phủ; đạt được mức chi phí vay nợ thấp nhất có thể và có
mức rủi ro phù hợp. Việc xác định được các mục tiêu quản lý nợ công phù hợp
với bối cảnh và yêu cầu của từng quốc gia là rất quan trọng, vì đây là căn cứ
quyết định mô hình quản lý nợ mà từng quốc gia sẽ xây dựng.
Phạm vi quản lý nợ công của các nước thường tập trung vào các vấn đề
như: Khuôn khổ thể chế chung đối với các hoạt động quản lý nợ; nguyên tắc,
yêu cầu đối với quản lý rủi ro; cơ chế phối hợp giữa cơ quan có liên quan, đặc
biệt là giữa cơ quan tài chính và ngân hàng trung ương; cơ chế thúc đẩy công
khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình đối với các hoạt động liên quan đến
các yêu cầu quản lý nợ công.
Đồng thời, nhiều quốc gia cũng rất chú trọng đến việc xây dựng và thực
hiện các chiến lược, kế hoạch quản lý nợ công, qua đó, đề ra các quan điểm,
biện pháp, cách thức để đạt được mục tiêu về quản lý nợ; đảm bảo xử lý hiệu
quả, hài hòa giữa các yêu cầu liên quan đến rủi ro danh mục nợ và chi phí vay
nợ trong trung và dài hạn (như Ba Lan, Trung Quốc, Thái Lan...).
Thứ hai, về cơ cấu thể chế quản lý nợ tại các nước trên thế giới, hiện
nay, chưa có chuẩn mực quốc tế hay thông lệ quốc tế chung về mô hình quản
lý nợ công mà tùy thuộc vào thể chế, bối cảnh và đặc thù mỗi nước mà có các
quy định về mô hình tổ chức quản lý nợ công phù hợp.
Yêu cầu đặt ra là việc xác định mô hình tổ chức cơ quan quản lý nợ công
cũng như phương thức và cách thức phối hợp giữa các cơ quan có liên quan
đến quản lý nợ công cần phải gắn với các mục tiêu về quản lý nợ công. Xu
hướng hiện nay là hợp nhất các chức năng liên quan đến quản lý nợ công vào
một cơ quan để hạn chế sự chia cắt trong các khâu của quy trình quản lý nợ. * lOMoAR cPSD| 58097008
Thứ ba, về quản lý rủi ro và đảm bảo bền vững nợ công, kể từ sau khủng
hoảng kinh tế toàn cầu, nhiều quốc gia trên thế giới đã không ngừng hoàn
thiện các quy định liên quan đến quản lý rủi ro và đảm bảo bền vững nợ công.
Để đánh giá mức độ bền vững nợ công cũng như các rủi ro liên quan,
bên cạnh quy mô nợ công trên GDP, nhiều nước còn sử dụng các chỉ tiêu khác
như nghĩa vụ trả nợ hàng năm so với GDP và thu ngân sách; chi trả lãi vay so
với chi thường xuyên; tỷ lệ trả lãi vay so với dư nợ; tỷ lệ giữa vay mới so với số
trả nợ cũ; nghĩa vụ nợ dự phòng so với thu ngân sách.
Để đảm bảo an ninh tài chính công, hầu hết các nước đều đưa ra nhiều
biện pháp kiểm soát, hạn chế việc vay nợ quá mức của chính quyền địa
phương; phổ biến là đưa ra giới hạn về mức nợ mà chính quyền địa phương
có thể vay. Kinh nghiệm của các nước cũng đã cho thấy, quản lý nợ công hiệu
quả, an toàn không chỉ giới hạn ở việc duy trì mức nợ công trong phạm vi các
chỉ số (các ngưỡng) nợ đề ra.
Kinh nghiệm từ Hoa Kỳ
Trong giai đoạn 2000-2007, hàng năm tỷ lệ nợ công của Mỹ tăng thêm
khoảng 50%. Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đã làm trầm trọng thêm tình
trạng thâm hụt ngân sách và nợ công của nền kinh tế số một thế giới.
Từ năm 1917, Quốc hội Mỹ đã ban hành Luật quy định về mức trần tối
đa cho phép Chính phủ có thể đi vay để trang trải thêm các chi tiêu trong ngân
sách quốc gia. Mức trần nợ đầu tiên được thiết lập năm 1917 là 11,5 tỷ USD.
Theo lý thuyết thì bằng cách thiết lập các giới hạn này, Quốc hội cho phép Bộ
Tài chính có quyền vay nợ ở mức cần thiết, đồng thời Quốc hội cũng có thể
kiểm soát được hoạt động chi tiêu của Chính phủ. Tuy nhiên trên thực tế, điều
này không giúp ích được gì nhiều. Việc quyết định giới hạn trần nợ công thông
thường mang tính chính trị nhiều hơn vì việc bỏ phiếu thường được diễn ra
sau khi các nhà lập pháp đã thông qua việc tăng chi tiêu và cắt giảm thuế. * lOMoAR cPSD| 58097008
Từ năm 1962-2011, Quốc hội Mỹ đã 75 lần điều chỉnh trần nợ công. Để
đảm bảo chi tiêu công, trong vòng 87 năm (1913-2001), Mỹ đã phát hành
lượng trái phiếu trị giá khoảng 6 nghìn tỷ USD, nhưng chỉ trong 5 năm sau đó
(đến cuối năm 2006), con số này đã lên tới 8,6 nghìn tỷ USD. Kể từ khi nắm
quyền đến nay, Tổng thống Obama đã 2 lần ký đạo luật nâng trần nợ công, (lần
thứ nhất vào năm 2009 và lần thứ hai vào năm 2011). Tuy nhiên, đến
31/12/2012, mức nợ công của Mỹ đã một lần nữa chạm trần 16,4 nghìn tỷ
USD, buộc Bộ Tài chính Mỹ phải tiến hành các biện pháp điều chỉnh ngân sách.
Trong tương lai tới đây, nhiều khả năng trần nợ công có thể lại phải tiếp tục
nâng thêm để mở đường cho Chính phủ Mỹ phát hành thêm trái phiếu vay nợ.
Tính đến ngày 8/2/2018, khoản nợ công của chính phủ Mỹ đã xấp xỉ 20,5
nghìn tỉ USD. Nếu chia bình quân đầu người, thì mỗi công dân Mỹ (từ trẻ sơ
sinh cho tới người đã nghỉ hưu) đang phải gánh khoản nợ công 63.217 USD.
Còn nếu chia bình quân cho đối tượng người lao động đóng thuế, thì trung
bình mỗi người đang phải gánh 170.400 USD nợ công chính phủ.
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hàng năm của Mỹ là 19,6 nghìn tỉ USD.
Do đó khoản nợ công của Mỹ hiện nay xấp xỉ 107% tổng giá trị của các hàng
hóa và dịch vụ mà nước này sản xuất trong một năm. Lãi suất của số nợ hiện nay là 185 tỉ USD.
Khoản nợ khổng lồ này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, bao gồm các
khoản chi tiêu quá mức của chính phủ liên bang, kinh tế chậm tăng trưởng, và
chính phủ không thu đủ thuế. Chính phủ Mỹ chi khoảng 4 nghìn tỉ USD mỗi
năm, nhưng thâm hụt từ khoảng 600 đến 700 tỉ USD. Tất nhiên những khoản
thâm hụt thuế - tức thâm hụt ngân sách này cũng được tính vào nợ công.
Nguyên nhân gia tăng nợ công
Thứ nhất, hiệu quả của các gói kích thích kinh tế khổng lồ chưa cao. Để
đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đánh dấu bằng sự sụp đổ của
thị trường bất động sản, Chính phủ Mỹ đã thực hiện chính sách nới lỏng định * lOMoAR cPSD| 58097008
lượng, cụ thể là liên tiếp tung ra những gói cứu trợ khổng lồ. Vào tháng
11/2008, FED đã tung ra gói kích thích đầu tiên (QE1) để có thể thúc đẩy nền
kinh tế. Ngày 9/9/2011, Tổng thống Mỹ Obama đã công bố kế hoạch kích thích
nền kinh tế Mỹ trị giá 447 tỷ USD. Đây là gói kích thích lớn, có thể gọi là “QE2
rưỡi” được Nhà Trắng đưa ra. Ngày 13/9/2012, FED đã tung ra gói QE3 và cam
kết sẽ giữ lãi suất ngắn hạn ở mức gần 0% ít nhất là cho đến giữa năm 2015,
đồng thời sẽ mua vào 40 tỷ USD tài sản mỗi tháng và việc nới lỏng định lượng
này sẽ là không giới hạn. Ngày 13/12/2012, FED lại công bố sẽ tung ra gói kích
thích kinh tế QE4 vào đầu năm 2013. Theo đó, FED mở rộng chương trình mua
tài sản thêm 45 tỷ USD/tháng kể từ 1/1/2013 nhằm thúc đẩy nền kinh tế.
Mặc dù các gói kích cầu thời gian vừa qua đã giúp nền kinh tế Mỹ khởi
sắc, tuy nhiên nó cũng đã làm “quả bóng” nợ công ngày càng “phình to”, gây
bất lợi cho nền kinh tế Mỹ trong dài hạn.
Thứ hai, chính sách thuế bất hợp lý. Trong những thập niên gần đây,
Chính phủ Mỹ luôn đề cao vấn đề bảo hộ môi trường kinh doanh tự do và hạn
chế những can thiệp của Chính phủ. Để thực hiện phương châm này, Mỹ duy
trì mức thuế thấp với mục tiêu kích thích kinh tế tăng trưởng để gia tăng thu
ngân sách mà không phải là theo đuổi chính sách đánh thuế cao để tăng thu.
Các tổng thống Mỹ từ thời R. Reagan đến nay đều duy trì chính sách cắt giảm
thuế mạnh tay. Trên thực tế, Mỹ là nước có mức thuế thấp nhất so với các
nước phát triển và được coi là một địa điểm đầu tư lý tưởng cho các doanh
nghiệp. Mức thuế huy động so với tổng GDP ở Mỹ chỉ bằng khoảng % so với
các nước phát triển khác.
Tuy nhiên, có một số bất bình đẳng trong cơ chế thuế ví dụ như có tới
45% số hộ gia đình tại Mỹ không phải đóng thuế trong khi 3% số người thu
nhập cao lại đóng góp tới 52% tổng số các loại thuế. Việc nguồn thu liên tục
giảm trong khi chi tiêu cho các chương trình phúc lợi xã hội và đặc biệt là chi
phí khổng lồ cho hai cuộc chiến tại Afghanistan, Iraq đã làm cho ngân sách * lOMoAR cPSD| 58097008
Chính phủ vốn đã bắt đầu thâm hụt từ năm 2000 càng trở nên nghiêm trọng.
Cho tới năm 2008, Chính phủ Mỹ tăng chi tiêu tới 6,6%, trong khi nguồn thu
ngân sách chỉ tăng có 2,8%. Trong nhiệm kỳ của Tổng thống Obama chi tiêu
công tăng 6,2% còn thu ngân sách giảm 0,5%. Sự mất cân đối trong cơ cấu thu
chi ngân sách đã làm gia tăng khoản nợ công của Chính phủ.
Thứ ba, chính sách vay nợ nước ngoài để phát triển kinh tế. Hiện nay Mỹ
vẫn là nước bị thâm hụt tài khoản vãng lai lớn nhất với số thâm hụt thương
mại hàng năm lên tới hàng trăm tỷ USD. Tuy nhiên do đồng USD được thừa
nhận là đồng tiền định giá và thanh toán quốc tế cho nên tình trạng này là cơ
hội giúp Mỹ có thể phát hành USD với số lượng không hạn chế để mua hàng
hóa giá rẻ của các nước. Mặt khác, tình trạng thâm hụt thương mại khiến các
nước tăng thêm thu nhập bằng ngoại tệ (USD) và có thể sử dụng số ngoại tệ
có được từ xuất siêu thương mại với Mỹ để đầu tư mua trái phiếu Chính phủ
Mỹ, dù đây là một khoản đầu tư không mang lại lợi nhuận cao nhưng có độ tin
cậy và ổn định. Cuộc khủng hoảng nợ công tại một số nước châu Âu cũng góp
phần làm cho nhu cầu trái phiếu Chính phủ Mỹ tăng mạnh mặc dù lãi suất trái
phiếu đã hạ xuống mức thấp gần như kỷ lục là 3,1. Việc lãi suất trái phiếu hạ
làm giảm bớt áp lực phải trả lãi của Chính phủ Mỹ và khuyến khích việc phát
hành thêm trái phiếu mới. Ngoài ra, đồng USD hiện đang giảm giá so với tất cả
các đồng tiền mạnh trên thế giới làm cũng khuyến khích việc đi vay của Mỹ vì
rõ ràng một đồng hôm nay mua được nhiều hàng hóa hơn so với lúc phải trả.
Như vậy các điều kiện hiện tại rất thuận lợi cho Chính phủ Mỹ sử dụng chính
sách vay nợ nước ngoài để phục hồi kinh tế. Tuy chính sách này có thể đem lại
lợi ích trước mắt cho nền kinh tế Mỹ nhưng rõ ràng nó đồng thời góp phần
làm trầm trọng thêm tình trạng nợ công của Chính phủ Mỹ. *