/18
lOMoARcPSD| 61570461
1.Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, dân trong xây
dựng nhà nước Việt Nam hiện nay.
Nhà nước của dân, do dân, vì dân (as)
Bầu cử dân chủ phương thức thành lập bộ máy nhà nước đã được c lập trong nền chính
trị hiện đại, đảm bảo tính chính đáng của chính quyền khi tiếp nhận sự uỷ quyền quyền lực
từ nhân dân. Chính vì vậy, để thật sự nhà nước của dân, ngay từ những ngày đầu giành
được nền độc lập, Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến tổ chức cuộc tổng tuyển cử để
nhân dân trực tiếp bầu ra các đại biểu xứng đáng thay mặt mình gánh vác việc nước.
Đối với Hồ Chí Minh, một nhà nước của dân thật sự phải một nhà nước do dân
dân. Người viết: “Kinh nghiệm trong nước và các nước chứng tỏ cho chúng ta biết: có lực
lượng dân chúng, việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có, thì việc gì làm
cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng,
đầy đủ những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”; “Không
lực lượng nhân dân, thì việc nhỏ mấy, dễ mấy làm cũng không xong…” (Hồ CMinh:
Toàn tập, tập 6, tr.292, NxbCTQG, H,2000).
http://m.tuoitrebinhduong.vn/tin-tuc/van-dung-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-nha-nuoc-
vaphap-luat-vao-trong-cong-cuoc-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-
cuanhan-dan-do-nhan-dan-vi-nhan-dan-o-viet-nam-19068.html
Tình hình công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Những thành tựu, kết quả đạt được.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, đánh giá:
“...Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà
nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng
bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. ( có thể sử dụng cho nhà nước pháp quyền)
Hệ thống pháp luật được hoàn thiện một bước bản. Vai trò của pháp luật thực thi
pháp luật ngày càng được chú trọng trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước và đời sống
hội. chế phân công, phối hợp kiểm soát quyền lực giữa các quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, nh pháp pháp ngày càng rõ hơn
chuyển biến tích cực. Bộ máy nhà nước bước đầu được sắp xếp lại theo ớng tinh gọn
gắn với tinh giản biên chế, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.thể sử dụng cho nhà nước pháp
quyền)
Hoạt động của Quốc hội trong việc thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những
vấn đề quan trọng của đất ớc giám sát tối cao nhiều đổi mới, chất lượng hiệu
lOMoARcPSD| 61570461
quả được nâng cao. Vai trò, trách nhiệm của đại biểu Quốc hội được thể hiện hơn....
thể sử dụng cho nhà nước pháp quyền)
Hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp có nhiều đổi mới. Hoạt động của Chính phủ
các bộ, ngành chủ động, tích cực, tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô; tháo gỡ các
rào cản; phục vụ, hỗ trợ phát triển. Cải cách hành chính, cải cách tư pháp trên một số lĩnh
vực bước đột phá. Tchức bộ máy của toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, quan
điều tra, quan btrợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn, chất lượng hoạt động tiến bộ,
bảo vệ tốt hơn lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức và
nhân; tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Tổ chức bộ máy
của chính quyền địa phương được sắp xếp lại theo hướng tinh gọn; quan tâm xây dựng
chính quyền đô thị, chính quyền nông thôn, khẩn trương triển khai xây dựng chính quyền
điện tử”.
Bên cạnh những thành tựu, kết quả đạt được, công cuộc xây dựng nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam thời gian qua vẫn còn những hạn chế, tồn tại cần khắc phục, như:
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa mặt chưa đáp ng tốt yêu cầu
pháttriển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới.
- Quyền làm chủ của nhân dân lúc, nơi chưa được tôn trọng phát huy đầy đủ.
Bộmáy nhà nước ở một số nơi chưa thật sựdân, còn quan liêu, xa dân, phiền hà, sách
nhiễu dân; thủ tục hành chính chưa thuận tiện cho dân, thiếu công khai cho dân biết, n
kiểm tra; một scán bcòn thiếu trách nhiệm, thiếu năng lực, làm việc tùy tiện, hách
dịch, cửa quyền, vi phạm quyềncon người, quyền công dân. Thực hành dân chủ đi đôi
với giữ vững kỷ cương, kỷ luật còn nhiều bất cập, thực hành dân chủ ở cơ sở có nơi n
hình thức, chưa bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân.
- Vấn đề đổi mới đồng bộ, phù hợp giữa kinh tế với chính trị, văn hoá, xã hội, giữa đổimới
kinh tế với đổi mới tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước một số mặt còn lúng
túng. chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện; vai trò giám sát của nhân dân chưa
được phát huy mạnh mẽ.
- Hệ thống pháp luật còn một số quy định chưa thống nhất, chưa đáp ứng kịp thời yêu
cầuthực tiễn. Chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm; kỷ cương, phép nước có nơi,
lúc còn bị xem nhẹ, xử vi phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức
răn đe. có thể sử dụng cho nhà nước pháp quyền)
- Cải cách hành chính, cải cách pháp chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước.
thể sử dụng cho nhà nước pháp quyền)
lOMoARcPSD| 61570461
- Tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương chưa đổi mới mạnh mẽ; chức
năng,nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền chưa thật ng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn
hạn chế.
- Số lượng cán bộ cấp xã và đội ngũ viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công vẫn cònquá
lớn; phẩm chất, năng lực, uy tín n nhiều hạn chế, thiếu tính chuyên nghiệp, chưa đáp
ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Một số định hướng tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền hội chủ
nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra các nhiệm
vụ trọng tâm, cơ bản sau:
- Tiếp tục xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam
củanhân dân, do nhân dân nhân n do Đảng lãnh đạo nhiệm vụ trọng tâm của
đổi mới hệ thống chính trị.
- Tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự cơquan
đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
- Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền,
chuyênnghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch, hoàn thiện quyền
bầu cử trực tiếp, gián tiếp cho nhân dân.
Tiếp tục xây dựng nền pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm
minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
- Tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với địa bàn nông thôn, đôthị,
hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt theo luật định.
- Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, để
trởthành nguoiwfddaij biểu nhân dân để nói lên khát vọng, lợi ích, phục vụ nhân dân
sự phát triển của đất nước.
- Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật.có thể sử dụng
cho nhà nước pháp quyền)
Từ những nhiệm vụ bản đó, trong thời gian tới chúng ta cần phải tập trung thực
hiện những nội dung sau đây:
- Phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân;
- Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tầ chức thực hỉện pháp luật.
lOMoARcPSD| 61570461
- Tiếp tục đổỉ mới tầ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và tăng cường kỉểm soátquyền
lực nhà nước.
- Xây dựng, kỉện toàn đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nướcpháp
quyền xã hộỉ chủ nghĩa Vỉệt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
- Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong tố chức và hoạt động củabộ
máy nhà nước.
- Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong tố chức và hoạt động củabộ
máy nhà nước.
- Đổi mói và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đốỉ với Nhà nước trong đỉều kiện xâydựng
Nhà nước pháp quyền xã hộỉ chủ nghĩa.
Quá trình xây dựng và phát triển của Nhà nước ta trong mỗi giai đoạn sau này đã có không
ít những thay đổi về hình bộ máy dưới tác động của nhiều yếu tố chủ quan khách
quan, nhưng xuyên suốt mạch phát triển ấy vẫn là tưởng của Hồ Chí Minh về một chính
quyền mạnh mẽ sáng suốt của nhân dân. Ngày nay, trong bối cảnh phát triển mới của
đất nước, dưới tác động mạnh mẽ của thời đại và thế giới, trong xu thế toàn cầu hoá, nhiều
điểm đã thay đổi, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền của dân, do dân,
dân vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục định hướng cho các nỗ lực nghiên cứu, tìm kiếm giải
pháp đổi mới mô hình bộ máy nhà nước trong các điều kiện phát triển mới./
2.Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng
Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay.
Nêu lý thuyết về ngtac tập trung dân chủ( 70/as-130/gt)
Thực tiễn:Sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu là bài
học đau xót về việc buông lỏng, xa rời, thực hiện không đúng nguyên tắc tập trung dân chủ
của Đảng Cộng sản. Một số ớc nghiêng về tập trung quan liêu, thống nhất cứng nhắc,
dẫn đến vi phạm dân chủ trong Đảng, xuất hiện hàng loạt các sai lầm: gia trưởng, độc đoán,
sùng bái cá nhân. Một số nước lại hạ thấp tính tập trung, thống nhất, dẫn đến hỗn loạn, vô
chính phủ. Những sai lầm trong nhận thức thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ đã
làm tổn hại đến vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, cản trở sự phát triển của các nước đó.
Việt Nam, ngay từ những ngày đầu được thành lập đến nay, trải qua n 90 năm xây
dựng và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên trì thực hành nguyên tắc tập trung
dân chủ, từ đó tập hợp, đoàn kết, phát huy bản lĩnh, trí tuệ, tính tiền phong gương mẫu của
đội ngũ cán bộ, đảng viên,
lOMoARcPSD| 61570461
Chủ tịch Hồ CMinh giải bản chất của tập trung n chủ: “Nhân dân ông chủ nắm
chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân
chủ. Các quan chính quyền thống nhất, tập trung. Từ hội đồng nhân dân ủy ban
kháng chiến hành chính đến Quốc hội Chính phủ Trung ương, số ít phải phục tùng
số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương. Thế là
vừa dân chủ vừa tập trung”
(7)
. Tập trung dân chủ hai mặt thống nhất biện chứng,
không thể tách rời. Tập trung hỗ trợ, bảo đảm cho dân chủ được thực hiện trong khuôn
khổ, có sự kiểm soát; dân chủ giúp cho tập trung được thực hiện linh hoạt, đạt hiệu quả cao
trong lãnh đạo và quản lý. Vì vậy, cần phải có sự kết hợp một cách đồng bộ, chặt chẽ việc
bảo đảm cả hai yếu tố này trong hoạt động lãnh đạo của Đảng hoạt động quản nhà
nước. Dân chủ phải được bảo đảm bởi tập trung và tâp trung phải dựa trên sở dân chủ.
Nếu chỉ có sự lãnh đạo tập trung mà không mở rộng dân chủ thì sẽ tạo môi trường cho phát
sinh cửa quyền, tham nhũng. Ngược lại, không có sự lãnh đạo tập trung, thống nhất sẽ dẫn
đến tình trạng tùy tiện, vô chính phủ, nhân chủ nghĩa. Vận dụng: thực trạng của dân
chủ hiện nay, vì sao cần tập trung, dân ch trong những bước ngoặt của cách mạng vốn
đòi hỏi sự tỉnh táo, thận trọng
Người lãnh đạo phải bình tĩnh, lắng nghe những ý kiến của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Những ý kiến khác nhau phải được nói hết, nói thẳng và cần trải qua thảo luận dân chủ để
đi đến chân lý. Những ý kiến khác nhau trong thảo luận, tranh luận là điều bình thường và
chính quá trình đó mới giúp chúng ta tiệm cận chân lý, làm sâu sắc hơn nhận thức về chân
- đây cũng là một biểu hiện của chế độ tập trung dân chủ. Tuy nhiên, khi đã thành nghị
quyết trên sở ý kiến đồng thuận của đa số (theo quy định của Điều lệ Đảng), thì thiểu
số phải phục tùng và chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết đó. trong hoạt động lãnh đạo của
Đảng, cần định kỳ xem xét lại ý kiến bảo lưu và coi đây việc làm thường xuyên để bảo
đảm tính đúng đắn của quá trình thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đảng nêu cao sự thống nhất ý chí và hành động trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
thể hiện sự thấm nhuầntưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc tập trung dân chủ trong mọi
hoạt động của Đảng. Để Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ
mới của cách mạng, việc vận dụng tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc tập trung dân chủ.
Vận dụng phát triển sáng tạo tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc tập trung dân chủ
trong tổ chức và hoạt động của Đảng
Thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng; các cơ chế, quy định của Đảng
về dân chủ và phát huy dân chủ ở cơ sở, bảo đảm phát huy trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân
trong xây dựng và hoàn thiện chủ trương, đường lối, chính sách và tổ chức thực hiện; bảo
đảm sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự đoàn kết đồng thuận trong hội. Tăng
cường bảo vệ nền tảng tưởng của Đảng, kiên quyết thường xuyên đấu tranh, phê
lOMoARcPSD| 61570461
phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, xuyên tạc về nguyên tắc tập trung dân chủ và việc thực
hiện nguyên tắc này trong công tác xây dựng Đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Phối hợp chặt chẽ để phát huy sức
mạnh của cả hệ thống chính trị. “Đảng ta tuy muôn người nhưng khi tiến đánh chỉ như
một người”, thể hiện sự thống nhất về ý chí hành động như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chỉ ra
phải nâng tầm duy luận của Đảng, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu luận,
hệ quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - -nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân chủ nguyên tắc tập trung dân chủ. không nên tuyệt đối hóa hay đối lập tập trung
với dân chủ, vì đó chhai mặt không thể tách rời của một nguyên tắc. tuân thủ, bảo vệ
nguyên tắc tập trung dân chủ theo tưởng HChí Minh và quan điểm của Đảng ta, kiên
quyết, kiên trì đấu tranh không khoan nhượng chống mọi biểu hiện xa rời, buông lỏng, xem
nhẹ nguyên tắc ấy biểu hiện ràng nhất tính đảng, phẩm chất đạo đức cách mạng của
mọi tổ chức đảng và của mỗi người cán bộ, đảng viên trong điều kiện hiện nay
3. Phân tích tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh n tộc với sức mạnh thời đại
vận dụng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam hiện nay. (185-gt) 108
Sức mạnh dân tộc,sức mạnh thời đại:185gt
4. Vận dụng chuẩn mực đạo đức trung với nước hiếu với dân trong y dựng rèn
luyệnđạo đức cán bộ, đảng viên. Định nghĩa cán bộ, 73
Yêu cầu đối với cán bộ 73
Nêu lí thuyết về trung với nước, hiếu với dân.
Thực trạng: Trong bối cảnh tình hình quốc tế trong nước như chiến lược diễn biến hòa
bình, thủ đoạn về kinh tế,khoảng cách về thu nhập.
Điểm mạnh: thích ng nhanh với cơ chế thtrường, lập trường tưởng vàng, đạo đức
trong sáng, tinh thần đoàn kết trong nội bộ Đảng
có nhiều biến động, tác động nhiều chiều đến tâm tư, tình cảm, niềm tin của người cán bộ,
đảng viên,đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị đông nhưng chưa mạnh, năng lực của
đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, tình trạng biến chất, tham nhũng, lối sống buông thả, không
có kế hoạch việc cán bộ, đảng viên học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Tớc hết, cán bộ, đảng viên thực hiện
“trung với nước, hiếu với dân” với các nội dung sau:
lOMoARcPSD| 61570461
Trung với nước phải thể hiện ở sự trung thành tuyệt đối với lợi ích của đất nước, của nhân
dân, của Đảng, của tổ chức mà mình tham gia. khát vọng được cống hiến cho xã hội, như
Đại hội XIII của Đảng đã xác định: Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc. Người cán bộ, đảng viên cần xây dựng niềm tin vào sức mạnh của dân tộc, vào
sự lãnh đạo của Đảng, vào khả năng của mỗi con người để từ đó phát huy tinh thần tự lực,
tự cường, tự chủ của cả dân tộc. Niềm tin đó phải được bồi dưỡng thường xuyên trên cơ sở
khoa học thực tiễn để trở thành niềm tin khoa học mang tính bền vững, nâng cao nhận
thức, tang cường giáo dục chính trị, ởng, đạo đức, lối sông trong can bộ đảng viên.
Tập trung xd đội ngũ cán bộ cấp chiesn lược, kiểm soát chặt chẽ quyền lực nhà nước
Cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, nghiêm túc thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, nội quy, quy định của quan, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Mỗi
cán bộ, đảng viên là một mắt xích trong hệ thống chính trị, thực hiện nhiệm vụ mà tổ chức
giao.
Cán bộ, đảng viên phải luôn quan tâm, bảo vệ lợi ích của đất nước, của tổ chức mình tham
gia. Bởi lợi ích chung được bảo đảm thì lợi ích của bộ phận, nhân mới được bảo đảm.
Phải luôn đặt việc công lên trên việc tư, luôn quy chiếu lời dạy của Hồ Chí Minh: “Việc
thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh”
(15)
. Giữa lợi ích nhân
lợi ích tập thể luôn phải cân bằng, bảo đảm lợi ích chung xem xét những lợi ích
nhân có chính đáng hay không; tránh thù, lợi, phái, trù dập; cảm tình riêng, lợi
ích riêng mà gây ra bất bình đẳng, bất công trong cơ quan, đơn vị. có cơ chế thu hút những
cán bộ trẻ, năng lực, phát huy vai trò, trách nhiệm của người lãnh đạo về việc đề bạt,
tiến cử người kế cận.
Hiếu với dân trong điều kiện hiện nay là tôn trọng nhân dân, chăm lo lợi ích cho nhân dân,
đặc biệt là không ngừng mở rộng dân chủ nhằm phát huy sức mạnh của nhân dân.
Cán bộ, đảng viên muốn hoàn thành nhiệm vụ được giao thì phải dựa vào dân, phát huy
sức mạnh của nhân dân. Muốn vậy, phải biết gần dân, hiểu dân, lắng nghe ý kiến của nhân
dân, liên hệ mật thiết với nhân dân, làm lợi cho dân. Ngoài phục vụ nhân dân, cán bộ, đảng
viên còn cần thể hiện thái độ khiêm tốn, thật thà đối với nhân dân, tránh làm việc tổn hại
đến nhân dân.
Mở rộng dân chủ nội dung cơ bản của nền dân chủ hội chủ nghĩa, mục tiêu, động
lực của công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước, được Đảng, Nhà nước luôn rất quan tâm.
Mở rộng dân chủ phương pháp để người dân ý thức tự nâng cao trình độ, nâng cao s
hiểu biết tích cực, chủ động tham gia phản biện, giám sát Nhà ớc. vậy, càng đòi
hỏi đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên phải phục vụ người dân đúng chức trách, phải
tuân thủ những chuẩn mực của đạo đức công vụ, phải tận tâm, tận lực. Mở rộng dân chủ
cũng tạo điều kiện tăng ờng đoàn kết toàn dân, tăng ờng mối quan hệ gắn giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân.
lOMoARcPSD| 61570461
Cán bộ, đảng viên cần đi đầu trong hoạt động đền ơn, đáp nghĩa đối với những người
công với cách mạng, với đất nước, quê hương, thể hiện sự tiếp nối truyền thống tốt đẹp của
dân tộc.
“Trung với nước, hiếu với dân” không chỉ là trách nhiệm mà còn đạo của cán bộ, đảng
viên. Cán bộ, đảng viên phải chủ động, sáng tạo, hết lòng, hết sức làm tròn những việc
được giao, nếu không làm tốt thì phải chịu trách nhiệm về những hậu quả của việc đó. Cán
bộ, đảng viên thực hành đạo đức “trung với nước, hiếu với dân” là làm đúng đường lối của
Đảng, quy định của pháp luật; làm đúng với đạo lý uống nước nhớ nguồn, mang lại lợi ích
cho bản thân và cộng đồng. Thực hiện “trung với nước, hiếu với dân”, cán bộ, đảng viên,
cán bộ chiến lực lượng trang “sẵn sàng chiến đấu, hy sinh độc lập, tự do của Tổ
quốc, chủ nghĩa hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua,
kẻ thù nào cũng đánh thắng”
(16)
.
5. Vận dụng chuẩn mực đạo đức cần, kiệm, liêm, chính trong xây dựng rèn luyện
phẩm chất sinh viên hiện nay.
Định nghĩa: đạo đức 121
Nêu tư tưởng hcm về cần,kiệm, liêm, chính 123
Bối cảnh: 126
Ưu, nhược diểm: 127
Biện pháp: 128,129
+Chuyên cần xây dựng kiến thức chuyên môn, đạo đức Cách mạng
6. Vận dụng chuẩn mực đạo đức yêu thương con người trong tưởng Hồ Chí Minh
để xây dựng và rèn luyện đạo đức hiện nay.
“ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành
Kn: đạo đức
Lý thuyết về đạo đức yêu thương con người: 124
Bối cảnh : 126
6. Vận dụng chuẩn mực đạo đức yêu thương con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh
để xây dựng và rèn luyện đạo đức hiện nay.
Đạo đức theo tư tưởng hồ chí minh là gì (GT 218)
lOMoARcPSD| 61570461
Yêu thương con người trong tư tưởng hồ chí minh là gì ( GT 229)
Ý nghĩa của việc yêu thương con người
tưởng yêu thương con người chiếm giữ một vị trí rất quan trọng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người một trong những phẩm chất đạo đức
cao đẹp nhất. Người chỉ rõ: “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn.
Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa cả loài người. Trừ bọn Việt gian bán nước,
trừ bọn phát xít thực dân, những ác quỷ ta phải kiên quyết đánh đổ, đối với tất cả
những người khác thì ta phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ”. Người luôn tâm niệm tình yêu
thương con người sự quan tâm, biết ơn, trân trọng, tin tưởng o sức mạnh của con
người, quyết tâm hành động để mang lại hạnh phúc, ấm no cho con người, giải phóng con
người, động lực mãnh liệt thôi thúc hoạt động không mệt mỏi nước, dân của Người.
Đó tình yêu thương con người của một trái tim lớn ng nhân hậu, cũng nền
gốc để quy tụ, đoàn kết hết thảy mọi tầng lớp, mọi lực lượng. Điều này được thể hiện sâu
sắc qua mỗi lời nói, việc làm, bài viết đặc biệt những căn dặn của Người. Ngay cả
trước khi từ biệt cõi đời, Người vẫn còn canh cánh một điều “chỉ tiếc là không được phục
vụ Nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
Tấm lòng yêu thương con người, yêu thương nhân dân ở Hồ Chí Minh đã được Người khái
quát thành đạo sống, lẽ tự nhiên. Biểu hiện cao nhất trong tình u thương con người
của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự quý trọng nhân dân, chăm nom đến mọi mặt đời sống của
nhân dân, quan tâm đến nhu cầu, nguyện vọng của cả dân tộc và mỗi người dân Việt Nam;
thấy vị trí, vai trò, sức mạnh của nhân dân không ngừng đấu tranh giải phóng dân
tộc, giải phóng con người, mang lại “độc lập, tự do, hạnh phúc” cho nhân dân. Người nói:
“Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề....là vấn đề đời m người. đời làm người phải
thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức”. vậy, tình yêu thương
con người của Bác Hồ rất cụ thể, từ việc to như lo giải phóng cho con người, khuyến
khích "Phần tốt mỗi con người nẩy nở như hoa mùa xuân, phần xấu bị mất dần đi",
đến việc chăm lo từng con người cụ thể, không chỉ “Lụa tặng cụ già, sữa tặng mẹ sinh
ba”, từng bát cơm, manh áo, từ chỗ ở, việc làm để an cư, lạc nghiệp đến tương
mắm muối hàng ngày cho nhân dân. Bác lo cho cả dân tộc chăm lo cho từng chiến sỹ
bảo vệ, phục vụ quanh Người.
Theo Bác, yêu thương con người là phải tôn trọng, quý trọng con người. Bác đánh giá cao
vai trò của nhân dân "Trong bầu trời không quý bằng nhân dân". Bác tôn trọng từ các
nhà khoa học, các bậc hiền tài cho tới những người lao công quét rác. Bởi theo Bác, từ Chủ
tịch nước tới người lao động bình thường, nếu hoàn thành tốt nhiệm vụ, đều được coi trọng,
đều vẻ vang như nhau. Theo Bác, yêu thương con người là phải sống với nhau có tình, có
nghĩa.
lOMoARcPSD| 61570461
thể nói, từ cái lõi cốt của học thuyết Mác chủ nghĩa nhân văn mácxít, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã từng nói: “Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa … Từ khi có
Đảng ta lãnh đạo giáo dục, tình nghĩa y càng cao đẹp hơn, trthành tình nghĩa đồng
bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà. Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin phải
sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình nghĩa
thì sao gọi hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin được”. Bởi vậy trong suốt cuộc đời của Người,
Người lo cho dân tộc của mình và sau đó, Người lo cho tất cả những kiếp người trên hành
tinh còn bị đoạ đầy, đau khổ, bởi "Họ là thân thích ruột già, công nông thế giới đều là anh
em". Ngay cả trước c đi xa, tình yêu thương con người của c cũng không thay đổi.
Trong Di chúc, Người viết: “Cuối cùng, tôi đlại muôn vàn tình thân yêu cho toàn n,
toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng. Tôi cũng gửi lời chào
thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn, và các cháu thanh niên nhi đồng quốc tế”.
Người thực sự là mẫu mực tuyệt vời về sự ứng xử tinh tế và cao thượng của một vị lãnh tụ
cách mạng thiên tài, người con ưu tú của dân tộc, sự khoáng đạt, cởi mở, hài hòa, nhân ái,
vị tha, khoan dung, độ lượng và tình nghĩa thủy chung, sâu sắc. Là tấm gương sáng về đạo
đức mà mỗi chúng ta cần học tập và rèn luyện.
Yêu thương con người trong tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống
nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Hồ Chí Minh coi yêu
thương con người phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất; thể hiện mối quan hệ giữa
nhân với cá nhân trong quan hệ xã hội.
Yêu thương con người thể hiện trước hết tình yêu thương với đại đa số nhân
dân, những người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột. Phải làm mọi việc để phát huy sức mạnh
của mỗi người; đoàn kết để phấn đấu cho đạt được mục tiêu ai cũngm ăn, áo mặc,
ai cũng được học hành”.
Yêu thương con người thì phải tin o con người. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm
khắc; với người thì khoan dung, độ ợng, rộng rãi, nâng con người lên, kể cả với những
người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm.
Yêu thương con người giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn.
Phải thực hiện phê bình, tự phê bình chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát
huy ưu điểm để không ngừng tiến bộ.
Hồ Chí Minh – Bác Hồ kính yêu của chúng ta, Người đã cống hiến cả đời mình
cho non sông, đất nước, cho dân tôc; đem lại độ c lậ p, tự do, ấm no, hạnh phúc cho
nhân  dân. Cả cuôc đời mình Bác chỉ có m t ham muốn duy nhất, lớn nhất: đó là làm
lOMoARcPSD| 61570461
sao cho  đất nước được đôc lậ p tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặ c, ai
cũng được học  hành. Qua những câu chuyên kể về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đều
khắc họa đậ m  nét tình thương yêu bao la của Bác đối với con người - môt tấm lòng vị
tha, bao dung…
Học tập tưởng đạo đức HChí Minh về yêu thương con người, sống
nghĩa có tình, mỗi cán bộ, đảng viên, cá nhân cần đẩy mạnh viêc học tậ p làm
theọ t Ām gương đạo đức của Bác:
- Trong mối quan hệ giữa người với người phải khoan dung, độ lượng, chân thành,
tránh ác cảm, thù hằn, nhân. Phải tình yêu nhân dân, tôn trọng nhân dân, hết lòng
phục vụ nhân dân, bảo vệ những quyền lợi chính đáng của nhân dân; không được coi mình
quan cách mạng để nhũng nhiễu, gây khó dễ cho nhân dân. Phải luôn lắng nghe, luôn
thấu hiểu để cùng cảm thông, cùng chia sẻ nhất khi nhân dân gặp hoàn cảnh khó khăn,
hoạn nạn.
- Đối với đồng sự phải có lòng yêu thương, trương trợ, giúp đỡ nhau để cùng tiến bộ
và ngày càng tốt đẹp hơn. Luôn thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tự phê bình và phê bình,
trên tinh thần thẳng thắn chân thât, không lựa gió bẻ măng”, “vơ đũa cả  nắm”, ng
cao quan điểm để “đánh môt đòn cho tới chết”.
- Khi nhân xét, đánh giá mộ t con người phải tính bao quát, tránh nhìn nhậ
n,  đánh giá môt cách phiến diệ n, chỉ nói đến khuyết điểm không thấy ưu
điểm của con  người. Đối với những hành vi sai trái phải nghiêm khắc phê bình, xử
nhưng cũng tạo cơ hôi để đồng chí mình sửa chữa, khắc phục và vươn lên. Trong đấu tranh
phê bình phải  cụ thể, rỏ ràng, không nói chung chung kiểu ai hiểu thế nào cũng được.
Lá cán bô, đảng viên chúng ta luôn ghi nhớ lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: 
“Học chủ nghĩa Mác Lênin để sống với nhau nghĩa, tình. Nếu sống với nhau
không có nghĩa có tình thì làm sao coi là hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin được”./.:
7. Vận dụng chuẩn mực đạo đức của Hồ Chí Minh về tinh thần quốc tế trong sáng
trong xây dựng đạo đức sinh viên hiện nay.
Đạo đức theo tư tưởng hồ chí minh là gì (GT 218)
Tinh thần quốc tế trong sáng theo tư tưởng hồ chí minh là gì (GT 231)
Tinh thần quốc tế trong sáng phẩm chất, là yêu cầu đạo đức của mỗi người dân trong
mối quan hrộng lớn, vượt qua ranh giới quốc gia, dân tộc. Nội dung chủ nghĩa quốc tế
trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở các điểm sau:
lOMoARcPSD| 61570461
Ðó chính là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân n lao động các nước
trong cuộc đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột.
Trong quá trình tìm đường cứu ớc, Hồ Chí Minh đã đến nhiều nước trên thế giới, các
nước bản, thuộc địa. Người đã chứng kiến cảnh cùng cực của giai cấp công nhân
nhân dân lao động, đồng thời thấy rõ cảnh sống xa hoa của bọn tư sản. Thực tế sinh động
đã giúp Người đồng cảm nhận thức rõ: Nơi đâu cũng người nghèo như xứ mình,
dù ở các nước thuộc địa hay chính quốc, họ đều bị áp bức, bóc lộtn nhẫn bởi chủ nghĩa
thực dân tàn ác. Người đi tới kết luận: "Dù màu da khác nhau, trên đời này chỉ có hai
giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉmột mối tình
hữu ái thật thôi: tình hữu ái sản" (Bài Ðoàn kết giai cấp của Nguyễn Ái Quốc
đăng trên báo Le Paria số 25 tháng 5-1924). Kết luận này cho thấy nhận thức của Hồ C
Minh về ý thức dân tộc ý thức giai cấp đã từ tầm nhìn quốc gia tới tầm nhìn quốc tế.
Kết luận trên cũng sự khởi đầu của tưởng đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh - đoàn kết
với những người lao khổ, cần lao trên thế giới, luôn gắn liền lợi ích dân tộc với lợi ích giai
cấp, lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế.2. Tinh thần quốc tế trong sáng còn là mục tiêu
"bốn phương vô sản đều là anh em".
Hồ Chí Minh tha thiết với độc lập, tự do của dân tộc mình, cho nên cũng rất trân trọng độc
lập tự do của các dân tộc khác. Bởi thế, Người hết sức căm giận trước bất cứ một hành
động xâm lược nào cho rằng: Giúp đỡ một dân tộc khác bảo vệ độc lập tự do của họ
cũng chính bảo vệ lợi ích của đất nước mình, "giúp bạn là tự giúp mình". Ðây chính là
một bước phát triển mới trong tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế. Vì lẽ đó, Người
luôn động viên nhân dân Việt Nam vừa tiến hành sự nghiệp bảo vệ độc lập tự do của dân
tộc mình, vừa thực hiện sự giúp đỡ vô tư chí tình, chí nghĩa đối với các dân tộc anh em.
Sự đoàn kết y nhằm những mục tiêu lớn của thời đại hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội, là hợp tác hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc. Sự đoàn kết ấy
dựa trên cơ sở bình đẳng và kết hợp giữa lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế.
thực trạng
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Trong bài
"Tinh thần yêu ớc tinh thần quốc tế" (1953), Người đã nhấn mạnh: "Tinh thần yêu
nước và tinh thần Quốc tế liên hệ khăng khít với nhau. Vì lẽ đó, ta vừa ra sức kháng chiến,
vừa tham gia phong trào ủng hộ hòa nh thế giới". Nếu tinh thần yêu nước không chân
chính và tinh thần quốc tế không trong sáng thì có thể dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi,
hoặc chủ nghĩa bành trướng bá quyền, kỳ thị chủng tộc... Những khuynh ớng sai lệch ấy
thể dẫn đến chỗ phá vỡ một quốc gia n tộc hay một liên bang đa quốc gia dân tộc, phá
vỡ tình đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chung, thậm chí thđưa đến tình trạng
lOMoARcPSD| 61570461
đối đầu đối địch. Ðây một thực tế đã diễn ra châu Âu nhiều khu vực trên thế giới
hiện nay.
thể nói tinh thần quốc tế trong sáng trong đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ tình
thương yêu đối với con người; mục tiêu giải phóng các n tộc bị áp bức, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người, mang lại tự do và bình đẳng thật sự cho con người. Từ chủ
nghĩa quốc tế trong sáng đó, Hồ Chí Minh đã đặt nền móng và xây dựng nên tình đoàn kết
quốc tế rộng lớn của nhân dân Việt Nam với các dân tộc trên thế giới, góp phần vào những
thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới.
Trong thời kỳ mới của cách mạng, nguồn lực quan trọng để xây dựng phát triển đất nước
chính là mở rộng tình đoàn kết quốc tế, quan hệ hợp tác cùng lợi, chủ động, tích cực hội
nhập, như Ðảng ta đã khẳng định: "Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng
hóa các quan hệ quốc tế... Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực". (Văn kiện Ðại hội X
của Ðảng. Tr 112. NXB CTQG - Hà Nội - 2006).
Trong bối cảnh thế giới phức tạp và khó lường hiện nay, nguồn lực quantrọng để xây
dựng, bảo vệ và phát triển đ Āt nước chính mở rộng tình đoàn kết quốc tế, quan
hệ hợp tác cùng lợi.Vì thế chúng ta phải chủ động hội nhập quốc tế để phát triển
một cách toàn diện và phát triển đ Āt nước.
Để làm được thế sinh viên cần
Chủ động học tập, hội nhập quốc tế
Không kì thị, phân biệt chủng tộc
Trau dồi thêm về tin tức ngoài nước bằng cách xem tin tức, đọc báo.....
8. Vận dụng các nguyên tắc xây dựng đạo đức trong tưởng Hồ Chí Minh để xây
dựng và hoàn thiện đạo đức của người giáo viên hiện nay.
Đạo đức theo tư tưởng của Hồ Chí Minh (GT 218)
3 nguyên tắc (GT 232)
Thực trạng
lOMoARcPSD| 61570461
Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Đóng góp vào những thành tựu chung đó, giáo dục (GD) và đào tạo đã thực hiện được mục
tiêu: Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; Chúng ta đã xây dựng được
một hình GD nhiều bậc học, từ GD mầm non đến GD đại học sau đại học, nhiều
hình thức đào tạo từ chính quy, chuyên tu, vừa làm vừa học đáp ứng nhu cầu học tập suốt
đời cho người dân; Xây dựng được đội ngũ nhà giáo đủ về số lượng và chất lượng. GD và
đào tạo luôn dành được sự quan tâm của Đảng Nhà nước. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng đã tiếp tục khẳng định: “Phát triển GD quốc sách hàng đầu. Đổi
mới căn bản, toàn diện nền GD Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa,
dân chủ hóa và hội nhập quốc tế”. Trong đó, nhiệm vụ xây dựng đội ngũ nhà giáo là nòng
cốt và có vai trò quan trọng. Trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đặt ra
cho GD đào tạo những yêu cầu mới cao hơn.Tuy nhiên, một bộ phận nhà giáo đã
không giữ được những phẩm chất cao quý của nghề, tự tha hóa, biến chất, vi phạm nghiêm
trọng đạo đức nghề nghiệp như: tham gia chạy chỗ”, “chạy điểm”, “chạy trường” cả
những hành vi xâm hại tình dục, xâm phạm thân thể, xúc phạm danh dự, nhân phẩm người
học, thậm chí đi ngược lại luân thường đạo lí... Thực trạng này đã gióng lên hồi chuông
cảnh báo, cần phải biện pháp để củng cố, xây dựng đạo đức nhà giáo trong giai đoạn
hiện nay. Giáo viên cần xây dựng
Giáo viên cần phòng chống
Phê phán
9. Vận dụng quan điểm của Hồ CMinh về xây dựng con người mới trong sự
nghiệp trồng người hiện nay. ( tài liệu Anh Sang trang 137)
10. Anh chị vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh hiện nay như thế nào?
Nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc theo tư tưởng HCM: (GT 218)
Bối cảnh đ Āt nước hiện nay: tích cực, hạn chế ( Anh Sang 118)
Chủ trương đường lối của Đảng (AS 119)
Trách nhiệm của sinh viên, cán bộ Đảng viên (AS 120)
11. Phân tích các nguyên tắc đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh và nêu
ý nghĩa của quan điểm đó đối với sự nghiệp cách mạng hiện nay.
Khái niệm đoàn kết quốc tế theo TTHCM: (AS 104)
Phân tích nguyên tắc (AS 107)
lOMoARcPSD| 61570461
Ý nghĩa đối với CM hiện nay
Quán triệt tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, Đảng Chính phủ Việt Nam luôn
tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân các nước đối với cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược Mỹ. Nhờ quan điểm đoàn kết đúng đắn đó của Người mà Pháp
Mỹ đã dấy lên phong trào các tầng lớp nhân dân đòi chính phủ phải chấm dứt chiến tranh
xâm lược Việt Nam.
Ngày nay, trong bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi, thời thách thức đan xen lẫn nhau,
vấn đề đoàn kết đấu tranh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có những thuận
lợi và khó khăn mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, phát huy sự ủng hộ quốc tế là cơ
sở quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam hoạch định chủ trương, đường lối đối ngoại và
giải quyết các vấn đề quốc tế
Một là, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ, dựa vào sức mình là chính làm
nền tảng để mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát triển bền
vững không làm phương hại đến chủ quyền quốc gia, bản sắc văn hóa dân tộc m
1947, khi trả lời một nhà báo nước ngoài về quan niệm độc lập của Việt Nam, Hồ Chí Minh
nói rõ: “Độc lập nghĩa chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không
sự can thiệp ở ngoài vào”.
Các quốc gia, dân tộc trên thế giới đang tham gia sâu rộng vào quá trình toàn cầu hóa, hội
nhập quốc tế, hợp tác cùng phát triển trong hòa bình hữu nghị. Chiến tranh, xung đột
cục bộ vẫn xảy ra, chủ nghĩa khủng bố những hành vi tàn ác chà đạp quyền sống của
con người. Đặc biệt, thái độ “lớn ép nhỏ”, lợi ích chủ nghĩa dân tộc cực đoan đã kéo
theo các hành vi xâm phạm độc lập, chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo của nước khác, bất chấp
luận và luật pháp quốc tế. Trong đó, những phức tạp Biển Đông đã, đang và tiếp tục
gây phức tạp, đe dọa đến hòa bình, ổn định của Việt Nam và các nước trong khu vực. Với
truyền thống hòa hiếu, Việt Nam luôn mong muốn cùng các ớc xây dựng củng cố
lòng tin chiến lược hòa bình, hợp tác, phát triển trên nguyên tắc n trọng độc lập, chủ
quyền, bình đẳng cùng lợi. Việt Nam kiên định nhất quán đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; bạn, đối tác tin cậy của tất cả các quốc gia
và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; không ngừng nỗ lực làm sâu sắc
thêm và xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, đối tác hợp tác cùng có lợi với các quốc gia.
Đối với các nguy thách thức về an ninh khu vực đang hiện hữu như bán đảo Triều
Tiên, Biển Hoa Đông, Biển Đông… Việt Nam trước sau như một kiên trì nguyên tắc giải
quyết bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, tôn trọng độc lập chủ quyền và
lợi ích chính đáng của nhau. Các n liên quan đều phải kiềm chế, không sử dụng lực
và đe dọa sử dụng vũ lực
lOMoARcPSD| 61570461
Hai là, tưởng Hồ CMinh về đoàn kết quốc tế cơ sở luận quan trọng để Đảng
Cộng sản Việt Nam c định đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ quốc tế trong bối cảnh mới
Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
non trẻ đứng trước muôn vàn thử thách, cùng một lúc phải đương đầu với giặc đói, giặc
dốt, giặc ngoại xâm. Trong thời khắc ngàn cân treo sợi tóc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo
léo sử dụng ngoại giao đa phương để phục vụ mục tiêu của cách mạng. Thông cáo về Chính
sách ngoại giao do Hồ Chí Minh ngày 3-10-1945 thể hiện quan điểm đối ngoại thân
thiện và thành thực hợp tác trên lập trường bình đẳng, tương ái; tôn trọng nền độc lập của
Việt Nam, hữu nghị, hợp tác và bình đẳng; đối với các dân tộc nhược tiểu trên toàn cầu thì
thân thiện, hợp tác chặt chẽ.
Có thể thấy rằng, tư duy đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ của nước ta được
hình thành từ rất sớm. Ngay từ tháng 6-1947, trả lời nhà báo Mỹ, Chtịch Hồ Chí Minh
bày tỏ mong muốn của Việt Nam là làm bạn với tất cả mọi ớc dân chủ và không gây thù
oán với một ai. Nhờ chính sách ngoại giao đa phương hóa quan hệ, ngoại giao Việt Nam
đã phá được thế bị bao vây, cô lập, cấm vận, khẳng định tính hợp pháp, hợp hiến của chính
quyền cách mạng khu vực trên thế giới. Qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, đế quốc Mỹ, đến giai đoạn đất nước bước vào công cuộc đổi mới, giương cao ngọn
cờ độc lập dân tộc đoàn kết quốc tế, ngoại giao Việt Nam đã tranh thủ được sự ủng h
to lớn về vật chất và tinh thần của bạn bè quốc tế, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của
đất nước và phục vụ đắc lực vào cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và công cuộc đổi
mới đất nước.
Ba là, vận dụng tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế để tạo ra môi trường quốc tế
hòa bình, ổn định, hữu nghị với các nước láng giềng, các nước trong khu vực, các nước lớn
để tập trung mọi nguồn lực phát triển đất nước
Để xây dựng một thế giới hòa nh, phát triển tốt đẹp, theo Hồ Chí Minh các dân tộc cần
xích lại gần nhau, thông qua tiếp xúc, trao đổi để hiểu biết nhau hơn, tin cậy nhau, cùng
nhau giải quyết các xung đột. Người luôn tâm niệm: “với một sự tin cẩn lẫn nhau, những
dân tộc tự do và bình đẳng vẫn có thể giải quyết những vấn đề khó khăn nhất” và “Thế giới
hòa bình có thể thực hiện được nếu các nước trên thế giới, nhất là những nước lớn, đều sẵn
sàng giải quyết những xích mích giữa các nước bằng thương lượng”.
Bằng những cố gắng không mệt mỏi của mình, Người đã sáng lập ra các tổ chức quốc tế,
đoàn kết các dân tộc đấu tranh độc lập, tự do vào những năm 20 của thế kỷ XX.
tưởng nhất quán của HChí Minh về giải quyết những bất đồng trong quan hệ quốc tế là
lấy hữu nghthay cho hận thù, đối thoại thay cho đối đầu, a bình thay cho chiến tranh,
lOMoARcPSD| 61570461
luôn mong muốn tình hữu nghị, hòa bình, sự hợp tác thân thiện giữa các quốc gia, dân tộc,
giữa các nước trên thế giới.
Trong bối cảnh thế giới, khu vực và đất nước có nhiều biến đổi, thời cơ và thách thức đan
xen lẫn nhau, tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế sở lý luận vững chắc, lâu
dài cho cách mạng Việt Nam về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đảng
Cộng sản, nhân dân Việt Nam nhân dân thế giới luôn phát huy cao nhất tinh thần đoàn
kết quốc tế cao cả của Người, để Người không còn day dứt trước lúc đi xa: “… tôi càng tự
hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng
đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em” cũng thực hiện sự
mong muốn của Người Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi
phục lại đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin chủ nghĩa
quốc tế vô sản, có lý, có tình”.
Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh rất quan tâm
đến vấn đề đoàn kết. Những lời căn dặn của Người trong Di chúc về đoàn kết quốc tế
định hướng quan trọng cho quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta, để Việt Nam luôn
đóng góp xứng đáng vào nền hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, những di huấn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế vẫn còn nguyên tính thời sự, tính khoa học thực
tiễn; sự đúc kết, trải nghiệm từ chính cuộc đời hoạt động cách mạng của Người.
tưởng đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện trong cả duy luận hoạt
động thực tiễn; không chỉ trong nội bộ Đảng, trong bộ máy chính quyền, trong phạm vi
một dân tộc, mà còn được thể hiện trên bình diện rộng lớn hơn, đó đoàn kết quốc tế. Gần
60 năm hoạt động cách mạng, trong đó 30 năm hoạt động ở nước ngoài, liên tục tham gia
phong trào cách mạng đóng góp cho sự nghiệp chung của cách mạng thế giới, thông
điệp về tình hữu nghị, đoàn kết quốc tế luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện một cách
rõ ràng và vững chắc. Quan điểm về đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xuyên
suốt nhất quán, bởi Người sớm nhận ra, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc theo con
đường cách mạng sản muốn đi đến thắng lợi thì phải huy động tập hợp được sức
mạnh đoàn kết quốc tế. Trong hành trình tìm đường cứu nước, ởng cách mạng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở giải phóng dân tộc mình, mà còn vì sự nghiệp
giải phóng các dân tộc bị áp bức và nhân loại cần lao. Những lời di huấn của Người về tình
đoàn kết quốc tế bắt nguồn từ tình yêu thương đối với con người. Và đoàn kết quốc tế cũng
để nhằm mục tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người. Từ tình cảm, lòng thương yêu khát vọng giải phóng n tộc mình, đất nước mình,
Chủ tịch Hồ Chí Minh thông cảm với nỗi thống khổ số phận của nhân dân các thuộc
lOMoARcPSD| 61570461
địa. Xuất phát từ chủ nghĩa nhân văn cao đẹp đó, Nguyễn Ái Quốc một trong những
người ng thành lập các tổ chức: “Liên minh các dân tộc thuộc địa”, “Hội liên hiệp các
dân tộc bị áp bức Á Đông”… Ngay từ khi tiếp cận với phong trào cách mạng thế giới,
Người luôn đặt cách mạng Việt Nam trong mối quan hệ khăng khít với phong trào cách
mạng thế giới. Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, một con người đại, đã gắn cách
mạng của đất nước nh với cách mạng thế giới thời đại, trên cơ sở nhận thức ch
mạng Việt Nam là một bộ phận, có quan hệ mật thiết với cách mạng vô sản và phong trào
giải phóng dân tộc các nước thuộc địa, phụ thuộc trên thế giới. Vì vậy, Người chủ trương
thực hiện đoàn kết sâu sắc triệt để trên nguyên tắc bình đẳng dân tộc hợp tác cùng
lợi. Đoàn kết và hợp c quốc tế là tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình ủng
hộ giúp đỡ quốc tế để làm tăng thêm khả năng tự lực, tự cường, tạo điều kiện làm chuyển
biến lực lượng lợi cho cách mạng trong ớc. Đoàn kết quốc tế trthành một chân lý,
một phương châm hành động tất yếu phù hợp với quy luật và sự phát triển của cách mạng,
sự tiếp nối của lịch sử.
Cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam cuộc đấu tranh chính nghĩa, do vậy được sự
ủng hộ của nhân dân tiến bộ yêu chuộng hòa bình thế giới, nhằm tăng cường nội lực sức
mạnh tổng hợp để thực hiện các nhiệm vụ chiến lược. Về phần mình, nhân dân Việt Nam
cũng có nghĩa vụ đóng góp vào sự nghiệp đấu tranh của nhân dân thế giới. Hồ Chí Minh –
lãnh tụ đại đã hiến dâng cả cuộc đời cho đất nước, cho nhân dân nhân loại tiến bộ.
Tư tưởng đại đoàn kết là một trong những di sản quý báu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại
cho chúng ta. Những lời căn dặn của Người trong Di chúc “về phong trào cộng sản thế
giới” là định ớng quan trọng cho quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta, để Việt Nam
là một thành viên trách nhiệm, đóng góp xứng đáng vào nền hòa bình, ổn định phát
triển của thế giới. Nghiên cứu, tìm hiểu thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
giúp chúng ta thêm thấm nhuần bài học về quan hệ quốc tế để định hướng chiến lược
đúng đắn, lâu dài cho công cuộc xây dựng phát triển đất nước, mở rộng quan hệ quốc
tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, nhất là trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
12. Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về các điều kiện xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộc trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
Khái niệm đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Bối cảnh: (AS 97)
Vận dụng (AS 93)

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61570461
1.Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân trong xây
dựng nhà nước Việt Nam hiện nay.
Nhà nước của dân, do dân, vì dân (as)
Bầu cử dân chủ là phương thức thành lập bộ máy nhà nước đã được xác lập trong nền chính
trị hiện đại, đảm bảo tính chính đáng của chính quyền khi tiếp nhận sự uỷ quyền quyền lực
từ nhân dân. Chính vì vậy, để thật sự là nhà nước của dân, ngay từ những ngày đầu giành
được nền độc lập, Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến tổ chức cuộc tổng tuyển cử để
nhân dân trực tiếp bầu ra các đại biểu xứng đáng thay mặt mình gánh vác việc nước.
Đối với Hồ Chí Minh, một nhà nước của dân thật sự phải là một nhà nước do dân và vì
dân. Người viết: “Kinh nghiệm trong nước và các nước chứng tỏ cho chúng ta biết: có lực
lượng dân chúng, việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có, thì việc gì làm
cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng,
đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”; “Không có
lực lượng nhân dân, thì việc nhỏ mấy, dễ mấy làm cũng không xong…” (Hồ Chí Minh:
Toàn tập, tập 6, tr.292, NxbCTQG, H,2000).

http://m.tuoitrebinhduong.vn/tin-tuc/van-dung-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-nha-nuoc-
vaphap-luat-vao-trong-cong-cuoc-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-
cuanhan-dan-do-nhan-dan-vi-nhan-dan-o-viet-nam-19068.html
Tình hình công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Những thành tựu, kết quả đạt được.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, đánh giá:
“...Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà
nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng
bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. ( có thể sử dụng cho nhà nước pháp quyền)
Hệ thống pháp luật được hoàn thiện một bước cơ bản. Vai trò của pháp luật và thực thi
pháp luật ngày càng được chú trọng trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước và đời sống
xã hội. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rõ hơn và có
chuyển biến tích cực. Bộ máy nhà nước bước đầu được sắp xếp lại theo hướng tinh gọn
gắn với tinh giản biên chế, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. có thể sử dụng cho nhà nước pháp quyền)
Hoạt động của Quốc hội trong việc thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những
vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao có nhiều đổi mới, chất lượng và hiệu lOMoAR cPSD| 61570461
quả được nâng cao. Vai trò, trách nhiệm của đại biểu Quốc hội được thể hiện rõ hơn.... có
thể sử dụng cho nhà nước pháp quyền)
Hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp có nhiều đổi mới. Hoạt động của Chính phủ và
các bộ, ngành chủ động, tích cực, tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô; tháo gỡ các
rào cản; phục vụ, hỗ trợ phát triển. Cải cách hành chính, cải cách tư pháp trên một số lĩnh
vực có bước đột phá. Tổ chức bộ máy của toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan
điều tra, cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn, chất lượng hoạt động có tiến bộ,
bảo vệ tốt hơn lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức và
cá nhân; tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Tổ chức bộ máy
của chính quyền địa phương được sắp xếp lại theo hướng tinh gọn; quan tâm xây dựng
chính quyền đô thị, chính quyền nông thôn, khẩn trương triển khai xây dựng chính quyền điện tử”.
Bên cạnh những thành tựu, kết quả đạt được, công cuộc xây dựng nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam thời gian qua vẫn còn những hạn chế, tồn tại cần khắc phục, như:

- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu
pháttriển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới.
- Quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi chưa được tôn trọng và phát huy đầy đủ.
Bộmáy nhà nước ở một số nơi chưa thật sự vì dân, còn quan liêu, xa dân, phiền hà, sách
nhiễu dân; thủ tục hành chính chưa thuận tiện cho dân, thiếu công khai cho dân biết, dân
kiểm tra; một số cán bộ còn thiếu trách nhiệm, thiếu năng lực, làm việc tùy tiện, hách
dịch, cửa quyền, vi phạm quyềncon người, quyền công dân. Thực hành dân chủ đi đôi
với giữ vững kỷ cương, kỷ luật còn nhiều bất cập, thực hành dân chủ ở cơ sở có nơi còn
hình thức, chưa bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân.
- Vấn đề đổi mới đồng bộ, phù hợp giữa kinh tế với chính trị, văn hoá, xã hội, giữa đổimới
kinh tế với đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước có một số mặt còn lúng
túng. Cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện; vai trò giám sát của nhân dân chưa
được phát huy mạnh mẽ.
- Hệ thống pháp luật còn một số quy định chưa thống nhất, chưa đáp ứng kịp thời yêu
cầuthực tiễn. Chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm; kỷ cương, phép nước có nơi,
có lúc còn bị xem nhẹ, xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức
răn đe. có thể sử dụng cho nhà nước pháp quyền)
- Cải cách hành chính, cải cách tư pháp chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước.có
thể sử dụng cho nhà nước pháp quyền) lOMoAR cPSD| 61570461
- Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương chưa đổi mới mạnh mẽ; chức
năng,nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền chưa thật rõ ràng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn hạn chế.
- Số lượng cán bộ cấp xã và đội ngũ viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công vẫn cònquá
lớn; phẩm chất, năng lực, uy tín còn nhiều hạn chế, thiếu tính chuyên nghiệp, chưa đáp
ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Một số định hướng tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra các nhiệm
vụ trọng tâm, cơ bản sau:
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
củanhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của
đổi mới hệ thống chính trị.
- Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơquan
đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
- Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền,
chuyênnghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch, hoàn thiện quyền
bầu cử trực tiếp, gián tiếp cho nhân dân.
Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm
minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
- Tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với địa bàn nông thôn, đôthị,
hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt theo luật định.
- Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, để
trởthành nguoiwfddaij biểu nhân dân để nói lên khát vọng, lợi ích, phục vụ nhân dân và
sự phát triển của đất nước.
- Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật.có thể sử dụng
cho nhà nước pháp quyền)
Từ những nhiệm vụ cơ bản đó, trong thời gian tới chúng ta cần phải tập trung thực
hiện những nội dung sau đây:
- Phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân;
- Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tầ chức thực hỉện pháp luật. lOMoAR cPSD| 61570461
- Tiếp tục đổỉ mới tầ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và tăng cường kỉểm soátquyền lực nhà nước.
- Xây dựng, kỉện toàn đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nướcpháp
quyền xã hộỉ chủ nghĩa Vỉệt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
- Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong tố chức và hoạt động củabộ máy nhà nước.
- Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong tố chức và hoạt động củabộ máy nhà nước.
- Đổi mói và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đốỉ với Nhà nước trong đỉều kiện xâydựng
Nhà nước pháp quyền xã hộỉ chủ nghĩa.
Quá trình xây dựng và phát triển của Nhà nước ta trong mỗi giai đoạn sau này đã có không
ít những thay đổi về mô hình bộ máy dưới tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách
quan, nhưng xuyên suốt mạch phát triển ấy vẫn là tư tưởng của Hồ Chí Minh về một chính
quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Ngày nay, trong bối cảnh phát triển mới của
đất nước, dưới tác động mạnh mẽ của thời đại và thế giới, trong xu thế toàn cầu hoá, nhiều
điểm đã thay đổi, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền của dân, do dân,
vì dân vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục định hướng cho các nỗ lực nghiên cứu, tìm kiếm giải
pháp đổi mới mô hình bộ máy nhà nước trong các điều kiện phát triển mới./
2.Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng
Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay.
Nêu lý thuyết về ngtac tập trung dân chủ( 70/as-130/gt)
Thực tiễn:Sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu là bài
học đau xót về việc buông lỏng, xa rời, thực hiện không đúng nguyên tắc tập trung dân chủ
của Đảng Cộng sản. Một số nước nghiêng về tập trung quan liêu, thống nhất cứng nhắc,
dẫn đến vi phạm dân chủ trong Đảng, xuất hiện hàng loạt các sai lầm: gia trưởng, độc đoán,
sùng bái cá nhân. Một số nước lại hạ thấp tính tập trung, thống nhất, dẫn đến hỗn loạn, vô
chính phủ. Những sai lầm trong nhận thức và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ đã
làm tổn hại đến vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, cản trở sự phát triển của các nước đó.
Ở Việt Nam, ngay từ những ngày đầu được thành lập đến nay, trải qua hơn 90 năm xây
dựng và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên trì thực hành nguyên tắc tập trung
dân chủ, từ đó tập hợp, đoàn kết, phát huy bản lĩnh, trí tuệ, tính tiền phong gương mẫu của
đội ngũ cán bộ, đảng viên, lOMoAR cPSD| 61570461
Chủ tịch Hồ Chí Minh lý giải bản chất của tập trung dân chủ: “Nhân dân là ông chủ nắm
chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân
chủ
. Các cơ quan chính quyền là thống nhất, tập trung. Từ hội đồng nhân dân và ủy ban
kháng chiến hành chính xã đến Quốc hội và Chính phủ Trung ương, số ít phải phục tùng
số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương. Thế là
vừa dân chủ vừa tập trung”(7). Tập trung và dân chủ là hai mặt thống nhất biện chứng,
không thể tách rời. Tập trung hỗ trợ, bảo đảm cho dân chủ được thực hiện trong khuôn
khổ, có sự kiểm soát; dân chủ giúp cho tập trung được thực hiện linh hoạt, đạt hiệu quả cao
trong lãnh đạo và quản lý. Vì vậy, cần phải có sự kết hợp một cách đồng bộ, chặt chẽ việc
bảo đảm cả hai yếu tố này trong hoạt động lãnh đạo của Đảng và hoạt động quản lý nhà
nước. Dân chủ phải được bảo đảm bởi tập trung và tâp trung phải dựa trên cơ sở dân chủ.
Nếu chỉ có sự lãnh đạo tập trung mà không mở rộng dân chủ thì sẽ tạo môi trường cho phát
sinh cửa quyền, tham nhũng. Ngược lại, không có sự lãnh đạo tập trung, thống nhất sẽ dẫn
đến tình trạng tùy tiện, vô chính phủ, cá nhân chủ nghĩa. Vận dụng: thực trạng của dân
chủ hiện nay, vì sao cần tập trung, dân chủ
trong những bước ngoặt của cách mạng vốn
đòi hỏi sự tỉnh táo, thận trọng
Người lãnh đạo phải bình tĩnh, lắng nghe những ý kiến của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Những ý kiến khác nhau phải được nói hết, nói thẳng và cần trải qua thảo luận dân chủ để
đi đến chân lý. Những ý kiến khác nhau trong thảo luận, tranh luận là điều bình thường và
chính quá trình đó mới giúp chúng ta tiệm cận chân lý, làm sâu sắc hơn nhận thức về chân
lý - đây cũng là một biểu hiện của chế độ tập trung dân chủ. Tuy nhiên, khi đã thành nghị
quyết trên cơ sở ý kiến đồng thuận của đa số (theo quy định của Điều lệ Đảng), thì thiểu
số phải phục tùng và chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết đó. trong hoạt động lãnh đạo của
Đảng, cần định kỳ xem xét lại ý kiến bảo lưu và coi đây là việc làm thường xuyên để bảo
đảm tính đúng đắn của quá trình thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đảng nêu cao sự thống nhất ý chí và hành động trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
thể hiện sự thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc tập trung dân chủ trong mọi
hoạt động của Đảng. Để Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ
mới của cách mạng, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc tập trung dân chủ.
Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc tập trung dân chủ
trong tổ chức và hoạt động của Đảng
Thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng; các cơ chế, quy định của Đảng
về dân chủ và phát huy dân chủ ở cơ sở, bảo đảm phát huy trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân
trong xây dựng và hoàn thiện chủ trương, đường lối, chính sách và tổ chức thực hiện; bảo
đảm sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự đoàn kết và đồng thuận trong xã hội. Tăng
cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh, phê lOMoAR cPSD| 61570461
phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, xuyên tạc về nguyên tắc tập trung dân chủ và việc thực
hiện nguyên tắc này trong công tác xây dựng Đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Phối hợp chặt chẽ để phát huy sức
mạnh của cả hệ thống chính trị. “Đảng ta tuy muôn người nhưng khi tiến đánh chỉ như
một người”,
thể hiện sự thống nhất về ý chí và hành động như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra
phải nâng tầm tư duy lý luận của Đảng, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận,
hệ quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ. không nên tuyệt đối hóa hay đối lập tập trung
với dân chủ, vì đó chỉ là hai mặt không thể tách rời của một nguyên tắc. tuân thủ, bảo vệ
nguyên tắc tập trung dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta, kiên
quyết, kiên trì đấu tranh không khoan nhượng chống mọi biểu hiện xa rời, buông lỏng, xem
nhẹ nguyên tắc ấy là biểu hiện rõ ràng nhất tính đảng, phẩm chất đạo đức cách mạng của
mọi tổ chức đảng và của mỗi người cán bộ, đảng viên trong điều kiện hiện nay 3.
Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
vận dụng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam hiện nay. (185-gt) 108
Sức mạnh dân tộc,sức mạnh thời đại:185gt 4.
Vận dụng chuẩn mực đạo đức trung với nước hiếu với dân trong xây dựng và rèn
luyệnđạo đức cán bộ, đảng viên. Định nghĩa cán bộ, 73
Yêu cầu đối với cán bộ 73
Nêu lí thuyết về trung với nước, hiếu với dân.
Thực trạng: Trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước như chiến lược diễn biến hòa
bình, thủ đoạn về kinh tế,khoảng cách về thu nhập.
Điểm mạnh: thích ứng nhanh với cơ chế thị trường, lập trường tư tưởng vàng, đạo đức
trong sáng, tinh thần đoàn kết trong nội bộ Đảng
có nhiều biến động, tác động nhiều chiều đến tâm tư, tình cảm, niềm tin của người cán bộ,
đảng viên,đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị đông nhưng chưa mạnh, năng lực của
đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, tình trạng biến chất, tham nhũng, lối sống buông thả, không
có kế hoạch việc cán bộ, đảng viên học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Trước hết, cán bộ, đảng viên thực hiện
“trung với nước, hiếu với dân” với các nội dung sau: lOMoAR cPSD| 61570461
Trung với nước phải thể hiện ở sự trung thành tuyệt đối với lợi ích của đất nước, của nhân
dân, của Đảng, của tổ chức mà mình tham gia. khát vọng được cống hiến cho xã hội, như
Đại hội XIII của Đảng đã xác định: Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc. Người cán bộ, đảng viên cần xây dựng niềm tin vào sức mạnh của dân tộc, vào
sự lãnh đạo của Đảng, vào khả năng của mỗi con người để từ đó phát huy tinh thần tự lực,
tự cường, tự chủ của cả dân tộc. Niềm tin đó phải được bồi dưỡng thường xuyên trên cơ sở
khoa học và thực tiễn để trở thành niềm tin khoa học mang tính bền vững, nâng cao nhận
thức, tang cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sông trong can bộ đảng viên.
Tập trung xd đội ngũ cán bộ cấp chiesn lược, kiểm soát chặt chẽ quyền lực nhà nước
Cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, nghiêm túc thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, nội quy, quy định của cơ quan, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Mỗi
cán bộ, đảng viên là một mắt xích trong hệ thống chính trị, thực hiện nhiệm vụ mà tổ chức giao.
Cán bộ, đảng viên phải luôn quan tâm, bảo vệ lợi ích của đất nước, của tổ chức mình tham
gia. Bởi lợi ích chung được bảo đảm thì lợi ích của bộ phận, cá nhân mới được bảo đảm.
Phải luôn đặt việc công lên trên việc tư, luôn quy chiếu lời dạy của Hồ Chí Minh: “Việc
thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh”(15). Giữa lợi ích cá nhân
và lợi ích tập thể luôn phải cân bằng, bảo đảm lợi ích chung và xem xét những lợi ích cá
nhân có chính đáng hay không; tránh tư thù, tư lợi, bè phái, trù dập; vì cảm tình riêng, lợi
ích riêng mà gây ra bất bình đẳng, bất công trong cơ quan, đơn vị. có cơ chế thu hút những
cán bộ trẻ, có năng lực, phát huy vai trò, trách nhiệm của người lãnh đạo về việc đề bạt,
tiến cử người kế cận.
Hiếu với dân trong điều kiện hiện nay là tôn trọng nhân dân, chăm lo lợi ích cho nhân dân,
đặc biệt là không ngừng mở rộng dân chủ nhằm phát huy sức mạnh của nhân dân.
Cán bộ, đảng viên muốn hoàn thành nhiệm vụ được giao thì phải dựa vào dân, phát huy
sức mạnh của nhân dân. Muốn vậy, phải biết gần dân, hiểu dân, lắng nghe ý kiến của nhân
dân, liên hệ mật thiết với nhân dân, làm lợi cho dân. Ngoài phục vụ nhân dân, cán bộ, đảng
viên còn cần thể hiện thái độ khiêm tốn, thật thà đối với nhân dân, tránh làm việc tổn hại đến nhân dân.
Mở rộng dân chủ là nội dung cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, là mục tiêu, động
lực của công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước, được Đảng, Nhà nước luôn rất quan tâm.
Mở rộng dân chủ là phương pháp để người dân ý thức tự nâng cao trình độ, nâng cao sự
hiểu biết và tích cực, chủ động tham gia phản biện, giám sát Nhà nước. Vì vậy, càng đòi
hỏi đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên phải phục vụ người dân đúng chức trách, phải
tuân thủ những chuẩn mực của đạo đức công vụ, phải tận tâm, tận lực. Mở rộng dân chủ
cũng tạo điều kiện tăng cường đoàn kết toàn dân, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân. lOMoAR cPSD| 61570461
Cán bộ, đảng viên cần đi đầu trong hoạt động đền ơn, đáp nghĩa đối với những người có
công với cách mạng, với đất nước, quê hương, thể hiện sự tiếp nối truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
“Trung với nước, hiếu với dân” không chỉ là trách nhiệm mà còn là đạo lý của cán bộ, đảng
viên. Cán bộ, đảng viên phải chủ động, sáng tạo, hết lòng, hết sức làm tròn những việc
được giao, nếu không làm tốt thì phải chịu trách nhiệm về những hậu quả của việc đó. Cán
bộ, đảng viên thực hành đạo đức “trung với nước, hiếu với dân” là làm đúng đường lối của
Đảng, quy định của pháp luật; làm đúng với đạo lý uống nước nhớ nguồn, mang lại lợi ích
cho bản thân và cộng đồng. Thực hiện “trung với nước, hiếu với dân”, cán bộ, đảng viên,
cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang “sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ
quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua,
kẻ thù nào cũng đánh thắng”(16). 5.
Vận dụng chuẩn mực đạo đức cần, kiệm, liêm, chính trong xây dựng và rèn luyện
phẩm chất sinh viên hiện nay.
Định nghĩa: đạo đức 121
Nêu tư tưởng hcm về cần,kiệm, liêm, chính 123 Bối cảnh: 126 Ưu, nhược diểm: 127 Biện pháp: 128,129
+Chuyên cần xây dựng kiến thức chuyên môn, đạo đức Cách mạng 6.
Vận dụng chuẩn mực đạo đức yêu thương con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh
để xây dựng và rèn luyện đạo đức hiện nay.
“ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” Kn: đạo đức
Lý thuyết về đạo đức yêu thương con người: 124 Bối cảnh : 126
6. Vận dụng chuẩn mực đạo đức yêu thương con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh
để xây dựng và rèn luyện đạo đức hiện nay.
Đạo đức theo tư tưởng hồ chí minh là gì (GT 218) lOMoAR cPSD| 61570461
Yêu thương con người trong tư tưởng hồ chí minh là gì ( GT 229)
Ý nghĩa của việc yêu thương con người
Tư tưởng yêu thương con người chiếm giữ một vị trí rất quan trọng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức
cao đẹp nhất. Người chỉ rõ: “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn.
Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người. Trừ bọn Việt gian bán nước,
trừ bọn phát xít thực dân, là những ác quỷ mà ta phải kiên quyết đánh đổ, đối với tất cả
những người khác thì ta phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ”. Người luôn tâm niệm tình yêu
thương con người là sự quan tâm, biết ơn, trân trọng, tin tưởng vào sức mạnh của con
người, quyết tâm hành động để mang lại hạnh phúc, ấm no cho con người, giải phóng con
người, là động lực mãnh liệt thôi thúc hoạt động không mệt mỏi vì nước, vì dân của Người.
Đó là tình yêu thương con người của một trái tim lớn và vô cùng nhân hậu, cũng là nền
gốc để quy tụ, đoàn kết hết thảy mọi tầng lớp, mọi lực lượng. Điều này được thể hiện sâu
sắc qua mỗi lời nói, việc làm, bài viết và đặc biệt là những căn dặn của Người. Ngay cả
trước khi từ biệt cõi đời, Người vẫn còn canh cánh một điều “chỉ tiếc là không được phục
vụ Nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
Tấm lòng yêu thương con người, yêu thương nhân dân ở Hồ Chí Minh đã được Người khái
quát thành đạo lý sống, lẽ tự nhiên. Biểu hiện cao nhất trong tình yêu thương con người
của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự quý trọng nhân dân, chăm nom đến mọi mặt đời sống của
nhân dân, quan tâm đến nhu cầu, nguyện vọng của cả dân tộc và mỗi người dân Việt Nam;
thấy rõ vị trí, vai trò, sức mạnh của nhân dân và không ngừng đấu tranh giải phóng dân
tộc, giải phóng con người, mang lại “độc lập, tự do, hạnh phúc” cho nhân dân. Người nói:
“Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề....là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải
thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức”. Vì vậy, tình yêu thương
con người của Bác Hồ là rất cụ thể, từ việc to như lo giải phóng cho con người, khuyến
khích "Phần tốt ở mỗi con người nẩy nở như hoa mùa xuân, và phần xấu bị mất dần đi",
đến việc chăm lo từng con người cụ thể, không chỉ “Lụa tặng cụ già, sữa tặng bà mẹ sinh
ba”, mà là từng bát cơm, manh áo, từ chỗ ở, việc làm để an cư, lạc nghiệp đến tương cà
mắm muối hàng ngày cho nhân dân. Bác lo cho cả dân tộc và chăm lo cho từng chiến sỹ
bảo vệ, phục vụ quanh Người.
Theo Bác, yêu thương con người là phải tôn trọng, quý trọng con người. Bác đánh giá cao
vai trò của nhân dân "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân". Bác tôn trọng từ các
nhà khoa học, các bậc hiền tài cho tới những người lao công quét rác. Bởi theo Bác, từ Chủ
tịch nước tới người lao động bình thường, nếu hoàn thành tốt nhiệm vụ, đều được coi trọng,
đều vẻ vang như nhau. Theo Bác, yêu thương con người là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. lOMoAR cPSD| 61570461
Có thể nói, từ cái lõi cốt của học thuyết Mác là chủ nghĩa nhân văn mácxít, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã từng nói: “Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa … Từ khi có
Đảng ta lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng
bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà. Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải
sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa
thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin được”. Bởi vậy trong suốt cuộc đời của Người,
Người lo cho dân tộc của mình và sau đó, Người lo cho tất cả những kiếp người trên hành
tinh còn bị đoạ đầy, đau khổ, bởi "Họ là thân thích ruột già, công nông thế giới đều là anh
em". Ngay cả trước lúc đi xa, tình yêu thương con người của Bác cũng không thay đổi.
Trong Di chúc, Người viết: “Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân,
toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng. Tôi cũng gửi lời chào
thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn, và các cháu thanh niên nhi đồng quốc tế”.
Người thực sự là mẫu mực tuyệt vời về sự ứng xử tinh tế và cao thượng của một vị lãnh tụ
cách mạng thiên tài, người con ưu tú của dân tộc, sự khoáng đạt, cởi mở, hài hòa, nhân ái,
vị tha, khoan dung, độ lượng và tình nghĩa thủy chung, sâu sắc. Là tấm gương sáng về đạo
đức mà mỗi chúng ta cần học tập và rèn luyện.
Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống
nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Hồ Chí Minh coi yêu
thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất; nó thể hiện mối quan hệ giữa cá
nhân với cá nhân trong quan hệ xã hội.
Yêu thương con người thể hiện trước hết là tình yêu thương với đại đa số nhân
dân, những người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột. Phải làm mọi việc để phát huy sức mạnh
của mỗi người; đoàn kết để phấn đấu cho đạt được mục tiêu “ai cũng có cơm ăn, áo mặc,
ai cũng được học hành”.
Yêu thương con người thì phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm
khắc; với người thì khoan dung, độ lượng, rộng rãi, nâng con người lên, kể cả với những
người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm.
Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn.
Phải thực hiện phê bình, tự phê bình chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát
huy ưu điểm để không ngừng tiến bộ.
Hồ Chí Minh – Bác Hồ kính yêu của chúng ta, Người đã cống hiến cả đời mình
cho non sông, đất nước, cho dân tôc; đem lại độ c lậ
p, tự do, ấm no, hạnh phúc cho
nhân ̣ dân. Cả cuôc đời mình Bác chỉ có mộ
t ham muốn duy nhất, lớn nhất: đó là làm lOMoAR cPSD| 61570461
sao cho ̣ đất nước được đôc lậ
p tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặ c, ai
cũng được học ̣ hành. Qua những câu chuyên kể về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đều
khắc họa đậ m ̣ nét tình thương yêu bao la của Bác đối với con người - môt tấm lòng vị tha, bao dung…̣
Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về yêu thương con người, sống có
nghĩa có tình, mỗi cán bộ, đảng viên, cá nhân cần đẩy mạnh viêc học tậ p và làm
theọ t Ām gương đạo đức của Bác:
-
Trong mối quan hệ giữa người với người phải khoan dung, độ lượng, chân thành,
tránh ác cảm, thù hằn, cá nhân. Phải có tình yêu nhân dân, tôn trọng nhân dân, hết lòng
phục vụ nhân dân, bảo vệ những quyền lợi chính đáng của nhân dân; không được coi mình
là quan cách mạng để nhũng nhiễu, gây khó dễ cho nhân dân. Phải luôn lắng nghe, luôn
thấu hiểu để cùng cảm thông, cùng chia sẻ nhất là khi nhân dân gặp hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn. -
Đối với đồng sự phải có lòng yêu thương, trương trợ, giúp đỡ nhau để cùng tiến bộ
và ngày càng tốt đẹp hơn. Luôn thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tự phê bình và phê bình,
trên tinh thần thẳng thắn và chân thât, không “lựa gió bẻ măng”, “vơ đũa cả ̣ nắm”, nâng
cao quan điểm để “đánh môt đòn cho tới chết”.̣ -
Khi nhân xét, đánh giá mộ t con người phải có tính bao quát, tránh nhìn nhậ
n, ̣ đánh giá môt cách phiến diệ n, chỉ nói đến khuyết điểm mà không thấy ưu
điểm của con ̣ người. Đối với những hành vi sai trái phải nghiêm khắc phê bình, xử lý
nhưng cũng tạo cơ hôi để đồng chí mình sửa chữa, khắc phục và vươn lên. Trong đấu tranh
phê bình phải ̣ cụ thể, rỏ ràng, không nói chung chung kiểu ai hiểu thế nào cũng được.
Lá cán bô, đảng viên chúng ta luôn ghi nhớ lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: ̣
“Học chủ nghĩa Mác – Lênin là để sống với nhau có nghĩa, có tình. Nếu sống với nhau
không có nghĩa có tình thì làm sao coi là hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin được”./.:
7. Vận dụng chuẩn mực đạo đức của Hồ Chí Minh về tinh thần quốc tế trong sáng
trong xây dựng đạo đức sinh viên hiện nay.
Đạo đức theo tư tưởng hồ chí minh là gì (GT 218)
Tinh thần quốc tế trong sáng theo tư tưởng hồ chí minh là gì (GT 231)
Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm chất, là yêu cầu đạo đức của mỗi người dân trong
mối quan hệ rộng lớn, vượt qua ranh giới quốc gia, dân tộc. Nội dung chủ nghĩa quốc tế
trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở các điểm sau: lOMoAR cPSD| 61570461
Ðó chính là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước
trong cuộc đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đến nhiều nước trên thế giới, các
nước tư bản, thuộc địa. Người đã chứng kiến cảnh cùng cực của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, đồng thời thấy rõ cảnh sống xa hoa của bọn tư sản. Thực tế sinh động
đã giúp Người đồng cảm và nhận thức rõ: Nơi đâu cũng có người nghèo như ở xứ mình,
dù ở các nước thuộc địa hay chính quốc, họ đều bị áp bức, bóc lột tàn nhẫn bởi chủ nghĩa
thực dân tàn ác. Người đi tới kết luận: "Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai
giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình
hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản" (Bài Ðoàn kết giai cấp của Nguyễn Ái Quốc
đăng trên báo Le Paria số 25 tháng 5-1924). Kết luận này cho thấy nhận thức của Hồ Chí
Minh về ý thức dân tộc và ý thức giai cấp đã từ tầm nhìn quốc gia tới tầm nhìn quốc tế.
Kết luận trên cũng là sự khởi đầu của tư tưởng đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh - đoàn kết
với những người lao khổ, cần lao trên thế giới, luôn gắn liền lợi ích dân tộc với lợi ích giai
cấp, lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế.2. Tinh thần quốc tế trong sáng còn là vì mục tiêu
"bốn phương vô sản đều là anh em".
Hồ Chí Minh tha thiết với độc lập, tự do của dân tộc mình, cho nên cũng rất trân trọng độc
lập tự do của các dân tộc khác. Bởi thế, Người hết sức căm giận trước bất cứ một hành
động xâm lược nào và cho rằng: Giúp đỡ một dân tộc khác bảo vệ độc lập tự do của họ
cũng chính là bảo vệ lợi ích của đất nước mình, "giúp bạn là tự giúp mình". Ðây chính là
một bước phát triển mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế. Vì lẽ đó, Người
luôn động viên nhân dân Việt Nam vừa tiến hành sự nghiệp bảo vệ độc lập tự do của dân
tộc mình, vừa thực hiện sự giúp đỡ vô tư chí tình, chí nghĩa đối với các dân tộc anh em.
Sự đoàn kết ấy là nhằm những mục tiêu lớn của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội, là hợp tác hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc. Sự đoàn kết ấy
dựa trên cơ sở bình đẳng và kết hợp giữa lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế. thực trạng
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Trong bài
"Tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế" (1953), Người đã nhấn mạnh: "Tinh thần yêu
nước và tinh thần Quốc tế liên hệ khăng khít với nhau. Vì lẽ đó, ta vừa ra sức kháng chiến,
vừa tham gia phong trào ủng hộ hòa bình thế giới". Nếu tinh thần yêu nước không chân
chính và tinh thần quốc tế không trong sáng thì có thể dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi,
hoặc chủ nghĩa bành trướng bá quyền, kỳ thị chủng tộc... Những khuynh hướng sai lệch ấy
có thể dẫn đến chỗ phá vỡ một quốc gia dân tộc hay một liên bang đa quốc gia dân tộc, phá
vỡ tình đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chung, thậm chí có thể đưa đến tình trạng lOMoAR cPSD| 61570461
đối đầu đối địch. Ðây là một thực tế đã diễn ra ở châu Âu và nhiều khu vực trên thế giới hiện nay.
Có thể nói tinh thần quốc tế trong sáng trong đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ tình
thương yêu đối với con người; vì mục tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người, mang lại tự do và bình đẳng thật sự cho con người. Từ chủ
nghĩa quốc tế trong sáng đó, Hồ Chí Minh đã đặt nền móng và xây dựng nên tình đoàn kết
quốc tế rộng lớn của nhân dân Việt Nam với các dân tộc trên thế giới, góp phần vào những
thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới.
Trong thời kỳ mới của cách mạng, nguồn lực quan trọng để xây dựng và phát triển đất nước
chính là mở rộng tình đoàn kết quốc tế, quan hệ hợp tác cùng có lợi, chủ động, tích cực hội
nhập, như Ðảng ta đã khẳng định: "Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng
hóa các quan hệ quốc tế... Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực". (Văn kiện Ðại hội X
của Ðảng. Tr 112. NXB CTQG - Hà Nội - 2006).
Trong bối cảnh thế giới phức tạp và khó lường hiện nay, nguồn lực quantrọng để xây
dựng, bảo vệ và phát triển đ Āt nước chính là mở rộng tình đoàn kết quốc tế, quan
hệ hợp tác cùng có lợi.Vì thế chúng ta phải chủ động hội nhập quốc tế để phát triển
một cách toàn diện và phát triển đ Āt nước.

Để làm được thế sinh viên cần
Chủ động học tập, hội nhập quốc tế
Không kì thị, phân biệt chủng tộc
Trau dồi thêm về tin tức ngoài nước bằng cách xem tin tức, đọc báo.....
8. Vận dụng các nguyên tắc xây dựng đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh để xây
dựng và hoàn thiện đạo đức của người giáo viên hiện nay.
Đạo đức theo tư tưởng của Hồ Chí Minh (GT 218)
3 nguyên tắc (GT 232) Thực trạng lOMoAR cPSD| 61570461
Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Đóng góp vào những thành tựu chung đó, giáo dục (GD) và đào tạo đã thực hiện được mục
tiêu: Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; Chúng ta đã xây dựng được
một mô hình GD nhiều bậc học, từ GD mầm non đến GD đại học và sau đại học, nhiều
hình thức đào tạo từ chính quy, chuyên tu, vừa làm vừa học đáp ứng nhu cầu học tập suốt
đời cho người dân; Xây dựng được đội ngũ nhà giáo đủ về số lượng và chất lượng. GD và
đào tạo luôn dành được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng đã tiếp tục khẳng định: “Phát triển GD là quốc sách hàng đầu. Đổi
mới căn bản, toàn diện nền GD Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa,
dân chủ hóa và hội nhập quốc tế”. Trong đó, nhiệm vụ xây dựng đội ngũ nhà giáo là nòng
cốt và có vai trò quan trọng. Trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đặt ra
cho GD và đào tạo những yêu cầu mới cao hơn
.Tuy nhiên, một bộ phận nhà giáo đã
không giữ được những phẩm chất cao quý của nghề, tự tha hóa, biến chất, vi phạm nghiêm
trọng đạo đức nghề nghiệp như: tham gia “chạy chỗ”, “chạy điểm”, “chạy trường” và cả
những hành vi xâm hại tình dục, xâm phạm thân thể, xúc phạm danh dự, nhân phẩm người
học, thậm chí đi ngược lại luân thường đạo lí... Thực trạng này đã gióng lên hồi chuông
cảnh báo, cần phải có biện pháp để củng cố, xây dựng đạo đức nhà giáo trong giai đoạn
hiện nay. Giáo viên cần xây dựng
Giáo viên cần phòng chống Phê phán 9.
Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới trong sự
nghiệp trồng người hiện nay. ( tài liệu Anh Sang trang 137) 10.
Anh chị vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh hiện nay như thế nào?
Nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc theo tư tưởng HCM: (GT 218)
Bối cảnh đ Āt nước hiện nay: tích cực, hạn chế ( Anh Sang 118)
Chủ trương đường lối của Đảng (AS 119)
Trách nhiệm của sinh viên, cán bộ Đảng viên (AS 120) 11.
Phân tích các nguyên tắc đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh và nêu
ý nghĩa của quan điểm đó đối với sự nghiệp cách mạng hiện nay.
Khái niệm đoàn kết quốc tế theo TTHCM: (AS 104)
Phân tích nguyên tắc (AS 107) lOMoAR cPSD| 61570461
Ý nghĩa đối với CM hiện nay
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, Đảng và Chính phủ Việt Nam luôn
tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân các nước đối với cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và xâm lược Mỹ. Nhờ quan điểm đoàn kết đúng đắn đó của Người mà ở Pháp và
Mỹ đã dấy lên phong trào các tầng lớp nhân dân đòi chính phủ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Ngày nay, trong bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi, thời cơ và thách thức đan xen lẫn nhau,
vấn đề đoàn kết đấu tranh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có những thuận
lợi và khó khăn mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, phát huy sự ủng hộ quốc tế là cơ
sở quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam hoạch định chủ trương, đường lối đối ngoại và
giải quyết các vấn đề quốc tế
Một là, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ, dựa vào sức mình là chính làm
nền tảng để mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát triển bền
vững và không làm phương hại đến chủ quyền quốc gia, bản sắc văn hóa dân tộc Năm
1947, khi trả lời một nhà báo nước ngoài về quan niệm độc lập của Việt Nam, Hồ Chí Minh
nói rõ: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có
sự can thiệp ở ngoài vào”.
Các quốc gia, dân tộc trên thế giới đang tham gia sâu rộng vào quá trình toàn cầu hóa, hội
nhập quốc tế, hợp tác cùng phát triển trong hòa bình và hữu nghị. Chiến tranh, xung đột
cục bộ vẫn xảy ra, chủ nghĩa khủng bố và những hành vi tàn ác chà đạp quyền sống của
con người. Đặc biệt, thái độ “lớn ép nhỏ”, lợi ích và chủ nghĩa dân tộc cực đoan đã kéo
theo các hành vi xâm phạm độc lập, chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo của nước khác, bất chấp
dư luận và luật pháp quốc tế. Trong đó, những phức tạp ở Biển Đông đã, đang và tiếp tục
gây phức tạp, đe dọa đến hòa bình, ổn định của Việt Nam và các nước trong khu vực. Với
truyền thống hòa hiếu, Việt Nam luôn mong muốn cùng các nước xây dựng và củng cố
lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, phát triển trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ
quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Việt Nam kiên định nhất quán đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các quốc gia
và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; không ngừng nỗ lực làm sâu sắc
thêm và xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, đối tác hợp tác cùng có lợi với các quốc gia.
Đối với các nguy cơ và thách thức về an ninh khu vực đang hiện hữu như bán đảo Triều
Tiên, Biển Hoa Đông, Biển Đông… Việt Nam trước sau như một kiên trì nguyên tắc giải
quyết bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, tôn trọng độc lập chủ quyền và
lợi ích chính đáng của nhau. Các bên liên quan đều phải kiềm chế, không sử dụng vũ lực
và đe dọa sử dụng vũ lực lOMoAR cPSD| 61570461
Hai là, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là cơ sở lý luận quan trọng để Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ quốc tế trong bối cảnh mới
Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
non trẻ đứng trước muôn vàn thử thách, cùng một lúc phải đương đầu với giặc đói, giặc
dốt, giặc ngoại xâm. Trong thời khắc ngàn cân treo sợi tóc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo
léo sử dụng ngoại giao đa phương để phục vụ mục tiêu của cách mạng. Thông cáo về Chính
sách ngoại giao do Hồ Chí Minh ký ngày 3-10-1945 thể hiện quan điểm đối ngoại thân
thiện và thành thực hợp tác trên lập trường bình đẳng, tương ái; tôn trọng nền độc lập của
Việt Nam, hữu nghị, hợp tác và bình đẳng; đối với các dân tộc nhược tiểu trên toàn cầu thì
thân thiện, hợp tác chặt chẽ.
Có thể thấy rằng, tư duy đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ của nước ta được
hình thành từ rất sớm. Ngay từ tháng 6-1947, trả lời nhà báo Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh
bày tỏ mong muốn của Việt Nam là làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù
oán với một ai. Nhờ chính sách ngoại giao đa phương hóa quan hệ, ngoại giao Việt Nam
đã phá được thế bị bao vây, cô lập, cấm vận, khẳng định tính hợp pháp, hợp hiến của chính
quyền cách mạng ở khu vực và trên thế giới. Qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, đế quốc Mỹ, đến giai đoạn đất nước bước vào công cuộc đổi mới, giương cao ngọn
cờ độc lập dân tộc và đoàn kết quốc tế, ngoại giao Việt Nam đã tranh thủ được sự ủng hộ
to lớn về vật chất và tinh thần của bạn bè quốc tế, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của
đất nước và phục vụ đắc lực vào cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước.
Ba là, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế để tạo ra môi trường quốc tế
hòa bình, ổn định, hữu nghị với các nước láng giềng, các nước trong khu vực, các nước lớn
để tập trung mọi nguồn lực phát triển đất nước
Để xây dựng một thế giới hòa bình, phát triển tốt đẹp, theo Hồ Chí Minh các dân tộc cần
xích lại gần nhau, thông qua tiếp xúc, trao đổi để hiểu biết nhau hơn, tin cậy nhau, cùng
nhau giải quyết các xung đột. Người luôn tâm niệm: “với một sự tin cẩn lẫn nhau, những
dân tộc tự do và bình đẳng vẫn có thể giải quyết những vấn đề khó khăn nhất” và “Thế giới
hòa bình có thể thực hiện được nếu các nước trên thế giới, nhất là những nước lớn, đều sẵn
sàng giải quyết những xích mích giữa các nước bằng thương lượng”.
Bằng những cố gắng không mệt mỏi của mình, Người đã sáng lập ra các tổ chức quốc tế,
đoàn kết các dân tộc đấu tranh vì độc lập, tự do vào những năm 20 của thế kỷ XX. Tư
tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh về giải quyết những bất đồng trong quan hệ quốc tế là
lấy hữu nghị thay cho hận thù, đối thoại thay cho đối đầu, hòa bình thay cho chiến tranh, lOMoAR cPSD| 61570461
luôn mong muốn tình hữu nghị, hòa bình, sự hợp tác thân thiện giữa các quốc gia, dân tộc,
giữa các nước trên thế giới.
Trong bối cảnh thế giới, khu vực và đất nước có nhiều biến đổi, thời cơ và thách thức đan
xen lẫn nhau, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là cơ sở lý luận vững chắc, lâu
dài cho cách mạng Việt Nam về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đảng
Cộng sản, nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới luôn phát huy cao nhất tinh thần đoàn
kết quốc tế cao cả của Người, để Người không còn day dứt trước lúc đi xa: “… tôi càng tự
hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng
đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em” và cũng thực hiện sự
mong muốn của Người là “ Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi
phục lại đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa
quốc tế vô sản, có lý, có tình”.
Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh rất quan tâm
đến vấn đề đoàn kết. Những lời căn dặn của Người trong Di chúc về đoàn kết quốc tế là
định hướng quan trọng cho quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta, để Việt Nam luôn
đóng góp xứng đáng vào nền hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, những di huấn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế vẫn còn nguyên tính thời sự, tính khoa học và thực
tiễn; là sự đúc kết, trải nghiệm từ chính cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Tư
tưởng đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện trong cả tư duy lý luận và hoạt
động thực tiễn; không chỉ trong nội bộ Đảng, trong bộ máy chính quyền, trong phạm vi
một dân tộc, mà còn được thể hiện trên bình diện rộng lớn hơn, đó là đoàn kết quốc tế. Gần
60 năm hoạt động cách mạng, trong đó 30 năm hoạt động ở nước ngoài, liên tục tham gia
phong trào cách mạng và đóng góp cho sự nghiệp chung của cách mạng thế giới, thông
điệp về tình hữu nghị, đoàn kết quốc tế luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện một cách
rõ ràng và vững chắc. Quan điểm về đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xuyên
suốt và nhất quán, bởi Người sớm nhận ra, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc theo con
đường cách mạng vô sản muốn đi đến thắng lợi thì phải huy động và tập hợp được sức
mạnh đoàn kết quốc tế. Trong hành trình tìm đường cứu nước, lý tưởng cách mạng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở giải phóng dân tộc mình, mà còn vì sự nghiệp
giải phóng các dân tộc bị áp bức và nhân loại cần lao. Những lời di huấn của Người về tình
đoàn kết quốc tế bắt nguồn từ tình yêu thương đối với con người. Và đoàn kết quốc tế cũng
để nhằm mục tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người. Từ tình cảm, lòng thương yêu và khát vọng giải phóng dân tộc mình, đất nước mình,
Chủ tịch Hồ Chí Minh thông cảm với nỗi thống khổ và số phận của nhân dân các thuộc lOMoAR cPSD| 61570461
địa. Xuất phát từ chủ nghĩa nhân văn cao đẹp đó, Nguyễn Ái Quốc là một trong những
người có công thành lập các tổ chức: “Liên minh các dân tộc thuộc địa”, “Hội liên hiệp các
dân tộc bị áp bức ở Á Đông”… Ngay từ khi tiếp cận với phong trào cách mạng thế giới,
Người luôn đặt cách mạng Việt Nam trong mối quan hệ khăng khít với phong trào cách
mạng thế giới. Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, có một con người vĩ đại, đã gắn cách
mạng của đất nước mình với cách mạng thế giới và thời đại, trên cơ sở nhận thức cách
mạng Việt Nam là một bộ phận, có quan hệ mật thiết với cách mạng vô sản và phong trào
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, phụ thuộc trên thế giới. Vì vậy, Người chủ trương
thực hiện đoàn kết sâu sắc triệt để trên nguyên tắc bình đẳng dân tộc và hợp tác cùng có
lợi. Đoàn kết và hợp tác quốc tế là tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình ủng
hộ và giúp đỡ quốc tế để làm tăng thêm khả năng tự lực, tự cường, tạo điều kiện làm chuyển
biến lực lượng có lợi cho cách mạng trong nước. Đoàn kết quốc tế trở thành một chân lý,
một phương châm hành động tất yếu phù hợp với quy luật và sự phát triển của cách mạng,
sự tiếp nối của lịch sử.
Cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam là cuộc đấu tranh chính nghĩa, do vậy được sự
ủng hộ của nhân dân tiến bộ yêu chuộng hòa bình thế giới, nhằm tăng cường nội lực và sức
mạnh tổng hợp để thực hiện các nhiệm vụ chiến lược. Về phần mình, nhân dân Việt Nam
cũng có nghĩa vụ đóng góp vào sự nghiệp đấu tranh của nhân dân thế giới. Hồ Chí Minh –
lãnh tụ vĩ đại đã hiến dâng cả cuộc đời cho đất nước, cho nhân dân và nhân loại tiến bộ.
Tư tưởng đại đoàn kết là một trong những di sản quý báu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại
cho chúng ta. Những lời căn dặn của Người trong Di chúc “về phong trào cộng sản thế
giới” là định hướng quan trọng cho quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta, để Việt Nam
là một thành viên có trách nhiệm, đóng góp xứng đáng vào nền hòa bình, ổn định và phát
triển của thế giới. Nghiên cứu, tìm hiểu và thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
giúp chúng ta thêm thấm nhuần bài học về quan hệ quốc tế để có định hướng chiến lược
đúng đắn, lâu dài cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, mở rộng quan hệ quốc
tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, nhất là trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
12. Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về các điều kiện xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộc trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
Khái niệm đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh Bối cảnh: (AS 97) Vận dụng (AS 93)