1.
Văn hóa vật chất
1.1 Văn a nhà
- Đặc trưng trong bố cục mặt bằng của nhà truyền thống miền Trung tổng thể
ngôi nhà bao gồm nhiều nếp nhà được xây dựng với mái liền kề . Trong đó nhà trên
nơi tôn nghirm đặt bàn thờ tổ tiên còn nhà dưới không gian sinh hoạt nh cho các
thành viên trong gia đình . Tại miền Trung, nhà trên nhà dưới thường được thiết kế
vuông góc với nhau cùng hướng về sân phơi phía trước nhà . Đa số nhà miền
Trung được xây dựng với hình thức bốn mái có đầu hồi.
Diện ch của nhà miền Trung cũng lớn hơn nhiều so với miền Bắc. Nhà trên thường
được xây dựng từ m đến bảy gian, nhà dưới từ ba đến m gian. Không gian nhà
trên được thiết kế bố cục đối xứng bao gồm gian giữa nơi th cúng tổ tiên các
gian buồng hai bên là chỗ ngủ hoặc kho chứa đồ của gia đình.
Nhà miền Trung chủ yếu được xây dựng bằng hệ thống kèo chống làm trụ. Cấu trúc
kèo chống đặc trưng đó các thanh kèo được đặt nằm nghiêng theo chiều dốc của
mái nhà liên kết các dầu cột với nhau đầu của thanh kèo nằm phía dưới được gác
lên đuôi của thanh kèo nằm phía trên. Nét đặc trưng này đã được thể hiện thông qua
chính tên gọi của (nhà kèo)
Ngoài ra, nhà truyền thống miền trung còn các loại nhà khác như: nhà rọi hay
nhà nọc ngựa với hình thức trúc một cột nằm chính giữa chống trực tiếp với nóc
nhà. Nhờ thuật y chiều rộng của bước cột bước gian ngày càng được mở
rộng. thể cho rằng, người Việt đã đem kỹ thuật xẻ mộng đầu cột - một kỹ thuật
truyền thống lâu đời từ miền Bắc du nhập vào miền Trung được xây dựng với qui
lớn hơn trước, đặc biệt là lớn hơn c nhà dân gian tại miền Bắc. Dần dần, ngay
cả tấm gỗ hình tam giác cũng được lược bỏ liên kết của hai thanh kèo nóc mái,
cũng như cả đòn đông đều được lắp mộng o cột.
Nhà truyền thống miền Trung nét duyên xưa, nét đẹp văn hóa người miền
Trung xưa để lại cho bao đời sau. Thông qua việc tạo nên những ngôi nhà truyền
thống giá, giữ gìn, bảo tồn phục dựng đúng cách những ngôi nhà truyền thống
cũng một nét đẹp, một sự kế thừa truyền thống văn hóa của cha ông ta từ xa xưa để
lại.
(nhà truyền thống của người miền Trung) (nhà của người Chăm)
1.2. Văn hóa ẩm thc
- Ẩm thực Trung bộ khá phong phú đa dạng. Bên cạnh lối ẩm thực cầu kỳ mang
tính Cung đình, nặng nề lễ nghi lại lối ẩm thực bình dân, giản dị mộc mạc.
ẩm thực sang trọng cũng ẩm thực đường phố, không hề kém giá trị hấp dẫn.
(Ẩm thực cung đình Huế thể được coi tinh hoa ẩm thực Việt với sự hài hòa b dưỡng)
Nét đặc trưng của ẩm thực Trung Bộ
Văn hóa ẩm thực Trung Bộ một tổng thể hài hòa tinh tế, phần bị chi phối bởi
tính cách của con người nơi đây. Các món ăn Trung Bộ hầu hết vị cay mặn. Họ
cũng thích vị ngọt nhưng ngọt vừa phải. Nói một ch khác món ăn đơn giản
thì cũng phải đậm đà bởi người miền Trung quan niệm món ăn phải đậm đà thì mới
ngon.
(bún Huế) (cao lầu Hội An)
Ớt linh hồn ẩm thực của Trung Bộ
Như đã đề cập n trên, người miền Trung đặc biệt thích ăn cay, món ăn cao
lương vị hay món ăn dân giã đời thường, một khi đã thưởng thức thì đều không thể
thiếu cái vị cay rất đặc biệt của ớt. Ớt được coi vị nhạc trưởng trong chế biến món
ăn, đặc biệt món cay từ bát Bún Bò, Cơm Hến cho đến các món điểm tâm sáng
cũng như các loại nước chấm ... tất cả đều phải cay
(cơm hến) (nước chấm Quảng Nam)
Ẩm thực Huế
Nói đến văn hóa m thực Trung Bộ, trước hết phải nói đến ẩm thực xứ Huế. Vốn
đất cố đô, Huế có cách thức mời thưởng thức món ăn rất đặc biệt. Một bữa ăn của
người Huế như hội tủ cả âm dương, ngũ vị với sự hài hòa đến mức tự nhiên giữa tính
chất, mùi vị, màu sắc của các món ăn. Người Huế luôn coi trọng từng món ăn của
mình, từ sự tao nhã, chau chuốt trong từng bữa ăn cho đậm vị , đẹp mắt lẫn sự phong
phú đa dạng của các món ăn nơi đây, đặc biệt các món ăn cung đình Huế.
Không chỉ các món ẩm thực cung đình mà các món ăn nh dị cũng như thế. Chỉ riêng
về phần gia vị nếu muốn mặn thì cũng đến vài chục vị ruốc, ngọt thì một chuỗi
các loại chè, o thì Bún Bò, đắng t Cháo nấm tràm,cay thì dùng cơm Hến
(cháo nấm tràm)
(chè xứ Huế)
Ẩm thực Hội An
Đặc sắc trong văn hóa ẩm thực Trung Bộ ẩm thực Hội An nồi mì
Quảng ,Cao Lầu tr danh phố Hội, món ăn góp phần làm nên cái hồn m thực còn
đọng lại nét xưa của phố c Hội An. Cao lầu sợi bánh màu vàng đặc trưng từ nước
tro cùi trầm cùa Lao Chàm nước giếng Bà Lễ thường được dùng thịt heo
các loại rau sống. Cũng giống như món Quảng, cao lầu được ăn với rất ít nước
dùng. Đó loại nước sốt hương vị đậm đà như những món kho trong mâm cơm
của người Việt nhưng i loãng hơn. Loại nước sốt này được lấy từ nước tẩm gia vị
của thịt heo, đun trên bếp lâu nên thấm đượm gia vị. Sợi cao lầu dẻo dai sần sật quyện
cùng do mùi vị cay nồng, đắng, chát của rau ghém thanh đạm, hòa với i ngầy ngậy
của tóp mỡ, vị ngọt của thịt xíu làm người ăn cứ phải xao xuyến.
(mì quảng Hội An) ( bánh o Hội An )
Ẩm thực Bình Định
Bình Định bánh ít gai, một món bánh nổi tiếng được nhiều người u thích
thường mua về làm quà mỗi khi đến miền Trung. Không như bánh ít miền Nam hay
miền Bắc , bánh ít gai Bình Định nhỏ, vị dẻo thơm , ngọt bùi ấy đã trở thành vị
khó quên trong lòng những ai đã từng nếm qua thứ bánh này.
(bánh ít gai) (bánh xèo Mỹ Cang)
.
Ẩm thực Phú n
Vùng đất Phú yên có món bánh hỏi , loại nh vắt từ gạo , rất đặc trưng , thơm ngon
thường ăn với lá hẹ , thịt ba chỉ cuốn. Ngoài ra, ẩm thực Phú Yên còn bánh
tráng mỏng, nướng đều, dọn ra ăn kèm gói hoặc các món cuốn rất ngon.
(bún mực Phú Yên)
1.3. Văn hóa trang phc
Hễ nhắc đến Việt Nam, không ai quên nhắc đến áo dài mỏng manh thanh tao, áo
dài vốn trang phục truyền thống một biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam.
Được kế thừa một cách ng tạo những nét đẹp độc đáo từ chiếc áo tứ thân của
người Kinh, áo i của người Chăm, Tày, Nùng ... phần trên thiết kế ôm sát thân,
phần dưới hai áo buông mềm mại xuôi theo ống quần, hai trước sau của áo
dài kéo từ cổ xuống mắt chân trùm lên chiếc quần ống rộng gấu chạm đất,
áo dài mộng đã làm xao xuyến những trái tim du khách khi đến với Việt Nam.
Áo dài vốn bắt nguồn từ mảnh đất miền Trung trong thời phong kiến xa xưa, nhưng
ngày nay đã được sử dụng rộng tãi trở thành một nét đẹp trong văn hóa của dân tộc
Việt. áo i miền Trung cố đô Huế trở thành biểu tượng gắn liền với hình ảnh
người con gái xứ Huế. Gam màu tím mộng mơ, trầm lắng mang vẻ đẹp của những
người thiếu nữ kinh kỳ men theo những con sông, bên Cầu Tràng Tiền khiến cho du
khách thêm yêu về tr tình của mảnh đất Cố đô này.
(áo dài truyền thống của Việt Nam) (áo dài Chăm)
1.4. Văn hóa kiến trúc, điêu khắc
Văn hóa kiến trúc, điêu khắc nổi bật nhất Trung bộ kiến trúc điêu khắc của dân
tộc Chăm-một tinh túy truyền thống, di sản quý báu của nhân loại
a, Khu đền tháp Chăm Mỹ n
Kiến trúc Chăm pa được biết đến là một khối được dựng lên bằng gạch nung
màu đỏ sẫm phía trên rộng thon nh bông hoa. Mặt bằng đa s hình vuông
bên trong nhỏ hẹp. Đặc điểm của kiến trúc Chăm Pa duy nhất 1cửa phía
đông. Trần nhà cấu tạo mái vòm cuốn bên trong một bện thờ đá. Trên mặt
tường của tháp được sử dụng nghệ thuật chạm khắc, đẽo gọt công phu hình ảnh thần
thánh, nữ, chim chóc. Qua hàng chục thế kỷ những tòa tháp vẫn bền vững nhờ sự
liên kết chắc chắn của những viên gạch.
(thánh địa Mỹ n)
- Phong cách kiến trúc
+ Phong cách Hòa Lai phong cách Đồng ơng
Ngôi đền tháp theo hai phong cách y những hàng cột ốp những cửa vòm khỏe
khoắn. rất nhiều họa tiết trong 2 công trình theo phong cách này. Phong cách Hòa
Lai các vòm cửa nhiều mũi tròn trùm n các cửa thật, cửa giả. Các cột khung cửa
hình bát giác bằng sa thạch được trang trí bằng một đường các nh uốn cong.
giữa hai cột trụ sẽ được sử dụng những khắc họa thực vật. Khác với phong cách Hòa
Lai. Phong cách Đồng Dương những hình thực vật lại hướng ra ngoài. Những t của
phong cách Đồng Dương mạnh mẽ hơn so với sự tươi mát sang trọng của Hòa Lai
+ Phong cách Mỹ Sơn A1
Phong cách thể hiện đầy đủ, trọn vẹn những cột ốp đứng thành 1 đôi. Bên cạnh những
cây cột những hình người, vòm cửa phức tạp không hề chạm khắc. Hình trụ xây
dựng phức tạp thu nhỏ dần khi lên cao. Phong ch Hòa Lai phong cách Đồng
Dương đã không còn thấy được trong phong cách Mỹ Sơn A1 này.
+Phong cách Bình Định
Đầu thế kỉ 11 ng loạt biến động Chăm Pa đã di chuyển vào Bình Định. Từ đó
nghệ thuật Chăm Pa phong cách Bình Định đã ra đời. Phong cách Chăm Pa y khác
hẳn so với các phong cách trước. vòm thu lại vút trên như hình mũi giáo các
khối trên cuộn lại thành khối hình khỏe, đậm mặt tường có các gân sống.
b, Tháp bánh ít
Đi từ ngoài vào trong đầu tiên du khách sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của tháp cổng
phía Đông của quần thể kiến trúc văn hóa Chăm với chiều cao chừng 13m. Tháp cổng
được xây dựng theo bình đồ hình vuông 7m×7m theo lối kiến trúc Gopura. Đây
một phong cách kiến trúc điển hình của thời Chăm Pa với hai cửa thông nhau trong
đó hai cửa thông nhau trong đó một cửa quay hướng về phía Đông một cửa
quay về hướng tháp chính.
Di chuyển sang phía nam của quần thể kiến trúc tháp Bánh ít vẻ đẹp của tháp cổng
phía nam. Tháp cổng phía nam còn n gọi tháp Bìa cao chừng 10m. Tháp
Bìa cũng được xây dựng dựa trên lối kiến trúc Bình Định. Tuy nhiên điểm riêng biệt
của kiến trúc tháp Bìa phong cách kiến trúc Posah. Ba tầng mái của tháp được lợp
chồng lên nhau nhỏ dần về phía đỉnh tháp. Tất cả đã tạo n nét đẹp hoàn mỹ riêng
biệt cho tòa tháp này.
Tháp chính được y dựng trên đỉnh đồi, cao trên 20m. Khác với tháp cổng phía
Đông tháp Bìa, tháp chính của quần thể kiến trúc văn hóa Chăm này được xây
dựng dựa theo lối kiến trúc Kalan. Những bức tường được xây dựng tuy thanh thoát
nhưng rất vững chãi trường theo năm tháng. Trên các tầng mái được thiết kế các
hệ thống cột cửa giả. Một số mặt tầng mái họa tiết trang t mang đậm phong
cách người dân Chăm Pa. Điển hình như tầng một bao gồm những họa tiết trang trí
như hình tử phía nam, hay trang trí thần Nandin, còn phía bắc mặt Kala
nhìn thẳng bên trong các tượng bằng đá. Tất cả đã thể hiện được tín ngưỡng n
hóa thờ thần của người Chăm Pa xưa kia.
c, Tháp Đôi
Do xây dựng vào khoảng thời gian từ thế kỷ X đến thế kỷ XV nên một phần vẻ đẹp
Tháp Đôi bị ảnh hưởng bởi nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Angkor Wat. Chính
vậy, Tháp Đôi không có hình dạng tháp vuông vuông nhiều tầng theo truyền thống
con người Chăm cấu trúc gồm 2 phần chính: Phần thân vuông góc dính tháp
chứa mặt cong.
Tại các góc của tháp được trang trí bằng nh tượng chim thần Grauda 2 tay giơ cao-
đây chi tiết thể hiện sự ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hóa Khmer. Còn lại toàn bộ
phần thân tháp vẫn giữ nguyên thiết kế kiểu trang trí đặc trưng của các ngôi tháp
tại Chăm.
ngôi tháp phía bắc, phần chân tường được đỡ bởi dải sen khổng lồ tạo thành bởi
những tảng đá lớn. Phần tâm sen được trang t bởi hình các con vật quyền lực như
voi, sư tử hình nữ. Tham khảo thêm Ghềnh Răng Tiên Sa được dụ như viên
ngọc bích.
Một phần tháp khác bị ảnh hưởng bởi nghệ thuật Khmer bộ điềm tháp được tạo
hình bằng đá kết hợp điêu khắc hình người 6 tay, 8 tay c con vật tạp chủng có
đầu tử , đầu voi. Bốn góc Diềm đặt 4 vị thần Grauda khổng lồ theo nghệ thuật điêu
khắc thời Angkor Wat.
Tương tự với ngôi tháp phía Nam, hầu hết các chi tiết đều được làm tương đối giống
ngôi pháp phía Bắc tuy nhiên đến thời điểm hiện tại, ngôi tháp này bị hại nhiều
hơn. Bên trong tháp lớn thờ linh vật Linga Yoni qua biểu tưởng cối, chày giã gạo.
Hai bên diềm tháp được chạm khắc hoa văn tinh tế, đối xứng với hình tượng 21 nữ
nhảy múa quanh diềm mái tạo nên nét nghệ thuật, ẩn cho Tháp Đôi Quy Nhơn.
Ngăn cách giữa phần mái cong phần thân vuông vức, hình ảnh tu ngồi thiền
được chạm khắc điêu luyện kết hợp voi châu đối xứng 2 bên. Qua nhunhwx chi tiết
chạm khắc kể trên cho ta thấy điểm du lịch Tháp Đôi không chỉ hiện thân cho nền văn
hóa xưa còn thể hiện sự tinh tế, tỉ mỉ, hoàn hảo khả năng vượt bậc của những
nghệ nhân thời bấy giờ.
1.5. Các ngành nghề truyền thống (các làng ngh nổi tiếng)
Làng nghề truyền thống các ngôi làng được bảo tồn từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Sản phẩm của họ đã nổi tiếng trên thị trường trong nước quốc tế, thể hiện được
phong tục, truyền thống văn hóa Việt Nam
Nghề làm nón (Huế)
Nhắc tới con người Huế, những gái Huế, không thể không nhắc đến chiếc nón
trắng tinh, dịu dàng e ấp bên áo dài tím. Nghê m nón ra đời cách đây cugx đã từ
rất lâu rồi, lẽ t thời của những vị vua. Tính đến nay Huế được cho một trong
những nơi sản xuất nón lớn nhất của cả nước. Du khách đến đây thể tham quan
các làng nghề nổi tiếng như: Dạ Lê, Phú Cam, Đốc Sơ, Triều Tây, Kim Long, Sịa,.
Đây không chỉ một sản phẩm đơn thuần còn cả một tác phầm nghệ thuật, đòi
hỏi người nghệ nhân phải thật khéo léo, t mỉ kiên trì.
Làng nghề gốm Bầu Trúc( Ninh Thuận )
Làng nghề truyền thống gồm Bầu Trúc- làng gốm cổ nhất Đông Nam Á. Làng nằm
cách thị Phan Rang khoảng 10km về phía Nam. Đây nơi sinh sống của hơn 400
gia đình, trong đó khoảng 85% mưu sinh bằng nghề m gốm truyền thống.
Làng đã tồn tại hơn 200 năm hầu hết các hộ dân người Chăm. Bầu Trúc còn
được đặt theo tên gốc là Paley Hamu Trok- nghĩa phần cuối sông. Nghề làm gốm
của do một người chăm tên Po Klong Chan bắt đầu vẫn tồn tại tốt cho đến
nay. Khác với những làng nghề truyền thống khác. Bầu Trúc trông rất khang trang
hiện đại với những con đường lát tông, những ngôi nhà i đỏ, những cửa hàng
buôn bán.
Làng nghề làm giấy Poonah Yên Thái ( Quảng Bình )
Điểm nổi bật: Nghề làm giấy đã Quảng nh hơn 6 thế kỷ. Làng n
Thái nổi tiếng với nghề sản xuất các loại giấy, bao gồm giấy sắc phong ( viết sắc lệnh
của hoàng gia ) giấy lệnh ( viết lệnh của vua ) Nguyên liệu để làm các loại giấy này
được lấy từ những cây mu đặc trưng các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Người dân
làng Yên Thái phải trải qua nhiều công đoạn chính xác phức tạp, từ khâu chọn
nguyên liệu tốt đến ngâm nước, giã, .. Sản phẩm được sử dụng rộng i để viết chữ
Hán, in tranh n gian sách.
Làng nghề truyền thống điêu khắc đá Non Nước ( Đà Nẵng )
Tự hào với bề dày lịch sử hơn 200 m, những người thợ chạm khắc làng
nghề Non Nước luôn ý thức được việc giữ gìn khu di tích bảo vệ nghề truyền thống
của mình. Các sản phẩm thủ công ban đầu được làm ra để phục vụ đời sống sinh hoạt
của người dân địa phương cối say thóc, cối g gạo, bia mộ. Gần dây, sản phẩm
được mở rộng trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu giá trị cao nhất
của thành phố. hàng ngàn thợ chạm khắc với hơn 300 sở kinh doanh chạm khắc
trong làng.
Làng mộc Kim Đồng ( Hội An - Quảng Nam)
Điểm nổi bật: Làng mộc Kim Đồng là một trong những làng nghề truyền
thống nổi tiếng ghi dấu những giá trị độc đáo nhiều công trình nghệ thuật. Ngôi
làng thu hút rất nhiều khách du lịch trong nước quốc tế bởi những sản phẩm từ gỗ
rất đẹp ấn tượng. Được hình thành từ thế kỉ 16, phong cách mộc Kim Đồng là sự
pha trộn tuyệt vời của người Trung Quốc, Nhật Bản, vương quốc Chăm bàn tay tài
hoa của những người thợ Việt Nam
Làng nghề truyền thống đúc đồng, Phước Kiều ( Quảng Nam )
Được thành lập vào thế kỷ 16, những n tay khéo léo của dân làng địa
phương đã làm ra nhiều sản phẩm bằng đồng như lọ cổ, đốt, dui đèn. Bên cạnh đó,
nơi đây còn sản xuất nhiều loại nhạc cụ, đặc biệt cồng chiêng cho các cộng
đồng dân tộc Việt Nam.
1.6 .Di sản văn hóa kc
Di sản văn hóa thánh địa Mỹ Sơn ( Quảng Nam )
Thánh địa Mỹ Sơn được xây dựng từ thế kỷ thứ 4 trong nhiều thế kỷ sau đó
một trong những trung tâm chính của Ấn Độ giáo khu vực Đông Nam Á. Đây
cũng nơi cúng tế của vương chiều Chăm Pa trước đây. Thánh địa Mỹ Sơn nằm
trong một thung lũng có đường kính khoảng 2km, xung quanh đồi, núi cao khoảng
100 đến 400m nằm giữa Đông Trường Sơn kinh đô Trà Kiệu.
Mặc qua năm tháng đã biến nhiều khu tháp thành phế tích nhưng những
hiện vật điêu khắc, kiến trúc còn lại cho đến ngày nay vẫn để lại những phong ch
giai đoạn lịch sử mỹ thuật dân tộc Chăm, những kiệt c đánh dấu 1 thời huy hoàng
của văn hóa - kiến trúc Chămpa cũng như của Đông Nam Á.
Phố cổ Hội An ( Quảng Nam )
Vốn một thành phố cảng sầm uất vào thế kỷ 17, lối kiến trúc kết hợp giữa
truyền thống giao u hội nhập, Phố cổ Hội An đã được UNESCO công nhận di
sản n hóa thế giới ngày 4/12/1999. Màu thời gian nhuộm khắp mọi nơi trên phố cổ:
những mái nhà lợp ngói âm dương phủ kín u phong cây cỏ, những mảng tường
xám mốc, xưa cũ, những con phố ngắn hạn uốn cong, chạy ngang dọc theo kiểu bàn
cờ cả những chiếc áo lam của con đi l hội chùa Cầu trong ánh đèn lồng, dưới
bóng trăng rằm gợi lên bao cảm xúc dạt dào, lồng lộn trăng nước.
Quần thể di tích cố đô Huế
Nằm bờ bắc sông Hương, thuộc địa phận thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên
Huế - Huế, hệ thống quan kiến trúc quan trọng nhất của nhà Nguyễn được xây dựng
theo kiến trúc của phương tây kết hợp một cách tài tình với kiến trúc thành quách
phương đông, bao gồm ba tòa thành: Kinh thành Huế, Hoàng thành Huế, Tử Cấm
thành Huế lồng vào nhau được bố trí đăng đối trên một trục dọc xuyên xuốt từ mặt
nam ra mặt bắc. Đây một hình thái kiến trúc tinh tế, các công trình kiến trúc gắn
với cảnh quan sông núi hữu tình, chứa đựng những đường nét chạm khắc tinh xảo.
Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng ( Quảng Bình )
Thuộc vùng núi đá vôi Kẻ Bàng, Sơn Trạch, huyện B Trạch, tỉnh Quảng Bình,
cách thành phố Đồng Hới 50km về phía tây bắc, động Phong Nha được coi Thiên
Nam đệ nhất động của Việt Nam, được che bởi những nh rừng nhiệt đới. Bên
cạnh giá trị về lịch sử địa chất, địa hình vườn quốc gia này còn là được thiên nhiên ưu
đãi ban tặng cho những cảnh quan kỳ bí, hùng vĩ, ẩn chứa bao điều ẩn của tự nhiên,
được hiệp hội Hoàng gia Anh bình chọn là một trong những hang động đẹp nhất thế
giới với 7 tiêu chí: Hang động cửa hang cao rộng; bãi cát, bãi đá ngầm đẹp
nhất; có hệ thống thạch nhũ kỳ ảo tráng lệ nhất; các hang khô cao rộng; hồ
nước ngầm sâu đẹp; nước dài nhất. Sau hàng chục cuộc thám sát của người
Việt, người Pháp, người Anh ,... động Phong Nha vẫn còn đó những điều ẩn.
Di sản văn hóa Thành nhà Hồ ( Vĩnh Lộc, Thanh Hóa )
Nằm cách thành phố Thanh Hóa gần 50km về phía tây bắc, Thành nhà Hồ thuộc
địa bàn các Vĩnh Tiến, Vĩnh Long, huyện nh Lộc được UNESCO công nhận
di sản văn hóa thế giới. Thành nhà Hồ được tả một công trình kỳ bởi kỹ thuật
nghệ thuật xây dựng đá lớn, cùng sự kết hợp các truyền thống y dựng đá độc đáo
một không hai Việt Nam, khu vực Đông Nam Á trong thời kỳ cuối thế kỷ 14,
đầu thế kỷ 15.
3.
Văn hóa tiểu vùng Huế
Văn hóa Huế tổng hòa các giá trị vật chất tinh thần, truyền thống, thị hiếu
phong ch sống, được tạo n từ quá trình hoạt động thực tiễn gắn với sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên hội, để khẳng định bản sắc riêng của
vùng đất con người Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế.
3.1 Văn hóa địa sinh thái Huế
Xét về mặt lịch sử - địa lý, không gian n hóa Huế khá rộng lớn. Từ năm 1306, vua
Trần Anh Tông gả Huyền Trân Công chúa cho vua Chiêm Jaya Simhavarman III
(Chế Mân) để đổi lấy châu Ô châu Lý. Năm 1307, châu Ô, châu được đổi thành
châu Thuận châu Hóa. Năm 1636, chúa Nguyễn Phúc Lan dời phủ đến Kim Long,
khởi đầu cho quá trình đô thị hóa trong lịch sử hình thành phát triển của thành phố
Huế sau này. Đến năm 1687, chúa Nguyễn Phúc Thái dời phủ chính đến làng Thụy
Lôi, đổi Phú Xuân, tiếp tục y dựng phát triển Phú Xuân thành một trung tâm
đô thị phát đạt của xứ Đàng Trong. Tiếp đó, P Xuân kinh đô của nước Đại Việt
thống nhất dưới triều Tây Sơn (1788-1801) kinh đô của nước Việt Nam gần 150
năm dưới triều đại phong kiến nhà Nguyễn (1802-1945). Đến năm 1822, vua Minh
Mạng đổi đặt thành phủ Thừa Thiên, phần đất bao bọc Kinh thành Huế, gồm Hương
Trà, Quảng Điền Phú Vang. Năm 1898, Vua Thành Thái ra chỉ dụ lập thị Huế.
( bản đồ tỉnh thừa thiên Huế )
Về điều kiện tự nhiên, Thừa Thiên Huế được chia thành 4 vùng sinh thái: vùng núi,
vùng đồi, vùng đồng bằng, vùng đầm phá cồn cát ven biển. Chính vị trí đặc biệt
cùng với sự đa dạng của địa nh đã làm cho Thừa Thiên Huế nhiều điểm nổi bật
về tự nhiên. cũng chính điều kiện tự nhiên đó đã ảnh hưởng đến tâm tính cảm
quan của người Huế, nh thành nên nếp nhà vườn xứ Huế, quy định tính cách,
phong cách sống lối ứng xử của người Huế, cũng như góp phần hình thành một
vùng văn hóa - không gian văn hóa độc đáo đậm bản sắc.
3.2 Văn a vật th
Nói đến Huế nói đến một hệ kinh thành còn được gi tương đối hoàn chỉnh với
hoàng thành, tử cấm thành, điện Thái Hòa, Long An,Ngọ Môn…..và đồng thời cũng
nói đến hệ lăng tẩm với những lăng Gia Long, Minh Mạng, Tự Đức,...
(điện Thái a) (ngọ môn Huế)
(điện Long An) (lăng Minh Mạng)
(lăng vua Gia Long)
Thừa Thiên Huế được biết đến như kinh đô của Phật giáo, vùng đất của nhiều di
sản văn hóa m linh độc đáo đa dạng, đồng thời nơi còn lưu giữ những thánh
tích của tín ngưỡng thờ Mẫu cũng như những công trình kiến trúc của tôn giáo như
tháp Thiên Mụ, đền Hòn Chén, chùa Tử Đàm, Túy Vân, Diệu Đế...
(chùa Thiên Mụ) (điện Hòn Chén)
3.3 Văn a phi vật th
Bên cạnh các di sản vật thể, Thừa Thiên Huế nơi tập trung các giá trị văn hóa phi
vật thể phong phú, đa dạng với các loại hình nghệ thuật diễn xướng cung đình bác
học, nghệ thuật trang trí, mỹ thuật, ẩm thực, phong tục tập quán. Với bề y lịch sử
truyền thống văn hóa, Huế nơi hội tụ nhiều dòng nhạc mang đậm bản sắc Huế như:
nhạc cung đình bác học, nhạc dân gian, nhạc n ngưỡng tôn giáo, cùng với nền tảng
thơ văn, thuật, lễ hội dân gian đã định hình những đặc trưng của không gian n
hóa Huế. Âm nhạc Huế 11 gồm ba thành phần chính yếu: nhạc Lễ (bao gồm cả nhạc
Cung đình nhạc Rõi bóng), dân ca (bao gồm các điệu hò, lý, kể vè...) ca Huế.
đặc biệt Nhã nhạc Cung đình Huế được UNESCO công nhận “kiệt tác truyền
khẩu phi nhân loại” năm 2003 đã đang được gìn giữ phát huy giá trị. Nét độc
đáo của dân ca xứ Huế âm sắc, ngữ âm địa phương, không lẫn với vùng nào trên
đất nước ta, đồng thời ảnh hưởng của n ca, âm nhạc Chămpa đối với dân ca xứ
Huế điều không thể phủ nhận.
(Một số hình ảnh của Nhã nhạc cung đình Huế)
(ca Huế trên sông Hương)
Nét đặc sắc riêng vùng đất C đô Huế (Thừa Thiên Huế hiện nay) với n
100 lễ hội dân gian, lễ hội truyền thống đã được lưu giữ, hiện được khôi phục phát
huy, phục vụ nhu cầu thưởng thức văn hóa của cộng đồng dân cũng như cho phát
triển kinh tế thông qua các hoạt động du lịch dịch vụ. Tiêu biểu như Lễ hội điện
Hòn Chén, Lễ hội cung đình Huế (L tế Nam Giao, Lễ tế Đàn Tắc, Lễ Truyền Lô,
Lễ tế Văn Miếu...) các Lễ hội văn hóa n ngưỡng, tôn giáo như Lễ Phật Đản, Lễ
hội Điện Huệ Nam, Lễ hội Quán Thế Âm...); lễ hội tưởng nhớ các vị khai canh, thành
hoàng, lễ tưởng niệm các vị tổ làng nghề (Lễ hội Cầu Ngư, Lễ hội vật Làng
Sình, vật Làng Thủ Lễ, đu tiên Phong Hiền, Lễ hội Làng Chuồn, Lễ hội đua ghe, lễ
hội thả diều...) nhiều lễ hội khác như Lễ hội Đền Huyền Trân, Ngày hội Văn hóa
Thể thao đồng bào các dân tộc miền núi, Lễ hội Lăng huyền thoại biển, Lễ hội
Thuận An biển gọi.
(Lễ hội điện Hòn Chén)
(lễ hội Quán Thế Âm)
(lễ tế đàn tắc)
3.4. Văn hóa ẩm thc
- Đất Huế thơ mộng không chỉ với sông Hương, núi Ngự, với lăng tẩm đền đài
còn độc đáo bởi những con người tài hoa, khéo léo đã tạo ra một nét m thực đặc
trưng mang đậm màu sắc của vùng đất xinh đẹp này. khi nhắc đến hẳn ai trong
mỗi du khách cũng mong được thưởng thức c món ăn xứ Huế không chỉ một
lần.Món ăn Huế hương vị ràng đậm đà. Bởi người Huế coi món ăn như triết
nhân sinh của cuộc đời đủ c vị từ mặn, ngọt, béo, bùi đến chua, chát, đắng,
cay nhưng vị nào luôn vị y. thể nói, người Huế đến với ẩm thực không theo cái
nghĩa sinh học giản đơn, thưởng thức bằng cả khứu giác, thị giác cả… thính
giác. Người Huế tỏ ra sành điệu trong ăn uống, không ch trong khâu chọn nguyên vật
liệu còn cầu kỳ t việc nêm nấu chế biến cho đến cách bày biện trang trí, c như
mỗi món ăn được nâng lên hàng một tác phẩm nghệ thuật. Những món ăn Huế
cao lương mỹ vị hay dân đơn sơ, đều làm cho ai đó một lần nếm qua phải xuýt xoa
khen ngon đến mức ngậm nghe”, để rồi lưu luyến mãi cái hương vị khó quên ấy.
Dường như qua bàn tay khéo léo của người phụ nữ, món ăn đã được thổi vào cái hồn
chút đó tâm linh của Huế.
(bún hến) (bún Huế)
(nem lụi Huế) (bánh bột lọc)
(kẹo xưởng) (bánh khoái)
3.5. Trang phục của người Huế
Người Huế trẻ, già, giàu, nghèo cũng đều ăn mặc lịch sự, kín đáo đón
khách đến nhà mỗi khi ra ngoài. Không khí cung đình từ bao đời nay trên mảnh đất
này đã tạo nên cốt cách ăn mặc đó.Đến Huế bây giờ ít thấy áo i hơn nhưng cách đây
vài chục năm, đâu phụ nữ Huế đấy áo dài, từ các em nữ sinh yểu điệu đến
các bán bún, chè gánh lam lũ. Áo i chất liệu tơ, lụa của áo dài Huế cốt cách
cung đình, nết mặc đài các. Trang phục Huế kín đáo bởi họ quan niệm, đó cách
tôn trọng người đối diện với mình, thế n họ mặc kín đến tận gót chân (y phục nữ)
Người Huế rất biết dùng màu trên trang phục để thể hiện quan điểm, tính cách của
mình, đa số màu trên trang phục của người Huế màu tự nhiên, không chỉ màu tím
nhưng màu tím vẫn được coi màu Huế nhất. Theo phân tích của c nhà khoa học
thì tím Huế trên áo dài Huế màu trung gian, nằm giữa nóng lạnh, đằm thắm,
cho người đối diện cảm giác thăng bằng của niềm vui trong sáng, thầm kín.Giờ thì
nhắc đến áo dài Huế người ta nghĩ ngay đến u tím, người yêu Huế cũng mặc
định cho mình tình u với màu tím này. Tím Huế nhiều bậc, mỗi bậc gắn với một
thời khắc trong ngày, một tâm trạng, cảm xúc. Sáng sớm Huế m rất nhẹ, đó màu
phơn phớt của hoa sầu đông, nhẹ nhàng, mỏng mảnh như nụ cười chúm chím của
gái Huế đang tuổi trăng rằm. Vào trưa, Huế lại tím một màu không thể gọi tên, một
chút nắng, một chút ấm áp xen vào rồi cảm xúc của con người đứng trước màu tím
này chợt như chờ đợi, khao khát tìm kiếm một thứ đó xa xôi từ bao giờ. Hoàng
hôn, tím Huế trên tà áo i sao khắc khoải, sâu kín.
3.6. Văn hóa giáo dục
Thừa Thiên Huế - vùng đất hiếu học, đề cao đạo gia phong. Lịch sử đã ghi nhận
Thừa Thiên Huế “vùng đất học”, bởi Huế từng là trung tâm văn hóa lớn của cả
nước - nơi hội tụ của các bậc chí nhân hào kiệt; nơi của những trường học nền giáo
dục. Sách Đại Nam nhất thống chí viết đây vùng đất học, từ lâu có truyền thống
“dân thứ siêng cấy”, phu chăm học nh”. Lễ giáo trong đời sống của nhân dân
Thừa Thiên Huế luôn luôn được tôn cao mang đậm chất Nho giáo, thể hiện
trong những dịp lễ tết, học hành, khoa cử. Gia phong lễ giáo vùng đất này đã
hình thành trong mỗi gia đình nếp nhà, gia quy, gia pháp, gia phong, gia đạo. Trong
học hành khoa cử, người thầy giữ vị trí độc tôn đối với s hình thành phát triển
nhân cách cho học sinh. - Thừa Thiên Huế - vùng đất hội tụ giao thoa các luồng
văn hóa, tưởng. Trong quá trình hình thành phát triển của Đàng Trong, Huế là
trung tâm trong việc kế thừa, chuyển tải phát huy truyền thống văn hóa dân tộc trên
vùng đất mới, đồng thời lại tiếp thu c yếu tố mới của văn hóa bên ngoài.

Preview text:

1.Văn hóa vật chất 1.1 Văn hóa nhà ở
- Đặc trưng trong bố cục mặt bằng của nhà ở truyền thống miền Trung là tổng thể
ngôi nhà bao gồm nhiều nếp nhà được xây dựng với mái liền kề . Trong đó nhà trên là
nơi tôn nghirm đặt bàn thờ tổ tiên còn nhà dưới là không gian sinh hoạt dành cho các
thành viên trong gia đình . Tại miền Trung, nhà trên và nhà dưới thường được thiết kế
vuông góc với nhau và cùng hướng về sân phơi phía trước nhà . Đa số nhà ở miền
Trung được xây dựng với hình thức bốn mái có đầu hồi.
Diện tích của nhà ở miền Trung cũng lớn hơn nhiều so với miền Bắc. Nhà trên thường
được xây dựng từ năm đến bảy gian, nhà dưới từ ba đến năm gian. Không gian nhà
trên được thiết kế bố cục đối xứng bao gồm gian giữa là nơi thờ cúng tổ tiên và các
gian buồng hai bên là chỗ ngủ hoặc là kho chứa đồ của gia đình.
Nhà miền Trung chủ yếu được xây dựng bằng hệ thống kèo chống làm trụ. Cấu trúc
kèo chống có đặc trưng đó là các thanh kèo được đặt nằm nghiêng theo chiều dốc của
mái nhà liên kết các dầu cột với nhau và đầu của thanh kèo nằm phía dưới được gác
lên đuôi của thanh kèo nằm phía trên. Nét đặc trưng này đã được thể hiện thông qua
chính tên gọi của nó (nhà kèo)
Ngoài ra, nhà ở truyền thống miền trung còn có các loại nhà khác như: nhà rọi hay
nhà nọc ngựa với hình thức trúc có một cột nằm chính giữa chống trực tiếp với nóc
nhà. Nhờ kĩ thuật này mà chiều rộng của bước cột và bước gian ngày càng được mở
rộng. Có thể cho rằng, người Việt đã đem kỹ thuật xẻ mộng đầu cột - một kỹ thuật
truyền thống lâu đời từ miền Bắc du nhập vào miền Trung được xây dựng với qui mô
lớn hơn trước, và đặc biệt là lớn hơn cả nhà ở dân gian tại miền Bắc. Dần dần, ngay
cả tấm gỗ hình tam giác cũng được lược bỏ và liên kết của hai thanh kèo ở nóc mái,
cũng như cả đòn đông đều được lắp mộng vào cột.
Nhà ở truyền thống miền Trung là nét duyên xưa, nét đẹp văn hóa mà người miền
Trung xưa để lại cho bao đời sau. Thông qua việc tạo nên những ngôi nhà truyền
thống vô giá, giữ gìn, bảo tồn và phục dựng đúng cách những ngôi nhà truyền thống
cũng là một nét đẹp, một sự kế thừa truyền thống văn hóa của cha ông ta từ xa xưa để lại.
(nhà truyền thống của người miền Trung)
(nhà của người Chăm)
1.2. Văn hóa ẩm thực
- Ẩm thực Trung bộ khá phong phú và đa dạng. Bên cạnh lối ẩm thực cầu kỳ mang
tính Cung đình, nặng nề và lễ nghi lại có lối ẩm thực bình dân, giản dị và mộc mạc.
Có ẩm thực sang trọng cũng có ẩm thực đường phố, không hề kém giá trị và hấp dẫn.
(Ẩm thực cung đình Huế có thể được coi là tinh hoa ẩm thực Việt với sự hài hòa và bổ dưỡng)
Nét đặc trưng của ẩm thực Trung Bộ
Văn hóa ẩm thực Trung Bộ là một tổng thể hài hòa và tinh tế, phần bị chi phối bởi
tính cách của con người nơi đây. Các món ăn Trung Bộ hầu hết có vị cay và mặn. Họ
cũng thích vị ngọt nhưng ngọt vừa phải. Nói một cách khác là dù món ăn có đơn giản
thì cũng phải đậm đà bởi người miền Trung quan niệm món ăn phải đậm đà thì mới ngon. (bún bò Huế) (cao lầu Hội An)
Ớt là linh hồn ẩm thực của Trung Bộ
Như đã đề cập bên trên, người miền Trung đặc biệt thích ăn cay, dù là món ăn cao
lương mĩ vị hay món ăn dân giã đời thường, một khi đã thưởng thức thì đều không thể
thiếu cái vị cay rất đặc biệt của ớt. Ớt được coi là vị nhạc trưởng trong chế biến món
ăn, đặc biệt là món cay từ bát Bún Bò, Cơm Hến cho đến các món điểm tâm sáng
cũng như các loại nước chấm . . tất cả đều phải cay (cơm hến)
(nước chấm Quảng Nam) Ẩm thực Huế
Nói đến văn hóa ẩm thực Trung Bộ, trước hết phải nói đến ẩm thực xứ Huế. Vốn là
đất cố đô, Huế có cách thức mời thưởng thức món ăn rất đặc biệt. Một bữa ăn của
người Huế như hội tủ cả âm dương, ngũ vị với sự hài hòa đến mức tự nhiên giữa tính
chất, mùi vị, màu sắc của các món ăn. Người Huế luôn coi trọng từng món ăn của
mình, từ sự tao nhã, chau chuốt trong từng bữa ăn cho đậm vị , đẹp mắt lẫn sự phong
phú và đa dạng của các món ăn nơi đây, đặc biệt là các món ăn cung đình Huế.
Không chỉ các món ẩm thực cung đình mà các món ăn bình dị cũng như thế. Chỉ riêng
về phần gia vị nếu muốn mặn thì cũng có đến vài chục vị ruốc, ngọt thì có một chuỗi
các loại chè, béo thì có Bún Bò, đắng thì có Cháo nấm tràm,cay thì dùng cơm Hến (cháo nấm tràm) (chè xứ Huế) Ẩm thực Hội An
Đặc sắc trong văn hóa có ẩm thực Trung Bộ có ẩm thực Hội An mà nồi mì
Quảng ,Cao Lầu trứ danh phố Hội, món ăn góp phần làm nên cái hồn ẩm thực còn
đọng lại nét xưa của phố cỗ Hội An. Cao lầu có sợi bánh màu vàng đặc trưng từ nước
tro cùi trầm cùa Cù Lao Chàm và nước giếng Bà Lễ và thường được dùng thịt heo và
các loại rau sống. Cũng giống như món mì Quảng, cao lầu được ăn với rất ít nước
dùng. Đó là loại nước sốt có hương vị đậm đà như những món kho trong mâm cơm
của người Việt nhưng hơi loãng hơn. Loại nước sốt này được lấy từ nước tẩm gia vị
của thịt heo, đun trên bếp lâu nên thấm đượm gia vị. Sợi cao lầu dẻo dai sần sật quyện
cùng do mùi vị cay nồng, đắng, chát của rau ghém thanh đạm, hòa với cái ngầy ngậy
của tóp mỡ, vị ngọt của thịt xá xíu làm người ăn cứ phải xao xuyến. (mì quảng Hội An) ( bánh xèo Hội An )
Ẩm thực Bình Định
Bình Định có bánh ít lá gai, một món bánh nổi tiếng được nhiều người yêu thích và
thường mua về làm quà mỗi khi đến miền Trung. Không như bánh ít miền Nam hay
miền Bắc , bánh ít lá gai Bình Định nhỏ, vị dẻo thơm , ngọt bùi ấy đã trở thành dư vị
khó quên trong lòng những ai đã từng nếm qua thứ bánh này. (bánh ít lá gai) (bánh xèo Mỹ Cang) .ẨmthựcPhúYên
Vùng đất Phú yên có món bánh hỏi , loại bánh vắt từ gạo , rất đặc trưng , thơm ngon
và thường ăn với lá hẹ , thịt ba chỉ cuốn. Ngoài ra, ẩm thực Phú Yên còn có bánh
tráng mỏng, nướng đều, dọn ra ăn kèm gói hoặc các món cuốn rất ngon. (bún mực Phú Yên)
1.3. Văn hóa trang phục
Hễ nhắc đến Việt Nam, không ai quên nhắc đến tà áo dài mỏng manh và thanh tao, áo
dài vốn là trang phục truyền thống là một biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam.
Được kế thừa một cách sáng tạo những nét đẹp và độc đáo từ chiếc áo tứ thân của
người Kinh, áo dài của người Chăm, Tày, Nùng . . phần trên thiết kế ôm sát thân,
phần dưới có hai tà áo buông mềm mại xuôi theo ống quần, hai tà trước và sau của áo
dài kéo từ cổ xuống mắt cá chân và trùm lên chiếc quần ống rộng có gấu chạm đất, tà
áo dài mộng mơ đã làm xao xuyến những trái tim du khách khi đến với Việt Nam.
Áo dài vốn bắt nguồn từ mảnh đất miền Trung trong thời phong kiến xa xưa, nhưng
ngày nay đã được sử dụng rộng tãi và trở thành một nét đẹp trong văn hóa của dân tộc
Việt. Tà áo dài miền Trung cố đô Huế trở thành biểu tượng và gắn liền với hình ảnh
người con gái xứ Huế. Gam màu tím mộng mơ, trầm lắng mang vẻ đẹp của những
người thiếu nữ kinh kỳ men theo những con sông, bên Cầu Tràng Tiền khiến cho du
khách thêm yêu về trữ tình của mảnh đất Cố đô này.
(áo dài truyền thống của Việt Nam) (áo dài Chăm)
1.4. Văn hóa kiến trúc, điêu khắc
Văn hóa kiến trúc, điêu khắc nổi bật nhất ở Trung bộ là kiến trúc và điêu khắc của dân
tộc Chăm-một tinh túy truyền thống, di sản quý báu của nhân loại
a, Khu đền tháp Chăm Mỹ Sơn
Kiến trúc Chăm pa được biết đến là một khối được dựng lên bằng gạch nung và có
màu đỏ sẫm có phía trên rộng và thon hình bông hoa. Mặt bằng đa số là hình vuông
và bên trong nhỏ hẹp. Đặc điểm của kiến trúc Chăm Pa là duy nhất có 1cửa phía
đông. Trần nhà có cấu tạo là mái vòm cuốn và bên trong có một bện thờ đá. Trên mặt
tường của tháp được sử dụng nghệ thuật chạm khắc, đẽo gọt công phu hình ảnh thần
thánh, vũ nữ, chim chóc. Qua hàng chục thế kỷ những tòa tháp vẫn bền vững nhờ sự
liên kết chắc chắn của những viên gạch.
(thánh địa Mỹ Sơn)
- Phong cách kiến trúc
+ Phong cách Hòa Lai và phong cách Đồng Dương
Ngôi đền tháp theo hai phong cách này có những hàng cột ốp và những cửa vòm khỏe
khoắn. Có rất nhiều họa tiết trong 2 công trình theo phong cách này. Phong cách Hòa
Lai là các vòm cửa nhiều mũi tròn trùm lên các cửa thật, cửa giả. Các cột ở khung cửa
hình bát giác bằng sa thạch được trang trí bằng một đường các hình lá uốn cong. Ở
giữa hai cột trụ sẽ được sử dụng những khắc họa thực vật. Khác với phong cách Hòa
Lai. Phong cách Đồng Dương những hình thực vật lại hướng ra ngoài. Những nét của
phong cách Đồng Dương mạnh mẽ hơn so với sự tươi mát sang trọng của Hòa Lai
+ Phong cách Mỹ Sơn A1
Phong cách thể hiện đầy đủ, trọn vẹn những cột ốp đứng thành 1 đôi. Bên cạnh những
cây cột là những hình người, vòm cửa phức tạp không hề có chạm khắc. Hình trụ xây
dựng phức tạp và thu nhỏ dần khi lên cao. Phong cách Hòa Lai và phong cách Đồng
Dương đã không còn thấy được ở trong phong cách Mỹ Sơn A1 này.
+Phong cách Bình Định
Đầu thế kỉ 11 hàng loạt biến động và Chăm Pa đã di chuyển vào Bình Định. Từ đó
nghệ thuật Chăm Pa phong cách Bình Định đã ra đời. Phong cách Chăm Pa này khác
hẳn so với các phong cách trước. Có vòm thu lại vút ở trên như hình mũi giáo ở các
khối trên cuộn lại thành khối hình khỏe, đậm và mặt tường có các gân sống. b, Tháp bánh ít
Đi từ ngoài vào trong đầu tiên du khách sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của tháp cổng
phía Đông của quần thể kiến trúc văn hóa Chăm với chiều cao chừng 13m. Tháp cổng
được xây dựng theo bình đồ hình vuông 7m×7m theo lối kiến trúc Gopura. Đây là
một phong cách kiến trúc điển hình của thời kì Chăm Pa với hai cửa thông nhau trong
đó có hai cửa thông nhau trong đó có một cửa quay hướng về phía Đông và một cửa
quay về hướng tháp chính.
Di chuyển sang phía nam của quần thể kiến trúc tháp Bánh ít là vẻ đẹp của tháp cổng
phía nam. Tháp cổng phía nam còn có tên gọi là tháp Bìa và cao chừng 10m. Tháp
Bìa cũng được xây dựng dựa trên lối kiến trúc Bình Định. Tuy nhiên điểm riêng biệt
của kiến trúc tháp Bìa là phong cách kiến trúc Posah. Ba tầng mái của tháp được lợp
chồng lên nhau và nhỏ dần về phía đỉnh tháp. Tất cả đã tạo nên nét đẹp hoàn mỹ riêng biệt cho tòa tháp này.
Tháp chính được xây dựng trên đỉnh đồi, cao trên 20m. Khác với tháp cổng phía
Đông và tháp Bìa, tháp chính của quần thể kiến trúc văn hóa Chăm này được xây
dựng dựa theo lối kiến trúc Kalan. Những bức tường được xây dựng tuy thanh thoát
nhưng rất vững chãi và trường kì theo năm tháng. Trên các tầng mái được thiết kế các
hệ thống cột và cửa giả. Một số mặt và tầng mái có họa tiết trang trí mang đậm phong
cách người dân Chăm Pa. Điển hình như ở tầng một bao gồm những họa tiết trang trí
như hình sư tử ở phía nam, hay trang trí bò thần Nandin, còn phía bắc là mặt Kala
nhìn thẳng và bên trong là các tượng bằng đá. Tất cả đã thể hiện được tín ngưỡng văn
hóa thờ thần của người Chăm Pa xưa kia. c, Tháp Đôi
Do xây dựng vào khoảng thời gian từ thế kỷ X đến thế kỷ XV nên một phần vẻ đẹp
Tháp Đôi bị ảnh hưởng bởi nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Angkor Wat. Chính vì
vậy, Tháp Đôi không có hình dạng tháp vuông vuông nhiều tầng theo truyền thống
con người Chăm mà cấu trúc gồm 2 phần chính: Phần thân vuông góc và dính tháp chứa mặt cong.
Tại các góc của tháp được trang trí bằng hình tượng chim thần Grauda 2 tay giơ cao-
đây là chi tiết thể hiện sự ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hóa Khmer. Còn lại toàn bộ
phần thân tháp vẫn giữ nguyên thiết kế và kiểu trang trí đặc trưng của các ngôi tháp tại Chăm.
Ở ngôi tháp phía bắc, phần chân tường được đỡ bởi dải sen khổng lồ tạo thành bởi
những tảng đá lớn. Phần tâm sen được trang trí bởi hình các con vật quyền lực như
voi, sư tử và hình vũ nữ. Tham khảo thêm Ghềnh Răng Tiên Sa được ví dụ như viên ngọc bích.
Một phần tháp khác bị ảnh hưởng bởi nghệ thuật Khmer là bộ điềm tháp được tạo
hình bằng đá kết hợp điêu khắc hình người 6 tay, 8 tay và các con vật tạp chủng có
đầu sư tử , đầu voi. Bốn góc Diềm đặt 4 vị thần Grauda khổng lồ theo nghệ thuật điêu khắc thời Angkor Wat.
Tương tự với ngôi tháp phía Nam, hầu hết các chi tiết đều được làm tương đối giống
ngôi pháp phía Bắc tuy nhiên đến thời điểm hiện tại, ngôi tháp này bị hư hại nhiều
hơn. Bên trong tháp lớn thờ linh vật Linga và Yoni qua biểu tưởng cối, chày giã gạo.
Hai bên diềm tháp được chạm khắc hoa văn tinh tế, đối xứng với hình tượng 21 vũ nữ
nhảy múa quanh diềm mái tạo nên nét nghệ thuật, bí ẩn cho Tháp Đôi Quy Nhơn.
Ngăn cách giữa phần mái cong và phần thân vuông vức, hình ảnh tu sĩ ngồi thiền
được chạm khắc điêu luyện kết hợp voi châu đối xứng 2 bên. Qua nhunhwx chi tiết
chạm khắc kể trên cho ta thấy điểm du lịch Tháp Đôi không chỉ hiện thân cho nền văn
hóa xưa và còn thể hiện sự tinh tế, tỉ mỉ, hoàn hảo và khả năng vượt bậc của những
nghệ nhân thời bấy giờ.
1.5. Các ngành nghề truyền thống (các làng nghề nổi tiếng)
Làng nghề truyền thống là các ngôi làng được bảo tồn từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Sản phẩm của họ đã nổi tiếng trên thị trường trong nước và quốc tế, thể hiện được
phong tục, truyền thống và văn hóa Việt Nam
Nghề làm nón lá (Huế)
Nhắc tới con người Huế, những cô gái Huế, không thể không nhắc đến chiếc nón lá
trắng tinh, dịu dàng e ấp bên tà áo dài tím. Nghê làm nón lá ra đời cách đây cugx đã từ
rất lâu rồi, có lẽ từ thời của những vị vua. Tính đến nay Huế được cho là một trong
những nơi sản xuất nón lá lớn nhất của cả nước. Du khách đến đây có thể tham quan
các làng nghề nổi tiếng như: Dạ Lê, Phú Cam, Đốc Sơ, Triều Tây, Kim Long, Sịa,.
Đây không chỉ là một sản phẩm đơn thuần mà còn là cả một tác phầm nghệ thuật, đòi
hỏi người nghệ nhân phải thật khéo léo, tỉ mỉ và kiên trì.
Làng nghề gốm Bầu Trúc( Ninh Thuận )
Làng nghề truyền thống gồm Bầu Trúc- làng gốm cổ nhất Đông Nam Á. Làng nằm
cách thị xã Phan Rang khoảng 10km về phía Nam. Đây là nơi sinh sống của hơn 400
gia đình, trong đó khoảng 85% mưu sinh bằng nghề làm gốm truyền thống.
Làng đã tồn tại hơn 200 năm và hầu hết các hộ dân là người Chăm. Bầu Trúc còn
được đặt theo tên gốc là Paley Hamu Trok- nghĩa là phần cuối sông. Nghề làm gốm
của nó do một người chăm tên là Po Klong Chan bắt đầu và vẫn tồn tại tốt cho đến
nay. Khác với những làng nghề truyền thống khác. Bầu Trúc trông rất khang trang và
hiện đại với những con đường lát bê tông, những ngôi nhà mái đỏ, những cửa hàng buôn bán.
Làng nghề làm giấy Poonah Yên Thái ( Quảng Bình )
Điểm nổi bật: Nghề làm giấy đã có ở Quảng Bình hơn 6 thế kỷ. Làng Yên
Thái nổi tiếng với nghề sản xuất các loại giấy, bao gồm giấy sắc phong ( viết sắc lệnh
của hoàng gia ) và giấy lệnh ( viết lệnh của vua ) Nguyên liệu để làm các loại giấy này
được lấy từ những cây pơ mu đặc trưng ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Người dân
làng Yên Thái phải trải qua nhiều công đoạn chính xác và phức tạp, từ khâu chọn
nguyên liệu tốt đến ngâm nước, giã, vò . Sản phẩm được sử dụng rộng rãi để viết chữ
Hán, in tranh dân gian và sách.
Làng nghề truyền thống điêu khắc đá Non Nước ( Đà Nẵng )
Tự hào với bề dày lịch sử hơn 200 năm, những người thợ chạm khắc ở làng
nghề Non Nước luôn ý thức được việc giữ gìn khu di tích và bảo vệ nghề truyền thống
của mình. Các sản phẩm thủ công ban đầu được làm ra để phục vụ đời sống sinh hoạt
của người dân địa phương là cối say thóc, cối giã gạo, bia mộ. Gần dây, sản phẩm
được mở rộng và trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao nhất
của thành phố. Có hàng ngàn thợ chạm khắc với hơn 300 cơ sở kinh doanh chạm khắc trong làng.
Làng mộc Kim Đồng ( Hội An - Quảng Nam)
Điểm nổi bật: Làng mộc Kim Đồng là một trong những làng nghề truyền
thống nổi tiếng ghi dấu những giá trị độc đáo và nhiều công trình nghệ thuật. Ngôi
làng thu hút rất nhiều khách du lịch trong nước và quốc tế bởi những sản phẩm từ gỗ
rất đẹp và ấn tượng. Được hình thành từ thế kỉ 16, phong cách mộc Kim Đồng là sự
pha trộn tuyệt vời của người Trung Quốc, Nhật Bản, vương quốc Chăm và bàn tay tài
hoa của những người thợ Việt Nam
Làng nghề truyền thống đúc đồng, Phước Kiều ( Quảng Nam )
Được thành lập vào thế kỷ 16, những bàn tay khéo léo của dân làng địa
phương đã làm ra nhiều sản phẩm bằng đồng như lọ cổ, lư đốt, dui đèn. Bên cạnh đó,
nơi đây còn sản xuất nhiều loại nhạc cụ, đặc biệt là “ cồng chiêng “ cho các cộng đồng dân tộc Việt Nam.
1.6 .Di sản văn hóa khác
Di sản văn hóa thánh địa Mỹ Sơn ( Quảng Nam )
Thánh địa Mỹ Sơn được xây dựng từ thế kỷ thứ 4 và trong nhiều thế kỷ sau đó
là một trong những trung tâm chính của Ấn Độ giáo ở khu vực Đông Nam Á. Đây
cũng là nơi cúng tế của vương chiều Chăm Pa trước đây. Thánh địa Mỹ Sơn nằm
trong một thung lũng có đường kính khoảng 2km, xung quanh là đồi, núi cao khoảng
100 đến 400m nằm giữa Đông Trường Sơn và kinh đô Trà Kiệu.
Mặc dù qua năm tháng đã biến nhiều khu tháp thành phế tích nhưng những
hiện vật điêu khắc, kiến trúc còn lại cho đến ngày nay vẫn để lại những phong cách
giai đoạn lịch sử và mỹ thuật dân tộc Chăm, những kiệt tác đánh dấu 1 thời huy hoàng
của văn hóa - kiến trúc Chămpa cũng như của Đông Nam Á.
Phố cổ Hội An ( Quảng Nam )
Vốn là một thành phố cảng sầm uất vào thế kỷ 17, lối kiến trúc kết hợp giữa
truyền thống và giao lưu hội nhập, Phố cổ Hội An đã được UNESCO công nhận là di
sản văn hóa thế giới ngày 4/12/1999. Màu thời gian nhuộm khắp mọi nơi trên phố cổ:
những mái nhà lợp ngói âm dương phủ kín rêu phong và cây cỏ, những mảng tường
xám mốc, xưa cũ, những con phố ngắn hạn uốn cong, chạy ngang dọc theo kiểu bàn
cờ và cả những chiếc áo lam của bà con đi lễ hội chùa Cầu trong ánh đèn lồng, dưới
bóng trăng rằm gợi lên bao cảm xúc dạt dào, lồng lộn trăng nước.
Quần thể di tích cố đô Huế
Nằm ở bờ bắc sông Hương, thuộc địa phận thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên
Huế - Huế, hệ thống quan kiến trúc quan trọng nhất của nhà Nguyễn được xây dựng
theo kiến trúc của phương tây kết hợp một cách tài tình với kiến trúc thành quách
phương đông, bao gồm ba tòa thành: Kinh thành Huế, Hoàng thành Huế, Tử Cấm
thành Huế lồng vào nhau được bố trí đăng đối trên một trục dọc xuyên xuốt từ mặt
nam ra mặt bắc. Đây là một hình thái kiến trúc tinh tế, các công trình kiến trúc gắn bó
với cảnh quan sông núi hữu tình, chứa đựng những đường nét chạm khắc tinh xảo.
Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng ( Quảng Bình )
Thuộc vùng núi đá vôi Kẻ Bàng, xã Sơn Trạch, huyện Bổ Trạch, tỉnh Quảng Bình,
cách thành phố Đồng Hới 50km về phía tây bắc, động Phong Nha được coi là “ Thiên
Nam đệ nhất động “ của Việt Nam, được che bởi những cánh rừng nhiệt đới. Bên
cạnh giá trị về lịch sử địa chất, địa hình vườn quốc gia này còn là được thiên nhiên ưu
đãi ban tặng cho những cảnh quan kỳ bí, hùng vĩ, ẩn chứa bao điều bí ẩn của tự nhiên,
được hiệp hội Hoàng gia Anh bình chọn là một trong những hang động đẹp nhất thế
giới với 7 tiêu chí: Hang động có cửa hang cao và rộng; có bãi cát, bãi đá ngầm đẹp
nhất; có hệ thống thạch nhũ kỳ ảo và tráng lệ nhất; có các hang khô cao và rộng; có hồ
nước ngầm sâu và đẹp; có nước dài nhất. Sau hàng chục cuộc thám sát của người
Việt, người Pháp, người Anh ,. . động Phong Nha vẫn còn đó những điều bí ẩn.
Di sản văn hóa Thành nhà Hồ ( Vĩnh Lộc, Thanh Hóa )
Nằm cách thành phố Thanh Hóa gần 50km về phía tây bắc, Thành nhà Hồ thuộc
địa bàn các xã Vĩnh Tiến, Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc được UNESCO công nhận là
di sản văn hóa thế giới. Thành nhà Hồ được mô tả là một công trình kỳ vĩ bởi kỹ thuật
và nghệ thuật xây dựng đá lớn, cùng sự kết hợp các truyền thống xây dựng đá độc đáo
có một không hai ở Việt Nam, khu vực Đông Nam Á trong thời kỳ cuối thế kỷ 14, đầu thế kỷ 15.
3.Văn hóa tiểu vùng Huế
Văn hóa Huế là tổng hòa các giá trị vật chất và tinh thần, truyền thống, thị hiếu và
phong cách sống, được tạo nên từ quá trình hoạt động thực tiễn gắn với sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội, để khẳng định bản sắc riêng của
vùng đất và con người Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế.
3.1 Văn hóa địa sinh thái Huế
Xét về mặt lịch sử - địa lý, không gian văn hóa Huế khá rộng lớn. Từ năm 1306, vua
Trần Anh Tông gả Huyền Trân Công chúa cho vua Chiêm là Jaya Simhavarman III
(Chế Mân) để đổi lấy châu Ô và châu Lý. Năm 1307, châu Ô, châu Lý được đổi thành
châu Thuận và châu Hóa. Năm 1636, chúa Nguyễn Phúc Lan dời phủ đến Kim Long,
khởi đầu cho quá trình đô thị hóa trong lịch sử hình thành và phát triển của thành phố
Huế sau này. Đến năm 1687, chúa Nguyễn Phúc Thái dời phủ chính đến làng Thụy
Lôi, đổi là Phú Xuân, tiếp tục xây dựng và phát triển Phú Xuân thành một trung tâm
đô thị phát đạt của xứ Đàng Trong. Tiếp đó, Phú Xuân là kinh đô của nước Đại Việt
thống nhất dưới triều Tây Sơn (1788-1801) và là kinh đô của nước Việt Nam gần 150
năm dưới triều đại phong kiến nhà Nguyễn (1802-1945). Đến năm 1822, vua Minh
Mạng đổi đặt thành phủ Thừa Thiên, phần đất bao bọc Kinh thành Huế, gồm Hương
Trà, Quảng Điền và Phú Vang. Năm 1898, Vua Thành Thái ra chỉ dụ lập thị xã Huế.
( bản đồ tỉnh thừa thiên Huế )
Về điều kiện tự nhiên, Thừa Thiên Huế được chia thành 4 vùng sinh thái: vùng núi,
vùng gò đồi, vùng đồng bằng, vùng đầm phá và cồn cát ven biển. Chính vị trí đặc biệt
cùng với sự đa dạng của địa hình đã làm cho Thừa Thiên Huế có nhiều điểm nổi bật
về tự nhiên. Và cũng chính điều kiện tự nhiên đó đã ảnh hưởng đến tâm tính và cảm
quan của người Huế, hình thành nên nếp nhà vườn ở xứ Huế, quy định tính cách,
phong cách sống và lối ứng xử của người Huế, cũng như góp phần hình thành một
vùng văn hóa - không gian văn hóa độc đáo và đậm bản sắc.
3.2 Văn hóa vật thể
Nói đến Huế là nói đến một hệ kinh thành còn được giữ tương đối hoàn chỉnh với
hoàng thành, tử cấm thành, điện Thái Hòa, Long An,Ngọ Môn…. và đồng thời cũng
nói đến hệ lăng tẩm với những lăng Gia Long, Minh Mạng, Tự Đức,. . (điện Thái Hòa) (ngọ môn Huế) (điện Long An) (lăng Minh Mạng) (lăng vua Gia Long)
Thừa Thiên Huế được biết đến như là kinh đô của Phật giáo, là vùng đất của nhiều di
sản văn hóa tâm linh độc đáo và đa dạng, đồng thời là nơi còn lưu giữ những thánh
tích của tín ngưỡng thờ Mẫu cũng như những công trình kiến trúc của tôn giáo như là
tháp Thiên Mụ, đền Hòn Chén, chùa Tử Đàm, Túy Vân, Diệu Đế. . (chùa Thiên Mụ) (điện Hòn Chén)
3.3 Văn hóa phi vật thể
Bên cạnh các di sản vật thể, Thừa Thiên Huế là nơi tập trung các giá trị văn hóa phi
vật thể phong phú, đa dạng với các loại hình nghệ thuật diễn xướng cung đình bác
học, nghệ thuật trang trí, mỹ thuật, ẩm thực, phong tục tập quán. Với bề dày lịch sử và
truyền thống văn hóa, Huế là nơi hội tụ nhiều dòng nhạc mang đậm bản sắc Huế như:
nhạc cung đình bác học, nhạc dân gian, nhạc tín ngưỡng tôn giáo, cùng với nền tảng
thơ văn, mĩ thuật, lễ hội dân gian đã định hình những đặc trưng của không gian văn
hóa Huế. Âm nhạc Huế 11 gồm ba thành phần chính yếu: nhạc Lễ (bao gồm cả nhạc
Cung đình và nhạc Rõi bóng), dân ca (bao gồm các điệu hò, lý, kể vè. .) và ca Huế.
Và đặc biệt là Nhã nhạc Cung đình Huế được UNESCO công nhận là “kiệt tác truyền
khẩu và phi nhân loại” năm 2003 đã và đang được gìn giữ và phát huy giá trị. Nét độc
đáo của dân ca xứ Huế là âm sắc, ngữ âm địa phương, không lẫn với vùng nào trên
đất nước ta, đồng thời ảnh hưởng của dân ca, âm nhạc Chămpa đối với dân ca xứ
Huế là điều không thể phủ nhận.
(Một số hình ảnh của Nhã nhạc cung đình Huế)
(ca Huế trên sông Hương)
Nét đặc sắc và riêng có là vùng đất Cố đô Huế (Thừa Thiên Huế hiện nay) với hơn
100 lễ hội dân gian, lễ hội truyền thống đã được lưu giữ, hiện được khôi phục và phát
huy, phục vụ nhu cầu thưởng thức văn hóa của cộng đồng dân cư cũng như cho phát
triển kinh tế thông qua các hoạt động du lịch và dịch vụ. Tiêu biểu như Lễ hội điện
Hòn Chén, Lễ hội cung đình Huế (Lễ tế Nam Giao, Lễ tế Đàn Xã Tắc, Lễ Truyền Lô,
Lễ tế Văn Miếu. .) và các Lễ hội văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo như Lễ Phật Đản, Lễ
hội Điện Huệ Nam, Lễ hội Quán Thế Âm. .); lễ hội tưởng nhớ các vị khai canh, thành
hoàng, lễ tưởng niệm các vị tổ sư làng nghề (Lễ hội Cầu Ngư, Lễ hội vật võ Làng
Sình, vật võ Làng Thủ Lễ, đu tiên Phong Hiền, Lễ hội Làng Chuồn, Lễ hội đua ghe, lễ
hội thả diều. .) và nhiều lễ hội khác như Lễ hội Đền Huyền Trân, Ngày hội Văn hóa
Thể thao đồng bào các dân tộc miền núi, Lễ hội Lăng Cô huyền thoại biển, Lễ hội Thuận An biển gọi.
(Lễ hội điện Hòn Chén)
(lễ hội Quán Thế Âm)
(lễ tế đàn xã tắc)
3.4. Văn hóa ẩm thực
- Đất Huế thơ mộng không chỉ với sông Hương, núi Ngự, với lăng tẩm đền đài mà
còn độc đáo bởi những con người tài hoa, khéo léo đã tạo ra một nét ẩm thực đặc
trưng mang đậm màu sắc của vùng đất xinh đẹp này. Mà khi nhắc đến hẳn ai trong
mỗi du khách cũng mong được thưởng thức các món ăn xứ Huế không chỉ một
lần.Món ăn Huế có hương vị rõ ràng và đậm đà. Bởi người Huế coi món ăn như triết
lý nhân sinh của cuộc đời có đủ các vị từ mặn, ngọt, béo, bùi đến chua, chát, đắng,
cay nhưng vị nào luôn rõ vị ấy. Có thể nói, người Huế đến với ẩm thực không theo cái
nghĩa sinh học giản đơn, mà thưởng thức bằng cả khứu giác, thị giác và cả… thính
giác. Người Huế tỏ ra sành điệu trong ăn uống, không chỉ trong khâu chọn nguyên vật
liệu mà còn cầu kỳ từ việc nêm nấu chế biến cho đến cách bày biện trang trí, cứ như
mỗi món ăn được nâng lên hàng một tác phẩm nghệ thuật. Những món ăn Huế dù là
cao lương mỹ vị hay dân dã đơn sơ, đều làm cho ai đó một lần nếm qua phải xuýt xoa
khen ngon đến mức “ngậm mà nghe”, để rồi lưu luyến mãi cái hương vị khó quên ấy.
Dường như qua bàn tay khéo léo của người phụ nữ, món ăn đã được thổi vào cái hồn
và chút gì đó tâm linh của Huế. (bún hến) (bún bò Huế) (nem lụi Huế) (bánh bột lọc) (kẹo mè xưởng) (bánh khoái)
3.5. Trang phục của người Huế
Người Huế dù trẻ, dù già, dù giàu, dù nghèo cũng đều ăn mặc lịch sự, kín đáo đón
khách đến nhà và mỗi khi ra ngoài. Không khí cung đình từ bao đời nay trên mảnh đất
này đã tạo nên cốt cách ăn mặc đó.Đến Huế bây giờ ít thấy áo dài hơn nhưng cách đây
vài chục năm, ở đâu có phụ nữ Huế là ở đấy có áo dài, từ các em nữ sinh yểu điệu đến
các cô bán bún, chè gánh lam lũ. Áo dài và chất liệu tơ, lụa của áo dài Huế là cốt cách
cung đình, là nết mặc đài các. Trang phục Huế kín đáo bởi họ quan niệm, đó là cách
tôn trọng người đối diện với mình, thế nên họ mặc kín đến tận gót chân (y phục nữ)
Người Huế rất biết dùng màu trên trang phục để thể hiện quan điểm, tính cách của
mình, đa số màu trên trang phục của người Huế là màu tự nhiên, không chỉ là màu tím
nhưng màu tím vẫn được coi là màu Huế nhất. Theo phân tích của các nhà khoa học
thì tím Huế trên áo dài Huế là màu trung gian, nằm giữa nóng và lạnh, nó đằm thắm,
cho người đối diện cảm giác thăng bằng của niềm vui trong sáng, thầm kín.Giờ thì
nhắc đến áo dài Huế là người ta nghĩ ngay đến màu tím, người yêu Huế cũng mặc
định cho mình tình yêu với màu tím này. Tím Huế có nhiều bậc, mỗi bậc gắn với một
thời khắc trong ngày, một tâm trạng, cảm xúc. Sáng sớm Huế tím rất nhẹ, đó là màu
phơn phớt của hoa sầu đông, nhẹ nhàng, mỏng mảnh như nụ cười chúm chím của cô
gái Huế đang tuổi trăng rằm. Vào trưa, Huế lại tím một màu không thể gọi tên, một
chút nắng, một chút ấm áp xen vào và rồi cảm xúc của con người đứng trước màu tím
này chợt như chờ đợi, khao khát tìm kiếm một thứ gì đó xa xôi từ bao giờ. Hoàng
hôn, tím Huế trên tà áo dài sao khắc khoải, sâu kín.
3.6. Văn hóa giáo dục
Thừa Thiên Huế - vùng đất hiếu học, đề cao đạo lí gia phong. Lịch sử đã ghi nhận
Thừa Thiên Huế là “vùng đất học”, bởi Huế từng là trung tâm văn hóa lớn của cả
nước - nơi hội tụ của các bậc chí nhân hào kiệt; nơi của những trường học và nền giáo
dục. Sách Đại Nam nhất thống chí viết đây là vùng đất học, từ lâu có truyền thống
“dân thứ siêng cấy”, “sĩ phu chăm học hành”. Lễ giáo trong đời sống của nhân dân
Thừa Thiên Huế luôn luôn được tôn cao và mang đậm chất Nho giáo, thể hiện rõ
trong những dịp lễ tết, học hành, khoa cử. Gia phong và lễ giáo ở vùng đất này đã
hình thành trong mỗi gia đình nếp nhà, gia quy, gia pháp, gia phong, gia đạo. Trong
học hành và khoa cử, người thầy giữ vị trí độc tôn đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách cho học sinh. - Thừa Thiên Huế - vùng đất hội tụ và giao thoa các luồng
văn hóa, tư tưởng. Trong quá trình hình thành và phát triển của Đàng Trong, Huế là
trung tâm trong việc kế thừa, chuyển tải và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc trên
vùng đất mới, đồng thời lại tiếp thu các yếu tố mới của văn hóa bên ngoài.