














Preview text:
lOMoAR cPSD| 22014077
CÂU HỎI VẬN DỤNG TTHCM
Câu 1: Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại vận dụng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam hiện nay.
*Bối cảnh thời đại hiện nay có mấy đặc điểm nổi bật sau: -
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ tiến triển với tốc độ cao đặt ra cho các quốc gia
phải có chiến lược phát triển thích ứng, không thể đứng biệt lập ngoài quá trình vận động của thế giới. -
Tính toàn cầu hoá, quốc tế hoá của lực lượng sản xuất diễn ra nhanh chóng. Sự phân
công lao động quốc tế diễn ra sâu sắc, làm cho các dân tộc phải hoà nhập, tham gia vào quá trình phân công đó. -
Nhiều vấn đề mang tính quốc tế đòi hỏi loài người phải hợp tác với nhau để giải
quyết bản thân từng quốc gia không thể giải quyết được như bệnh tật, ô nhiễm môi trường, bùng nổ dân số,... -
Hệ thống XHCN sụp đổ đã tác động không thuận đến phong trào cộng sản quốc tế và
cách mạng Việt Nam. CNĐQ nhân cơ hội đó tiến hành ráo riết việc chống phá cách mạng
Việt Nam bằng "diễn biến hoà bình" và bạo loạn lật đổ. Đấu tranh dân tộc và giai cấp vẫn
diễn ra quyết liệt với những hình thức, biểu hiện mới trên phạm vi thế giới và khu vực. * Thách thức
Quá trình hội nhập nảy sinh nhiều thuận lợi, nhưng cũng lắm nguy cơ, thách thức: nguy cơ
"diễn biến hoà bình", sự xâm nhập của các yếu tố phản văn hoá dân tộc, sự cạnh tranh gay gắt
trên lĩnh vực kinh tế... Nhận thức rõ thời cơ và nguy cơ, Đảng ta xác định các nguyên tắc,
quan điểm chỉ đạo chính sách đối ngoại là: Thực hiện nhất quán chính sách đối ngoại độc lập,
tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.
- Tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau; hợp tác bình đẳng, cùng có lợi; giải quyết các vấn đề tồn tại và tranh chấp bằng thương lượng hoà bình.
- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, huy động mạnh mẽ nội lực đồng thời
tranhthủ các nguồn lực từ bên ngoài, tạo nên và phát huy sức mạnh tổng hợp trên mặt trận
đối ngoại. Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính kết hợp nhuần nhuyễn với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Từ các quan điểm đó, Đảng ta đã vạch rõ phương châm chỉ đạo hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
- Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế
XHCN. Lợi ích tối cao, chân chính nhất của Đảng ta, dân tộc ta là xây dựng thành công
CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN. Tận dụng các yếu tố thời đại để phát triển nền
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh. Tiến hành thắng lợi sự nghiệp cách mạng của dân tộc là đã đóng
góp vào sự lớn mạnh của cách mạng thế giới. lOMoAR cPSD| 22014077
- Giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ
quốc tế. Việc giữ vững độc lập dân tộc bao hàm nhiều lĩnh vực về chính trị, kinh tế, quốc
phòng, văn hoá. Độc lập, tự chủ là cơ sở cho sự mở rộng giao lưu, thực hiện đa dạng hoá, đa
phương hoá trong quan hệ đối ngoại; đồng thời hợp tác, liên kết quốc tế mở rộng sẽ tạo tiền
đề củng cố độc lập dân tộc.
- Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu trạnh trong khi mô rộng quan hệ quốc tế. Vì CNĐQ vẫn
không ngừng tấn công vào cách mạng nước ta bằng mọi thủ đoạn. Trong khi mở rộng quan
hệ quốc tế không chỉ nhìn nhận một mặt hợp tác mà phải đấu tranh để bảo vệ lợi ích dân tộc,
lợi ích giai cấp. Đấu tranh không đi đến thủ tiêu hợp tác mà nhằm bảo đảm phạm vi hợp tác
ngày càng mở rộng và thực hiện đúng nguyên tắc chiến lược cách mạng.
- Coi trọng tham gia, mở rộng hợp tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các
nướctrên thế giới. Hợp tác khu vực được đẩy mạnh là nhằm tăng cường quan hệ thân thiện,
hiểu biết lẫn nhau, tạo tiền đề xây dựng khu vực hoà bình, ổn định và phát triển. Chủ trương
giải quyết mọi tranh chấp trong khu vực, trên thế giới bằng thương lượng hoà bình, tạo bầu
không khí chính trị ổn định, thêm bạn bớt thù, mở rộng thị tlường thế giới.
Câu 2: Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về nhà nước của dân do dân vì dân trong
xây dựng nhà nước Việt Nam hiện nay.
Từ những quan điểm trên, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân chủ là một giá trị, nói như Hồ
Chí Minh: “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân”5. Rõ ràng, dân chủ trong tư tưởng Hồ
Chí Minh luôn là một giá trị cao quý, một mục tiêu cao quý của sự nghiệp cách mạng của dân
tộc Việt Nam, đặc biệt tư tưởng đó có ý nghĩa hết sức quan trọng định hướng cho việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay.
*Bối cảnh hiện nay
Sau hơn 35 tiến hành đổi mới đất nước với những thành tựu nổi bật đã chứng minh một cách
thuyết phục về việc thực hành dân chủ trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là yêu
cầu mang tính khách quan, nhằm đảm bảo quyền lực nhà nước được kiểm soát bằng nhiều cơ
chế khác nhau để tránh những nguy cơ xâm phạm đến quyền tự do, dân chủ của người dân.
Các quyền tự do của người dân được ghi nhận trong Hiến pháp và được cụ thể hóa trong các
văn bản luật khác, đồng thời được đảm bảo thực hiện trên thực tế bằng nhiều biện pháp khác nhau.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”6.
Để tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay, thời gian tới cần quán triệt và thực hiện tốt một số nội dung cốt yếu sau đây:
Một là, thực hiện nhất quán mục tiêu tôn trọng, bảo vệ, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, tất cả vì độc lập dân tộc, dân chủ, tự do, hạnh phúc của nhân dân
Hai là, phát huy vai trò lãnh đạo và đổi mới phương thức cầm quyền, lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân
Ba là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đi đôi với chú trọng đây mạnh giáo dục
đạo đức, đề phòng, khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước
Bốn là, không ngừng nâng cao trình độ dân trí, đồng thời có chính sách thỏa đáng để chăm
lo đời sống cho Nhân dân
Năm là, chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức
trong các cơ quan quyền lực của Nhà nước
Câu 3: Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây
dựng Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay. lOMoAR cPSD| 22014077
Nghị quyết số 04-NQ/TW khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa" trong nội bộ” đã nêu một trong những nguyên nhân của hạn chế, yếu kém về xây
dựng Đảng là: “Nguyên tắc tập trung dân chủ ở nhiều nơi bị buông lỏng; nguyên tắc tự phê
bình và phê bình thực hiện không nghiêm, chưa có cơ chế để bảo vệ người đấu tranh phê bình”.
* Bối cảnh hiện nay:
Trong những năm qua, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ đã được Đảng bộ VKSND
tỉnh chấp hành nghiêm túc, đạt nhiều kết quả tích cực, thể hiện ở một số nội dung như:
Thứ nhất, đội ngũ đảng viên, công chức thường xuyên được quan tâm củng cố, kiện toàn đủ
số lượng, đảm bảo đủ phẩm chất năng lực, được bồi dưỡng, tập huấn, tích cực rèn luyện phương
pháp tác phong công tác, thực hiện đúng nhiệm vụ, chức trách được giao, phục tùng sự lãnh
đạo của tổ chức đảng.
Thứ hai, Đảng bộ, các chi bộ trực thuộc đã phát huy tốt trí tuệ tập thể và đề cao trách nhiệm cá
nhân trong hoạt động lãnh đạo. Việc tiến hành sinh hoạt Đảng nghiêm túc, đúng quy định đã
đề cao ý thức trách nhiệm và tính tích cực của các cấp uỷ viên, đảng viên, tạo điều kiện để phát
huy trí tuệ, kinh nghiệm của mọi đảng viên trong công tác lãnh đạo của Đảng ủy, chi bộ.
Thứ ba, cấp ủy các chi bộ đã tích cực nắm chắc tình hình, xây dựng kế hoạch, xác định mục
tiêu, giải pháp, tăng cường kiểm tra, chỉ đạo thực hiện nghị quyết. Cấp ủy chi bộ làm tốt công
tác phân công thực hiện nghị quyết cho từng đảng viên, tổ chức kiểm tra, giám sát việc thực
hiện nghị quyết tại chi bộ, đơn vị mình.
Thứ tư, các cấp ủy, chi bộ đều có quy chế làm việc, nội dung quy chế ngày càng chặt chẽ, xác
định rõ trách nhiệm của người đứng đầu và mối quan hệ giữa tập thể cấp ủy, tổ chức đảng với
người đứng đầu, bảo đảm thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách, đi đôi với phát huy vai trò, trách nhiệm, tính chủ động của người đứng đầu và cơ chế xử
lý đối với người đứng đầu khi vi phạm.
Nhờ thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ mà hằng năm có trên 90% chi bộ trực thuộc
được xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ, không có chi bộ yếu kém; trên 95% đảng viên hoàn
thành tốt nhiệm vụ, trong đó có 20- 22% đạt xuất sắc. Nhiều năm liên tục, Đảng bộ VKSND
tỉnh Thanh Hoá đều được Đảng uỷ Khối công nhận là Đảng bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
tiêu biểu và được biểu dương, khen thưởng, được Ban Thường vụ Tỉnh ủy tặng Bằng khen. * Thách thức
Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những hạn chế, yếu kém cần được khắc phục, đó là,
một một số đảng viên, kể cả đảng viên là cấp ủy viên còn nhận thức chưa đầy đủ, sâu sắc về
yêu cầu, nội dung nguyên tắc tập trung dân chủ và việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ,
ảnh hưởng đến hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, xác định chưa chính xác, đầy đủ chức năng, nhiệm
vụ dẫn đến hiện tượng bao biện, làm thay, chồng chéo lẫn nhau. Việc nâng cao chất lượng thực
hiện nguyên tắc chưa thường xuyên, chưa gắn chặt với việc thực hiện nghị quyết của chi bộ,
nhiệm vụ chính trị của đơn vị; chất lượng sinh hoạt chi bộ còn có những hạn chế, nội dung sinh
hoạt chưa phong phú, việc tổ chức sinh hoạt chuyên đề chưa nhiều, chất lượng chưa cao. Việc
phát huy vai trò của tập thể cấp ủy cũng như trách nhiệm cá nhân của một số cấp ủy viên còn
chưa đầy đủ; việc phân công trách nhiệm cá nhân phụ trách ở một số cấp ủy chưa thật rõ ràng,
cụ thể, còn biểu hiện chung chung.
Những hạn chế, yếu kém trên là do công tác lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ của BCH Đảng bộ có lúc chưa kịp thời, chưa quyết liệt ; ý
thức trách nhiệm, năng lực của một số cấp ủy viên còn hạn chế...
* Những vấn đề đặt ra và giải pháp
Trong thời gian tới, để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu sau: lOMoAR cPSD| 22014077
Thứ nhất, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về nguyên tắc tập trung dân chủ trong
Đảng; đấu tranh chống những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận nguyên tắc này. Nguyên tắc tập
trung dân chủ phải được thực hiện theo đúng Điều lệ Đảng và trong mối quan hệ đồng bộ với
các nguyên tắc khác, như tự phê bình và phê bình, đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Đối với
ngành Kiểm sát nhân dân phải kết hợp nguyên tắc tập trung dân chủ với nguyên tắc tập trung
thống nhất và các nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để tổ chức
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, quy chế hóa nguyên tắc tập trung dân chủ trong từng
mặt công tác xây dựng Đảng. Rà soát, sửa đổi, bổ sung quy chế làm việc cho phù hợp, bảo đảm
đồng bộ, thống nhất và liên thông với quy chế làm việc của cấp ủy cấp trên và quy định của ngành.
Thứ ba, mở rộng dân chủ đi đôi với củng cố, tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong Đảng. Phát
huy thật sự mạnh mẽ dân chủ, trước hết là bảo đảm thực hiện các quyền của đảng viên, nhất là
quyền được thảo luận, chất vấn, phê bình, thông tin, bảo lưu ý kiến. Đồng thời, với mở rộng
dân chủ, phải củng cố, tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong Đảng. Mọi tổ chức đảng và đảng
viên phải nghiêm túc chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nói và làm theo nghị quyết của Đảng.
Thứ tư, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
trong Đảng. Xử lý nghiêm, kịp thời những tổ chức đảng và đảng viên vi phạm nguyên tắc tập
trung dân chủ, vi phạm Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, những hành vi dung túng, bao che cho khuyết điểm, vi phạm của tổ
chức đảng và đảng viên; công khai kết quả xử lý. Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu
cấp ủy, tổ chức đảng trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao và việc
giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống...
Thứ năm, đề cao, phát huy vai trò của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt trong việc áp dụng
nguyên tắc tập trung dân chủ, đi đôi với giữ vững và chủ động, tích cực phòng, chống tình
trạng xa rời nguyên tắc này. Làm rõ trách nhiệm cá nhân người đứng đầu, cán bộ chủ chốt
trong thực hiện trách nhiệm nêu gương, nhất là thực hiện các nguyên tắc tập trung dân chủ,
tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình. Có cơ chế khuyến khích và bảo
vệ những người có tư duy sáng tạo, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung./.
Câu 4: Vận dụng chuẩn mực đạo đức tr ung với nước hiếu với dân trong xây dựng và rèn
luyện đạo đức cán bộ, đảng viên.
*Bối cảnh hiện nay( thời cơ, thách thức giống với mấy câu kia)
Trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có nhiều biến động, tác động nhiều chiều đến
tâm tư, tình cảm, niềm tin của người cán bộ, đảng viên, việc cán bộ, đảng viên học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Trước hết, cán bộ, đảng viên thực hiện “trung với nước, hiếu với dân” với các nội dung sau:
Trung với nước phải thể hiện ở sự trung thành tuyệt đối với lợi ích của đất nước, của
nhân dân, của Đảng, của tổ chức mà mình tham gia.
Một là phải có niềm tin tuyệt đối vào lý tưởng của Đảng và phấn đấu cho mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Người cán bộ, đảng viên cần xây dựng niềm tin vào sức mạnh của dân tộc, vào sự lãnh đạo của
Đảng, vào khả năng của mỗi con người để từ đó phát huy tinh thần tự lực, tự cường, tự chủ của
cả dân tộc. Niềm tin đó phải được bồi dưỡng thường xuyên trên cơ sở khoa học và thực tiễn để
trở thành niềm tin khoa học mang tính bền vững. Niềm tin đó là cơ sở cho sự trung thành đối
với đất nước, dân tộc, đối với Đảng của cán bộ, đảng viên.
Hai là, cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, nghiêm túc thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, nội quy, quy định của cơ quan, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. lOMoAR cPSD| 22014077
Mỗi cán bộ, đảng viên là một mắt xích trong hệ thống chính trị, thực hiện nhiệm vụ mà tổ chức
giao. Vì vậy, cán bộ, đảng viên cần ý thức về vị trí, vai trò của mình trong hệ thống để thực
hiện nhiệm vụ một cách nghiêm túc, trách nhiệm, chuẩn mực, đúng luật, đúng với quy định của tổ chức.
Ba là, cán bộ, đảng viên phải luôn quan tâm, bảo vệ lợi ích của đất nước, của tổ chức mình tham gia.
Bởi lợi ích chung được bảo đảm thì lợi ích của bộ phận, cá nhân mới được bảo đảm. Phải luôn
đặt việc công lên trên việc tư, luôn quy chiếu lời dạy của Hồ Chí Minh: “Việc thiện thì dù nhỏ
mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh”(15). Giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể
luôn phải cân bằng, bảo đảm lợi ích chung và xem xét những lợi ích cá nhân có chính đáng hay
không; tránh tư thù, tư lợi, bè phái, trù dập; vì cảm tình riêng, lợi ích riêng mà gây ra bất bình
đẳng, bất công trong cơ quan, đơn vị.
Hiếu với dân trong điều kiện hiện nay là tôn trọng nhân dân, chăm lo lợi ích cho
nhân dân, đặc biệt là không ngừng mở rộng dân chủ nhằm phát huy sức mạnh của nhân dân. -
Cán bộ, đảng viên muốn hoàn thành nhiệm vụ được giao thì phải dựa vào dân, phát
huy sức mạnh của nhân dân. Muốn vậy, phải biết gần dân, hiểu dân, lắng nghe ý kiến của
nhân dân, liên hệ mật thiết với nhân dân, làm lợi cho dân. Ngoài phục vụ nhân dân, cán bộ,
đảng viên còn cần thể hiện thái độ khiêm tốn, thật thà đối với nhân dân. -
Mở rộng dân chủ là nội dung cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, là mục tiêu,
động lực của công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước, được Đảng, Nhà nước luôn rất quan tâm.
Mở rộng dân chủ là phương pháp để người dân ý thức tự nâng cao trình độ, nâng cao sự hiểu
biết và tích cực, chủ động tham gia phản biện, giám sát Nhà nước. Vì vậy, càng đòi hỏi đội ngũ
cán bộ, công chức, đảng viên phải phục vụ người dân đúng chức trách, phải tuân thủ những
chuẩn mực của đạo đức công vụ, phải tận tâm, tận lực. Mở rộng dân chủ cũng tạo điều kiện
tăng cường đoàn kết toàn dân, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. -
Cán bộ, đảng viên cần coi mục tiêu chăm lo lợi ích cho nhân dân, làm lợi cho nhân
dân là mục tiêu lớn nhất trong công việc của mình. Bởi nhân dân là nguồn lực xã hội mang
lại lợi ích chung cho toàn xã hội. Là những người có kiến thức khoa học, hiểu biết pháp luật,
cán bộ, đảng viên cần chủ động hướng dẫn nhân dân học tập, lao động, sản xuất, xây dựng đời
sống hạnh phúc, giàu mạnh và phát triển.
-Cán bộ, đảng viên cần đi đầu trong hoạt động đền ơn, đáp nghĩa đối với những người
có công với cách mạng, với đất nước, quê hương, thể hiện sự tiếp nối truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
“Trung với nước, hiếu với dân” không chỉ là trách nhiệm mà còn là đạo lý của cán bộ, đảng
viên. Cán bộ, đảng viên phải chủ động, sáng tạo, hết lòng, hết sức làm tròn những việc được
giao, nếu không làm tốt thì phải chịu trách nhiệm về những hậu quả của việc đó. Cán bộ, đảng
viên thực hành đạo đức “trung với nước, hiếu với dân” là làm đúng đường lối của Đảng, quy
định của pháp luật; làm đúng với đạo lý uống nước nhớ nguồn, mang lại lợi ích cho bản thân
và cộng đồng. Thực hiện “trung với nước, hiếu với dân”, cán bộ, đảng viên, cán bộ chiến sĩ lực
lượng vũ trang “sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”(16).
Câu 5: Vận dụng chuẩn mực đạo đức cần, kiệm, liêm, chính trong xây dựng và rèn luyện
phẩm chất sinh viên hiện nay.
* Bối cảnh hiện nay và thời cơ thách thức đặt ra -
Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, những định hướng giáo dục về đức liêm, chính cũng như
những cảnh báo về sự bất liêm, bất chính, tha hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên
trong tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn, vẫn mang tính
thời sự và đậm chất nhân văn. lOMoAR cPSD| 22014077 -
Điều đó càng có ý nghĩa đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi nền kinh tế thị trường
đang diễn ra sôi động với đầy rẫy những cám dỗ về vật chất, tiền bạc cũng như sự du nhập của
không ít yếu tố văn hóa ngoại lai, trong đó có lối sống ưa hưởng thụ, ham muốn quyền lực, xa
hoa, phô trương, hình thức...
-Trong bối cảnh đó, nếu đội ngũ cán bộ, đảng viên không thực sự tu dưỡng, rèn luyện bản lĩnh,
đạo đức cách mạng, không thường xuyên thực hành liêm, chính thì dễ dẫn đến suy thoái, biến
chất, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đánh mất sự trong sạch của hệ thống chính trị và làm suy
giảm uy tín, năng lực, đạo đức, sức chiến đấu của bản thân cán bộ, đảng viên cũng như bản chất
tốt đẹp của một chính đảng cách mạng tiên phong.
Chính vì lẽ đó, thấm nhuần và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, nhất là
sự liêm, chính của cán bộ, đảng viên, Đảng ta luôn đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi
trọng việc tu dưỡng đạo đức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; yêu cầu nghiêm túc thực hành
“cần, kiệm, liêm, chính”, nhằm giữ gìn sự tôn nghiêm, uy tín của Đảng, của đội ngũ cán bộ,
đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp.
Muốn thực hiện được những định hướng đó nhằm mục tiêu xây dựng Đảng và hệ thống chính
trị trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới, thì việc xây dựng
phẩm chất liêm, chính cho đội ngũ cán bộ, đảng viên là vấn đề trọng tâm, mang tính quyết định
và cần phải chú trọng trên các phương diện cụ thể sau: -
Thứ nhất, Đảng phải đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục ý thức thực hành đạo
đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bằng mọi cách phải nhen lên trong họ khát
vọng cao cả, giúp họ nhận ra rằng “sinh hoạt vật chất, hết thời người đó là hết. Còn tiếng tăm
xấu hay tốt, sẽ truyền đến ngàn đời sau”. Cũng phải giúp cán bộ nhận ra rằng nếu người cán bộ
giữ được đạo đức thì chính họ, con cái họ, gia đình họ mới được hưởng “phúc phận” lâu bền.
Ngược lại, nếu làm những việc phi pháp “khi lộ ra, bị phạt, thì mất hết cả danh giá, mà của phi
nghĩa đó cũng không được hưởng”. -
Thứ hai, toàn Đảng phải thực hiện tốt chỉ thị 05 của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy
mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” theo hướng cụ
thể hóa,“thời sự hóa” các chuẩn mực cần, kiệm, liêm, chính vào hoàn cảnh hiện nay.
Giải pháp này rất quan trọng vì phần lớn cán bộ, đảng viên đều nhận ra giá trị to lớn trong đạo
đức Hồ Chí Minh nhưng lại khá lúng túng trong việc “chuyển thể” những phẩm chất đó vào
thực tiễn. Do đạo đức là một phạm trù lịch sử, nó vừa biến đổi cùng thời đại, vừa giữ lại những
đặc tính vĩnh hằng nên thiết tưởng chúng ta có thể vận dụng tư tưởng cần, kiệm, liêm, chính
của Hồ Chí Minh theo các hướng sau đây:
Học chữ CẦN của Hồ Chí Minh thì cán bộ, đảng viên vừa phải siêng năng làm việc vừa phải
chú trọng năng suất và chất lượng công việc. Tính hiệu quả mới là thước đo sự cần cù của mỗi
con người chứ “ăn cơm chúa, múa tối ngày” một cách thụ động chưa phải là Cần. Cán bộ cũng
phải noi theo tấm gương tự học suốt đời của Hồ Chí Minh - một người chỉ có bằng Tiểu học,
17 tuổi mới nhìn thấy điện đầu tiên, 29 tuổi mới được nghe radiô mà đã trở thành danh nhân
văn hóa thế giới. Với người cán bộ, cần học và cần chính hòa quyện làm một. Học để làm
gương cho dân và để có đủ tri thức, kỹ năng phục vụ nhân dân.
Học chữ KIỆM của Hồ Chí Minh thì người cán bộ phải có ý thức tiết kiệm từ việc lớn đến việc
nhỏ; phải hết sức tránh mọi sự xa hoa, hình thức, căn bệnh “phú quý sinh lễ nghĩa” và tư tưởng
“nước sông, công lính”. Cán bộ cũng phải biết tổ chức công việc hợp lý để khỏi lãng phí thời
gian và nhân lực; phải thực hiện phương châm “nói ít làm nhiều”, chủ yếu là hành động.
Học chữ LIÊM của Hồ Chí Minh thì cán bộ nhất thiết phải “nói không với tham nhũng” và kiên
quyết chống tham nhũng. Muốn vậy thì trước hết chúng ta phải nhớ rằng: Hồ Chí Minh gọi lOMoAR cPSD| 22014077
tham ô là “giặc nội xâm”. Bây giờ chúng ta chỉ gọi là “quốc nạn”. Hai cách gọi khác nhau đã
thể hiện hai mức độ phản ứng khác nhau. Chống “giặc” thì nguy cấp và phải kiên quyết hơn
nhiều so với chống “nạn”. Phải chăng là chúng ta chưa đủ kiên quyết, mới “đánh ví dụ”, mới
“bắn chỉ thiên” nên càng đánh thì tình trạng tham nhũng lại “ngày càng ổn định và đi vào chiều sâu”?
Thực hiện chữ CHÍNH của Hồ Chí Minh thì người cán bộ phải có thái độ rõ ràng trước cái
thiện và cái ác, phải có dũng khí để bảo vệ cái tốt, lên án cái xấu. Hiện nay công tác bổ nhiệm,
tuyển dụng cán bộ có rất nhiều vấn đề nên cán bộ, đảng viên phải kiên quyết chống lại căn bệnh
“cánh hẩu”, “con ông cháu cha”, dùng người nhà chứ không dùng người tài ở cơ quan và địa
phương mình. Không phải vô tình mà Luật Hồi Tỵ của thời phong kiến đã quy định: Những
người thân như anh em, cha con, thầy trò... không được làm quan ở cùng một chỗ. Sinh thời,
Hồ Chí Minh thường phê phán loại người hay xu nịnh, “theo gió bẻ buồm”, mất hết cả khí khái
và lòng tự trọng nên học chữ CHÍNH của Hồ Chí Minh thì cán bộ phải đẩy mạnh công tác tự
phê bình và phê bình trên tinh thần “dĩ công vi thượng”. -
Thứ ba, phải nâng cao trách nhiệm và sự gương mẫu của người đứng đầu. Văn hóa
phương Đông luôn đề cao lý tưởng “vua sáng, tôi hiền”, niềm tin của cán bộ, nhân dân vào
chính thể luôn gắn liền với niềm tin vào người đứng đầu nên việc chỉnh đốn đạo đức trong
Đảng không thể tách rời việc đề cao trách nhiệm của người “cầm cân, nảy mực”. Nghị quyết
05 của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh” cũng đề ra nguyên tắc thực hiện là “trên trước, dưới sau”. Tất cả đều đòi
hỏi người đứng đầu phải làm gương cả trong công việc lẫn đời tư. Mặt khác, nếu người đứng
đầu không công minh, chính trực thì mọi quy trình, nguyên tắc đều trở nên vô giá trị hoặc bị
bóp méo. Điều này cũng hết sức nguy hiểm. Tuy nhiên, muốn người đứng đầu làm tốt bổn phận
của mình thì phải cụ thể hóa các quy định về quyền hạn, trách nhiệm của họ cũng như phải tăng
cường sự giám sát quyền lực. -
Thứ tư, phải siết chặt kỷ luật Đảng, kỷ cương hành chính và làm tốt công tác thanh
tra. Chúng ta phải nhận thức rõ: Siết chặt kỷ luật trong Đảng không phải là kỷ luật thật nhiều
đảng viên mà chủ yếu để nâng cao tinh thần, ý thức chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng và
luật pháp của nhà nước của mỗi đảng viên. Bên cạnh đó, công tác kỷ luật Đảng phải hết sức
nghiêm minh, cán bộ càng có trọng trách cao thì càng phải có ý thức chấp hành kỷ luật Đảng
và khi vi phạm thì họ phải bị xử lý nghiêm khắc hơn những cán bộ, đảng viên thường của Đảng.
Phải kiên quyết miễn nhiệm, thay thế, cho từ chức hoặc buộc từ chức đối với những cán bộ làm
việc kém hiệu quả, có dấu hiệu bất liêm, có phiếu tín nhiệm thấp mà không chờ hết nhiệm kỳ,
hết tuổi công tác. Phải xây dựng và thực hành văn hóa từ chức theo nguyên tắc “làm được việc
thì ở, không làm được việc thì lui”.
Cũng phải xây dựng đội ngũ cán bộ thanh tra, tư pháp đủ đức, đủ tài. Sự tha hóa của chính
quyền sẽ đến độ đỉnh điểm nếu những người bảo vệ pháp luật lại là những người phạm luật,
phá luật. Phải xây dựng được đội ngũ cán bộ thanh tra, tư pháp “chí công vô tư, không thiên vị,
không thành kiến”, biết nói “không” với phong bì “lót tay”.
Thứ năm, phải nâng cao vai trò giám sát của nhân dân. Thực hiện lời căn dặn của Hồ Chí
Minh, rằng phải “dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức ta”, ngày nay
các cấp ủy đảng phải thực hiện có nền nếp và nghiêm túc việc lấy ý kiến phê bình của quần
chúng. Đối với những ý kiến đúng thì phải tiếp thu, sửa chữa. Đối với những ý kiến chưa đúng
thì giải thích cho nhân dân hiểu. Phải tạo cơ chế để nhân dân tích cực và yên tâm thực hiện vai
trò giám sát của mình mà không sợ bị trả thù, trù úm.
Tóm lại, để chỉnh đốn Đảng về phương diện đạo đức thì cần có một hệ thống giải pháp đồng
bộ, nhưng chủ trương, chính sách nào thì cũng phụ thuộc vào người thi hành nên cuối cùng, tất
cả lại trở về vấn đề mấu chốt là vấn đề cán bộ. lOMoAR cPSD| 22014077
Câu 6: Vận dụng chuẩn mực đạo đức yêu thương con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh
để xây dựng và rèn luyện đạo đức hiện nay. Câu 7: Có rồi
Câu 8:Vận dụng các nguyên tắc xây dựng đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh để xây
dựng và hoàn thiện đạo đức của người giáo viên hiện nay.
* Bối cảnh (giống các câu trên) * Thời cơ
Thấm nhần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phần lớn đoàn viên thanh niên tỉnh có bản lĩnh
chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu con đường mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân
dân ta đã lựa chọn. Nêu cao trách nhiêm, tích cực ṛ èn luyên trong học tập chuyên môn, nghiệ
p ̣ vụ, trau dồi phẩm chất đạo đức, thực hành dân chủ, tôn trọng pháp luât, tḥ ực hiên ngḥ ị quyết.
Các cấp bộ Đoàn từ tỉnh đến cơ sở kế thừa, vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh
trong việc giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, đáp ứng với đòi hỏi của tình hình cách
mạng đặt ra ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ khác nhau. Như vậy, thông qua việc giáo dục, rèn
luyện đạo đức cách mạng đã góp phần nâng cao nhận thức, tình cảm, lý tưởng cách mạng, đạo
đức lối sống, văn hóa cho đoàn viên thanh niên tỉnh Bạc Liêu. * Thách thức
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được đoàn viên thanh niên tỉnh Bạc Liêu vẫn
còn một số hạn chế: sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của một số cá nhân; vai trò tiền phong
gương mẫu của người đoàn viên thanh niên chưa thể hiện rõ; số ít đoàn viên chưa tích cực tham
gia vào các phong trào đoàn; việc nắm bắt tâm tư nguyện vọng của đoàn viên thanh niên còn
chậm; nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức cho đoàn viên thanh niên thời gian qua chưa
phong phú, đa dạng, chưa chú trọng đến nội dung, chưa đi sâu vào những vấn đề cần tập trung
giáo dục cho đoàn thanh niên như: tình yêu thương với quê hương, đất nước; tinh thần và gan
dạ sáng tạo, có chí khí hăng hái và tinh thần tiến lên, vượt mọi khó khăn, gian khổ để tiến mãi
không ngừng như lời Hồ Chí Minh căn dặn. Đồng thời do mặt trái của nền kinh tế thị trường,
những âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch đang tác động mạnh mẽ đến đối tượng thanh
niên, khiến cho không ít người chạy theo lối sống thực dụng, sa ngã, hư hỏng, xa rời các giá trị
đạo đức tốt đẹp của dân tộc, có thái độ thờ ơ, bàng quan trước các sự kiện kinh tế, chính trị của
đất nước nói chung, tỉnh nói riêng.
Để thực hiện có hiệu quả việc giáo dục đạo đức, lối sống cho đoàn viên thanh niên
trong giai đoạn hiện nay trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu theo lời dạy của Chỉ tịch Hồ Chí Minh, cần
thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau đây:
Một là, tổ chức giáo dục, nâng cao nhận thức, xây dựng niềm tin vào các giá trị, chuẩn
mực đạo đức cho đoàn viên thanh niên.
Tổ chức giáo dục nâng cao nhận thức, xây dựng niềm tin vào các giá trị chuẩn mực đạo
đức là vấn đề quan trọng và cần thiết để từ đó đoàn viên tự giác tiếp nhận các tác động giáo
dục, tự tu dưỡng, tự rèn luyện để hình thành phẩm chất đạo đức, có đủ khả năng tự điều chỉnh
hành vi của bản thân theo yêu cầu của các lực lượng giáo dục.
Để tổ chức tốt việc nâng cao nhận thức, xây dựng niềm tin vào các giá trị, chuẩn mực
đạo đức cho đoàn viên thanh niên các lực lượng giáo dục phải xây dựng kế hoạch một cách
khoa học và có tính khả thi. Trong quá trình thực hiện kế hoạch giáo dục phải kịp thời điều
chỉnh, bổ sung những nội dung mới cho phù hợp với điều kiện, nhiệm vụ giáo dục đào tạo.
Thường xuyên quan tâm đến điều kiện cũng như môi trường học tập, làm việc của đoàn viên
thanh niên để nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng, những khó khăn của đoàn viên thanh niên
mà có sự định hướng, hỗ trợ khi cần thiết và kịp thời. lOMoAR cPSD| 22014077
Hai là, giáo dục thông qua nêu gương người tốt, việc tốt trong chính đội ngũ đoàn viên
thanh niên và gương tốt của người lớn, đặc biệt là cha, mẹ, thầy, cô.
Thông qua việc nêu gương sáng, gương điển hình tiên tiến trong đoàn viên thanh niên
có thành tích cao trong học tập, lao động… để các đoàn viên thanh niên làm theo. Việc nêu
gương tốt, gương điển hình góp phần xây dựng môi trường sống lành mạnh, tiến bộ, tạo điều
kiện thuận lợi cho đoàn viên thanh niên rèn luyện nhân cách, đạo đức, lối sống. Bên cạnh giáo
dục nhân cách, đạo dức cho đoàn viên thanh niên qua gương sáng trong xã hội, trong nhà trường,
trong tổ chức đoàn thì gương sáng của những người trực tiếp làm công tác giáo dục có ảnh
hưởng rất lớn đến người được giáo dục. Vì thế, ông, bà, cha, mẹ, thầy, cô phải thật sự là các
tấm gương sáng về đạo đức, lối sống để đoàn viên thanh niên học tập và làm theo.
Bên cạnh nêu gương sáng, cần chỉ ra và phê phán những tấm gương xấu, sai trái, lệch
lạc trong đạo đức, lối sống để đoàn viên thanh niên tránh mắc phải những sai lầm, thiếu xót
trong cuộc sống. Cần lên án và có biện pháp xử lý, ngăn chặn triệt để những biểu hiện, những
hạnh vi suy thoái về đạo đức, lối sống trong xã hội nhằm củng cố niềm tin cho đoàn viên thanh
niên vào ý tưởng đạo đức xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra cũng nên tổ chức cho đoàn viên thanh niên
gặp gỡ với những người lầm lỡ nhưng lại biết hoàn lương làm lại cuộc đời, có ý chí, nghị lực
phấn đấu vươn lên trong cuộc sống, chính tiếng nói chân thật, sự thành tâm của những người
trong cuộc là lời cảnh tỉnh giá trị nhất đối với đoàn viên thanh niên, giúp họ tránh đi vào vết xe
đổ của những người đi trước.
Ba là, phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và cộng đồng xã hội trong giáo
dục đạo đức cho đoàn viên thanh niên.
Với tư cách là một tổ chức chuyên nghiệp, được giao trọng trách đào tạo cho thanh
niên, nhà trường giữ vị trí chủ đạo trong việc bồi dưỡng năng lực, xây dựng phẩm chất đạo đức
cho đoàn viên thanh niên. Nhà trường cần có chiến lược, kế hoạch cho các nội dung phối hợp.
Nội dung phối hợp phải dựa vào mục tiêu, nhiệm vụ, chương trình đào tạo hoặc những sự kiện,
những phong trào, những hoạt động cụ thể… trong môi trường giáo dục. Nhà trường cần khuyến
khích phụ huynh giữ liên lạc thường xuyên với giáo viên, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm, khoa
chuyên môn, các tổ chức đoàn thể để nắm được mục đích giáo dục và tình hình cụ thể của đoàn
viên thanh niên để phối hợp khi cần thiết và đảm bảo cho sự phối hợp được nhịp nhàng, mang lại hiệu quả cao.
Gia đình, nhà trường cần duy trì mối liên hệ và tăng cường phối hợp với các lực lượng
xã hội nhằm thực hiện các hoạt động giáo dục đạt mục tiêu đề ra. Nhà trường cần thông báo nội
dung, mục tiêu giáo dục trong nhà trường cho chính quyền, các tổ chức xã hội ở địa phương.
Phối hợp với các tổ chức đoàn thể ở địa phương tổ chức cho đoàn viên thanh niên tham gia các
hoạt động văn hoá - xã hội, nhân đạo để tạo điều kiện cho đoàn viên thanh niên trau dồi, rèn luyện đạo đức.
Bốn là, xây dựng các khu vui chơi, giải trí, những địa điểm sinh hoạt văn hoá lành
mạnh cho đoàn viên thanh niên, tạo điều kiện thuận lợi cho đoàn viên thanh niên tham gia các
hoạt động văn hoá, xã hội.
Gắn học tập, giáo dục với vui chơi, giải trí là một phương châm giáo dục khá độc đáo
của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giáo dục thanh niên. Là bộ phận tuyển chọn từ tầng lớp thanh
niên, đoàn viên thanh niên ngoài nhu cầu học tập, nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu của xã
hội, đoàn viên thanh niên còn có những nhu cầu khác như: giao lưu gặp gỡ, kết bạn, vui chơi,
giải trí… đây là một trong những nhu cầu chính đáng của đoàn viên thanh niên.
Để thực hiện phương châm “gắn giáo dục với vui chơi, giải trí”, cần đầu tư xây dựng
những khu vui chơi, giải trí, những tụ điểm sinh hoạt văn hoá, những câu lạc bộ, trung tâm tư
vấn, bảo tàng cách mạng, nhà tưởng niệm, nhà văn hoá, khu thể dục, thể thao… để tổ chức các
hoạt động giao lưu, vui chơi, giải trí, du lịch, dã ngoại, về nguồn… nhằm thu hút, lôi cuốn, quy
tụ đoàn viên thanh niên, đáp ứng những nhu cầu thiết thân của đoàn viên thanh niên như: trao lOMoAR cPSD| 22014077
đổi, hợp tác trong học tập, nghiên cứu khoa học, làm kinh tế, giới thiệu việc làm… đây là cách
tốt nhất để đoàn viên thanh niên tránh xa những cám dỗ của tệ nạn xã hội.
Năm là, phát huy tinh thần tự giáo dục, tự rèn luyện, kiên trì tự tu dưỡng đạo đức cho đoàn viên thanh niên
Trong giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục đạo đức cho thanh niên nói riêng, các
giải pháp từ phía gia đình, nhà trường, xã hội có thật tốt cũng không thể thay thế được yếu tố
tự giáo dục, tự rèn luyện của bản thân thanh niên. Do đó, cùng với giáo dục thì cần phải biết
khích lệ, phát huy ý thức tự giáo dục, tự tu dưỡng, tự rèn luyện cho thanh niên. Tự giáo dục, tự
rèn luyện đạo đức là quá trình mà trong đó thanh niên tự hoàn thiện, tự biến đổi, tự thích nghi
với môi trường và điều kiện sống, là khả năng biết tự kiềm chế, tự khuôn mình vào nguyên tắc,
chuẩn mực, đạo đức để vươn tới mẫu nhân cách mà xã hội đặt ra.
Câu 9: Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới trong sự
nghiệp trồng người hiện nay. (có rồi)
Câu 10: Anh chị vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh hiện nay như thế nào?
*Bối cảnh, thời cơ, thách thức như mấy câu trên.
-Một là, nâng cao nhận thức về vai trò của văn hóa đối với sự nghiệp xây dựng một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong bối cảnh hiện nay cần có sự thống nhất cao về nhận thức trong toàn bộ xã hội về tầm
quan trọng của văn hóa, cả về lĩnh vực lý luận và hoạt động thực tiễn, nhất là việc thực hành
các giá trị văn hóa trong nhân dân, trước tiên trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Do đó: -
Cùng với việc tiếp tục nghiên cứu lý luận theo hướng tăng cường gắn với thực tiễn, cần
phảiđẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục các giá trị văn hóa, mà cụ thể là các chuẩn mực
văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong toàn xã hội, trước tiên trong đội ngũ cán bộ, đảng
viên, nhất là các cấp lãnh đạo, quản lý. -
Cần đặc biệt chú trọng tuyên truyền, giáo dục cho thế hệ trẻ, bởi, thanh niên, còn là
nhữngnhân cách đang định hình. Và cũng cần phải đặc biệt chú trọng tuyên truyền, giáo dục
cho đội ngũ lao động khu vực ngoài quốc doanh, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, vùng sâu,
vùng xa. Vì ở những khu vực này trình độ học vấn, trong đó có nhận thức về tư tưởng, chính trị, còn hạn chế. -
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò quản lý của Nhà nước, vai
trò của của các đoàn thể nhân dân, đồng thời, đẩy mạnh công tác xã hội hóa trong sự nghiệp
xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Tập trung xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh để Đảng ta thực sự
trong sạch, vững mạnh, qua đó hình thành, phát triển “văn hóa Đảng” và mỗi cán bộ, đảng viên
“vừa hồng, vừa chuyên”, “đảng viên đi trước, làng nước đi sau”. Đồng thời, đưa văn hóa vào
quá trình xây dựng, triển khai tổ chức, thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
làm sao để mỗi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, từ khâu xây dựng đến khâu triển
khai tổ chức, thực hiện đều được thẩm thấu và thấm sâu các giá trị văn hóa, có sức lay động lòng người.
Xây dựng, cải cách bộ máy hành chính nhà nước, đưa văn hóa vào quá trình xây dựng, triển
khai tổ chức, thực hiện pháp luật của Nhà nước để pháp luật thực sự nghiêm minh và công minh
theo nguyên tắc “không trừ một ai” (Hồ Chí Minh); trên cơ sở đó, lối sống của nhân dân tuân
theo “trăm điều phải có thần linh pháp quyền” (Hồ Chí Minh). -
Ba là, phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc lOMoAR cPSD| 22014077
Với tư cách là chủ thể của hoạt động thực hành, con người, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, có nhân
cách với những “tính cách riêng”, “sở trường riêng”, quyền lợi riêng, đời sống riêng. Người
cho rằng, người ta ai cũng có tính tốt và tính xấu. Thiện và ác không phải tự nhiên có, mà “phần
lớn do giáo dục mà ra”. Vì vậy, phải biết làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa
mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi. Thông qua đó, đào tạo, giác ngộ con người có phẩm chất
cao đẹp, có trình độ phát triển toàn diện, để trở thành những con người xã hội chủ nghĩa trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “... chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được với sự giác ngộ đầy
đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu người”(8). Nhưng để có “con người xã hội chủ
nghĩa” trong quá trình xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn
hiện nay, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần phải “trồng người” và phải biết phát huy nhân tố con người./.
Câu 11: Phân tích các nguyên tắc đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh và nêu ý
nghĩa của quan điểm đó đối với sự nghiệp cách mạng hiện nay.
*Bối cảnh hiện nay
Qua hơn 35 năm đổi mới, kế thừa, vận dụng và sáng tạo truyền thống đối ngoại vẻ vang của
dân tộc, nhất là tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế, Đảng ta không ngừng bổ
sung, phát triển và hoàn thiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hợp tác và phát
triển, thực thi chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
*Thời cơ, thách thức
Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo
đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên
hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn,
là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(12). Tại
Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng năm 2021,
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ sở vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, kế thừa và phát huy truyền thống, bản sắc đối ngoại, ngoại giao và văn hóa dân
tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, chúng ta đã
xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ
Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”,...
thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam”(13). Chính vì vậy, để vận
dụng tư tưởng đoàn kết, hợp tác quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình hoạch định,
thực hiện đường lối đối ngoại với nhiều thời cơ thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen, cần
thực hiện tốt một số nội dung sau:
Một là, đẩy mạnh vận dụng, phát triển và sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp
tác quốc tế trong quá trình hoạch định, thực hiện đường lối đối ngoại hiện nay.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế là quá trình thực hành các quan
điểm có chọn lọc và sáng tạo. Theo đó, công tác hoạch định, thực hiện đường lối đối ngoại hiện
nay cần chọn lọc những nội dung phù hợp với yêu cầu thực tiễn để thực hành một cách sáng
tạo, trên cơ sở kết hợp những chỉ dẫn, nguyên tắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh với điều kiện,
đặc điểm và môi trường vận dụng. Có như vậy mới mang lại hiệu quả thiết thực, tránh rơi vào
vận dụng hình thức, máy móc, rập khuôn, thiếu hiệu quả. lOMoAR cPSD| 22014077
Bên cạnh đó, cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt về nội dung, giá trị của tư tưởng
Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế. Đa dạng hóa hình thức tuyên truyền và làm phong
phú các nội dung nhằm mang lại hiệu quả thiết thực trên không gian rộng hơn. Tuy nhiên, trong
quá trình tuyên truyền, cần chú ý đến hiệu quả, tránh chạy theo số lượng, hình thức; nội dung
tuyên truyền cần phù hợp với từng đối tượng trong xã hội, trong đó đặc biệt chú ý đến thế hệ
trẻ, như thanh, thiếu niên, sinh viên.
-Hai là, quán triệt sâu sắc và thực hiện đúng đắn đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế sâu rộng, vì lợi ích quốc gia, dân tộc.
Như một tất yếu khách quan, để tranh thủ và tận dụng tối đa cơ hội, kiểm soát và hóa giải các
thách thức, ứng phó tốt với những chuyển biến bên ngoài, cần ghi nhớ lời dạy của Chủ tịch Hồ
Chí Minh: Sự nghiệp làm nên bởi chữ Đồng. Theo đó, cần chú trọng đề cao việc xây dựng và
giữ gìn đoàn kết và đồng thuận trong nước. Với mục tiêu lớn nhất, cao nhất là phải kiên quyết
bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, “tất cả mọi người đều phải vì nước, vì dân”(16). Có như vậy,
trong triển khai công tác đối ngoại mới có thể vận dụng và sáng tạo một cách hiệu quả nhất tư
tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế, “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại”; thực hiện phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Điểm mấu chốt là giữ “trái tim nóng,
cái đầu lạnh” và “kiên quyết, kiên trì” để xử trí các thách thức đối ngoại, tranh thủ điểm “tương
đồng” về lợi ích để thúc đẩy hợp tác và phát triển trên cơ sở bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc và
tôn trọng luật pháp quốc tế.
-Ba là, mở rộng và nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, nhất là trong các lĩnh vực hợp
tác về kinh tế, văn hóa, chính trị, quốc phòng, an ninh với các nước trên thế giới.
Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ,
tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”, từ một nền kinh tế lạc hậu, xếp hạng cuối trong
số các quốc gia Đông Nam Á, Việt Nam đã vươn lên trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ở mức hơn 340 tỷ
USD (năm 2020). Giá trị thương hiệu quốc gia hiện đứng ở vị trí thứ 33 trong tốp 100 thương
hiệu quốc gia giá trị nhất thế giới, chỉ số ảnh hưởng ngoại giao đứng thứ 9/26 ở khu vực châu
Á và đứng thứ hai trong khu vực Đông Nam Á(17). Nhằm tiếp tục nâng cao vị thế, uy tín của
Việt Nam trên trường quốc tế, cần mở rộng và nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, nhất
là hợp tác trên các lĩnh vực, như kinh tế, văn hóa, chính trị, quốc phòng, an ninh với các nước.
Trong đó, cần tập trung kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh; giữa đối ngoại
đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, để tạo thế chân kiềng vững chắc; kiên quyết,
kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm,
từ xa”; chủ động phòng ngừa và hóa giải các nguy cơ an ninh thông qua thúc đẩy đối thoại, xây
dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa và thượng tôn pháp luật. Tiếp tục duy trì các mối quan
hệ với các đối tác, “trước hết là các nước láng giềng và các nước lớn, đi vào chiều sâu, ổn định,
hiệu quả; ưu tiên duy trì ổn định và giữ đà quan hệ, tăng cường tin cậy chính trị, thúc đẩy hợp
tác trên các lĩnh vực, đồng thời xử lý các khác biệt và vấn đề nảy sinh trên tinh thần hợp tác,
hữu nghị, kiểm soát bất đồng, dựa trên luật pháp quốc tế và thông lệ khu vực”(18).
Câu 12: Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về các điều kiện xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộc trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
Kế thừa và vận dụng sáng tạo, linh hoạt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đại đoàn kết,
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ
trương, đường lối thực hiện đại đoàn kết phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ ở từng thời điểm, giai
đoạn đặt ra. Trong các kỳ Đại hội, Đảng đều khẳng định: Đoàn kết là đường lối chiến lược của
cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh to lớn của mọi thắng lợi, phải có những chủ trương, lOMoAR cPSD| 22014077
biện pháp đúng, trúng để giữ vững, củng cố và phát triển đoàn kết thành hành động hữu ích cho
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sức mạnh của đoàn kết toàn
dân đã được Đảng cụ thể hoá, thể chế hoá thành những nghị quyết, chỉ thị, kết luận sát hợp với
đặc điểm tình hình, điều kiện của mỗi vùng, miền gắn với quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm
của các giai cấp, giai tầng xã hội, như: Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp
hành Trung ương khóa IX về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; Nghị quyết số 20NQ/TW ngày 28/1/2008 của Ban
Chấp hành Trung ương khoá X về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn... Tuy nhiên, trước bối
cảnh thế giới, khu vực và trong nước đang có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, nhất là sự
chống phá quyết liệt của các thế lực phản động bằng chiến lược “diễn biến hoà bình” để phá vỡ
khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, giữa
đồng bào các dân tộc với nhau, dịch bệnh Covid-19, tổ chức thành công đại hội đại biểu các
cấp tiến tới Đại hội lần thứ XIII của Đảng... thì việc quán triệt, thực hiện nghiêm túc di huấn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc, vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện thắng
lợi chỉ tiêu, nội dung của Đại hội XII, các nghị quyết Trung ương của Đảng đặt ra.
3. Một số biện pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong
giai đoạn hiện nay
Một là, thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cho mọi người dân về tinh
thần đoàn kết của dân tộc
Đây là nhiệm vụ mang tính thường xuyên, liên tục và được tiến hành có trọng tâm, trọng
điểm, nhất là vào những thời điểm quyết định đến tương lai, vận mệnh của đất nước. Tuyên
truyền, giáo dục để cho mỗi người dân thấy được tinh thần đoàn kết là vốn quý của dân tộc cần
phải được bảo tồn và lan toả rộng khắp. Theo đó, cần đa dạng hoá nội dung, hình thức tổ chức
các phong trào thi đua yêu nước để mọi người được tham gia, phát huy năng lực, sở trường, thế
mạnh của mình; xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có năng lực, phẩm chất uy tín về đạo đức, lối
sống được nhân dân kính trọng, nể phục; nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng
viên trong tập hợp, vận động các tầng lớp nhân dân tham gia hưởng ứng vào các phong trào thi
đua do Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động.
Hai là, đa dạng hoá các nội dung, hình thức, phương pháp khơi dậy tinh thần đoàn kết của
con người Việt Nam
Về nội dung, cần hướng vào những vấn đề thiết thực gắn với cuộc sống đời thường của người
dân, như gia đình khá giả, có điều kiện giúp đỡ gia đình nghèo, không có điều kiện; huy động
các doanh nghiệp, doanh nhân thành đạt ủng hộ cho người nghèo, không có công ăn, việc làm,
ốm đau, bệnh tật không có khả năng lao động, thông qua hoạt động từ thiện, ủng hộ; tổ chức
phát động chương trình chung tay quyên góp cho nhân dân bị ảnh hưởng bởi thiên tai, hạn hán,
dịch bệnh; xây dựng đức tính nhân ái, bao dung, độ lượng giữa con người với con người trong
hoạn nạn, khó khăn; theo từng địa phương, vùng, miền tổ chức phát động phong trào thi đua
yêu nước để gắn kết con người; xây dựng môi trường thi đua trong sáng, lành mạnh, phong
phú, không có sự ganh đua, cạnh tranh, đố kỵ, ganh ghét giữa con người với con người...
Về hình thức, phương pháp khơi dậy tinh thần đoàn kết được thực hiện thông qua công tác
tuyên truyền, giáo dục, tổ chức; các hội nghị để kêu gọi mọi người nêu cao tinh thần đoàn kết,
khí phách ngàn đời của dân tộc; thông qua xây dựng những gương điển hình tiên tiến, gương
người tốt, việc tốt; thông qua hệ thống thông tin truyền thông ở các địa phương, nhất là đội ngũ
cán bộ ở cấp cơ sở trong việc thực hành, nêu gương trước quần chúng nhân dân.
Ba là, phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ cơ sở trong hướng dẫn, đồng hành
cùng với nhân dân tham gia vào các hoạt động chung của xã hội lOMoAR cPSD| 22014077
Cán bộ là “cái gốc” của mọi công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt
hay xấu. Theo đó, đội ngũ cán bộ các cấp đặc biệt là người đứng đầu ở cơ quan, đơn vị, địa
phương phải phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của mình là hạt nhân đoàn kết, bám sát mọi hoạt
động của quần chúng nhân dân, biết lắng nghe, chia sẻ với khó khăn, vất vả của người dân,
tuyệt nhiên không được khinh thường nhân dân, người lao động chân tay; gắn việc học tập làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với xây dựng, chỉnh đốn Đảng; tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với quá trình công tác của đội ngũ cán bộ các cấp để
phát hiện, xử lý kịp thời theo đúng quy định của pháp luật đối với cán bộ vi phạm nguyên tắc,
Điều lệ, Cương lĩnh của Đảng. Trong mọi hoạt động của mình, đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là
người đứng đầu phải luôn đặt chữ “Tâm” để giải quyết các mối quan hệ, ứng xử, xây dựng tác
phong gần gũi, chân thành giữa cán bộ với cán bộ và giữa cán bộ với nhân dân. Đó không chỉ
góp phần đưa nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đi vào thực
tiễn cuộc sống, mà còn tạo tinh thần, khí thế thi đua sôi nổi trong toàn xã hội. *Số trang SGK
Chương 1: Khái niệm.....
I/ Khái niệm tư tưởng HCM (12)
II/ Đối tượng nghiên cứu (19)
III/ Phương pháp nghiên cứu (20)
+ Cơ cở phương pháp luận về việc nghiên cứu TTHCM
+ Một số phương pháp cụ thể (25) IV/ Ý nghĩa TTHCM
Chương 2: Cơ sở và quá trình hình thành TTCHCM I/ Cơ sở hình thành (33) + Cơ sở thực tiễn (33) + CS lý luận (38)
+ Nhân tố chủ quan của HCM (47)
II/ Qua trình hình thành và phát triển (50) III/ Giá trị TTHCM (65)
Chương 3: TTHCM về độc lập dân tộc và CNXH
I/ TTHCM về độc lập dân tộc (73)
II/ TTHCM về xây dựng CNXH ( 92)
III/ TTHCM về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và CNXH (114)
IV/ Vận dụng TTHCM trong sự nghiệp CM hiện nay (118)
Chương 4: TTHCM về Đảng Cộng sản VN I/ TTHCM về ĐCSVN (124)
II/ TTHCM về nhà nước của dân, do dân, vì dân (142)
III/ Vận dụng TTHCM về công tác xây dựng Đảng, xây dựng nhà nước (164)
Chương 5: TTHCM về đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế
I/ TTHCM về đoàn kết toàn dân tộc (170) lOMoAR cPSD| 22014077
II/ TTHCM về đoàn kết QT (184)
III/ Vận dụng trong đòan kết hiện nay (198)
Chương 6: TTHCM về văn hóa, đạo đức, con người I/ TTHCM về văn hóa (206)
II/ TTHCM về đạo đức (218)
III/ TTHCM về con người (241) IV/ Vận dụng (248) * Cách làm bài:
1/ Câu hỏi vận dụng
- Phân tích nội dung TTHCM về vấn đề đó
- Phân tích bối cảnh đặt ra hiện nay=> Thời cơ, thách thức gì - Đưa ra giải pháp.
2/ Câu hỏi chứng minh/phân tích gì đó?
- Theo lý luận (CN Mác Lê-nin) - Theo thực tiễn * Câu hỏi thêm:
1/ Vì sao nói HCM là người truyền bá CN Mác theo một hệ thống? (trang 43)
2/ Vì sao Bác chọn VS là con đường GPDT? (trang 80) (Tài liệu Anh Sang cũng có trang 40)
3/ Vì sao CN Mác đặt GPDT lên hàng đầu? (trang 80)
4/ Chứng minh: CMGPDT muốn thắng lợi phải do Đảng lãnh đạo? (Trang 83 (Anh Sang trang 42)
5/ Phân tích: CMGPDT phải dựa trên ll đại đoàn kết toàn dân tộc, liên minh công nông làm
nền tảng. (trang 85). (Anh Sang trang 42)
6/ Quan điểm sáng tạo nhất của HCM về GPDT là gì?Chứng minh/phân tích. (trang 87,88) (Anh Sang 44)
7/ Chứng minh CMGPDT phải được tiến hành bằng bạo lực CM (Trang 91) (Anh Sang trang 45)
8/ Tại sao nói quá độ lên CNXH phức tạp hơn cả việc đánh giặc (trang 108)
9/ Điểm sáng tạo của HCM về ĐCSVN? Tại sao? (trang 125) (Anh Sang trang 72)
10/ Vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ (trang 131)