



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 45734214
VẤN ĐỀ 2. NGUỒN CỦA LUẬT QUỐC TẾ TUẦN 3 + 4 2.1.
Khái niệm nguồn của luật quốc tế 2.1.1. Định nghĩa 2.1.2. Cơ sở xác định 2.1.3. Phân loại 2.2.
Điều ước quốc tế
2.2.1. Khái niệm điều ước quốc tế lOMoAR cPSD| 45734214
2.2.2. Kí kết điều ước quốc tế
2.2.3. Hiệu lực của điều ước quốc tế lOMoAR cPSD| 45734214 2.3.
2.2.4. Thực hiện điều ước quốc tế Tập quán quốc tế
2.3.1. Khái niệm tập quán quốc tế
2.3.2. Cách thức hình thành 2.4.
Các nguồn bổ trợ của luật quốc tế
2.4.1. Nguyên tắc pháp luật chung
2.4.2. Phán quyết của các cơ quan tài phán quốc tế
2.4.3. Nghị quyết của tổ chức quốc tế liên chính phủ
2.4.4. Học thuyết của các luật gia nổi tiếng
2.4.5. Hành vi pháp lí đơn phương 2.5.
Mối quan hệ qua lại giữa các loại nguồn
2.5.1. Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và tập quán quốc tế
2.5.2. Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế, tập quán quốc tế và nguồn bổ trợ Câu hỏi:
VĐ 2 NGUỒN CỦA LUẬT QUỐC TẾ 6.
TRÌNH BÀY CÁC LOẠI NGUỒN CỦA LUẬT QUỐC TẾ? 7.
TRÌNH BÀY ĐỊNH NGHĨA VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ THEO
QUY ĐỊNH CỦA LUẬT QUỐC TẾ? 8.
NÊU TRÌNH TỰ KÝ KẾT ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VÀ PHÂN TÍCH Ý NGHĨA
CỦA CÁC BƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH KÝ KẾT ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ? lOMoAR cPSD| 45734214 9.
PHÂN TÍCH CÁC HÀNH VI XÁC NHẬN SỰ RÀNG BUỘC CỦA QUỐC GIA
VỚI ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ? 10.
PHÂN TÍCH ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ? 11.
PHÂN BIỆT ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VỚI THỎA THUẬN QUỐC TẾ (ĐƯỢC
ĐIỀU CHỈNH BỞI PHÁP LỆNH SỐ 33 NGÀY 20/4/2007)? 12.
PHÂN BIỆT ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VỚI CÁC TUYÊN BỐ CHÍNH TRỊ TRONG
QUAN HỆ QUỐC TẾ? CHO VÍ DỤ MINH HỌA? 13.
NGUỒN CỦA LUẬT QUỐC TẾ LÀ GÌ? PHÂN TÍCH CƠ SỞ XÁC ĐỊNH CÁC
LOẠI NGUỒN CỦA LUẬT QUỐC TẾ? 14.
PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VÀ TẬP QUÁN
QUỐC TẾ? CHO VÍ DỤ MINH HỌA? 15.
PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH VÀ CON ĐƯỜNG HÌNH THÀNH TẬP QUÁN QUỐC TẾ? 16.
TRÌNH BÀY MỐI QUAN HỆ GIỮA NGUỒN CƠ BẢN VÀ NGUỒN BỔ TRỢ CỦA LUẬT QUỐC TẾ? Trả lời: Câu 6: -
Nguồn cơ bản: hình thành từ sự thỏa thuân gị ữa các chủ thể LQT, trực tiếp chứa đựng
các qppl, gồm ĐƯQT và TQQT -
Nguồn bổ trợ: ko trực tiếp chứa đựng các qppl, hầu như chỉ có ý nghĩa khuyến nghị đối
với các chủ thể tgia qhplqt, gồm phán quyết của Tòa công lý quốc tế, các nguyên tắc pl chung,
hành vi pháp lý đơn phương, nghị quyết của tổ chức qte liên qgia, học thuyết của các học giả
danh tiếng về luât qte.̣
Điều 38(1) Quy chế Toà án Công lý Quốc tế thường được trích dẫn như điểm bắt đầu thảo
luận về nguồn của luật quốc tế. Điều khoản này quy định Toà ICJ sẽ giải quyết các tranh chấp
được đệ trình trước Toà thông qua: (a) điều ước quốc tế, chung và riêng (song phương or đa
phương), (b) tập quán quốc tế như là bằng chứng về thực tiễn chung được chấp nhận như
luật, (c) các nguyên tắc pháp luật chung được các quốc gia văn minh thừa nhận, và (d) các
nguồn bổ trợ để xác định các quy định pháp luật bao gồm án lệ và ý kiến của các học giả có
uy tín cao. Điều 38(1) về cơ bản liệt kê khá đầy đủ các nguồn của luật quốc tế. Các nguồn
còn thiếu bao gồm hành vi pháp lý đơn phương, nghị quyết của các tổ chức quốc tế và luật mềm.
Các loại nguồn của luật quốc tế
Đầu tiên cần phân biệt giữa nguồn của LQT và những phương tiện hỗ trợ để xác định quy phạm
LQT (án lệ, các học thuyết) và 1 số hình thức khác như quyết định không bắt buộc của tổ chức
quốc tế, hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia....
1. Các loại nguồn cơ bản: Điều ước quốc tế và tập quán quốc tế lOMoAR cPSD| 45734214
Luật thành văn là đến từ các công ước quốc tế và luật bất thành văn thông qua các tập quán quốc tế Câu 7:
- Điều ước quốc tế (luật thành văn)
Cơ sở pháp lý: công ước viên 1969 và luật điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế là thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và các chủ
thể luật quốc tế và được luật quốc tế điều chỉnh
+ không phụ thuộc vào việc thỏa thuận đó được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hay hai
hoặc nhiều văn kiện có quan hệ với nhau, không phụ thuộc vào tên gọi cụ thể của những văn kiện đó.
Điều ước quốc tế là thoả thuận giữa các chủ thể của luật quốc tế và được điều chỉnh bởi pháp luật quốc tế. Đặc điểm:
1. Về hình thức, các thoả thuận mang tính chất là điều ước thường được dưới dạng văn
bản, không phụ thuộc vào tên gọi của văn bản đó
2. Về nội dung, Luật quốc tế không có bất cứ quy định nào mang tính xác định về nội
dung, cấu trúc của điều ước quốc tế cũng như mối liên hệ giữa tên gọi của điều ước
quốc tế với giá trị pháp lý của văn bản đó. Trên thực tiễn cũng có nhưng ĐƯQT không
hoàn toàn có các điều khoản cụ thể ví dụ như Tuyên bố Băng Cốc năm 1967 về thành
lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
3. Chủ thể phải là chủ thể của LQT
4. Được điều chỉnh bởi LQT và tuân thủ quy phạm jus cogens Hình thức: Chủ yếu dưới
dạng thành văn Bên trong:
Tên gọi do các bên thoả thuận
Cơ cấu: Thường gồm 3 phần
- Mở đầu: Giới thiệu
- Nội dung: trực tiếp chứa đựng những thoả thuận thành công giữa các bên- Kết luận:
Phụ lục: như nội dung chính về giá trị pháp lý.
Ngôn ngữ: Do thoả thuận. Đối với các điều ước song phương thông thường sẽ là lựa chọn ngôn
ngữ thứ ba hoặc là cả 2 ví dụ ( Lào - VN thì sẽ dùng tiếng Việt và tiếng Lào - mỗi bên giữ 1
bản hoặc ngôn ngữ ba là tiếng Anh ), đối với điều ước đa phương toàn cầu thì sẽ sử dụng 1/6
các ngôn ngữ chính thức của LHQ: Anh, Tây Ban Nha, Ả rập, Trung Quốc, Nga, Pháp. Câu 10:
Điều kiện để ĐƯQT trở thành nguồn của LQT:
+ 1/Phải được ký kết trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và thoả thuận
Xuất phát từ tự do ý chí, các chủ thể tham gia ký kết điều ước quốc tế dựa trên cơ sở bình đẳng,
không lứa dối, ép buộc, cưỡng bức hay đe doạ sử dụng vũ lực. lOMoAR cPSD| 45734214
+ 2/Phù hợp với quy định quốc gia về thẩm quyền và luật ký kết ví dụ: LKK có thẩm quyền ký
kết thuộc về nguyên thủ quốc gia, thủ tướng chính phủ hoặc 2 người trên có thể uỷ quyền hợp
lệ. Nếu điều ước quốc tế đàm phán ký kết không đúng thủ tục, thẩm quyền theo quy định của
pháp luật các bên ký kết sẽ không có giá trị về mặt pháp lý.
+ 3/Phải phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của LQT
Bất cứ điều ước nào có nội dung trái với các nguyên tắc cơ bản của hệ thống luật quốc tế thì
không có giá trị pháp lý bởi các nguyên tắc này là nền tảng cơ sở, là khuôn mẫu pháp lý cho
sự tồn tại và phát triển của LQT.
Điều ước vô hiệu: tuyệt đối (vô hiệu ngay từ khi ký kết khi vi phạm điều kiện 1 và 3) và tương
đối (có thể sẽ không có hiệu lực nếu vi phạm điều kiện 2) Vai trò của ĐƯQT:
+ Là hình thức pháp lý chứa đựng các quy phạm pháp luật quốc tế
+ Là phương tiện, công cụ quan trọng để duy trì và tăng cường các mối quan hệ hợp tác quốc
tế trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống quốc tế
+ Là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể luật quốc tế + Là
công cụ để pháp điển hoá LQT (hệ thống hoá các quy phạm pháp luật đang nằm rải rác trong
nhiều văn bản đưa nó về thống nhất, quy tụ trong 1 văn bản, các bên có quyền bổ sung, sửa
đổi, thay thế các luật đã lỗi thời). VD: Công ước 1982 về luật biển, họ tổng hợp nhiều văn bản
về khai thác, sử dụng biển nằm rải rác ở các văn bản, ĐƯQT khác nhau quy tụ về công ước
1982 và bổ sung sửa đổi. bao gồm quốc gia, tổ chức quốc tế liên chính phủ và các chủ thể
Chủ thể ký kết k hác lOMoAR cPSD| 45734214
của luật pháp quốc tế. Các quy định cụ thể liên quan đến quan hệ điều ước giữa quốc gia và
quốc gia được ghi nhận trong Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế năm 1969, giữa quốc
gia và tổ chức quốc tế và giữa tổ chức quốc tế với nhau được ghi nhận trong Công ước Viên
về Luật điều ước quốc tế năm 1986. Các điều ước quốc tế với một hoặc nhiều bên là các chủ
thể khác của luật pháp quốc tế chưa được ghi nhận trong các điều ước quốc tế mà chỉ tồn tại
trong tập quán quốc tế
Về luật điều chỉnh . Hai Công ước đều ghi nhận luật điều chỉnh duy nhất của điều ước
quốc tế là luật quốc tế. Điều ước quốc tế là một nguồn của luật pháp quốc tế, chứa đựng quyền
và nghĩa vụ của các quốc gia do đó chỉ có thể được điều chỉnh bởi luật pháp quốc Nếu thoả
thuận giữa các quốc gia hay tổ chức quốc tế mà ghi nhận luật điều chỉnh là một hệ thống pháp
luật khác, ví dụ như pháp luật của một quốc gia nào đó, thì thoả thuận này không phải là điều
ước quốc tế. Các thoả thuận giữa các quốc gia hay tổ chức quốc tế thường được mặc nhiên
xem như chịu điều chỉnh của luật pháp quốc tế, trừ khi có quy định hay thoả thuận khác.
Về hình thức. Hai Công ước quy định điều ước quốc tế phải dưới hình thức văn bản. Tuy
nhiên hai Công ước cũng không loại trừ điều ước quốc tế dưới hình thức phi-văn bản, như lời
nói (Theo điều 3 công ước viên năm 1969) Ngoại trừ yêu cầu điều ước quốc tế bằng văn bản,
hai Công ước không đặt ra các yêu cầu khác về hình thức mà quy định rất mở. Điều ước quốc
tế có thể được ghi nhận trong một văn kiện (như các điều ước quốc tế chuẩn mực) hoặc trong
nhiều văn kiện có liên quan (như các điều ước quốc tế hình thành qua việc trao đổi công hàm
giữa hai nước). Tên gọi của điều ước quốc tế cũng không quan trọng, và thậm chí có thể không có tên gọi.
Trong quá trình soạn thoả dự thảo của Công ước Viên năm 1969 và 1986, có quan điểm trong
cơ quan soạn thảo – Uỷ ban Luật pháp Quốc tế (ILC) của Liên hợp quốc – là nên ghi nhận yếu
tố “ý định tạo ra nghĩa vụ theo luật pháp quốc tế” vào định nghĩa điều ước. Cuối cùng ILC đã
không ghi nhận vào câu chữ của dự thảo nhưng ghi chú rằng yếu tố ý định này được lồng trong
nội hàm của cụm từ “chịu sự điều chỉnh của luật quốc tế”.[4]
Đại diện trực tiếp ký kết ĐƯQT:
+ Đại diện đương nhiên: Nguyên thủ quốc gia, chủ tịch nước, thủ tướng chính phủ, bộ trưởng
bộ ngoại giao hoặc đại sứ quán ở nước sở tại (nhưng chỉ được thoả thuận đàm phán, nếu ký kết
thì phải có giấy uỷ quyền) lOMoAR cPSD| 45734214
+ Đại diện được uỷ quyền (được đại diện đương nhiên uỷ quyền) và phải được xuất trình giấy
uỷ quyền hợp lệ. (nếu song phương thì trình cho trưởng phái đoàn, nếu đa phương sẽ đưa cho
uỷ ban kiểm tra tư cách đại biểu) Câu 8:
Thực tiễn cho thấy các bên có thể gộp cả đàm phán và soản thảo lại, các bên có thể soạn thảo
điều ước quốc tế xong mới tiến hành đàm phán để sửa đổi và thống nhất các nội dung của văn bản điều ước Trình tự ký kết:
Giai đoạn hình thành dự thảo điều ước
Đàm phán - Soạn thảo - Thông qua B1: Đàm phán:
Thoả thuận tạo dựng các quyền và nghĩa vụ giữa các bên
+ là giai đoạn quan trọng của quá trình ký ĐƯQT, thông qua quá trình đàm phán thể hiện ý trí
trực tiếp của mình (thực chất là 1 quá trình đấu tranh, thương lượng với nhau để đi đến thoả thuận)
+ Đàm phán quyết định nội dung, hình thức của ĐƯQT
- Hình thức đàm phán: giữa các cơ quan đại diện ngoại giao quốc gia (ví dụ đại sứ quán ta ở
Mỹ có thể thoả thuận, đàm phán với chính phủ Mỹ), tại các hội nghị or tổ chức quốc tế, tổ chức
1 hội nghị riêng để đàm phán giữa các quốc gia
Thực tiễn cho thấy khi lợi ích của các bên càng lớn, mối quan hệ càng phức tạp bao nhiêu thì
quá trình đàm phán càng căng thẳng, lâu dàu và khó khăn bấy nhiêu B2: Soạn thảo:
Theo cách hiểu cá nhân là nó mang tính kỹ thuật, các bên thể hiện ý chí, mong muốn, thoả
thuận trước đó của mình đã đàm phán trước đó vào văn bản hay nói cách khác là nhằm cụ thể
hoá các cam kết, nội dung mà các bên đã đạt được trong quá trình đàm phán. lOMoAR cPSD| 45734214 B3: Thông qua:
Là việc các bên thể hiện sự nhất trí của mình đối với văn bản điều ước đã được soạn thảo.
Xác nhận văn bản cuối cùng để đi đến ký kết
+ Bằng miệng (trường đoản 2 bên đồng thời đọc lên và thống nhất qua miệng) hoặc ký tắt
(đối với điều ước song phương)
+ Bỏ phiếu hoặc biểu quyết (đa phương - 2/3 số phiếu thuận) Việc
thông qua văn bản điều ước chưa làm điều ước phát sinh hiệu lực Câu 9:
Ký điều ước quốc tế:
Lưu ý: Ký (là 1 trong những giai đoạn của ký kết) và Ký kết khác nhau (ký kết là trình tự để
điều ước phát sinh hiệu lực)
Ký tắt: Là chữ ký của vị đại diện vào văn bản dự thảo điều ước để xác nhận là văn bản cuối
cùng được thông qua, sau khi ký tắt chưa phát sinh hiệu lực, nhưng các bên tham gia ký kết
không được cản trở để điều ước này trở thành ký chính thức (ký tắt là vì không thể thực hiện
ngay điều ước này ngay được nên phải ký tắt)
Ký tượng trưng: nếu các bên có thẩm quyền đồng ý thì không cần ký chính thức nữa, khác với
ký tắt (là 1 bước để đi đến ký chính thức) lOMoAR cPSD| 45734214
Ký chính thức: nếu điều ước không quy định gì khác về thoả thuận hay thủ tục, phê chuẩn, phê
duyệt thì ngay sau khi ký sẽ phát sinh hiệu lực Phê chuẩn, phê duyệt điều ước:
Phê chuẩn điều ước: là hành vi pháp lí đơn phương của cơ quan có thẩm quyền trong nhà nước
công nhận hiệu lực của điều ước đối với quốc gia mình.
Tại sao cần phê chuẩn?
+ Thể hiện quyền lực nhà nước
Vì có những điều ước cực kỳ quan trọng nên sau khi ký kết với nhau thì đại diện ký kết sẽ phải
về nước đề bản bạc với cơ quan nhà nước (ví dụ như quốc hội) và phê chuẩn nó (trong điều
ước cũng có điều kiện điều ước sẽ có hiệu lực sau khi được phê chuẩn) Những điều ước cần
phê chuẩn (điều ước quan trọng)?
Dựa trên sự thoả thuận của các bên, nếu các bên thoả thuận cần phê chuẩn thì sẽ cần phê chuẩn
và luật trong nước yêu cầu phê chuẩn
Phê duyệt điều ước: định nghĩa giống với phê chuẩn nhưng khác ở tầm quan trọng của điều
ước, thẩm quyền phê chuẩn thuộc cơ quan lập pháp (chủ tịch nước và quốc hội) còn phê duyệt
điều nước là của cơ quan hành pháp.
Tại sao cần phê duyệt: giống phê chuẩn nhưng tầm quan trọng của điều ước cần phê duyệt thấp hơn phê chuẩn
Gia nhập điều ước quốc tế - Không được coi là giai đoạn của quá trình ký kết:
Chỉ đặt ra với điều ước quốc tế đa phương. Thành viên sáng lập là thành viên tham gia vào quá
trình đàm phán ký kết và làm cho điều ước phát sinh hiệu lực. Thành viên gia nhập là thành
viên không tham gia vào quá trình ký kết nhưng muốn ràng buộc quyền và nghĩa vụ của mình
với điều ước đó bằng cách gửi đơn xin gia nhập. Thủ tục gia nhập sẽ do chính điều ước quốc tế đó quy định.
Cái hay của gia nhập đó là mình không phải tốn công sức nữa khi mà các thành viên sáng lập
của điều ước đã tốn công sức tạo dựng nên điều ước và vận hành nó thì mình đã đứng ngoài
nhìn và thấy nó hoạt động vận hành như nào, cảm thấy oki thì gia nhập lOMoAR cPSD| 45734214
Bảo lưu điều ước quốc tế:
Khác với bảo lưu ngoài đời, bảo lưu
ngoài đời là giữ nguyên, còn bảo lưu
trong này là thay đổi hoặc loại bỏ - Là
hành vi pháp lý đơn phương của chủ thể LQT -
Nhằm loại trừ hoặc thay đổi
hiệu lực 1 or 1 số điều khoản nhất định
của ĐƯQT nào đó đối với quốc gia mình -
Bảo lưu suất phát từ chủ quyền
quốc gia chứ không phải là 1 loại ưu tiên -
Bảo lưu là quyền nhưng k phải quyền tuyệt đối mà chỉ áp dụng với điều ước quốc tế đa
phương vì điều ước song phương là các bên đã thoả thuận 100% rồi nên mới ghi vào trong
điều ước nên sẽ không có chuyện bảo lưu điều ước. -
Nếu điều ước có điều khoản quy định cấm bảo lưu thì quyền bảo lưu sẽ không được áp
dụng (vì đây là sự thoả thuận của các chủ thể sáng lập điều ước, họ cho rằng điều ước này cần
phải chấp hành toàn diện, toàn bộ và nếu có 1 quốc gia bảo lưu sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của quốc gia khác)
Tại sao 1 số điều ước quốc tế đa phương vẫn được bảo lưu? : Vì những điều ước này họ mong
có càng nhiều quốc gia tham gia càng tốt vì nó sẽ mang lại nhiều lợi ích ví dụ như điều ước về
môi trường, kinh tế,... và họ cho phép bảo lưu để cho điều ước dễ dàng tiếp cận với các quốc gia khác.
Tại sao các điều ước quan trọng không cho bảo lưu nhưng vẫn nhiều quốc gia tham gia? - có
lẽ nó suất phát từ yếu tố chính trị và lợi ích khi tham gia vào điều ước đó. lOMoAR cPSD| 45734214
Ví dụ: 1 điều ước về hoà bình, và có yêu cầu rằng không được dùng vũ lực, vũ trang, xâm
lược... thì sẽ không được bảo lưu kể cả điều ước cho phép bảo lưu bất kỳ điều khoản nào. +
Quá trình bảo lưu: Bảo lưu được thực hiện trong quá trình ký, phê chuẩn, phê duyệt or gia nhập
Quốc gia có quyền đưa ra tuyên bố huỷ bảo lưu trong bất cừ thời điểm nào nếu thấy cần thấy.
Bảo lưu khi không thực hiện được nhưng khi thực hiện rồi thì rút bảo lưu có lỗ không, tại
sao? (không, bởi vì khi chúng ta bảo lưu 1 điều khoản không thực hiện được thì các quốc gia
thành viên cũng sẽ không thực hiện điều khoản đó với mình, nên khi thực hiện được lúc nào thì nên rút bảo lưu)
Hình thức: Phải được thể hiện bằng văn bản.
Bảo lưu sẽ có hiệu lực sau 12 tháng nếu không có quốc gia nào phản đối về vấn đề này thì được chấp nhận.
Giải quyết mối quan hệ giữa quốc gia bảo lưu và các quốc gia khác
Hiệu lực ràng buộc:
Điều ước ký kết có phạm vi toàn lãnh thổ, tức là toàn bộ đất nước thực hiện, thế nếu điều ước
ký kết trái với ý muốn của người dân thì sao?
Điều ước quốc tế chỉ ràng buộc các bên thành viên mà không ràng buộc bên thứ ba. Các bên
thành viên là các chủ thể ký kết điều ước quốc tế (quốc gia, tổ chức quốc tế…) đã thể hiện sự
đồng ý chịu ràng buộc bởi điều ước đó (consent to be bound). Nguyên tắc pacta sunt servanda
quy định tất cả các bên thành viên có nghĩa vụ thực hiện các cam kết của mình một cách thiện
chí. Bên thứ ba không chịu ràng buộc bởi các quy định của một điều ước trừ khi bên thứ ba
này đồng ý bằng văn bản. lOMoAR cPSD| 45734214
Trừ hiến chương LHQ kể cả đối với các quốc gia không phải thành viên của điều ước tại điều
2 khoản 6 (vì mục đích hoà bình)
Có thể trao quyền cho bên thứ ba mà không cần đồng ý của bên thứ ba (ví dụ quyền tự do đi qua biển)
Về hiệu lực theo thời gian, điều ước quốc tế sẽ bắt đầu có hiệu lực theo quy định của chính điều
ước quốc tế đó hoặc theo thoả thuận của các bên. Nếu điều ước không có quy định và các bên
cũng không có thoả thuận, điều ước sẽ có hiệu lực khi tất cả các bên ký kết thể hiện sự đồng ý
chịu ràng buộc. Điều ước quốc tế không có hiệu lực hồi tố trừ khi có quy định hoặc thoả thuận
giữa các bên. Điều ước quốc tế sẽ chấm dứt hiệu lực theo quy định của chính điều ước quốc tế
đó hoặc khi bị huỷ bỏ. Điều ước quốc tế cũng có thể bị tạm thời đình chỉ thi hành. Điều ước
quốc tế cũng có thể được thi hành tạm thời.
Về hiệu lực theo lãnh thổ, điều ước quốc tế ràng buộc các quốc gia trên toàn bộ lãnh thổ của
bên đó, bao gồm vùng đất, vùng biển và vùng trời phía trên thuộc chủ quyền quốc gia. Các
quốc gia có thể hạn chế phạm vi lãnh thổ áp dụng, ví dụ như các điều ước về thương mại hay
dân cư dọc theo biên giới thường chỉ áp dụng đối với các địa phương biên giới mà không áp
dụng cho các địa phương khác. Hiệu lực của điều ước quốc tế còn có thể mở rộng ra bên ngoài
lãnh thổ của quốc gia, bao gồm cả các hoạt động trên các vùng biển thuộc quyền chủ quyền và
quyền tài phán, vùng biển quốc tế, không phận quốc tế và cả khoảng không vũ trụ và các thực
thể trong khoảng không vũ trụ (ví dụ về châu nam cực là vùng lãnh thổ cộng đồng thì có giá
trị trên lãnh thổ này luôn). Và thực tế có các điều ước điều chỉnh hoạt động của các quốc gia
bên ngoài lãnh thổ của họ, ví dụ Hiệp ước về Mặt trăng và các thực thể không gian khác năm
1979. Đối với các chủ thể ký kết khác như các tổ chức quốc tế, tuỳ thuộc vào quy định và bản
chất của điều ước quốc tế mà phạm vi lãnh thổ mà điều ước quốc tế có hiệu lực.
Thời điểm có hiệu lực của điều ước. Thường ghi trong luôn ĐƯQT đó tuỳ vào sự thoả thuận
giữa các bên, ví dụ điều ước thoả thuận có ghi điều ước có hiệu lực ngay từ khi các bên kí
chính thức. Nếu kí kết bằng hình thức phê chuẩn, phê duyệt thì nếu là song phương thì thường
có hiệu lực khi 2 bên trao đổi công hàm thư phê chuẩn, phê duyệt sẽ có hiệu lực, còn nếu là đa
phương thì các bên thống nhất số lượng thư phê chuẩn được gửi đến quốc gia bảo quản điều
ước or thư ký LHQ, nếu đủ số lượng thì sẽ có hiệu lực sau 1 khoảng thường gian (thường là 12 tháng)
Thời hạn có hiệu lực của điều ước. Gồm điều ước vô thời hạn (không quy định thời điểm kết
thúc hiệu lực) và điều ước có thời hạn (có quy định thời điểm kết thúc - thường là kinh tế) lOMoAR cPSD| 45734214
- Điều ước quốc tế hết hiệu lực (chấm dứt hiệu lực của điều ước)
+ Tự động hết hiệu lực: hết thời hạn ghi nhận trong điều ước; đã thực hiện xong quyền và nghĩa
vụ trước thời hạn quy định; khi có chiến tranh xảy ra (trừ điều ước về lãnh thổ, biên giới, điều
ước có quy định chiến tranh không làm hết hiệu lực điều ước này, nếu là điều ước đa phương
thì chỉ hết hiệu lực đối với 2 nước có xung đột)
+ Theo ý muốn của tất cả các bên (điều 54)
+ Bãi bỏ điều ước quốc tế (là tuyên bố đơn phương nhằm chấm dứt hiệu lực điều ước đối với
quốc gia mình trong trường hợp điều ước cho phép bãi bỏ điều ước Tại sao được bãi bỏ điều ước?:
+ Huỷ bỏ điều ước quốc tế: là tuyên bố đơn phương của quốc gia nhằm chấm dứt hiệu lực của
điều ước quốc tế mà không cần điều ước cho phép.
Cơ sở pháp lý huỷ bỏ điều ước: khi 1 bên chỉ hưởng quyền mà không thực hiện nghĩa vụ, vi
phạm nguyên trọng điều khoản của điều ước, khi 1 quốc gia không còn khả năng thực hiện
nghĩa vụ của điều ước (rebus sic stantibus) - chỉ được áp dụng khi không còn là chủ thể của LQT
+ Tạm thời đình chỉ hiệu lực của điều ước (là quyền của quốc gia được quy định trong công ước viên 1969)
Cơ sở để tạm đình chỉ điều ước: xảy ra vi phạm điều ước, do không có khả năng thi hành điều
ước vì đối tượng của điều ước không còn tồn tại hoặc huỷ bỏ, do có sự thay đổi cơ bản của
hoàn cảnh, do xuất hiện điều ước ký kết sau có đối tượng điều chỉnh trùng với điều ước ký kết lOMoAR cPSD| 45734214
trước, do cắt đứt quan hệ ngoại giao hoặc lãnh sự (điều 59 - 63 Công ước viên 1969) - về cơ
bản là giống với huỷ bỏ điều ước
Ngoài ra, các bên của điều ước quốc tế nhiều bên có thể thoả thuận tạm đình chỉ hiệu lực của
điều ước giữa họ với nhau nhưng không được ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các thành
viên còn lại và không được trái với nguyên tắc của điều ước (điều 58)
Trong thời gian tạm thời đỉnh chỉ hiệu lực của điều ước, các bên không phải thực hiện nghĩa
vụ điều ước của mình, nhưng có nghĩa vụ không được có bất kỳ hành vi nào làm phương hại
điều ước và cũng không được gây cản trở việc khôi phục lại hiệu lực của điều ước sau thời gian gián đoạn.
+ Xuất hiện 1 jus cogens mới
+ Do tất cả các quốc gia thành viên đã ký kết một điều ước khác về cùng một đối tượng điều chỉnh
Nhìn chung, tất cả các (+) trên đều là cơ sở để chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế chỉ là
tuỳ xem chủ thể đó chọn cách thức nào mà thôi.
Thực hiện điều ước quốc tế:
Luật hôn nhân gia đình đã thay đổi như nào qua thời gian?
Cách thực hiện: áp dụng trực tiếp ĐƯQT hoặc chuyển hoá thành pháp luật quốc gia. + Giải
thích điều ước quốc tế: nhằm làm sáng tỏ nội dung thật của điều ước tránh sự hiểu lầm và gây
mâu thuẫn giữa các bên. Được các bên uỷ quyền cho bên giải thích
+ Công bố và đăng ký điều ước quốc tế
+ Thực hiện điều ước quốc tế: Tuân theo nguyên tắc Pacta Sunt Sarvanda, trái nguyên tắc thì
tức là vi phạm pháp luật quốc tế. (thường được các quốc gia nội luật hoá điều ước để thúc đẩy
điều ước thực hiện trong nước 1 cách nhanh, đúng đắn) - theo điều 26 - 29 Công ước viên 1969
- Tập quán quốc tế (luật bất thành văn)
Điều 38(1)(b) quy định ngắn gọi về định nghĩa tập quán quốc tế và dựa theo đó là cách xác
định một quy định tập quán quốc tế: “Tập quán quốc tế, như là bằng chứng về một thực tiễn lOMoAR cPSD| 45734214
chung được chấp nhận như luật” (international custom, as evidence of a general practice
accepted as law). Một quy định tập quán cần thoả mãn hai yếu tố: (i) thực tiễn chung, và (ii)
được chấp nhận như luật
Thực tiễn chung là các hành vi, hoạt động của các quốc gia trên thực tế, và các hành vi, hoạt
động đó hình thành một mô-típ, một xu hướng ứng xử của các quốc gia khi gặp một vấn đề
tương tự. Thực tiễn chung đó cần được các quốc gia tuân theo với niềm tin rằng thực tiễn này
là bắt buộc theo một quy định pháp lý của luật quốc tế – “được chấp nhận như luật” Tuỳ
trường hợp nhưng tập quán quốc tế thường được hình thành khá dài.
Các yếu tố hình thành:
Đến từ các quy tắc xử sự chung và sau này các quốc gia tự thừa nhận nó là luật Yếu tố vật chất
- Tồn tại trên thực tế các quy tắc xử sự
- Áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần
Yếu tố tinh thần (opinio juns)
- Được các chủ thể thừa nhận rộng rãi
- Có tính bắt buộc trong quan hệ quốc tế
Các con đường hình thành tập quán quốc tế:
- Từ thực tiễn quan hệ giữa các chủ thể của LQT.
- Thông qua các nghị quyết của Tổ chức quốc tế (có thể là ràng buộc or không ràng buộc)
- Thông qua phán quyết của các cơ quan tài phán quốc tế
- Từ thực tiễn hành vi pháp lý của quốc gia (ví dụ phóng vệ tinh sputnik1 năm 1957 mở đầu
kỷ nguyên chinh phục vũ trụ loài người) - Hình thành từ điều ước quốc tế Hiệu lực ràng buộc:
Tập quán quốc tế có hiệu lực ràng buộc với tất cả các quốc gia. Điểm này hoàn toàn khác với
điều ước quốc tế, và có thể giải thích là do quy định tập quán quốc tế hình thành trên cơ sở sự
đồng ý của tất cả hoặc ít nhất đa số các quốc gia, dù sự đồng ý đó là ngầm định và không rõ
ràng như việc ký kết điều ước quốc tế. Sự đồng ý đó nằm trong bản chất của quá trình hình
thành tập quán quốc tế – một thực tiễn chung của các quốc gia được tuân thủ với niềm tin rằng
đây là quy định được chấp nhận như luật.
Có hai ngoại lệ về hiệu lực của tập quán quốc tế. Thứ nhất, một hoặc một số các quốc gia có
thể không chịu ràng buộc của một quy định của tập quán quốc tế nếu quốc gia đó thể hiện sự
phản đối liên tục ngay từ đầu (persistent objection). Sự phản đối này phải ngay khi một thực
tiễn chung manh nhanh xuất hiện như một quy định tập quán; nếu quy định đó đã đạt được tư
cách tập quán quốc tế, sự phản đối sẽ quá trễ để ngăn cản hiệu lực ràng buộc của quy định đó.
Điều quan trọng đối với các quốc gia là phải theo dõi sự phát triển của các xu hướng, mô-típ
hành động trong quan hệ quốc tế và phải có phản đối khi thấy sự phát triển đó có dấu hiệu của
một thực tiễn chung – điều kiện đầu tiên để hình thành tập quán quốc tế. Một lưu ý quan trọng lOMoAR cPSD| 45734214
là nếu sự phản đối được chấp nhận bởi các quốc gia khác thì có thể hình thành một quy định
ngoại lệ đối với quy định tập quán quốc tế. Ngoại lệ thứ hai là tập quán khu vực. Tập quán khu
vực chỉ ràng buộc trong phạm vi khu vực mà thực tiễn chung và opinio juris của các quốc gia
khu vực đã hình thành nên nó.
2. Nguồn bổ trợ gồm: Các nguyên tắc pháp luật chung, Phán quyết của toà án quốc tế liên
hợp quốc, nghị quyết của tổ chức quốc tế Liên chính phủ: bao gồm nghị quyết có hiệu
lực bắt buộc và nghị quyết không có hiệu lực bắt buộc đối với các thành viên, Hành vi
pháp lý đơn phương của quốc gia, các học thuyết về luật quốc tế
- Các nguyên tắc pháp luật chung
+ Định nghĩa: Là những tư tưởng chính trị, pháp lý mang tính chỉ đạo, bao trùm có giá trị bắt
buộc chung (Juscogens) đối với mọi chủ thể luật quốc tế.
+ Nguyên tắc pháp luật chung chỉ áp dụng sau điều ước quốc tế và tập quán quốc tế với mục
đích giải thích hoặc làm sáng tỏ nội dung luật quốc tế.
+ Là nguyên tắc mà toàn bộ hệ thống pháp luật quốc tế và quốc gia đều thừa nhận.
Ví dụ như là nguyên tắc không xét xử 2 lần, ví dụ anh A tội trộm cắp thì sau khi anh A được
xét xử và chấp hành hình phạt xong thì không ai có quyền lôi tội trộm cắp của anh A ra để xét xử lần nữa.
Các nguyên tắc pháp luật chung được xem là một nguồn để lắp khoảng trống pháp lý khi một
tranh chấp không có quy định điều ước hay tập quán điều chỉnh. Để tránh Tòa PCIJ và sau đó
là Tòa ICJ phải ra phán quyết non liquet, Quy chế cho phép các tòa sử dụng các nguyên tắc
pháp luật chung được các quốc gia văn minh thừa nhận. Trên thực tế, các cơ quan tài phán
nhiều khi sử dụng “các nguyên tắc pháp luật chung” mà không gọi tên trực tiếp nguồn này,. mà
sử dụng nhiều cách thức diễn đạt khác ví dụ như “một quy định pháp lý được chấp nhận chung”
hay “một nguyên tắc pháp lý được công nhận rộng rãi và xác lập ổn định. Cách dễ nhận biết
là các tòa đang sử dụng các nguyên tắc pháp luật chung là khi các tòa sử dụng chúng mà không
dẫn chiếu đến bất kỳ điều ước quốc tế nào hay tập quán quốc tế.
Không có sự thống nhất về ý nghĩa của các nguyên tắc pháp luật chung. Một số học giả cho
rằng chúng là các nguyên tắc chung của luật quốc tế; một số khác cho rằng chúng là các nguyên
tắc chung của pháp luật quốc gia.Và không có lý do gì để chúng không phải là cả hai. Trên
thực tế, có những nguyên tắc pháp luật chung có nguồn gốc từ pháp luật quốc gia, theo đó,
khoảng trống pháp lý trong luật quốc tế sẽ được lấp đầy bởi các nguyên tắc tồn tại trong tất cả
hoặc hầu hết hệ thống pháp lý của các quốc gia (các quy định cụ thể có thể khác nhau giữa các
quốc gia nhưng các nguyên tắc cơ bản thì thường giống nhau). Một số khác chỉ là áp dụng
logic thông thường quen thuộc của luật sư như nguyên tắc lex specialis và lex posterior. Tóm
lại, các nguyên tắc pháp luật chung có thể xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau và có nhiều biện
minh khác nhau cho việc sử dụng chúng như xuất phát từ các hệ thống pháp luật quốc gia, lOMoAR cPSD| 45734214
logics thông thường của luật sư hay đơn giản là hợp lý và dễ được chấp nhận để xử lý một vấn
đề pháp lý mới chưa rõ ràng.
Ví dụ về nguyên tắc pháp luật chung: nguyên tắc luật không có hiệu lực hồi tố, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau, gây thiệt hại thì bồi thường.
Hiệu lực ràng buộc:
Các nguyên tắc pháp luật chung có hiệu lực ràng buộc với tất cả các quốc gia, và không có
ngoại lệ. Cũng lưu ý rằng các nguyên tắc pháp luật chung khác với các nguyên tắc cơ bản của
luật quốc tế (fundamental principles of international law) như được ghi nhận trong Điều 2 Hiến
chương Liên hợp quốc và giải thích trong Nghị quyết 2625 năm 1970 của Đại hội đồng Liên
hợp quốc. Các nguyên tắc pháp luật chung là một nguồn của luật quốc tế; trong khi các nguyên
tắc cơ bản của luật quốc tế là một nhóm quy định có tầm quan trọng trong luật quốc tế. Các
nguyên tắc pháp luật chung có giá trị pháp lý và hiệu lực ràng buộc tự chính chúng, trong khi
các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế lại phụ thuộc vào nguồn mà các nguyên tắc này được
ghi nhận. Ví dụ nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng hay sử dụng vũ lực có giá trị pháp lý và ràng
buộc các quốc gia không phải là vì đây là một nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế mà vì nguyên
tắc này được quy định trong Hiến chương Liên hợp quốc (là một điều ước ràng buộc 194 quốc
gia) và là một quy định tập quán quốc tế (ràng buộc tất cả các quốc gia).
- Hành vi pháp lí đơn phương của quốc gia
+ Định nghĩa: hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia là hành vi pháp luật độc lập thể hiện
ý chí của một chủ thể luật quốc tế về cả hai phương diện hình thức và nội dung do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thực hiên, với mục đích tạo ra các kết quả nhất định trong các quan hệ quốc tế. Biểu hiện:
+ Hành vi công nhận là hành vi thể hiện minh thị hoặc mặc thị ý định xác nhận một tình hình
hoặc 1 yêu cầu nào đó là phù hợp với pháp luật và truyền thống của quốc gia, điển hình là hành
vi công nhận quốc gia mới.
+ Hành vi cam kết là hành vi tạo ra các nghĩa vụ mới bằng cách thức đơn phương chấp nhận
ràng buộc với một nghĩa vụ pháp lý vì quyền lợi của một chủ thể khác.
+ Hành vi phản đối là các thức để quốc gia thể hiện ý chí không công nhận một yêu cầu hoặc
một thái độ xử sự của chủ thể khác.
+ Hành vi từ bỏ là hành vi thể hiện ý chí độc lập của chủ thể tự nguyện từ bỏ các quyền hạn nhất định.
Hiệu lực ràng buộc:
+ Xuất phát từ hành vi đơn phương của 1 quốc gia chấp nhận sự ràng buộc khi thực hiện hành vi. lOMoAR cPSD| 45734214
Điểm đặt biệt là hiệu lực ràng buộc của các cam kết xuất phát từ hành vi pháp lý đơn phương
mang tính một chiều, theo đó, một quốc gia cam kết một nghĩa vụ cho chính mình trong quan
hệ với (các) quốc gia khác.
Ví dụ hành vi cam kết, hay tuyên bố 1 việc gì đó sẽ ràng buộc trách nhiệm pháp lý của quốc
gia đó với hành vi cam kết đó.
- Án lệ (Phán quyết của các cơ quan tài phán quốc tế) Định nghĩa
Án lệ là một nguồn bổ trợ của luật pháp quốc tế. Án lệ có thể là các phán quyết, lệnh hay quyết
định khác của cơ quan tài phán quốc tế hoặc cơ quan tài phán quốc gia. Khi luật quốc tế còn
chưa phát triển, các án lệ quốc gia thường được sử dụng. Tuy nhiên, đến hiện nay hầu hết các
án lệ được trích dẫn và sử dụng đều là án lệ của các cơ quan tài phán quốc tế.
Hiệu lực ràng buộc:
Án lệ không hiệu lực ràng buộc với các quốc gia, trừ các quốc gia là bên tham gia trong tiến
trình tố tụng đã đưa ra án lệ. Điều 59 Quy chế của Toà ICJ quy định một nguyên tắc chung có
thể áp dụng cho mọi các cơ quan tài phán khác: các quyết định của Toà chỉ ràng buộc các bên.
Như vậy, án lệ có hiệu lực ràng buộc và các quốc gia là bên trong vụ việc có nghĩa vụ phải tuân
thủ và tôn trọng các quyết định trong án lệ. Đối với các quốc gia khác, án lệ là nguồn bổ trợ
của luật pháp quốc tế. Mặc dù là nguồn bổ trợ nhưng không thẩm phán hay luật sư nào có thể
bỏ qua án lệ; một ý kiến được hàng loạt án lệ ủng hộ sẽ gần như không thể đi ngược lại một cách dễ dàng.
Sức nặng thực sự của án lệ nằm ở một yêu cầu pháp lý mang tính mệnh lệnh chung (a judicial
imperative) mà các cơ quan tài phán luôn công nhận – yêu cầu “phải thống nhất cao độ về án
lệ để không chỉ bảo đảm an ninh pháp lý mà con tránh bất kỳ sự nghi ngờ nào về sự tuỳ
tiện.”[29] Mặc khác, án lệ cũng không phải là không thể thay đổi, bởi vì “án lệ không phải bất
khả xâm phạm, và rằng Toà luôn có quyền thay đổi án lệ của mình nếu, một cách ngoại lệ, Toà
xét rằng có lý do xác đáng (compelling reasons) để làm như thế, ví dụ như do sự thay đổi trong
hoàn cảnh chung xung quanh một số giải pháp pháp lý nhất định.”[30]
Tính chất bổ trợ được hiểu là không chứa đựng trực tiếp các quy phạm luật pháp quốc tế mà là
chỉ dấu để xác định sự tồn tại của các quy phạm đó hoặc sử dụng để bổ trợ giải thích các quy
phạm. Đây là hai chức năng, hai cách sử dụng hay hai ý nghĩa của án lệ với tư cách là nguồn bổ trợ.
Trong các án lệ, thông thường sẽ có những phần các cơ quan tài phán đưa ra các tuyên bố chung
về luật (xác định sự tồn tại của một quy định tập quán, hay giải thích nội hàm của một quy định
luật), và những phần áp dụng luật vào thực tế của vụ việc. Cả hai phần này đều có giá trị tham
khảo. Đối với các tuyên bố chung về luật, đây là một căn cứ có sức nặng pháp lý để áp dụng
tương tự trong các vụ việc tương tự. Đối với phần áp dụng luật vào thực tế vụ việc, đây sẽ giúp lOMoAR cPSD| 45734214
hiểu thêm về việc cách thức luật vận hành trên thực tế hay nói cách khác một ví dụ về cá biệt
hoá quy phạm pháp luật vào một vụ việc cụ thể. Đây cũng là phần để ủng hộ hoặc phản bác
việc áp dụng các tuyên bố chung bề luật trong một án lệ vào một vụ việc bằng việc chỉ ra tính
chất tương tự hoặc không tương tự giữa hai vụ việc. Khi sử dụng án lệ, sức nặng của lập luận
sẽ được nâng cao khi tìm thấy nhiều án lệ trong đó các cơ quan tài phán có chung nhận định, cách tiếp cận.
Giữa các án lệ cũng có sức nặng khác nhau tuỳ thuộc cơ quan tài phán đưa ra án lệ đó. Án lệ
của các toà án thường trực thường có sức nặng hơn các án lệ của trọng tài ad hoc. Giữa các toà
án thường trực, có những toà án có uy tín hơn các toà khác trong từng lĩnh vực chuyên môn
của mình. Yếu tố nữa tác động vào sức nặng của một án lệ là ý kiến của các quốc gia và giới
học giả. Chính họ sẽ có những nhận định quyết định chung về sức nặng lâu dài của án lệ. Có
những án lệ đã và sẽ được trích dẫn lại nhiều lần (ví dụ như phán quyết của Toà PCIJ năm 1927
trong Vụ Mavromatis Palestine Concession về định nghĩa tranh chấp), nhưng cũng sẽ có những
án lệ mà việc trích dẫn lại chỉ để bác bỏ (ví dụ như Phán quyết về thẩm quyền của Toà trọng
tài theo Phụ lục VII năm 2000 trong Vụ Cá ngừ vây xanh phía nam về giải thích Điều 282 UNCLOS).[31]
Đối với các luật sư và học giả, khi nghiên cứu án lệ, họ còn mở rộng ra các văn bản liên quan
khác trong vụ việc như bản tranh tụng của các bên, ý kiến riêng của các thẩm phán, hay báo
cáo của chuyên gia độc lập. Việc nghiên cứu này có thể là gợi ý thú vị có thể hữu ích trong các vụ việc tương lai.
Án lệ là một nguồn bổ trợ của luật pháp quốc tế. Án lệ có thể là các phán quyết, lệnh hay quyết
định khác của cơ quan tài phán quốc tế hoặc cơ quan tài phán quốc gia. Khi luật quốc tế còn
chưa phát triển, các án lệ quốc gia thường được sử dụng. Tuy nhiên, đến hiện nay hầu hết các
án lệ được trích dẫn và sử dụng đều là án lệ của các cơ quan tài phán quốc tế. - Ý kiến học giả
+ Gồm các ý kiến của các học giả uy tín cao nhất trong lĩnh vực pháp lý liên quan
+ Không có danh sách các học giả uy tín cao, có thể là luật sư, thẩm phán, những tên tuổi nổi
tiếng mà không thể không nhắc đến (hiểu ngầm định)
+ Đôi khi các nhóm, tổ chức, cơ quan chuyên môn cũng được xếp vào nhóm học giả này. Ví
dụ: các dự thảo kèm thuyết minh của Uỷ ban Luật pháp Quốc tế của Liên hợp quốc (ILC),
các khuyến nghị về của các uỷ ban do các công ước nhân quyền đa phương thành lập, hay các
công trình của Uỷ ban Chữ thập đỏ Quốc tế (ICRC). Các nhóm, tổ chức hay cơ quan này bao
gồm các chuyên gia, học giả mà không phải đại diện ngoại giao của các nước.
Hiệu lực ràng buộc:
+ Không có hiệu lực ràng buộc bởi đây là ý kiến của cá nhân hoặc 1 nhóm chuyên gia
+ Có sức nặng pháp lý kém hơn so với án lệ nhưng thương phong phú, bao quát hơn Tuy nhiên
trên thực tế, rất hiếm khi các cơ quan tài phán trích dẫn ý kiến học giả mặc dù họ có sử dụng!