Văn học Việt Nam từ đầu thế hỉ XX đến 1945 | Đại học Sư Phạm Hà Nội

Văn học Việt Nam từ đầu thế hỉ XX đến 1945 | Đại học Sư Phạm Hà Nội giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực

VĂN HỌC VN TỪ ĐẦU THẾ KỈ XX - 1945
KHÁI QUÁT
Phương Tây hóa: Là quá trình mà môi trường văn học, quan niệm văn học, hệ thống
thể loại VH truyền thống từng bước bị theo mô hình VH giải thể cấu trúc lại
Phương Tây. Nhờ vào quá trình này mà VHọc VN thoát khỏi quỹ đạo VHọc Đông Á
(lấy Trung Quốc làm trung tâm – văn học già) để .gia nhập VHọc thế giới
Dân tộc hóa tích hợp bản địa: nhờ quá trình này mà nhân tố P.Tây được với yếu tố
để tạo nên những . Ko có P.Tây hóa thì ko có dưỡng chất kết tinh nghệ thuật mới
mới, ko gian tư duy nghệ thuật mới cho Vhọc, nhưng nếu ko có dân tộc hóa thì văn
học cũng dễ trở thành lai căng, khó có được những thành tựu đích thực. Phương
Tây hóa và dân tộc hóa vì thế là tiền đề của nhau và cũng là yếu tố cần và đủ cho tiến
trình hiện đại hóa VHVN từ 1885 – 1945. Trong thời kì này, 1 số tiền đề Vhóa cho
tiến trình hiện đại hóa VHọc xuất hiện, cụ thể:
1. : Chữ quốc ngữ
Phương Tây Dân tộc hóa
- Chữ quốc ngữ được latinh hóa.
- Tôn giáo: bài giảng (tuyên thánh
Maiorica)
- Xâm lược thuộc địa của TD Pháp
- Sĩ phu (chủ thể thuộc địa/ Việt) bị
đàn áp = trả giá máu + ngục tù
Chữ quốc ngữ được sd như 1 văn tự trong sáng tác VHọc đưa VHọc đến với đông đảo
quần chúng. Tính đại chúng, tính phổ thông vì thế là thuộc tính đầu tiên của VHVN hiện đại.
Văn học Trung đại Văn học Hiện đại
Hán – Nôm = đặc tuyển Chữ quốc ngữ: đại chúng/ phổ thông
Thư bản – truyền khẩu – khắc in
- Tính sùng cổ
- Nhà văn tài tử/ nghiệp dư
Về giáo dục:
Hán hóa
In ấn P.Tây báo chí nhà báo: tin – nhà tư
tưởng
VHọc báo chí:
- Thơ – truyện ngắn – tiểu thuyết
- Tính : con người, sự kiện đang thời sự
diễn ra ở thời hiện tại
- Tính chu kì nhà văn chuyên
nghiệp-người đọc chuyên nghiệp.
Về giáo dục Pháp – Việt:
Phương Tây hóa (người đọc, người
viết)
Giáo dục truyền thống bị bãi bỏ
Số lượng người tiếp cận Văn học:
người đọc, người viết: phát triển cao
(cái tôi), phương Tây hóa)
Page | 1
Văn học quà tặng: dành cho người tri kỷ.
Ông quan – người dân
- Tải đạo – nói chí (tâm lý)
Đô thị hiện đại
… kinh tế thị trường: cung – cầu
… văn học = hàng hóa
-Thị hiếu của thị dân (tò mò – tiêu khiển: tình
ái, giật gân, mới lạ = ; thị hiếu của đại chúng
thị dân buộc người cầm bút luôn thay đổi
phải tự thay đổi để theo kịp với sự thay đổi
đó.
VD: Tản Đà (1916) sáng tác “Giấc mộng con
1”; “Khối tình”
- Thị hiếu: Thích sự đa dạng cái “tôi”
I. BỐI CẢNH LS, XH, VH
Tiếp xúc với P.Tây và 2 nhiệm vụ trung tâm (độc lập và duy tân)
1. Về chính trị:
- Nền chính trị “thuộc địa”
- Là nền chính trị có 2 nhà nước trong 1 đất nước: nhà nước bản xứ Nam triều có vai
trò bù nhìn, đứng đầu là vua; và nhà nước bảo hộ của TD Pháp.
- Nhà nước Nam triều chỉ thừa hành nhà nước bảo hộ, đứng đầu là toàn quyền giai đoạn
này người dân VN phải sống trong cảnh 1 cổ 2 tròng.
2. Văn hóa, XH
- Báo chí hiện đại:
+ Tờ báo nào cũng có 1 trang dành cho văn học, phổ biến là truyện dài kì. Nhu cầu đọc văn
trở thành nhu cầu thường trực, đặc biệt rõ nét ở các đô thị. Những viên chức, tầng lớp thị dân
mới có thời gian rỗi và tiền bạc để đọc sách. Điều này hình thành nên lớp công chúng chuyên
nghiệp (ko chỉ đọc mà còn dùng tiền đầu tư cho văn học) và xuất hiện loại hình nhà văn
chuyên nghiệp (kí hợp đồng, sáng tác có tính chất định kì)
+ Khi người đọc tiếp xúc với tác phẩm, họ thường có những phản ứng bộc lộ thái độ, tri nhận
của họ về tác phẩm. Những phản ứng này mang tính tức thời, được đăng tải tức thì trên báo.
Đây là cơ sở để xuất hiện phê bình, nghiên cứu khoa học.
Báo chí đã tạo ra kênh giao tiếp trực tuyến giữa nhà văn và độc giả.
Tóm lại: Báo chí là nhân tố quan trọng nhất cấu thành nên 1 môi trường văn học mới.
Nó ko chỉ kiến tạo nên 1 mqh giữa nhà văn và độc giả mà còn hình thành 1 khuynh
hướng khai thác chất liệu, thể loại mới (phóng sự, tiểu thuyết). Báo chí cũng là tiêu chí
để phân biệt ko gian xuất hiện của văn học hiện đại (tờ báo) và văn học trung đại (thi
tập)
Page | 2
II. QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN
1. Từ đầu thế kỉ XX – khoảng 1930
- Từ đầu thế kỉ XX đến khoảng 1920
- Từ 1920 – khoảng 1930
2. Từ đầu những năm 1930 – CMT8 - 1945
III. ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA VHVN TỪ ĐẦU THẾ KỈ XX - 1945
1. Nền văn học đổi mới mạnh mẽ theo hướng hiện đại hóa
1.1. Khái niệm hiện đại hóa
- Hiện đại hóa là quá trình làm cho văn học Việt Nam tính chất hiện đại, có thể nhịp
bước hòa nhập với nền văn học thế giới. Nói văn học từ đầu thế kỉ 20 đến CM T8
1945 đổi mới mạnh mẽ theo hướng hiện đại hóa tức là khẳng định nó thoát khỏi những
đặc trưng VHTĐ, tạo nên được những đặc điểm, tính chất của một nền văn học hiện
đại
- “Văn học VN trước thế kỉ XX nằm trong quỹ đạo VHọc Trung đại phương Đông
thuộc hệ hình tiền hiện đại. Khi tiếp xúc với P.Tây, qua trường hợp nước Pháp, Văn
học VN bắt đầu quá trình hiện đại hóa theo quy luật phát triển của văn học thế giới lấy
hình mẫu Châu Âu” (GS. Trần Ngọc Vượng).
1.2. Các phương diện hiện đại hóa
Quan niệm về văn học :
- Từ văn chương chở đạo, nói chí thời trung đại chuyển sang quan niệm văn chương
như một hoạt động nghệ thuật đi tìm và sáng tạo cái đẹp; chuyển từ văn chương để răn
đời sang văn chương để hiểu đời, để nhận thức và khám phá hiện thực.
- Văn học tồn tại độc lập, không còn tình trạng văn sử triết bất phân
- Thi pháp: thoát khỏi hệ thống thi pháp của văn học trung đại (ước lệ - sùng cổ - phi
ngã), chuyển sang thi pháp hiện đại (hướng đến cái thực, cái hiện tại, đào sâu vào cái
tôi cá nhân)
- Thể loại: các thể loại truyền thống: thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn biến đổi trong bản
thân thể loại: xuất hiện những thể loại mới (kịch nói, phóng sự, phê bình văn học)
- Ngôn ngữ, chữ viết: ngôn ngữ văn học được hiện đại hóa: sử dụng chữ quốc ngữ thay
thế chữ Hán, chữ Nôm
Chủ thể sáng tạo: từ nhà Nho trung đại sang kiểu nhà văn nghệ sĩ chuyên nghiệp
Công chúng văn học: từ tầng lớp nho sĩ sang tầng lớp thị dân
1.3. Tiến trình hiện đại hóa và các thành tựu :
a. Đầu thế kỉ đến khoảng 1930:
- Sự hình thành của báo chí và vhọc mới của vhọc Nam Bộ, những biến đổi trong nội
dung và cảm hứng của vhọc miền Bắc
- Văn học VN mang tính vùng rõ nét, chia làm 2 vùng chính:
Page | 3
+ Văn học Sài Gòn và 6 tỉnh Nam Kì : Trung tâm là Sài Gòn Gia Định
+ Văn học miền Bắc và miền Trung
Đầu thế kỉ XX đến khoảng 1913:
Văn học miền Nam :
- Miền Nam (Sài Gòn) sớm trở thành thuộc địa của Pháp, quyền tự do được thừa nhận,
báo chí quốc ngữ phát triển rất sớm, nên sớmthành tựu văn học, đặc biệt những
thể loại mới du nhập từ phương Tây như truyện ngắn, tiểu thuyết
- Cuối thế kỉ 19 Nam Kì đã xuất hiện một số sáng tác văn xuôi viết bằng chữ quốc ngữ,
có giá trị hơn cả là của Nguyễn Trọng QuảnTruyện thầy Lazaro Phiền
- Đầu thế kỉ 20 tác phẩm văn xuôi bằng chữ quốc ngữ xuất hiện nhiều hơn, tiêu biểu
Hoàng Tố Anh hàm oan (Trần Chánh Chiếu, 1910)
- Phần lớn truyện ngắn, tiểu thuyết trong thời kì này còn vụng về, non nớt (truyền thống
văn học Miền Nam...)
VD:NhữngdấuhiệuhiệnđạihóatrongTruyệnthầyLazaroPhiền:
Tácgiả: Nguyễn Trọng Quản (nhà văn giáo hội, con rể Trương Vĩnh Ký, sang Angiere
vùng thuộc địa Pháp mà văn hóa P.Tây rất đậm)
Cốttruyện:
- Nhân vật tôi trên chuyến tàu về Bà Rịa gặp Phiền, Phiền sắp chết, muốn kể cuộc đời mình
- Phiền là nhân vật tôi 2: gia đình đạo cơ đốc, bố mẹ bị giết, vào trường dòng, gặp Vê rô Liễu,
gặp đượcgái có em họ xa (nữ 1). Sau đó, công vào Kiên Giang, gặp vợ quan ba Pháp
(nữ 2). Nữ 2 yêu Phiền nhưng ko được đáp lại nên đã trả thù Phiền, giả nét chữ Liễu, viết thư
cho nữ 1 với lời lẽ tình tứ. Phiền trúng kế căm ghét Liễu, tìm cách giết Liễu. Về gặp nữ 1, nữ
1 ốm, lưỡng lự, cắt cỏ ngoài vườn, cắt cỏ độc sắc thuốc cho vợ suốt mấy tháng trời. Nữ 2
mấy năm sau chết, viết thư kể lại, Phiền ân hận, bệnh nhưng ko chữa để sám hối. Dặn tôi 1
tìm Phiền trong nghĩa trang xứ đạo.
- Vĩ thanh: tôi 1 thăm mộ Phiền.
Cáchtân :
- thuật : Truyện thầy Laxaro Phiền chịu ảnh hưởng từ nguồn văn học Pháp, nguồn văn học
khác với truyền thống
Trần thuật từ ngôi thứ nhất
Cách kể chuyện : không theo trật tự thời gian, sự kiện, sự luân phiên đổi vai hiện
tại – quá khứ theo hồi tưởng của nhân vật 1
Kết thúc bi kịch, không phải kết thúc có hậu
Cốt truyện : khai thác yếu tố hiểu lầm, tình yêu tay ba, ghen tuông, mượn mô típ kẻ trả
thù giấu mặt mang màu sắc phương Tây rất rõ. Văn học truyền thống thường vay
mượn cốt truyện của Trung Quốc
- Nội dung :
Lấy khung cảnh đời sống XH Việt Nam đương thời
Page | 4
Cuộc tình tay ba, dục vọng đời thường của con người. Thầy Laxaro Phiền đã xây
dựng nên hình tượng con người bình thường, bị thiêu đốt trong lòng ghenthù hận,
khác hẳn con người lí tưởng, con người cao cả trong văn học cổ
Hạnchế :
- Văn xuôi nhưng ngữ pháp lủng củng
- Số lượng từ địa phương lớn
- Câu văn nhiều khi tăm tối, không nghĩa nhưng hoàn toàn ko chịu ảnh hưởng của ngữ
pháp thơ, điều mà đến tận năm 1916 ở miền Bắc còn rất đậm
- Ngay từ đầu văn xuôi Nam Bộ đã mang văn phong khẩu ngữ
Với thầy Laxaro Phiền, VHVN đã dịch chuyển từ quỹ đạo văn học truyền thống sang quỹ đạo
văn học phương Tây
- Truyền thống văn học miền Nam, ko lớn, không sức cản của truyền thống khi tiếp
nhận cái mới.
- Mặc sớm những thành tựu, nhưng VH miền Nam trong ngót ba thập kỉ sau vẫn
ko có kiệt tác đích thực. Hàng trăm truyện ngắn, hàng chục bộ tiểu thuyết ở thời kì này
nhưng hầu hết ko tạo lập được gương mặt nghệ thuật tiêu biểu.
Miền Nam nhạy cảm với cái mới nhưng ko có khả năng đi đến những thể loại văn học
mới, không dứt điểm theo nghĩa tạo ra những tác phẩm mang giá trị nghệ thuật đích
thực
Nguyên nhân: truyền thống mỏng, hạt giống cái mới ko kết tinh được với truyền
thống dân tộc, nên ko phát triển được, ko có kiệt tác
Văn học miền bắc và miền trung:
- Lực cản của truyền thống quá lớn khiến cái mới gần như ko thâm nhập. Lực lượng
sáng tác chủ yêu trí thức nho học với các thể loại truyền thống. Tuy đã chữ quốc
ngữ, nhưng chữ Hán và chữ Nôm vẫn chiếm vai trò quan trọng
- Chủ yếu đổi mới về nội dung tưởng, nhưng thể loại, ngôn ngữ, văn tư, thi pháp
vẫn thuộc phạm trù văn học trung đại
- Nhà văn tiêu biểu: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, Ngô Đức
Kế
Giai đoạn 1913 đến 1930:
- Vai trò của tầng lớp tri thức Tây học, sự đổi mới trong quan niệm văn học, văn học
dịch sự hình thành của bộ khung thể loại mới : thơ kịch tiểu thuyết phê bình
văn học.
- Giai đoạn này hiện đại hóa đã đi vào chiều sâu. Quan niệm văn học có sự thay đổi, tạo
nên sự đổi mới có hệ thống và các chủ lưu.
- Bối cảnh :
+ Những cuộc khai thác thuộc địa lần 1 và lần 2 đã mang phạm vi toàn quốc.
Page | 5
+ Ảnh hưởng của văn học phương Tây đã lan rộng trên cả 3 miền, 1 tầng chung cho
văn hóa dân tộc đã được thiết lập, tính vùng miền bắt đầu mờ đi, thay thế vào đó tính
nhất thể, văn học dân tộc bắt đầu định hình rõ nét.
(!) Những người mở đường : Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh.
- Một thời gian dài, họ bị đánh giá nghiệt ngã, Đặng Thai Mai gọi họ bồi bút, ý kiến
đánh giá về họ tương đối phức tạp, có luồng ý kiến coi họ là công cụ của TD Pháp,
luồng ý kiến lại coi trọng những dự đồ văn hóa của họ. Nhưng họ vẫn là những người
yêu nước.
- Họ vấn đề “đồng đẳng”, “muốn bình đẳng thì phải đồng đẳng”, chọn con đường
phát triển văn hóa rồi dành độc lập.
Nguyễn Văn Vĩnh:
- Năm 1913 cho xuất bản Đông Dương tạp chí : « đề cập nhiều vấn đề : thời sự, cải cách
kinh tế, hành chính … nhưng có 1 mục thường kì dành cho văn học »
- Trong mục này :
+ Dịch các tác phẩm VHọc Pháp như tiểu thuyết « Miếng da lừa », « Những người khốn
nạn » thơ ngụ ngôn Laphongten (bản dịch kiến và ve sầu), Kịch : hài kịch Molie
Ko thuyếtvề văn học nhưng việc dịch như vậy có giá trị giới thiệu những thực đơn
mới cho người Việt. Lần đầu tiên độc giả VN biết những hình thức VHọc mới, làm
quen với 1 khung khổ mới
+ Năm 1915, xuất hiện những tác phẩm bằng chữ quốc ngữ đầu tiên trong mục « 1 lối văn
Nôm » do Tản Đà phụ trách. Mục này đã giới thiệu những nhà văn chuyên nghiệp đầu
tiên.
Phạm Quỳnh
- Năm 1917, mở Nam Phong tạp chí, giải quyết vấn đề quốc văn.
- Đẩy mạnh dịch thuật 1 cách có ý thức, nhằm 2 mục tiêu :
+ Phát triển vốn từ vựng của người Việt, mầm mống của Hán Việt từ điển của Đào
Duy Anh.
+ Học hình câu văn xuôi của Pháp, kiểu câu Chủ ngữ - tân ngữ bắt đầu thông
dụng. Câu văn Tiếng Việt bắt đầu đi từ quy phạm đến sáng rõ.
- Giới thiệu 1 cách hệ thống toàn bộ hệ thống văn học phương Tây : thơ, kịch, truyện
ngắn, tiểu thuyết (khác Nguyễn Văn Vĩnh chỗ Phạm Quỳnh những giải thích
về thể loại, củng cố từ khóa, nền tảng cho người đọc Việt). Trong các thể loại,
Phạm Quỳnh tập trung đi sâu vào tiểu thuyết vì cho tiểu thuyết là nòng cốt để kiến tạo
văn xuôi VN hiện đại, đẩy Vhọc VN – nền VHọc nặng về thơ sang quỹ đạo văn xuôi.
Phaann loại tiểu thuyết thành 3 loại: trường thiên, trung thiên, đoản thiên. Theo ông,
VN chỉ nên tập trung vào đoản thiên vì nó phù hợp với nhà văn VN hơn cả.
Page | 6
- Nhân vật trong tiểu thuyết: người bình thường, mang những trải nhiệm nhân sinh phổ
biến, những cảm xúc thường nhật, khác với các nhân vật đấng bậc trong văn học
truyền thống. Phạm Quỳnh dịch tác phẩm “Câu chuyện anh chàng đi tìm cảm giác
rùng mình” của Pháp.
- Việc tập trung vào những con người bình thường trong cuộc sống đời thường đã khiến
văn học thông tục giai đoạn 1913 1932 VN tương đối phát triển. Điều này cội
nguồn từ truyền thống (yếu tố nội sinh), cuộc gặp gỡ với Phương Tây đã kích hoạt sức
mạnh nội sinh này bừng dậy.
- Đối tượng phản ánh của tiểu thuyết: tập trung vào 3 lĩnh vực chính của nhân sinh: tình
ái, hám lợi, danh vọng.
- Kỹ thuật: tiểu thuyết có 2 mạch:
+ mạch kể (sự kiện)
+ mạch tả (chân dung, trang phục, thiên nhiên, tâm lí)
Đổi mới tiểu thuyết vì đã đi sâu vào miêu tả. Lối miêu tả dày đặc, chi tiết, xác thực, tỉ
mỉ chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết phương Tây thế kỉ 19 (khác với tiểu thuyết
phương Đông chủ yếu tả theo lối chấm phá, nắm bắt cái thần)
- Phạm Quỳnh cũng chú trọng tính logic, cái người VN rất yếu. Tiểu thuyết 1
chuyện bịa (hư cấu) nhưng phải giống như thật vì nó có logic.
Kết luận chung: Bằng những công trình dịch thuật, những bài phê bình trong suốt hơn
1 thập kỉ, Phạm Quỳnh vai trò quan trọng trong việc kiến tạo 1 quan niệm mới về
văn học, đặc biệt những quan niệm mới về thể loại, đối tượng những thuật
nhằm hiện đại hóa văn học.
- Đương thời, ko 1 tác giả, tác phẩm nào khả năng thỏa mãn mọi tiêu chí
Phạm Quỳnh đưa ra. Tuy nhiên từ 1932 trở đi, những ý tưởng của Phạm Quỳnh dần
được hiện thực hóa trong đời sống sáng tác, thể hình dung về ông như 1 kiến trúc
sư của nền VHọc mới.
Diện mạo văn học :
- Tiểu thuyết: Hồ Biểu Chánh, Hoàng Ngọc Phách
- Truyện ngắn: Phạm Duy Tốn: thiên sang phương Tây; Nguyễn Học: thiên về
truyền thống
- Thơ: Tản Đà (lãng mạn), Trần Tuấn Khải (hiện thực)
- Kịch: Vũ Đình Long « chén thuốc độc », Nam Xương « ông Tây An Nam”
- Phê bình: Phạm Quỳnh, Thiếu Sơn (Phê bình và cảo luận 30 - 31)
Việt Nam đã hình thành một bộ khung thể loại mới đậm màu sắc phương Tây đã
hình thành, mặc dù chưa có những kiệt tác đích thực (trừ thơ Tản Đà).
Những hình thức thể loại mới này sẽ là nền tảng cho sự phát triển đột biến của văn học
giai đoạn sau
Đóng góp của giai đoạn này chủ yếu ở việc chuẩn bị câu văn, quan niệm hình thức
thể loại mới
Page | 7
b. Từ 1932 - 1945 (giai đoạn kết tinh)
Những tiền đề văn hóa XH khiến Vhọc thời này tồn tại nhiều trào lưu, khuynh
hướng sáng tác đa dạng, phức tạp và tác động qua lại với nhau.
Tiền đề văn hóa XH
Tầng lớp học sinh, sv đô thị bắt đầu chiếm tỉ lệ đáng kể, họ đóng vai trò độc giả
chính của giai đoạn này
- Văn học phương Tây thực sự ngấm sâu trong cấu trúc văn hóa Việt, trở thành 1 thành
tố nội tại. Những trước đó không lâu người ta còn thấy bỡ ngỡ, xa lạ, bây giờ trở
nên quen thuộc, thậm chí trở thành thời thượng, được say mê, ngưỡng mộ
- Cùng với sự phồn vinh về kinh tế, những năm 30 cái tôi nhân bắt đầu hiện diện t
tin quả quyết hơn, công khai khẳng định mình, đòi hỏi thỏa mãn phiêu lưu trong
tình ái, trong những chân trời mới lạ, đây tiền đề cho dòng văn học lãng mạn xuất
hiện, trở thành một khuynh hướng chủ đạo (từ của Khái HưngHồm bướm tiên
đến “ ” của Nguyễn Tuân)Thiếu quê hương
- Tuy nhiên, bên cạnh sự phồn vinh, sự phát triển kinh tế thị trường đôi khi tr thành
đảng điếm. Khoảng cách giàu nghèo gia tăng, mâu thuẫn giữa đô thị nông thôn.
Những người nông dân bị bần cùng hóa, những người làm nhiều nghề mạt hạng đô
thị như đi ở, đánh giầy, đánh xe đã kích thích sự phát triển của phóng sự, hình thành
dòng văn học tả chân (văn học hiện thực)
- Dòng văn học yêu nước thêm sức sống mới, giai đoạn này đánh dấu sự trở lại của
những chí CM giai đoạn trước như Huỳnh Thúc Kháng. ĐCS ngày càng sự tác
động lớn đến đời sống hội (Đề cương văn hóa 1943, Hội văn hóa cứu quốc) khiến
văm học yêu nước có bước phát triển mới về chất
Văn học thời này tồn tại nhiều trào lưu, khuynh hướng sáng tác đa dạng, phức tạp
và tác động qua lại với nhau
Diện mạo văn học:
- Khái niệm: CNLM là 1 KHCH thẩm mỹ được khởi nguồn từ sự khẳng định cái tôi cá
nhân được giải phóng về tình cảm, cảm xúc trí tưởng tượng. phản ứng với tính
duy lý, quy phạm mực thước của văn chương cổ điển, thích hợp với công chúng thanh
niên tuổi trẻ thường giàu nhiệt tình, mộng mơ, thích những điều mới lạ, khác
thường.
- Đề tài: CNLM dễ cảm hứng trước 3 đề tài: thiên nhiên, tình yêu, tôn giáo. 3 đề
tài này khơi gợi tình cảm đắm say và kích thích trí tưởng tượng.
- Bút pháp: sử dụng rộng rãi bút pháp đối lập: ánh sáng và bóng tối, cái đẹp và cái xấu,
cao cả và thấp hèn.
Vănhọclãngmạn:Tựlựcvănđoàn,Thơmới
Tựlựcvănđoàn:
Khái quát:
Page | 8
- Người sáng lập Nguyễn Tường Tam, thuộc thế hệ nhà văn lớn lên trên nhà trường
Pháp Việt, học tiểu học ở phố huyện Cẩm Giàng, về sau học ở trường Bưởi (Hà Nội)
- Năm 1924, đỗ Đại học y khoa, cuối năm thi Đại học thuật Đông Dương, sinh
viên khóa đầu tiên của trường này. Một lần đi điền dã ngoại ô thấy nguyên mẫu người
nông dân lãm lũ, nhưng lên tranh lại rất đẹp, nên đã hình thành mong muốn: xóa bớt
khoảng cách nghệ thuật và cuộc đời, đưa cuộc đời đến gần hơn với nghệ thuật.
- Năm 1927 sang Pháp, say luật, kinh tế, báo chí, dùng báo để thể hiện những day
dứt nội tâm, là phương tiện để thể hiện ý tưởng xã hội. Năm 1930 về nước. Năm 1932
mua lại tờ Phong hóa đang ế ẩmcách tân hóa: 1 – đưathuật vào tờ báo, 2 – đưa
tiếng cười vào tờ báo do chủ trương báo chí phải dân chủ
- Năm 1933 quyết định thành lập Tự lực văn đoàn, công bố tôn chỉ sáng tác:
1. Tự mình làm sách có giá trị, ko dịch thuật nữa.
2. Giới thiệu viết những sách tưởng hội, chú ý làm cho XH ngày một
hay hơn lên
3. Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, tin vào sự tiến bộ
4. Đề cao lối văn thật có tính cách An Nam
5. Ca tụng những nét hay vẻ đẹp của đất nước, những vẻ đẹp có tính chất bình dân
6. Ủng hộ phát triển bình dân, tránh phong cách trưởng giả, quý phái
7. Trọng tự do cá nhân
8. Làm cho người ta biết đạo Khổng không còn thời nữa
9. Đem phương pháp khoa học phương Tây ứng dụng vào văn chương VN
10. Theo 1 trong 9 điều trên cũng được, miễn đừng trái ngược với những điều
còn lại
- Nhận xét:
Trong tôn chỉ nổi lên các vấn đề: coi trọng văn học dân tộc, coi trọng tính bình dân đại
chúng, nhấn mạnh ý nghĩa XH của văn học
TLVĐ là nghệ thuật vị nhân sinh theo lập trường tiểu tư sản
- Nhân sự: (từ tk 17 Pháp nhóm thất tinh làm cho Vhọc Pháp chuyển từ Trung đại
sang hiện đại)
Nhóm cốt cán có 7 người:
1. Nguyễn Trường Tam (Nhất Linh, Tam Linh, Bảo Sơn)
2. Trần Khánh Dư (Khái Hưng), phụ trách tiểu thuyết.
3. Nguyễn Tường Long (Hoàng Đạo, Tứ Li)
Page | 9
4. Nguyễn Thứ Lễ ( Thứ Lễ, Lê Ta)
5. Nguyễn Tường Lân (Nguyễn Tường Vinh, Thạch Lam, Việt Sinh)
6. Hồ Trọng Hiếu (Tú Mỡ)
7. Nguyễn Gia Trí (họa sĩ)
- Giai đoạn sau thêm 1 số cộng tác viên: văn xuôi Trần Tiêu, Thanh Tịnh, thơ
Xuân Diệu, Huy Cận, họa sĩ có Nguyễn Thanh Vân, Nguyễn Cát Tường.
- Cơ quan: 2 tờ báo Phong hóa và Ngày nay. Nhà xuất bản đời nay (80 Quán Thánh)
- Giải thưởng thường niên cho những nhà văn tác phẩm hay, uy tín: Anh Thơ,
Nguyễn Bính đạt giải
TLVĐ một tổ chức văn học của những nhà văn chuyên nghiệp đầu tiên của VN,
được tổ chức đồng bộ trên tất cả các yếu tố. Bản thân sự hiện diện của 1 tổ chức văn
học trong văn học VN khiến văn học VN thực sự bước vào lộ trình hiện đại hóa.
- Chấm dứt hoạt động vào năm 1942 sau cái chết của Thạch Lam
- Nội dung:
o Cổ tình yêu tự do, ý thức nhân: Hồn bướm tiên (33 Khải Hưng),
Đoạn tuyệt (35 – Nhất Linh), Lạnh lùng (36 – Nhất Linh)
o Cải cách nông thôn và hình tượng người nông dân (giai đoạn 36 – 39): Gia đình
(Khái Hưng), Thừa tự (Khái Hưng), Con đường sáng (Hoàng Đạo)
o Thám hiểm về ý nghĩa sự sống, tra vấn ráo riết về ý nghĩa sự sống: Đời mưa gió
(Nhất Linh – 34), Đôi bạn (37 – Nhất Linh), Bướm trắng (Nhất Linh – 39)
Mang đậm màu sắc hiện sinh chủ nghĩa
Các vấn đề TLVĐ quan tâm những vấn đề nằm trong phổ hệ lớn, những mẫu số
chung của văn học phương Đông và thế giới
- Hạn chế:
o Do sự thiếu hiểu biết về đời sống người nông dân dù có thừa thương cảm
o Màu sắc bi quan, thoát li
- Đóng góp cho tiến trình hiện đại hóa văn học:
o Đến TLVĐ, hình thể loại tiểu thuyết hiện đại VN mới thực sự hình thành :
nghệ thuật kể chuyện biến hóa, thường bắt đầu bằng thời hiện tại nhưng luôn
sự luân chuyển giữa quá khứ, hiện đại, tương lai. Điểm nhìn trần thuật luôn
sự hoán đổi, chuyển giao; thích lối kết thúc để ngỏ.
o Kĩ thuật miêu tả, đặc biệt là miêu tả thiên nhiên và tả thực đạt được những thành
tựu đáng kể, khiến cho tiểu thuyết TLVĐ về bản thoát khỏi sự đơn điệu của
lối kể truyền thống
o Bắt đầu xây dựng tính cách nhân vật bề dày đời sống tâm lí, đặc biệt
những chi tiết xây dựng nhân vật sinh động
o Ngôn ngữ trong sáng, tinh tế, đặc biệt giàu về mảng miêu tả âm thanh, màu
sắc, đặc biệt là miêu tả cảm giác => tác phẩm của những hình dung từ.
Page | 10
o Câu văn mềm mại, uyển chuyển, khoảng 70% câu văn xuôi hiện đại được
hoàn thiện bởi TLVĐ
TLVĐ thấy được sự kết hợp giữa dân tộc phương Tây, truyền thống hiện
đại, những tác phẩm xuất sắc của TLVĐ có giá trị nhân văn cao.
Thơmới:
A. Các cách phân loại Thơ Mới :
- Căn cứ vào nguồn ảnh hưởng, Hoài Thanh chia làm 3 dòng: Pháp, Đường, Việt. Cách
phân loại này đã xác định các nhân tố hình thành phong trào Thơ Mới. Nhưng khó
khăn khi phân biệt từng tác giả. Những tác giả hạng 2, hạng 3 dễ xếp vào các dòng
nhưng những nhà thơ xuất sắc thường tích hợp ba dòng.
VD: lục bát của Huy Cận khảm sâu nhiều chất liệu Đường thi
- Căn cứ vào thời gian chia làm 3 giai đoạn: 32 – 35 (32 đến Xuân Diệu, giai đoạn xung
đột, đi tìm tiếng nói chung với thơ cũ), 36 – 39 (giai đoạn hòa giải), 40 – 45 (giai đoạn
thể hiện tiếng nói riêng tư).
Trong giai đoạn đầu, để nhấn mạnh sự khác biệt với thơ cổ điển, thơ mới nhất loạt
tấn công vào tính quy phạm của thơ cũ, đưa cú pháp văn xuôi vào thơ, dỡ bỏ mọi niêm
luật, cho phép cảm xúc tự do bộc lộ. Nhưng đến giai đoạn sau nhiều nhà thơ lại tìm về
các thể thơ cổ điển : thất ngôn, ngũ ngôn…
- Phân chia theo vùng : Hà Nội, Nam Trung Bộ
B. Đóng góp của Thơ mới vào tiến trình hiện đại văn hóa văn học dân tộc
1. Xét về phương diện hình thức:
Ngay từ khi mới ra đời, Thơ mới được nhìn nhận từ phương diện hình thức thể loại. Danh từ
Thơ mới lần đầu được chính thức khởi xướng bởi Phan Khôi trên báo Phụ nữ Tân văn khi
ông muốn dấy lên một phong trào thơ “đem ý thật trong tâm khám tả ra bằng những câu
văn có vần mà không phải bó buộc bởi những niêm luật gì hết”
- Thể loại:
Thơ Đường luật bị tuyệt diệt, nhưng Thơ mới lại phát triển thơ 7 chữ,
chia 1 khổ, một bài thơ điển hình khoảng 5 khổ, mỗi khổ bỏ niêm luật
nhưng vẫn giữ được nhịp
Phát triển thể 8 chữ, đây đặc sản của phong trào thơ mới (Bức tranh
quê, Nhớ rừng, Chợ tết,…) có công năng miêu tả cao
Lục bát: rất phát triển, hầu như nhà thơ nào cũng một bài thơ lục bát
(Huy Cận, Nguyễn Bính).
Thơ 5 chữ: không nhiều về số lượng nhưngthành tựu: Tiếng thu, Ông
đồ, Hàn Mạc Tử
Thơ tự do: phát triển ở giai đoạn đầu nhưng càng về cuối càng ngần ngại
Page | 11
Thơ mới đã phá bỏ sự độc tôn của một thể loại, chấp nhận nhiều thể loại cùng tồn tại
Thơ mới đã phá bỏ tính chất của thơ Đường luật, tìm kiếm sự rộng rãi hơn, đã
dạng hơn cho cảm xúc
Không hướng đến phương Tây, mà chủ yếu hướng về những thể loại mang dấu ấn dân
tộc (sự ứng xử với thơ tự do) => Thơ mới đã đi từ xung đột đến hòa giải, là phong trào
thơ có tính dân tộc cao.
- Cách tổ chức câu thơ và xây dựng hình ảnh thơ và xây dựng hình ảnh thơ:
Tổ chức câu thơ : (câu thơ điệu nói)
Câu thơ có cú pháp lỏng lẻo, nhiều hư từ
Đặc biệt ưa thích hình thức câu thơ vắt dòng, nhiều dòng mới hợp thành một
câu (Mùa xuân xanh), tạo nên sự liền mạch trong cảm xúc, những đoạn miêu
tả tạo thành bức tranh hoành tráng. Thế giới miêu tả thế sống động hơn,
nới rộng biê độ câu thơ và khả năng miêu tả
Nhạc tính: câu thơ mới rất giàu tính nhạc (thơ Đường nhạc tính thấp, thơ
Đường: thi trung hữu họa, thơ mới: thi trung hữu nhạc)
Xây dựng hình ảnh thơ : chịu ảnh hưởng của Baudelaire, đặc biệt ưa thích
hình ảnh dựa trên liên tưởng, chuyển hóa giữa cái hữu hình và cái vô hình
VD1: ẩnXác thơm quá thơm hơn ngọc/ Cả 1 mùa xuân đã hiện hình
dụ chuyển đổi cảm giác nói về sự tái sinh, sự trong sạch của gái đồng
trinh.
VD2: Anh đi đâu, anh về đâu/ Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh
buồm”.
Buồn trông cửa bể chiều hôm/ Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa
xa”.
Thơ Nguyễn Du rất hàm súc, ko lặp lại: Kiều nhìn cánh buồm xa xa:
khẳng định nỗi buồn, cuộc đời nổi trôi, vô định.
Nguyễn Bính cũng nói về nỗi buồn, mặc lặp lại ko nhiều từ láy, sự vật
như trong thơ Nguyễn Du nhưng trong cánh buồm đã nói lên tất cả.
VD3: Câu thơ vắt dòng: Mùa xuân là cả 1 mùa xanh
Giời ở trên cao lá ở cành
Lúa cở đồng tôi và lúa ở
Đồng nàng và lúa ở đồng anh.
Page | 12
Nới chiều kích của ko gian mùa xuân mở ra bát ngát, tận. Nghệ thuật vắt
dòng nhấn mạnh về ko gian bát ngát, mênh mông, ngútlúa đồng tôi…đồng anh
ngàn tầm mắt.
2. Đóng góp của Thơ Mới xét về phương diện nội dung:
- Đóng góp lớn nhất của Thơ mới vào tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc đề cao
cái tôi cá nhân, Hoài Thanh đã chỉ ra đích xác tinh thần thơ mới là cái tôi cá nhân, chữ
“tôi” với ý nghĩa tuyệt đối. Văn học trung đại đề cao tính phi ngã, xóa bỏ cái tôi, đến
Thơ mới, lần đầu trên cái tôi có cơ hội lên tiếng, trỗi dậy
- “Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân. Chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì
gia đình. Còn nhân, cái bản sắc nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia
như giọt nước trong biển cả” (Hoài Thanh).
- Văn học trung đại thể hiện “một hệ thống ước lệ chặt chẽ, có tính uyên bác, cách điệu
hóa, sùng cổ phi ngã, đề cao văn học đạo hơn văn học tình cảm” (Nguyễn Đăng
Mạnh)
- Nội dung:
Cái tôi và quan niệm cá nhân là thành tựu lớn nhất của cuộc cách tân về nội dung, cảm
hứng trong Thơ mới. Lúc đầu xuất hiện trên thi đàn trong trạng thái đầy bỡ ngỡ,
“như lạc loài nơi đất khách”, về sau được biểu hiện phong phú với các tính độc
đáo:
“Trong lịch sử thơ ca Việt Nam chưa bao giờ một thời đại phong phú như thời đại
này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế
Lữ, mơ mộng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn
Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, dị như Chế Lan
Viên,… và thiết tha, rạo rực, boăn khoăn như Xuân Diệu”
Thơ mới công giải phóng thơ ra khỏi chức năng tải đạo, ngôn chí, đưa đến một
quan niệm mới về thơ: thể hiện cảm xúc của cái tôi cá nhân
Kích thích sự phát triển của ý thức nhân, khơi dậy khát khao yêu đời, khát vọng
song mãnh liệt
o Lòng yêu nước, tinh thần dân tộc
o Tình yêu thiên nhiên, những bức tranh đẹp, đẩy mộng mơ về
quê hương, đất nước
Page | 13
VĂN HỌC HIỆN THỰC PHÊ PHÁN
A. Lịch sử phát triển:
1. Giai đoạn 1930 1935: giai đoạn này các nhà văn hiện thực viết một cách riêng lẻ, tự
phát. Nổi bật là phóng sự của Tam Lang, VTP, truyện ngắn Nguyễn Công Hoan
- Nguyễn Công Hoan người cầm bút từ trước 1930, vốn sống phong phú, sức viết dồi
dào, có sở trường truyện ngắn trào phúng. Nguyễn Công Hoan người đầu tiên khẳng định
phương pháp hiện thực hội chủ nghĩa trên lĩnh vực truyện ngắn. Truyện Kép bền gây
tiếng vang trong tranh luận nghệ thuật vị nghệ thuật, nghệ thuật vị nhân sinh. Khi Kép tư bền
xuất hiện, 17 tờ báo tranh luận, chủ yếu ca ngợi, NCH được chọn như nhà văn hiện thực tiêu
biểu nhất. Có thể nói NCH cầm mốc vinh quang cho chủ nghĩa hiện thực trên lĩnh vực truyện
ngắn.
- Trọng Phụng: Cạm bẫy người (1933), nghệ lấy Tây (1934). Mai Xuân Nhân đánh
giá Vũ Trọng Phụng là ông vua phóng sự đất Bắc
- Tam Lang: là nhà văn đầu tiên viết phóng sự ở Việt Nam (Tôi kéo xe 1932). Tam Lang và
Vũ Trọng Phụng đã mở đầu cho thể loại phóng sự trong VHHĐVN
- Tú Mỡ: thơ trào phúng “Dòng nước ngược” (1934). Cái nhìn tương tự NCH, VTP
Đánh giá: giai đoạn này tầm bao quát của chủ nghĩa hiện thực còn hạn hẹp, phản ánh cục
bộ, thế giới nhân vật chủ yếu là dân nghèo thành thị, thiếu chiều sâu hiện thực, chưa thể hiện
mâu thuẫn cơ bản của XH.
Chưa có tiểu thuyết hiện thực xuất sắc.
Tính chiến đấu chưa cao, một số cây bút dao động lập trường.
2. Giai đoạn 1936 – 1939:
- Đây thời mặt trận dân chủ, thời sôi sục CM, lưỡi kéo kiểm duyệt không cắt xén,
thuận lợi cho sự phát triển của chủ nghĩa hiện thực
- Thời này tạo nên đặc điểm nổi bật của văn học hiện thực: giàu tính thời sự, mang tính
chiến đấu cao. Tác phẩm tiêu biểu: Vũ Trọng Phụng (Số đỏ, Giông tố, Vỡ đê), Nguyễn Công
Hoan (Bước đường cùng), Ngô Tất Tố (Tắt đèn), Bí vỏ (Nguyên Hồng)
- Văn học hiện thực băt đầu phát triển tự giác, thể hiện ở hàng loạt các cuộc bút chiến
Đánh giá:
- Trực tiếp khai thác mâu thuẫn xung đột, tố cáo mặt trái xã hội
Page | 14
- Tập trung thể hiện nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Đã xuất hiện những
điển hình bất hủ
- Hình tượng người lao động không chỉnạn nhân đáng thương mà còn có vẻ đẹp tinh
thần đáng quý
- Chủ nghĩa hiện thực vượt lên làm chủ văn đàn. Một số tác phẩm của TLVĐ chứa đựng
nhiều yếu tố hiện thực. Những đỉnh cao của tiểu thuyết TLVĐ đều những tiểu
thuyết mang đậm hiện thực
Hạn chế: 1 số tác phẩm còn bộc lộ tưởng cải lương, văn chương còn ảnh hưởng phong
cách báo chí. Tuy nhiên đây vẫn thời đỉnh cao chủ nghĩa hiện thực với những tác giả
xứng đáng nhà văn lớn, “Những cuốn sách ghê gớm thể đem lại vinh dự cho cả thời
đại” (Nguyễn Khải): Tắt đèn, Số đỏ, Bí vỏ…
3. Giai đoạn 1940 1945: Hoàn cảnh lịch sử, văn hóa hội không thuận lợi cho sự phát
triển của văn học hiện thực
- : chiến tranh thế giới Đảng hoạt động mật, sách bảo không được xuất hiện công1939
khai
- : Nhật vào Đông Dương, phát xít Nhật thi hành chính sách văn hóa phản động 1940
- : là chặng đường không thuận lợi, văn học công khau có sự phân hóa phức tạp,1940 – 1945
nhiều cây bút hoang mang. VHHTPP vẫn tồn tại, những phương diện không bằng giai
đoạn trước, nhưng có những phương diện lại vượt trội
- :Đội ngũ sáng tác
+ Bớt đi một số cây bút tiêu biểu, những nhà văn tiêu biểu giai đoạn trước không viết nữa
hoặc viết khác đi
Vũ Trọng Phụng mất năm 1939
Nguyễn Công Hoan đề cao đạo đức phong kiến (do không giữ được lập trường:
“Thanh đạm”, “Danh tiết”)
Ngô Tất T : chuyển sang dịch thuật, khảo cứu, tính chiến đấu của ngòi bút giảm
xuống
+ Nhưng lại xuất hiện nhiều cây bút trẻ tài năng
Nguyên Hồng : Những ngày thơ ấu. Từ 1940, Nguyên Hồng càng tỏ ra sung sức. Con
người giàu tình thương (họa sĩ Phan Kế An về Nguyên Hồng, trong đôi mắt về trái tim
vào đó). Ảnh từ Thế Lữ, Lưu Trọng (những người cầm bút CNHT đều chịu ảnh
hưởng ban đầu của CNLM). Cuộc sống lam lũ, đói khổ đã kéo NH đến CNHT. Ánh
sáng của cách mạng đã đưa đến cho sáng tác NH yếu tố lãng mạn mới, vượt ra khỏi
Page | 15
khuôn khổ của CNHT, dự cảm về tương lai: hình thành cảm quan lãng mạn khỏe
khoắn (lãng mạn CM)
Hoài : tác phẩm “Quê người” Hoài viết truyện về phong tục tập quán nông
thôn, nhìn đời sống bằng con mắt đời thường, nhân quan phong tục . Tác phẩm của Tô
Hoài giúp người đọc nhận ra một hội cùng quẫn, bế tắc, bần cùng không lối thoát.
Tô Hoài có biệt tài quan sát hóm hỉnh thế giới loài vật. Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp,
thơ mộng
Bùi Hiển: : cây bút truyện ngắn viết về những người vùng biển; miêu tả conĐề tài
người không mất đi bản chất hồn nhiên. tập truyện “Nằm vạ” (1941): nhìnTiêu biểu:
cuộc sống qua lăng kính hài hước, Bùi Hiển tập trung thể hiện bản chất lạc quan của
con người vùng chài, am hiểu tính cách tâm của người dân chài. Sau trang sách,
người đọc luôn thấy nụ cười hóm hỉnh, cái nhìn đôn hậu của nhà văn
Kim Lân : Viết về phong tục làng quê: thú chơi, sinh hoạt của vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Khác với thú chơi trong Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân. Kim Lân viết về cảnh
ngộ buồn tủi của bản thân ông và những người đồng cảnh ngộ. -> Đằng sau những đề
tài phong tục, thế giới cùng khổ, truyện Kim Lân thể hiện sự lạc quan của người nông
dân
Nam Cao : Trực tiếp phân tích, truy tìm nguyên nhân sự sống của con người. Cách tân
về nhiều mặt, nhiều điểm mới trong duy nghệ thuật. Nam Cao kết tinh sự vận
động của văn xuôi VN trước CM, CNHT đến Nam Cao đã hoàn tất chặng đường
Đặc điểm giai đoạn 40 – 45:
- Không trực tiếp thể hiện mâu thuẫn bản của hội. Hoài hầu như không phản
ánh mâu thuẫn giai cấp
- Đề tài tính chất phong tục hoặc đi vào chuyện đời vặt vãnh hoặc gắn với tính
chất thời sự, ít đề cập đến vấn đề xã hội rộng lớn
- Không tập trung xây dựng những điển hình phản diện.
Đặc điểm của giai đoạn 36 39: điển hình thuộc tầng lớp thống trị: Nghị Hách,
Nghị Quế.
Nguyên nhân: hoàn cảnh hội kiểm duyệt. 40 45: người nông dân nghèo, tru thức
tiểu sư sản nghèo, những con người yếu đuối bất lực, không giống con người gân guốc
giai đoạn trước.
So sánh: 36 - 39: nhạy cảm với vấn đề xã hội (VTP); CNHT phơi bày, tố khổ
VD: Số đỏ đặt ra vđề XH rất lớn vđề Âu hóa; ông khai thác
từ góc độ tiếng cười trào phúng ta thấy cả 1 XH “chó đểu”
40 - 45: nhạy cảm với vấn đề con người (Nam Cao); CNHT cắt nghĩa
lí giải
Page | 16
VD: những nhân vật của Ncao, ông đào sâu vào đời sống, diễn biến tâm lí
của nhân vật, trong khi gđoạn 36-39 ta ít thấy hiện lên vđề tâm lí.
B. ĐÓNG GÓP CHO TIẾN TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA:
- Quy mô phản ánh hiện thực:
o VHLM: phản ánh hiện thực tầng lớp trung lưu và đô thị VN
o VHHTPP: mở rộng quy phản ánh, miêu tả mọi số phận, cảnh đời, bao quát
không gian xã hội rộng lớn từ nông thôn đến thành thị
- Nhân vật:
o VHLM: nhân vật bên trên, bên ngoài hoàn cảnh (Giang Văn Giăng, Huấn
Cao)
o VHHT: nhân vật trong mối quan hệ với hoàn cảnh, nhân vật chính diện
tưởng biến mất, khai thác hai kiểu nhân vật chính: phản diện tha hóa. Nhân
vật luôn sự vận động chính không giải được (logic tính chất
quyết định)
- Ngôn ngữ:
o Tự lực văn đoàn: trong sáng, tinh tế, sách vở -> dễ sáo
o VHHT: khẩu ngữ, xô bồ nhổn nháo, bụi bặm => tính cá thể hóa cao độ.
Mặc dù hướng đến bức tranh toàn cảnh nhưng VHHT vẫn quan tâm đến những con
người nhỏ dưới đáy XH, không chỉ đồng cảm còn trân trọng => khuynh
hướng hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo luôn kết hợp nhuần nhuyễn.
VĂN HỌC CÁCH MẠNG
- Văn học yêu nước cách mạng hải ngoại (Nguyễn Ái Quốc ở Pháp và Phan Bội Châu
TQ).
Bút pháp nghệ thuật cao nhưng phần lớn không được người đọc Việt Nam tiếp nhận,
tác động đến lịch sử văn học
- Văn học yêu nước cách mạng trong nước (thơ ca Viết Nghệ Tĩnh, thơ ca trong
vai trò của Tố Hữu). Tính chất tuyên truyền cổ động, hầu như không văn xuôi,
chỉ có văn vần
Đội ngũ sáng tác: nhà CM không sáng tác môi trường chuyên nghiệp, sáng tác
bằng kinh nghiệm truyền thống chính. Tâm sự cao cả, nhiều vần thơ khí phách
nhưng không cập nhật với sự thay đổi tiến tình hiện đại hóa
Bước ngoặt: 1938 hiện tượng Tố Hữu. học sinh trường Pháp Việt nên chịu
ảnh hưởng đậm của văn hóa Pháp. Khi bắt đầu sáng tác, Thơ mới cũng đạt tới độ
chín viên mãn của nó. Tố Hữu tiếp thu thành tựu Thơ mới, dùng để thể hiện
tưởng, nhiệt tình CM
Nhờ Tố Hữu, VHCM không bị phong bế đưa VHCM ra nhập dòng chảy lớn:
VH yêu nước. Thơ Tố Hữu: Thơ mới + nhiệt tình CM
Page | 17
2. Văn học hình thành hai bộ phận (công khai không công khai), phân hóa
thành nhiều khuynh hướng, nhiều trào lưu, vừa đấu tranh, vừa bố sung cho nhau
để cùng phát triển
Bộ phận văn học công khai
- bộ phận văn học hợp pháp tồn tại trong vòng pháp luật của chính quyền thực dân
phong kiến. Những tác phẩm này có tính dân tộc và tư tưởng lành mạnh nhưng không
có ý thức cách mạng và tinh thần chống đối trực tiếp với chính quyền thực dân
- Bộ phận văn học công khai phân hóa thành hai khuynh hướng: Lãng mạn; Hiện thực
- Các khuynh hướng đấu tranh với nhau : Lãng mạn hiện thực khác nhau cái
nhìn và sự phản ánh thế giới:
o Lãng mạn: Đào sâu vào thế giới chủ quan
o Hiện thực: Phản ánh thế giới khách quan
Nguyên nhân:
o Sự khác biệt về tư tưởng, lập trường của người sáng tác
o Sự khác biệt giữa hình thức thể hiện
o Sự thúc bách của thời đại, sự cạnh tranh của thị trường văn hóa: thời văn
chương trở thành một thứ hàng hóa, viết văn trở thành một nghề kiếm sống, các
tác gia phải cạnh tranh sức ảnh hưởng trên văn đàn, phải viết khác để tạo lập
bản sắc
Đấu tranh:
o Nam Cao phê phán khuynh hướng thoát li
o VTP: Các ông muốn tiểu thuyết cứ tiểu thuyết, còn tôi các nhà văn cùng
chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời
o Thơ mới: có khuynh hướng thoát li hiện thực đời sống
Thời kì này đã xuất hiện các khuynh hướng nghệ thuật thật sự.
- Các khuynh hướng bổ sung cho nhau cùng phát triển :
o Hiếm có tác phẩm nào thuần túy lãng mạn hay hiện thực, hai tinh chất này luôn
đan cài, sự khác biệt chỉ ở mức độ đậm – nhạt
o giải: Dẫu LM, HT hay CM thì đều nằm trong bầu khí quyển của văn học
thời ấy. Việc chia các khuynh hướng không khiên cưỡng uyển chuyển,
mềm dẻo
o Vd: sáng tác Nam Cao vẫn đầy tính lãng mạn. Sáng tác Thạch Lam đầy tính
hiện thực
3. Văn học phát triển mau lẹ
- “Ở nước ta, một năm đã có thể kể như 30 năm của người” (Vũ Ngọc Phan)
- Nhịp độ phát triển về số lượng
Trong 15 năm giai đoạn kết tinh, khối lượng tác phẩm cùng đồ sộ trên nhiều thể
loại: thơ, tiểu thuyết, kịch, phóng sự, lí luận phê bình
+ Nguyễn Công Hoan: mấy trăn truyện ngắn, hàng chục truyện dài
Page | 18
+ Vũ Trọng Phụng: mất năm 27 tuổi nhưng để lại 7 phóng sự, 8 tiểu thuyết
+ Lê Văn Trương: sản xuất dăm chục tiểu thuyết trong mấy năm
- Văn học phát triển chất lượng:
+ Thời kì 30 – 45: có sự phát triển vượt bậc về chất lượng
+ Thời đầu thế kỉ: vẫn còn lối viết biền ngẫu, thiếu tự nhiên
+ Giai đoạn 30 – 45: hành văn hiện đại, có giá trị thẩm mĩ cao
TẢN ĐÀ
I. TIỂU SỬ - CON NGƯỜI
- Tản Đà (Nguyễn Khắc Hiếu) sinh ngày 25 – 5 – 1889 (20 tháng 4 năm Kỷ Sửu, Thành
Thái nguyên niên) tại làng Khê thượng, huyện Bất bạt, tỉnh Sơn Tây nay thôn Khê
thượng, xã Sơn Đà, huyện Ba Vì – Hà Nội. Nguyên quán: làng Lu (tức Kim Lũ) huyện
Thanh Trì Hà Nội. Mất ngày 7 – 6 – 1939 (20 tháng 4 âm lịch)
- Dòng họ truyền thống khoa bảng. Thân phụ Nguyễn Danh Kế, Án sát Ninh Bình.
Anh ruột Nguyễn Tái Tích đỗ phó bảng, tri huyện sau đổi sang ngạch Học quan giữ
chức giáo thụ.
- Mẹ: Nhữ Thị Nghiêm một đào hát tài sắc Nam Định, lấy lẽ Nguyễn Danh Kế khi ông
làm quan tri phủ Xuân Trường, hát hay, tài làm thơ Nôm. Tản Đà là con trai út của
cuộc lương duyên giữa tài tử và giai nhân
3 nỗi buồn lớn trong cuộc đời Tản Đà: nỗi buồn gia đình, nỗi buồn tình duyên, nỗi
buồn công danh dang dở
Nỗi buồn gia đình:
- Cha mất sớm
- Mẹ vì bất hòa trở lại nghề ca xướng cùng con gái út “đem thân con gái nhà khuê các,
đắp đôi tháng ngày bằng điệu phách câu ca”
- Tản Đà vốn nung đúc trong đạo Khổng Mạnh, cho một sự không chính đáng,
khiến tâm cảnh tiên sinh lúc nào cũng u uất, đau đớn, buồn rầu, không muốn biết đến,
không muốn nói ra
Nỗi buồn tình duyên:
- Năm 1907 (19 tuổi), yêu con gái tư sản Đỗ Thận ở Hàng Bồ, mối tình đầu rất sâu sắc
- Năm 1908 (20 tuổi) ông Nguyễn Tái Tích về giáo thụ phủ Vĩnh Tường, tri huyện
Vũ Duy Kiểm mời ông Tích mở lớp dạy học, làm nhà học ba gian lớp lá. Trong số học
trò có con gái út của ông Kiểm là cô út Vinh, một cô gái “đàn hay chữ tốt, thường cưỡi
ngựa bắn súng, mặc yếm nhiều đào, cài bông hoa trắng, chân đi giày thoa”. Út Vinh và
ấm Hiếu tình cảm, mặc ấm Hiếu phải học thi để thể lấy được con gái Đỗ
Thận làm vợ.
- 1909 (21 tuổi), thi trượt Hương
Page | 19
- Năm 1912, Mùa xuân, thi Hậu bổ trượt, mùa thu thi hương trượt, vội về Nội lại
thấy cảnh người yêu ở Hàng Bồ lên xe hoa:
Vì ai cho tớ phải lênh đênh
Nặng lắm ai ơi một gánh tình
- Mùa đông về Nam Định, ở nhà một người quen thân với ông Nguyễn Tái Tích, có câu
chuyện tình cảm với một nữ sinh 13 tuổi, ghi lại trong Kỉ niệm hái hoa đào, Chép
mộng…
Nỗi buồn công danh dang dở:
- Nổi tiếng thần đồng:
Xuân xưa bảy, tám, chín, mười tuổi
Văn chương ta mới làm câu đối
Đến xuân mười một học làm thơ
Xuân 14 tuổi văn đủ lối
- Trượt thi Hương năm 1909:
Sang năm hăm mốt học đi thi
Thi tại trường Nam lọt một kì
Kỳ luận hỏng vì vua Hạ Võ
Hỏng thi càng học để đi thi
- Năm 1912:
Xuân 24 tuổi thi ấm sinh
Tên đỗ thứ ba, đăng nhật trình
Hậu bổ thi luôn, hỏng vấn đáp
Chữ Pháp thất bại đường công danh
Xuân qua thu lại, lại đi thi
Nam Định bay luôn đệ nhất kì
Càng học để thi, thi cứ hỏng
Thi tàn, học cũng tàn theo thi
- 1915, có tác phẩm đăng trên Đông Dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh, nhanh chóng
có được tiếng vang -> “một lối văn Nôm”
- 1916, bút danh Tản Đà chính thức chọn con đường viết văn, làm báo chuyên
nghiệp. Từ 1916 1926 những năm tháng đắc ý nhất, liên tiếp cho xuất bản: Khối
tình con I (1916), Giấc mộng con I (1917), Khối tình con II (1918), Đài gương, Đàn
bà Tầu, Thần tiền, Lên sáu (1919), Lên tám (1920), Còn chơi (1921), Tản Đà tùng vãn
(1922), Thề non nước (1922), Truyện thế gian I II (1923), nhuận sắc Truyện Tỳ
(tuồng) của Đoàn Tự Thuật và dịch Đại học (1922), Kinh thi (1924)
- 1926 đến 1933 bỏ hết tâm sức vào việc làm báo với vọng vào một sự nghiệp văn
chương “có bóng mây hơi nước đến dân xã”. Sự lạc điệu của nhà nho Tản Đà với môi
trường đô thị bắt dầu bộc lộ rõ rệt
Page | 20
- Từ 1933 đến cuối đời, làm trợ bút cho các báo, dịch thơ Đường cho tờ Ngày nay, dịch
Liêu trai, quảng cáo chữa văn, xem số Lạc… sinh kế nhai phải trôi dạt nhiều
nơi: vào Nam, ra Hà Nội, về quê, ra Quảng Yên rồi lại về Hà Đông
- Mất tại Ngã tư sở, ngày 7 tháng 6 năm 1939, trong cảnh bần bách, để lại vợ và đàn con
mà theo lời thuật của Nguyễn Tuân “vừa yếu lại vừa đuối”
- Bằng: những ngày cuối đời của Tản Đà “địa ngục nơi trần thế”: “Đó thời
hết Bạch Mai mở lớp Hán văn diễn giảng không học trò, lại về Trì dịch
thơ Đường Liêu Trai, rồi rút về làm nghề xem số Lạc, mà không khách, sau
rốt vì không có tiền trả tiền nhà, bị chủ đưởi, phải rút về Cầu mới (Ngã tư sở) với một
tấm thân tàn phế, trên một căn gác nhỏ thiếu rượu, thiếu ăn, thiếu cả thuốc thang,
bạn”.
2. Con người:
- Nửa cuộc đời sau: môi tường đô thị và chịu ảnh hưởng của lối sống thị dân
- Nhưng về bản, cốt cách của một Nhà nho tàu tử vẫn rất đậm nét: đa tình, phóng
túng, ngông ngạo
- Bậc trích tiên trong mắt đương thời. Ngay cả khi những sáng tác của Tản Đà không
còn sự hấp dẫn, sự hấp dẫn đến từ con người thực của Tản Đà vẫn không hề giảm sút,
Lưu Trọng Lư: “con người Nguyễn Khắc Hiếu chính cái tác phẩm tuyệt xảo, một
bài thơ hay nhất trong sự nghiệp của Tản Đà”
Nhà nho hành đạo Nhà nho tài tử
tính chất chính thống, coi văn chương
quan hệ đến đạo lí cương thường
Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thì
Nhậm, Nguyễn Quang Bích, Nguyễn
Khuyến, Nguyễn Thượng Hiền, Phan Bội
Châu
xu hướng thoát li chính thống, ước
thoát khỏi cảnh bụi bậm của cuộc đời, sự
túng của xã hội phong kiến, của lễ giáo
Phạm Thái, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ,
Cao Bá Quát, Tản Đà
Ra đời sớm hơn Ra đời muộn hơn, gắn với sự phát triển của
đô thị, văn chương cuả nhà nho tài tử không
nhiều, nhưng phát triển thành dòng riêng
Coi đạo đức nền tảng giá trị của con
người.
Nho giáo không tán thành đa tình tình gắn
với dục, không phải tình dục mà là dục vọng,
sự ham muốn, say mê, do đó , Nho giáo
khuyến khích con người tiết dục, giữ gìn tình
cảm mực thước, trọng lễ nghĩa
Trong những thứ tình thứ dục, Nho giáo sợ
nhất đàn tình yêu, đó thứ tính
mạnh nhất, thứ dục thiết tha nhất thứ đam mê
Coi tài tình là giá trị của con người: đa tài, đa
tình
Tài tử quan niệm tài nhiều cách: tài kinh
luân như Nguyễn Công Trứ, tài học vấn như
Cao Bá Quát, nhưng dù là tài gì thì cũng phải
gắn với tình
Rắp mong treo ấn từ quan
Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng qua
Vì tình từ bỏ, điều không nhà Nho hành
đạo
Tình người tài tử đa tình không chỉ say
Page | 21
dai dẳng nhất
Người con gái được đề cao sự nết na công
dung ngôn hạnh chứ không phải sự sắc
đẹp. Dung giữ cho nét mặt dịu dàng, thùy
mị
mê sắc đẹp mà còn là dễ xúc động, nhiều tình
cảm, nhưng vì nhiều tình cảm mà họ dễ bị lôi
cuốn sắc đẹp, do đó họ nhiều xúc động
với những người tài sắc.
II. KIỂU NHÀ THƠ GIAO THỜI: TỪ NHÀ NHO TRỞ THÀNH NGƯỜI SÁNG
TÁC CHUYÊN NGHIỆP VÀ QUAN NIỆM VỀ VĂN HỌC CỦA TẢN ĐÀ
1. Từ nhà nho trở thành người sáng tác chuyên nghiệp
a. Từmộtnhànho
- Lộ trình vào đời: học hành đi thi làm quan => bài bản, con đường lập thân duy
nhất của người đàn ông trong xã hội phong kiến, giấc mơ quan trạng trở thành giấc mơ
lớn của cả một thế hệ kẻ sĩ
- Thất bại liên tiếp trong 2 thi Hương: 1909, 1912 khiến Tản Đà chán nản, bi phẫn.
1915: khoa thi chữ Hán cuối cùng của miền Bắc chính thức làm phá sản lối vào đời
truyền thống của Tản Đà. Giấc mộng công danh đỗ vỡ, nhà nho Tản Đà bị mất hội
đánh cược vào khoa cử, trượt ra khỏi quỹ đạo truyền thống, hoàn toàn mất phương
hướng trong hành xử
Trở thành nhà văn nhà báo chuyên nghiệp là một sự : Chữ nghĩa Tây Tàu trót lỡ dở
dang/ Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng (Đề “Khối tình con” thứ nhất)
b. Đếnmộtnhàvănchuyênnghiệp
- Chỉ thực sự lựa chọn con đường kiếm sống bằng ngòi bút vào năm 1916 năm bước
ngoặt trong sự nghiệp của Tản Đà. Đây là năm ông lấy hiệu Tản Đà:
“Nước rợn sông Đà con cá nhảy
Mấy trùm non Tản cái diều bay”
“Văn chương thời hôm nay
Thú chơi có sơn hà
Tản viên ở trước mặt
Đà giang bên cạnh nhà
Tản Đà!”
Kiểu nhà thơ giao thời. Tản Đà đến với nghề văn muộn màng nhưng rất cương
quyết
Cơ sở để Tản Đà trở thành nhà văn chuyên nghiệp:
- Khách quan:
Sự va chạm với văn minh phương Tây
Sự ưu việt của Tây phương, sự thất thế của cựu học đã mở ra những vọng
mới cho những lựa chọn lập thân mới
Từ sau những năm 1910, viết văn làm báo đã trở thành một nghề
Danh phận của người viết văn làm báo được thừa nhận và xem trọng
Page | 22
Danh hiệu nhà báo (kí giả) lúc đó rất quan trọng, có thể xếp ngang với tầng lớp
quan lại ưu tú. Với quốc dân, nhà báo được xem bậc đạo, với chính phủ
nhà báo có tác động lớn.
Phạm Quỳnh: “Các nước Âu trọng các nhà văn hơn các bậc đề vương
cái công nghiệp tinh thần còn giá trị quý báu ảnh hưởng sâu xa hơn
những sự nghiệp nhất thời về mặt chính trị” (Nam Phong tạp chí số 30)
Sự đổi thay của thời đại cuộc đem đến sự hấp dẫn cho sự lựa chọn mới
- Chủ quan;
Ngay từ bài tản văn đầu tiên trên Đông Dương tạp chí, Tản Đà đã được tán
thưởng đặc biệt
Một loạt những bài tản văn tiếp theo: Cái chùa trong bụng người, Giả ngày, Giả
người, Giải sầu đưa lại cho Nguyễn Khắc Hiếu một địa vị danh tiếng trong văn
đàn
Quan niệm của kẻ sĩ LẬP NGÔN
Tản Đà đã mạnh dạn để đến văn học chuyên nghiệp một cách quyết liệt triệt
để
Con người chuyên nghiệp dở dang
Con đường trở thành nhà văn chuyên nghiệp về sau càng quanh co, chung cuộc thành dở
dang
- Xuất phát điểm của một nhà Nho giấc mộng bất thành khoảng đầu đời vẫn tồn tại
âm thầm, tạm bỏ quên chứ không hoàn toàn dứt bỏ
- Mục đích giáo huấn, truyền thiên lương mục đích của văn học nhà Nho Tản Đà
rất mực đề cao, thậm chí coi như mục đích tối thượng cho hoạt động sáng tác
- Từ 1926 trở đi, Tản Đà bỏ hẳn những sáng tác thuộc hệ thống văn chơi để chuyển
sang viết báo truyền bá thiêm lương theo đuổi giấc mộng giáo hóa
Xa rời quỹ đạo của nhà văn chuyên nghiệp để bị hút về lực tưởng của kiểu văn học
nhà nho truyền thống
- Sự “lại giống” (Trần Đình Hựu) nay khiến Tản Đà không những đánh mất độc giả
còn đánh mất sự đổi mới văn học theo hướng hiện đại
Tản Đà nhà thơ giao thời, người dạo bản đàn cho khúc nhạc tân chứ chưa thể
nhập hoàn toàn vào bản đồng ca tân kì ấy được
2. Quan niệm của Tản Đà
a. Tínhhiệnđạitiênphong
“Còn non còn nước còn trăng gió/ Còn thơ ca bán phố phường (1916 lời đề tựa
cho )Khối tình con I
- Tản Đà đã khai sinh một loại hình nhà văn mới: đem đếnnhà văn chuyên nghiệp
một danh phận mới cho nhà văn
- Tản Đà đem đến một thuộc tính mới cho thơ ca: . Văn học đượcthuộc tính hàng hóa
đặt trong một không gian mới: không gian đô thị
Page | 23
- Thị hiếu độc giả luôn thay đổi vừa tạo áp lực kích thích nhà văn sáng tạo khắc nghiệt
của nghề viết, cũng tạo nên vị trí của nhà văn
- 1909, khi Nguyễn Khuyến mất, vẫn ung dung làm một thịsuốt đời, tại vị với danh
hiệu Tam Nguyên Yên Đồ
- 1916 khi Tản Đà viết giấc mộng con, được tặng 1000 Đông Dương đồng.
- 1933, khi tạp chí bị đình bản, Tản Đà phải đăng báo: chữa thơ cho thiên hạ, mỗi tháng
bán phí lấy 1 đồng ( (Tiễn ông Công lên chầu trời)Khi làm chu báo lúc viết mướn
- Thế Lữ: làm chủ thi đàn 1935 nhưng 1938 đã viết lời đề tựa cho tập nhưThơ Thơ
một lời thoái vị, người ta không còn đọc Thế Lữ
- Đến Tản Đà, mới xuất hiện những điều kiện khắc nghiệt của thị trường: Bao nhiêu củi
nước mới thành văn/ Được bán văn ra chết mấy lần/ Ông chủ nhà in in đã đắt/ Lại
ông hàng sách mấy mươi phân . Văn chương hạ giới rẻ như bèo. Kiếm được(Lo văn ế)
đồng lãi thực rất khó
- Những tác phẩm xoay quanh để tái du kí, tình ái, sầu muộn trong Khối tình con I, II. 1
phần xuất phát từ tính sáng tạo của Tản Đà, mặt khác sự kích thích từ thị hiếu
độc giả ở môi trường đô thị
- Đằng sau sáng tác văn học là nhu cầu, thị hiếu mới của thời đại, người cầm bút khi đã
dấn thân vào con đường chuyên nghiệp đều phải chịu tác động của chúng
Tản Đà đã đi từ lối viết văn, làm thơ của nhà Nho sang lối viết văn, làm thơ của một
nhà văn, nhà báo chuyên nghiệp
b. Tínhcổđiểntruyềnthống
- Nhấn mạnh chức năng giáo huấn của văn chương
Hai chữ thiên lương thằng Hiếu nhớ/ Dám mong không phụ Trời trông mong (Tiễn ông
Công lên hầu trời)
Trời rằng: không phải trời đây/ Trời định sai con một việc này/ việc thiên lương của
nhân loại/ Cho con xuống thuật cùng đời hay (Hầu trời)
“Văn chương trọng giá, không phải một sự đùa vui trong ý thức, không phải sự
mua vui trong phẩm bình, phải cóc bỏng mây hơi nước đến dân xã… Sao cho nhân
tâm, phong tục, được thuần chính, dân trí tư tưởng được khai minh, là chức trách của ngòi
bút đại văn gia”
Giá trị của văn chương làchức năng giáo huấn. Tản Đà vẫn khắc khoải tưởng của
văn học trung đại: văn dĩ tải đạo
- Phân chia các thể loại văn học:
Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
Hai quyển Khối tình văn thuyết lí
Thần tiên, Giấc mộng văn tiểu thuyết
Đài gương, Lên sáu văn vị đời
Page | 24
Sự trọng thị của Tản Đà với loại văn vị đời. Mặc thành danh với giấc mộng con nhưng
trong quan niệm, Tản Đà không xem trọng tiểu thuyết như tản văn. Văn vị đời bóng
mây hơi nước đến dân xã – mới là thể loại mà Tản Đà xem trọng.
III. BẢN SẮC CÁI TÔI CÁ NHÂN CỦA TẢN ĐÀ
1. Cái tôi ngông
Trong đời sống:
Ngông những lời nói, chủ chỉ, hành động ngang tàng, khác đời, trái với cái
thông thường, vượt những quy chuẩn hội, biểu hiện thành thái độ sống ngạo
nghễ, khinh bạc (Nguyễn Công Trứ cưỡi thay cưỡi ngựa, đeo mo cau nói
rằng che miệng thế gian…)
Không phải ai cũng ngông được. xuất phát từ ý thức sâu sắc về tính, tài
năng của cá nhân. Con người càng tài năng càng muốn bất chấp khuôn khổ
Trong văn học: Vấn đề ngông gắn với sự phát triển của con người nhân, gắn với ý
thức cao về bản ngã, muốn được thi tài, khoe tài. văn học trung đại, khái niệm ngông
chỉ xuất hiện các nhà Nho tài tử (Nguyễn Công Trứ, Cao Quát,…) khi ý thức
nhân đã manh nha phát triển
Tản Đà nhiều lần nói đến chữ ngông: Thiên tảo tra sổ xét vừa xong/ Để sổ lên trình
thượng đế trông/ Bẩm qua có tên Nguyễn Khắc Hiếu/ Đày xuống hạ giới về tội ngông
a. Lốisốngthịtài,khoetài
- Khoe văn tài: Văn dài hơi tốt ran cung mây/ Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay/ Tảm
như nở dạ, Cơ lè lưỡi/ Hằng Nga, Chức nữ chau dồi mày/ Song thành, Tiêu Ngọc lắng
tai đứng/ Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay: Văn đã giàu thay, lại lắm lối/ Trời nghe Trời
cũng bật buồn cười/ Chư tiên ao ước tranh nhau dặn/ Anh gánh lên đây bán chợ Trời.
Trời đã phê cho: Văn thật tuyệt/ Văn trần được thế chắc có ít/ Lời văn chuốt đẹp như
sao băng/ Khí văn hùng mạnh như mây chyên/ Êm như gió thoảng, tính như sương/
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết
Ngông ngay trong cách khoe tài, không tìm được tri kỉ nơi hạ giới: Văn chương
hạ giới rẻ như bèo, phải lên trời tìm tri âm
Sự thừa nhận, khen ngợi của trời: sự thừa nhận tối cao
Trời khen, không sự kiêm nghiệm cũng chính cách biểu hiện khác của
việc tự khen mình => cách biểu thị ngông thường thấy của văn nhân
- Ngông là một phản ứng với xã hội:
Thi không đỗ:
Tự trào
Sau khi hỏng thi ở trường Nam Định
Vùng đất Sơn Tây nay một ông
Page | 25
Tuổi chưa bao nhiêu văn rất húng
Sông Đà núi Tản ai hun đúc?
Bút thánh câu thần sớm vãi vung
Chữ chữ nôm nôm nào kém cạnh
Khuyên khuyên điểm điểm có hay không?
Bởi ông hay quá ông không đỗ
Không đỗ ông càng tốt bộ ngông (1912)
Phản ứng với chế độ khoa cử bất công có thể coi đây là khởi nguyên của ý thức cá hân
trong văn học
b. Thisĩcủasayvàchơi
- Ngông bộc lộ qua những văn thơ say:
Say sưa nghĩ cũng đời/ thời hư vậy, say thời cứ say/ Khi say quên cả cái đinh phù
du/ Trăm năm thi tửu đồ ai?/ Công danh sự nghiệp mặc đời/ Bên thời be rượu bên
thời bài thơ/ Trời đất sinh ta rượu với thơ/ Không thơ không rượu sống như thừa
- Cái ngông bộc lộ qua sự ham thích những thú chơi:
Tản Đà là thi sĩ tôn thờ khoái lạc (Còn chơi) – Ai đã hay đầu tớ chán đời/ Đời chưa
chán tớ, tớ còn chơi/ Chơi cho thật chán, cho đời chán/ Đời chán nhau rồi, tớ sẽ
thôi/ Chơi cho thật chán, cho đời chán/ Đời chán nhau rồi, tớ sẽ thôi/ Chơi cho biết
mặt sơn hà/ Cho sơn hà biết ai là mặt chơi/ Chơi xuân kẻo hết xuân đi/ Cái già sồng
sộc nó thù theo sau
Tôn ăn chơi thành thứ vận nghiệp của đời mình: Trăm năm hai chữ Tản Đà/ Còn
sông còn núi còn ăn chữ, Trời sinh ra bác Tản Đà/ Quê hương thời cửa nhà
thời không/ Nửa đời Nam Bắc Đông Tây/ Bạn bè sum họp vợ chồng biệt li
Chơi gắn với cái tôi nhân: sự phản ứng lại tuyền thống khắc kỉ phục lễ của nhà
Nho, gắn với triết lí hưởng thụ
2. Cái tôi sầu mộng
a. Sầu
Sầu nhân thế: Mạch sầu của Tản Đà bắt nguồn từ mạch sầu truyền thống:
- Xuất phát từ ý thức của con người thời trung đại: con người chỉ một bộ phận trong
cái toàn thể, luôn khắc khoải ta là ai: Tiến bất kiến cố nhân/ Hậu bất kiến lại giá/ Niêm
thiên địa chí du du/ Độc thượng nhiên nhi lệ hạ (Trần Tử Ngang), Nghìn năm ta ai
(Nguyễn Khuyến), Ba ngàn thế giới ta danh (Tú Xương), Ta ai (Chế Lan
Viên)
- Sầu về kiếp người ngắn ngủi
Tản Đà chấp nhận bi kịch này như một tất yếu của kiếp người, không còn dằn
dỗi ông chỉ ngậm ngùi than thở:
Ấy ai quay tít địa cầu/ Đầu ai nửa trắng nửa pha mầu xuân xanh/ Trông gương
mình lại ngợ mình/ Phải chăng vẫn giống đa tình ngày xưa (Bài hát xuân tình)
Page | 26
- Càng về sau này, cảm giác về sự hữu hạn của kiếp người càng giày vò, khiến ông bâng
khuâng trước cảnh tượng bông hoa: Đương trên cành bỗng chốc rơi (Hoa rụng);
chạnh lòng trước ngôi mả ven đường: Tài cao phân thấp chí khí uất/ Giang hồ
chơi quên quê hương; ngao ngán, thậm chí hoảng sợ khi phải đối diện với thực cảnh:
Tuyết nhuộm đầu xanh, tóc bạc phơ (Thơ thẩn)…; ý niệm về kiếp người ngắn ngủi:
Vèo trông rụng đầy sân (so sánh với vàng trước gió khẽ đưa vèo): Thương thay
xuân chẳng đợi chờ/ Tiếc thay xuân những hững hờ với xuân/ Trăm nghìn gửi lại đồng
xuân/ Hãy khoan khoan tới hãy dần dần lui
- Mài sắc cảm nhận về thời gian khiến Tản Đà ngay khi khai thác những vấn đề thời
gian khiến Tản Đà ngay khi khai thác những vấn đề quen thuộc vẫn có được những nét
riêng trong cách khai triển tứ thơ và phô diễn cảm xúc
Hệ thống ngôn từ và thi liệu vẫn là của truyền thống nhưng cảm nhận thời gian đã báo
trước những từ thơ chất đầy ám ảnh thời gian trong thơ mới sau này
So sánh:
Ao thu lặng lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu béo tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Là vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngố trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm câu lâu chẳng được/Cá đâu
đớp động dưới chân bèo
Nào những ai
Kê vàng tỉnh mộng
Tóc bạc thương thân
Vèo trông lá rụng đầy sân
Công danh phù thế có ngần ấy thôi
Vị trí của 2 chữ “vèo” nằm ở 2 vị trí khác trong câu thơ:
Nguyễn Khuyến Tản Đà
“Vèo” trong Thu điếu nằm cuối (kết thúc 1
ý thơ)
“Vèo” đứng đầu câu, phía sau của cả 1
ý thơ chưa khai thác.
1 nét chấm phá của bức tranh thiên nhiên
=> bút pháp lấy động tả tĩnh, gợi sự thanh
tịnh của cảnh vật.
Nhân vật trữ tình bàng hoàng trước tốc độ
của sự tàn lụi.
Thiên về cảm hứng Nhấn mạnh tốc độ của thời gian: cảm thức vềko gian
thời gian, nhà thơ cảm nhận thời gian chảy
trôi 1 cách nhanh chóng.
Sầu thời thế:
- Hình ảnh đất nước luôn canh cánh trong thơ Tản Đà: hình ảnh bức dư đồ rách - ẩn dụ
cho đất nước những năm đầu thế kỉ XX
Page | 27
Hình ảnh của bức Dư đồ rách: Vịnh Bức Dư Đồ Rách:
Nọ bức đồ thử đứng coi/ Sông sông núi núi khéo bia cười!/ Biết bao lúc mới công
vời vẽ/ Sao đến bây giờ rách tả tơi?/ Ấy trước ông cha mua để lại/sau con cháu
lấy làm chơi/ Thôi thôi có trách chi đàn trẻ/ Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi”.
Tản Đà mang bức đồ rách đi khắp 3 miền đất nước, nhưng: Bức dư đồ rách đã
cam khó lòng/ Văn chương chút nghĩa đèo bòng/ Thuyền không tay lái vẫy vùng được
sao/ Ngày xuân thêm tuổi càng cao/ Non xanh nước biếc càng ngao ngán lòng!
Hình ảnh non – nước : Thề non nước:
Non cao những ngóng cùng trông
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày
Xương mai một năm hao gầy
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương
Trời Tây ngả bóng tà dương
Càng phơi về ngọc, nét vàng phôi pha
Sầu thân thế :
- Vì ai tớ phải lênh đênh/ Nặng lắm ai ơi một gánh tình
- Tổng kết về sự lỡ dỡ, thất bại của cuộc đời : Khi làm chủ báo lúc viết mướn/ Hai chục
năm dư cảnh không cùng/ Trần gian thước đất vẫn không có/ Bút sắt chẳng hơn gì bút
lông/ Ngày canh như ngựa đầu xanh bạc/ Chán cả giang hồ hết cả ngông (Tiễn ông
Công lên chầu trời)
Việc những chất liệu có tính chất tiểu sử đi vào tác phẩm văn học qua cửa ngõ của cái
sầu cho thất sầu một phương tiện để cái Tôi thân thế của Tản Đà xuất hiện với tư
cách là một cái Tôi cá nhân được ý thức.
Sầu gắn với nỗi cô đơn :
- Cô đơn trong văn học truyền thống
Thời trung đại : đơn gắn với tâm sự ưu thời mẫn thế: ý thức về phân vị đặc
tuyển, tinh thần tự nhiệm làm nên những nỗi « tiên ưu » (Nguyễn Trãi), những
cảnh ngộ « ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ » (ta có tấc lòng không biết nói cùng ai
– Nguyễn Du)
Về sau, nỗi đơn trong VH trung đại gắn với nỗi thương thân xót mình, đậm
màu sắc ưu phiền, nặng nề, thậm chí là bi lụy
VD:
Nguyễn Trãi : « Bui 1 lòng trung với hiếu/ Mài răng khuyết nhuộm
trăng đen »
Ở văn học tk 18, con người cá nhân đã manh nha phát triển. VD: Nguyễn
Du có đoạn trích « Nỗi thương mình » ta thấy NDu thể hiện rõ « giật mình mình
lại thương mình xót xa »
Bi lụy : Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn (HXH)
- Đến Tản Đà cái cô đơn bắt đầu có những nét mới lạ trong cách phô diễn:
Page | 28
+ Ngay khi bi lụy nhất , Tản Đà cũng thiên về cái réo rắt buông lơi. Tâm sự đơn
không nén lại, u uẩn mà chỉ như một hơi thở nhẹ thoát, bàng lảng :
+ (Chơi trại hàngChiều quá khách chơi về đã vãn/ Gốc cây thơ thẩn một mình ngồi
hoa), (Đêm đôngMạch sầu canh vắng như tuôn/ Nhớ ai nước nước non non bạn tình
hoài cảm), (Mưa thuNhững ai mặt biển chân giời/ Nghe mưa ai có nhớ nhời nước non
đất khách)
+ Nỗi đơn trong điều sầu man mác không hiếm khi được vờn vẽ trong 1
khung cảnh thiên nhiên đầy gợi cảm :
« (Quê nhà chơiCon đường hạn khách Đông Tây/ Ta nhớ ai đứng mãi đây »
mát cảm hứng)
« Suối tuôn róc rách ngang đèo/ Gió thu bay bóng chiều về tây/ Chung quang
những lá cùng cây/ Biết người tri kỉ đâu đây mà tìm » (Vô đề)
Cái đơn không còn thích thú với cung bậc bi thương, chất chứa vẫn thường gặp
trong thơ cô điển mà bắt đầu hướng tới cái du dương, êm ái thi vị đầy mới mẻ
Báo trước cho cái tôi cảm xúc sự say đặc biệt với những đơn, sầu khổ
của thơ ca giai đoạn tiếp theo
b. Mộng:
- Dòng văn học mộng từ xưa cho đến nay
- Mộng đi vào văn chương từ rất sớm :
+ Phương Tây gồm có thần thoại Hi Lạp, kịch Shakespeare : giấc mộng đêm hè.
+ Phương Đông : Trang Tử, Hồng Lâu mộng, Liêu trai chí dị, một kho điển cố điển
tích về mộng.
+ Việt Nam : truyện dân gian, Từ Thức gặp tiên, Lưu Nguyễn gặp thiên thai, Kiều
gặp Đạm Tiên, Nguyễn Công Trứ : Ôi nhân sinh thế ấy, như bóng đèn/ Như mây
nổi, như gió thổi, như chiêm bao
- Qua mộng, tác giả thể hiện :
+ Quan niệm nhân sinh : đời mộng : Xử thế nhược đại mộng/ Hổ vi lao kỉ sinh (Ở đời
như giấc mộng/ tội chi vất vả mình).
Đời người như giấc mộng : đời người ngắn ngủi phù du, hạnh phúc thứ dễ tan
biến : bích câu chi quá khích (Đời người như bóng câu qua cửa sổ - Lão Tử). Lưu
Nguyễn gặp Thiên thai : cuộc đời là giấc mộng, hư ảo, phù vân.
Hồng Lâu mộng giấc mộng lầu hồng cuộc sống phú quý, vàng son rồi cũng qua
như giấc mộng, vật đổi sao dời
Page | 29
+ Mộng phương tiện của duy nghệ thuật : văn học được duy bằng mộng tạo nên
khả năng cấu, tưởng tượng : thế giới ảo trong tuyện cổ tích, đem đến vẻ đẹp thực
ảo trộn lẫn trong tác phẩm văn học.
Sau này, chủ nghĩa siêu thực đã khai thác mộng vừa như một nhân thức mới về cuộc sống
toàn vẹn, vừa như một bút pháp nghệ thuật : bút pháp tự động được dựa trên đặc tính của
mộng : đứt đoạn, nhảy cóc
- Đến Tản Đà : dòng văn học mộng được kế tục xứng đáng :
Con đường đến với mộng của Tản Đà : Nghịch lí : Tản Đà nhập mộng vì vỡ mộng : vỡ
mộng công danh, tình duyên đã khiến Tản Đà đắm chìm trong giấc mộng cõi văn
chương
« Thân chẳng bằng mộng nên mộng cho cam thân vậy » (Phạm Quỳnh)
Ý NGHĨA PHẠM TRÙ MỘNG TRONG THƠ VĂN TẢN ĐÀ
Qua mộng để thể hiện quan niệm nhân sinh:
Quan niệm đời như một giấc mộng: Đời người như giấc chiêm bao (Thơ rượu), Trăm
năm một giấc mộngmàng (Đời lắm việc), Thế sự phù vân chi cảnh/ Những ai
tỉnh là ai (Hơn nhau một chẻn rượu mời)
“Mộng và nộng, đời người cũng là mộng, mộng là cái mộng con, đời là cái mộng lớn, chỉ
khác nhau là dài ngắn lớn nhỏ mà thôi”
“Giấc mộng con mộng! Giấc mộng lớn cũng mộng ! Duyên trái Thành, thi bay
Nam Định đã là mộng ! Diễn thuyết trí tri, giảng học Hồng Bàng là mộng. Thư điếm phố
Hà Nọi, biệt thự đồi Vĩnh Yên, chẳng qua cũng là mộng »
Tống biệt: nửa năm tiên cảnh, một bước trần ai
Sự ngắn ngủi, phù du hư ảo của cuộc đời. Mộng của Tản Đà gần gũi truyền thống.
Qua mộng để thể hiện bản ngã, cá tính :
Mộng gắn với ý thức về cái tôi nhân : (cái mới) : hướng đến thế giới mộng thế
giới lí tưởng bằng hành động mộng tưởng
- Thế giới mộng :
Cõi tưởng, cao hơn hiện thực, qua đó Tản Đà thể thực hiện được những
chuyến phiêu lưu du kí bằng tưởng tượng
Địa điểm thật nhưng chưa được đến : Hồ Eriê, thác nước Niagara, những chiếc
quạt nước miền thượng lưu sông Madison, đưa Tản Đà phiêu lưu đến châu Phi,
châu Mĩ, Bắc Cực, Viễn Đông… -> Chỉ biết đến qua sách vở
Khao khát phiêu du để kiếm tìm thưởng ngoạn khiến những trang viết tràn đầy
cảm quan nghệ sĩ với rung động mãnh liệt. Cảnh vật phương xa hiện lên sống động
trong những màu sắc, âm thanh quyến rũ
Tản Đà thỏa mãn ý thích dịch giang hồ, nơi tác giả thể nghiệm bản thân : cái tôi
thích phiêu lưu, xê dịch
Page | 30
Những địa điểm chỉ có trong tưởng tượng cõi tiên, cảnh bạc. Trong Giấc mộng con
I : cõi tiên : « không sự thiên tai, không sự địa biển, không trộm cướp,
không án từ, không sự kiện cảo, không sự buôn danh bán lợi, không
câu thế thái nhân tình ». : hữu hình hóa cõi Tiên, cung QuảngGiấc mộng con II
Hàn, Bồng lai, sông Ngân Hà,…
Hầu trời : cõi trời và chư tiên, cung quế, chị Hằng
Khao khát chiếm lĩnh cõi tiên : xuất hiện nhiều biểu tượng : cảnh hạc, cảnh nhạn,
cảnh hồng -> nối liền cõi tiên và hạ giới
- Hành động mộng tưởng :
Mộng như một phương cách để thỏa mãn cái tôi ngông ngạo : đứng cao hơn
hạ giới : Muốn làm thằng Cuội, hầu trời
Mộng để thỏa mãn sự hưởng lạc :
Nguyễn Khắc Hiếu uống rượu, theo « mệnh lệnh của mỹ nhân » làm thơ, nghe
« Chiêu Quân đánh tỳ bà, Dương Qúy phi say rượu, đứng dậy múa. Tây Thi hát ».
Tham lam hơn (và thế cũng thật đáng yêu) khi ông dựng nên những
cảnh « Dự tiệc hơn trăm người chỉ một mình mình không phải
nhân ».
Những cảnh yêu đương trong cõi mộng như trên làm phát lộ cái Tôi đa tình, lục lụy
nơi Tản Đà : lên tiên không phải đẻ thoát tục, để tìm thuốc trường sinh để tìm
giai nhân, tìm vui, tìm ý thú của chính mình
Cõi mộng không gian đó cái Tôi của Tản Đà phơi trải những dự phòng, sở thích
của mình. Mộng phương tiện để thám hiểm những chân trời mới lạ trong thế giới
tinh thần của cái Tôi. Đây chính ý nghĩa mỹ học mới mẻ của thế giới ảo mộng
Tản Đà đem đến cho văn học thời kì này.
Mộng một cách thoát li hiện thực, đắp những mất mát trong đời thực :
Muốn làm thằng cuội
Giấc mộng 10 đã tỉnh rồi/ Tỉnh rồi lại muốn mộng mà thôi
Theo Nguyễn Khắc Xương, Chu Kiều Oanh hình bóng của gái trong mối tình
đầu (cũng tên là Oanh) của Tản Đà. Cuộc tình trong đời thực, như chính Tản Đà thuật
lại trong giấc mộng lớn kết thúc ngang trái.
Cõi mộng nơi Tản Đà được sống nếm trải những hương sắc ngọt ngào của thế
giới tình yêu. Những mất mát trong đời thực được bù đắp
Mộng trong thơ văn Tản Đà đặt nền móng cho văn học lãng mạn sau này.
- Mộng trong thơ lãng mạn được nhìn nhận trên hai góc độ :
(1)Mộng cõi mộng : cõi mộng đồng nhất với cõi tưởng, đối lập với thực tại tầm
thường, trần trụi hàng ngày. Đặc điểm : diễm lệ, đầy chất thơ, giống thế giới đại ngàn
mà con hổ trong Thế Lữ mơ tưởng, chốn bồng lai, tiên
(2)Mộng là hành động hướng đến lí tưởng -> dù là mộng, nhưng nó đầy tỉnh táo
Bi kịch các nhà lãng mạn bi kịch tình mộng : « động tiên đã khép, tình yêu
không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ » (Thi nhân Việt Nam)
Page | 31
- Tản Đà, mộngcả hai nét nghĩa này, mộng cả hai nét nghĩa, khiến Tản Đà rất
hiện đại, rất gần với thơ mới
c. Mối quan hệ giữa hai phạm trù sầu – mộng
- Sầu và mộng là sự triển khai của 2 mặt trong cái tôi Tản Đà : cái tôi trong hai thế giới :
hiện thực và lí tưởng : tương phản gay gắt, không thể hòa giải
- Điểm thống nhất giữa sầu mộng khi thể hiện cái tôi : đều thể hiện tính « tự yêu
mình » - Chủ nghĩa Narcissism
- Điểm thống nhất : Ba chữ « mình yêu mình » chính điểm thống nhất của ngòi bút
Tản Đà khi viết về cái Tôi của mình trong mọi biểu hiện :
Tản Đà đã lấy tên khai sinh của mình làm tên nhân vật chính trong tác phẩm. Cả
trong giấc mộng lớn và giấc mộng con dù khi viết về kỉ niệm tuổi thơ, thói quen
ẩm thực hay những phiêu du trong ảo mộng… cái Tôi của Tản Đà luôn được
thuật lại một cách đầy hứng khởi, say mê. Mọi cảnh huống trong tác phẩm chỉ là
cái cớ để ông . phô diễn về cái Tôi của mình
Ngay cả Chu Kiều Oanh thực chất nhân vật này một hóa thân của chính Tản
Đà trong hình hài của một giai nhân. Tình yêu sự tán thưởng, vọng của Chu
Kiều Oanh dành cho Nguyễn Khắc Hiếu một cách để Tản Đà bộc lộ sự say
mê của ông đối với chính bản thân mình.
thế thể nói đến một Narcissism trong những sáng tác của Tản Đà. Nhà văn
công khai bộc lộ sự say mê với bản thân mình, lấy cái Tôi làm chất liệu cho mọi
khám phá. Sự tôn thờ và say cái Tôi khiến cho Tản Đà và các tác phẩm của ông
trở nên đặc biệt khác lạ
VD : TỐNG BIỆT :
- Đề tài : Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Thúc Sinh từ biệt
Thúy Kiều. Thâm tâm dùng đề tài Tống biệt hành để đối thoại lại với tống biệt xưa kia
« »Đưa người ta không đưa qua sông
- Tản Đà: cuộc chia tay của tiên nữ tiễn 2 chàng Lưu ThànhNguyễn Triệu khỏi thiên
thai
- Thi liệu cũ
- Bút pháp cũ : tả cảnh ngụ tình
Nửa năm tiên cảnh : Một bước trần ai
Một bước không chit là không gian mà là bước qua hai cõi
- Mới : cảm thức thời gian tất cả trong những cái nhất đều gợi sự uyển chuyển động
của thời gian, trong vỏ bọc thi liệu, thể tài rất một tình điệu mới đang chuyển
động, cảm thức về cái mất mát, chảy trôi, một đi không trở lại.
« Cái hạc bay đi vút tận trời », « xa cách mãi », « cửa đông đầu non đường lối »:
tạo hình theo lối tan biến, rất giống Tản Đà đầu gạch nối: cõi tiên ông khách
tục, ở cõi trần ông là khách tiên
Page | 32
Tản Đà chưa phải nhà thơ mới. Nhưng ông nhà thơ đã tưởng cách tân,
nhiều tìm tòi, sáng tạo mạnh dạn vượt ra ngoài khuôn sáo cũ. Trong thời buổi
lối thơ niêm luật đang còn phổ biến, thì lối thơ như « này của TảnTống biệt »
Đà đã đem đến một tiếng nói mới, vượt ra ngoài khuôn sáo tạo nên « một giọng
phóng túng riêng » trong phong cách thơ Tản Đà.
XUÂN DIỆU
I. Tiểu sử - Con người
1. Tiểu sử
- Xuân Diệu, tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo Nhan
- Quê cha huyện Can Lộc, tỉnh Tĩnh. Quê mẹ Bồi, huyện Tuy Phước, tỉnh
Bình Định
- Thuở nhỏ học chữ Hán và chữ quốc ngữ với cha, rồi đi học ở Quy Nhơn, trường Bưởi
(Hà Nội) và trường Khải Định (Huế). Sinh ra và lớn lên ở quê mẹ
- Năm 1940, Xuân Diệu đỗ Tham nhà Thương chính vào làm ti Thương chính
Tho (nay thuộc Tiền Giang)
- Sau đó 4 năm, Xuân Diệu thôi việc, ra Nội sống bằng nghề viết văn, là thành viên
của Tự lực văn đoàn
- Sau Cách mạng tháng 8, hăng hái hoạt động văn nghệ phục vụ hai cuộc kháng chiến.
Năm 1948, được bầu làm Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa 1, 2, 3.
Ông được Viện Hàn lâm nghệ thuật ớc Cộng hòa dân chủ Đức bầu làm Viện
thông tấn (1983)
- Năm 1985, Xuân Diệu từ trần sau một cơn đau tim đột ngột. Ông được Nhà nước tặng
Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I – 1996)
2. Con người
« Cha đàng ngoài mẹ ở đàng trong
Ông đồ Nho lấy cô làm nước mắm.
Làng xóm cười giọng ông đồ trọ trẹ,
Nhưng quý ông đồ văn vẻ giỏi giang.
Bà ngoại nói : tôn trọng người chữ nghĩa,
Dám gả con cho cách tỉnh, xa đàng »
(Cha đàng ngoài mẹ ở đàng trong)
Page | 33
- Xuân Diệu được thừa hưởng ở cha – ông đồ nghệ đức tính cần cù, kiên nhẫn trong học
tập rèn luyện tài năng lao động nghệ thuật bền bỉ. Với XD, rèn luyện lao động
sáng tạo vừa là 1 thử thách gian khổ, vừa là 1 lẽ sống lớn, 1 niềm đam mê lớn.
- Sinh ra lớn lên quê mẹ, XD thường nói đến tác động của thiên nhiên Quy Nhơn
với hồn thơ nồng nàn, sôi nổi của ông, đặc biệt những ngọn gió nồm « Quê mẹ gió
nồm thổi lên tươi mát » và những con sóng biển « như hôn mãi ngàn năm ko thỏa/ bởi
yêu đời lắm lắm em ơi »
- Là con vợ lẽ, phải sống xa mẹ từ nhỏ, thường bị hắt hủi khiến XD luôn khao khát tình
thương và sự cảm thông của người đời.
- Là 1 trí thức Tây học, XD hấp thụ ảnh hưởng của tư tưởng và văn hóa Pháp 1 cách
hệ thống.
- Mặt khác, do xuất thân từ 1 nho học nên được tiếp thu 1 cách tự nhiên ảnh hưởng
của nền văn hóa truyền thống.
vậy, XD sự kết hợp của cả 2 yếu tố cổ điển hiện đại, phương Đông
phương Tây. Tuy nhiên, ảnh hưởng của Phương Tây vẫn sâu đậm hơn.
- Cha XD 1 nhà nho, từng thi đỗ tú tài (ông kép) nên XD chịu ảnh hưởng sâu sắc
của văn học Trung Quốc, đặc biệt Đường thi. Tuy nhiên XD thuộc thế hệ hs, sv
ngồi trên ghế nhà trường Pháp - Việt nên tiếp thu thi ca phương Tây 1 cách sâu sắc.
- Trải nghiệm trên nhiều vùng đất.
- Cấu trúc thân thể, mặc cảm thiểu số khiến XD vừa cô độc, vừa cô đơn giữa cuộc đời.
- XD thi luôn khao khát tình yêu nhưng lại mang nặng ám ảnh đơn. 2 trạng
thái tinh thần này tạo thành 1 phức cảm trong con người XD, ko loại trừ mà cộng
hưởng lẫn nhau. Càngđơn, thi sĩ càng khao khát tình yêu. Càng khao khát tình yêu
thì càng thấy cô đơn.
II. QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC
1. Sáng tác trước CM
- Thơ : thơ thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945)
- Văn xuôi : Phấn thông vàng (1939)
2. Sáng tác sau CM
- : Ngọn quốc (1945) ; Hội nghị non sông (1946) ; Dưới sao vàng (1949) ; SángThơ
(1953) ; Mẹ con (1953) ; Ngôi sao (1954) ; Riêng chung (1960),…
- Văn xuôi : Trường ca (1945, bút kí) ; Miền Nam nước Việt (1945, 1946, 1947, bút kí) ;
Việt Nam nghìn dặm (1946, bút ký), Việt Nam trở dạ (1948, bút kí) ; sự thăm nước
Hung (1954, bút kí) ; Triều lên (1958, bút kí)
Page | 34
- : Thanh niên với quốc văn (1945), Tiếng thơ (1951, 1954) ; NhữngTiểu luận phê bình
bước đường tưởng của tôi (1958, hồi kí), Ba thi hào dân tộc (1954) ; Phê bình giới
thiệu thơ (1960), HXH –bà chúa thơ Nôm (1961), Dao mài mới sắc (1963), Thi hào
dân tộc Nguyễn Du (1966) ; Đi trên đường lớn (1968), Thơ Trần Xương (1970), Đojc
thơ Nguyễn Khuyến (1971), Và cuộc đời mãi xanh tươi (1971)…
Nhận xét :
- XD là 1 tài năng nhiều mặt : làm thơ, viết văn, viết nghiên cứu phê bình, dịch thuật.
phương diện nào, XD cũng đạt được những thành tựu lớn. Tuy nhiên XD trước hết
được biết đến như 1 nhà thơ lớn của nền VHVN hiện đại.
- Quá trình sáng tác của XD có sự thống nhất và vận động ở cả 2 giai đoạn trước và sau
CM. Thống nhất ở 1 tâm hồn yêu đời, tha thiết với cuộc đời, nồng nàn sôi nổi.
- Nhưng nếu trước CM, thơ XD mang ám ảnh đơn thì sau CM, ông đã « phá đơn
ta hòa nhập với người ».
- Trước CM chủ yếu đề tài tình yêu lứa đôi. Sau CM, mở sộng sang tình yêu với đất
nước, nhân dân, đồng loại.
- Tuy nhiên thơ XD trước CM sự kết tinh về nghệ thuật. Sau CM, do tính đại chúng
và nghiệp dư của nền văn nghệ, thơ XD có phần dễ dãi, độ kết tinh ko còn như trước.
III. Phong cách thơ XD trước CM
1. Tư tưởng
a. Quanniệmnhânsinh:
. Cách nhìn cuộc đời chi phối cách sống. Cáchcách nhìn cuộc sống cách sống
sống sẽ tác động trở lại, tạo nên sự vận động liên tục trong cái nhìn cuộc đời của nhà
thơ.
- Cuộc đời như một “thiên đường trên mặt đất” (Cái nhìn lãng mạn về hiện thực)
+ “Xuân Diệu đốt cảnh bồng lai để xua ai nấy về hạ giới” (Hoài Thanh)
+ Câu nói hướng đến sự đối thoại của hai quan niệm lớn đương thời: Thế Lữ và Xuân
Diệu, nhằm đặt Xuân Diệu trong tương quan với Thế Lữ
+ Thế Lữ quan niệm thoát lên cõi tiên để quên đi cõi tục. Xuân Diệu đốt cảnh bồng lai
quay về cuộc sống trần gian. Khi XD bước vào làng thơ mới, danh vọng của Thế Lữ
đã mờ đi ít nhiều
+ Câu nói của Hoài Thanh đánh giá về sự lên ngôi của một tư tưởng mới và sự thoái vị
của tưởng cũ. Khi XD xuất hiện thì ngọn cờ tiên phong của Thơ mới đã được
chuyển giao từ Thế Lữ sang Xuân Diệu. Nhìn cuộc đời như một “thiên đường trên
mặt đất”, hướng về những vẻ đẹp của trần gian sự độc đáo trong quan niệm của
XD so với các nhà thơ mới khác.
SO SÁNH
- Thế Lữ : với Thế Lữ đô thị 1 chốn đầy bon chen. Nhà thơ tìm đường thoát li, trở
thành khách chinh phu, khách giang hồ say đắm thiên nhiên. Nhưng con đường thoát li
quan trọng nhất của Thế Lữ là thoát lên tiên, tìm đến tiên giới như 1 môi trường thanh
Page | 35
sạch để gột bỏ bụi trần : « Tiếng sáo thiên thai », « Tiên đồng ngọc nữ »,… Thế Lữ
nhìn thế giới nhập nhòa ở cõi tiên và cõi người, cảnh thực và cảnh mộng.
- Lưu Trọng Lư : thoát li vào thế giới của mộng và sầu
- Chế Lan Viên : tìm về quá khứ vàng son đổ nát của đất nước Chiêm Thành xưa,
vừa hoài niệm, vừa tiếc thương, hướng đến thế giới của mồ hoang, huyệt lạnh, xương
khô, sọ người, não trắng, những bóng ma hời, những tường thành lở lói,…
- Hàn Mặc Tử : càng về sau hồn thơ HMT càng tìm về thượng giới, càng điên loạn
hơn. Nhà thơ tìm cách thoát li lên chốn trăng sao, tìm ko gian để quên time : « van lạy
ko gian xóa những ngày »
- Vẻ đẹp trần gian trong thơ XD:
Cuộc sống trần gian chính thiên đường của XD. Cõi trần thế đẹp như một thiên
đường
Dịu dàng đan những ánh tơ xanh/ Cho gió du dương điệu múa cành” (Trăng)
Vườn cười hằng bướm, hót bằng chim/ Dưới nhánh không còn một chút đêm/
Những tiếng tung bằng ánh sáng/ Ca đời hưng phục trẻ trung thêm (Lạc
quan)
- Phân tích vẻ đẹp trần gian trong thơ XD qua đoạn thơ:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật…. Tháng Giêng ngon như 1 cặp môi gần
Điệp ngữ, đảo ngữ
Thế giới đầy âm thanh, ánh sáng, sắc màu, hương thơm
Vạn vật hiện lên trong tư thế cặp đôi
b.QuanniệmvềtimecủaXuânDiệu
- Thời gian tồn tại một cách khác quan, nhưng được con người nhận thức thể
nghiệm, do đó nở trở thành sản phẩm chủ quan, in dấu ấn tư duy của mỗi chủ thể. Mỗi
thời đại, mỗi nền văn hóa khác nhau quy định cái nhìn về thời gian khác nhau.
- Quan niệm về thời gian của con người thời trung đại:
+ Thời gian một chu khép kín, tuần hoàn: “hiện tại kéo dài vĩnh viễn không tách
khỏi quá khứ”. Cả phương Đông phương Tây đại diện hai nền văn minh rực
rỡ Trung Quốc và Hi Lạp, “lịch sử đối với họ và những đồng bào của họ chẳng qua chỉ
một sự xoay vần vĩnh cửu của chừng ấy hình thức chính trị theo một trình tự nhất
định”
+ Quan niệm về thời gian trên bắt nguồn từ duy nông nghiệp. Hoạt động nông
nghiệp khiến con người cảm nhận thời gian theo những chu của tự nhiên: tự nhiên
sự lặp lại tuần tự, vận động liên hoàn và xoay vần trường cửu
+ Thơ xưa cũng có ko ít bài than thở về sự hữu hạn của đời người trong sự vô hạn của
thời gian. Nhưng cố nhân kho hoang mang hoảng hốt, vì họ cho rằng vũ trụ tuần hoàn,
thời gian quay trở lại và con người sẽ hòa nhập vào cái vĩnh hằng của trời đất.
- Trước Xuân Diệu, cũng ko ít thi sĩ ngậm ngùi trước time chảy trôi
- Nguyễn Du: Sen tàn cúc lại nở hoa/ Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân, Ngày vui
ngắn chẳng tày gang.
Page | 36
- Nguyễn Công Trứ: Nhân sinh ba vạn sáu nghìn thôi/ Vạn sáu chơi nhăng đã hết rồi
- Tản Đà: Đời người thử ngẫm mà hay/ Trăm năm là ngắn 1 ngày dài ghê. Vèo trông
rụng đầy sân
- Nhưng chỉ đến Xuân Diệu mới ý thức được sự xói mòn, phá hủy của time, time mới
trở thành 1 nỗi ám ảnh” (Đỗ Lai Thúy)
Bài thơ Đi thuyền
Thuyền qua, mà nước cũng trôi
Lại thêm mây bạc trên trời cũng bay
Tôi đi trên chiếc thuyền này
Dòng mơ tơ tưởng cũng thay khác rồi
Cái bay ko đợi cái trôi
Từ tôi phút trước, sang tôi phút này...
Quan niệm về thời gian của Xuân Diệu:
- Thông qua hình tượng “ ” và “ ” nói lên sự nhận thức rõ ràng nhịp điệu trôi nước thuyền
chảy của time. Time trong thế giới vũ trụ thì vĩnh cửa, còn thời gian đời người là hữu
hạn.
- Time như dòng nước, đời người như con thuyền. Con người bất lực hoàn toàn trước
sức mạnh của thời gian vũ trụ và luôn có nguy cơ bị cuốn trôi hoặc bị nhấn chìm:
Nước cũng mất luôn/ Nhưng nước còn nguồn/ Thyền chìm trong nước/ Đêm ngày
nước tuôn.
- Cách mượn dòng chảy của nước để nói đến dòng chảy của time quen thuộc trong
thơ ca xưa nay. Nhưng cái mới của Xuân Diệu nhìn time 1 cách gấp rút, ko đo time
bằng chiều kích bằng time vi mô: time của đời người, thậm chí vi đến
từng phút giây: “ ”.Cái bay ko đợi cái trôi/ Từ tôi phút trước sang tôi phút này
Nhận xét:
- Xuân Diệu nhìn time mang tính chất tuyến tính.
- Time được phân lập thành time của vũ trụ và time của đời người. Time của vũ trụ vận
hành theo quy luật của tự nhiên. bất biến, hạn. Còn time của đời người
ngắn ngủi, hữu hạn.
- Time của đời người ko còn lẫn trong time của tự nhiên, ko mang tính lặp lại
time mất đi vĩnh viễn, 1 đi ko trở lại
- Time ko còn tính theo chiều mô: một đời, nghìn năm, vạn năm, thiên thu…
time được vi mô hóa đến từng giây phút.
- Cách đo đếm và cảm nhận time bằng thi liệu hiện đại (giờ, giây, phút)
Dòng chảy của time sẽ đem đến ý niệm về sự phôi pha.
- Thơ Xuân Diệu mang cảm thức phôi pha khá mạnh. Đó hệ quả tất yếu của cái nhìn
time tuyến tính
Page | 37
- Time làm phôi pha vẻ đẹp thiên nhiên: (Đây mùa thu tới),Với áo mơ phai dệt lá vàng
Ta tiếc theo sau, Sắc tàn hương nhạt mùa xuân dụng/ Những mặt hồng chia hết
cười giữa vườn im, hoa sợ hãi/ Bao nỗi phôi pha khô héo rụng rời(Xuân rụng),
(Gió), thu)… (Đây mùaChẳng hái cũng hết dần, nhỉ, sao hoa lại phải rơi
thu tới là đây mùa thu qua)
- Time làm phôi pha nhan sắc của giai nhân: Ta tiếc theo sau những đóa hồng/ Những
nàng con gái sớm phai bông Chỉ mấy năm thôi, đủ phận(Ngẩn ngơ), của con người
chồng / Chàng trai mởn đã thành ông/ Ko còn mộng dễ ngày tươi trẻ/ Mắt sáng
phai rồi, má hóp ko (Tặng bạn bây giờ)
Ý niệm phôi pha
- Time làm tàn phai tình ái: Một chút hương phai của ái tình, Để lòng ước với tình phai
ấy, Gió mặc hồn hương nhạt với chiều,… Time trong thơ Xuân Diệu được chia làm 2
thời: của Chu Văn Sơn). Thời gian tàn hủy để thời tươi thời phai thời tươi trở
thành thời phai
- Cách nhìn thời gian này thể hiện quan niệm sống của Xuân Diệu. Cùng là sự vận động
của time, nhưng Xuân Diệu nhạy cảm với vẻ đẹp của sự rụng rơi, tàn phai, cảm xúc
ngưng đọng trong nỗi xót xa, tiếc nuối về sự mất mát của cái đẹp. (Khác với HCM:
Hết mưu là nắng hửng lên thôi/ Hết khổ là vui vốn lẽ đời).
Sống là tận hưởng vẻ đẹp của cuộc đời
- Em mười lăm tuổi, em tuổi hai mươi
Đừng để mất một cái gì mà ko hưởng
- Xuân Diệu muốn tận hưởng đến , đến hương sắc của cuộc đời: no đã đầy Cho
chuếch choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng/ Cho no nê thanh cắc của thời tươi
- Sống là bám riết lấy cuộc đời trần thế
Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn
Làm dây da quấn quýt cả mình xuân
Ko muốn đi ở mãi mãi vườn trần
Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất
Quan niệm sống hết mình, tận hiến
- Xuân Diệu quan niệm sống là phải hết mình:
Sống toàn tâm, toàn trí, toàn hồn
Sống toàn thân và thức nhọn giác quan
“khi vui cũng như khi buồn, nàng đều nồng nàn tha thiết”.
(Hoài Thanh)
- Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời,
Kẻ đựng trái tim trìu máu đất,
Hai tay chín móng bám vào đời. Chíu/ chín
Cách sống của 1 con người ko nguôi khát sống , thèm yêu. Cường độ cảm xúc luôn
được đẩy đến mức tuyệt đối, khao khát được thụ hưởng cuộc sống 1 cách tuyệt đối.
Cuộc đời: đẹp (t): hữu hạn vội vàng
Page | 38
time trôi chảy làm tàn phai tất cả, nên XuânDiệuquanniệmsốngphảivội
vàngđểchạyđuavớitime,đểtậnhưởngnhiềunhấtnhữngânhưởngcủacuộcđời
trongquỹđạotimeeohẹpnhất.
- TXuân Diệu ồn ào bởi những lời giục giã: Mau lên chứ vội vàng lên với chứ/ Em
em ơi tình non sắp già rồi; Mau lên đi/ Mùa chưa ngả chiều hôm. Nhà thơ ước muốn
níu kéo time: để làm ngừngTôi muốn tắt nắng đi/ cho màu đừng nhạt mất. Tắt nắng
dòng thời gian trôi chảy.
- Thơ Xuân Diệu quan tâm đến nhiều hơn chấtlượngsống độdàicuộcsống:Thà 1
phút huy hoàng rồi chợt tối/ Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm. vậy, phải sống
toàn thân thức nhọn giác quan. Điều này càng nhấn mạnh cách ham hố, hết mình
của Xuân Diệu
Nhận xét:
- Cách nhìn và cách sống là 2 yếu tố giúp xác định quan niệm nhân sinh của Xuân Diệu.
Cách nhìn cuộc đời cách nhìn thời gian nguyên nhân sâu sa chi phối đến cách
sống của Xuân Diệu. Cuộc đời tươi đẹp như 1 thiên đường, nên sống phải tận
hưởng cuộc đời. Thời gian làm phôi pha mọi vẻ đẹp, nên sống phải vội vàng để
chạy đua với thời gian đểthể hưởng thụ cuộc đời được nhiều nhất trong 1 quỹ thời
gian ít nhất.
B. Quan niệm thẩm mỹ
- Cái đẹp là cái đầy sức sống: tuổi trẻ và mùa xuân
- Cuộc xung đột giữa thơ cũ và thơ mới ko chỉ là cuộc xung đột giữa cái cũ và cái mới. Nhìn
sâu xa hơn, đó là cuộc xung đột giữa trẻgià. Bìa thơ của Phan Khôi thực chất Tình già
nói về tình trẻ: Sự phục hưng của Thơ mới chính là sự phục hưng của tinhCon mắtđuôi.
thần trẻ.
- Cái đẹp là cái đầy sức sống: tuổi trẻ và mùa xuân
- Xuân Diệu ko phải là thi sĩ đầu tiên ca ngợi tuổi trẻ. Trước ông đã có ko ít tư tưởng ca ngợi
tuổi trẻ đề cao sự hưởng thụ tuổi trẻ: Chơi xuân kẻo hết xuân đi/ Cái già sồng sộc thì
theo sau. (Ca dao)
- Nhưng cái độ đáo của Xuân Diệu chỗ: Nhà thơ đã dùng trẻ để làm thước đo định
giá mọi vẻ đẹo của cuộc đời, 1 phương diện thiết yếu của nhân sinh. Trẻ đã trở thành 1
thứ mỹ cảm để Xuân Diệu hướng tới . Với Xuân Diệu, trẻ nghĩa đẹp. Phạm trù cái đẹp
được đo bằng cái trẻ. Trong lời đưa duyên cho tập Thơ thơ, Xuân Diệu coi tuổi trẻ tình
yêu là phần ngon nhất của cuộc đời
- Mỹ cảm trẻ đã hướng Xuân Diệu đến 2 đối tượng: Với thiên nhiên, thi hướng đến
mùa xuân; với con người thi sĩ hướng đến những người còn trẻ tuổi – trẻ lòng.
Mùa xuân trong thơ Xuân Diệu:
- Xuân Diệu say đắm với mùa xuân vì mùa xuân là quãng thời gian ý nghĩa nhất của tạo
vật, mùa trẻ nhất của đất trời, cũng như tuổi trẻ quãng thời gian ý nghĩa nhất của
Page | 39
cuộc đời mỗi con người. (Khác với Chế Lan Viên: thù ghét mùa xuân, yêu mùa thu, vì
quan niệm mùa xuân là hiện tại, mùa thu là quá khứ: Tôi chờ đâu có đợi đâu/ Đem
chi xuân đến chỉ thêm sầu
- Mùa xuân trong thơ Xuân Diệu hiện lên ở độ trẻ trung, tươi thắm, rạo rực nhất của nó.
Mùa xuân ấy là hội tụ, kết tinh của nhiều vẻ đẹp đến mức đỉnh điểm. Mùa xuân có ánh
sáng rực rỡ, trong trẻ, màu sắc tươi thắm, âm thanh ríu rít, hương vị nồng
nàn: Giữa vườn inh ỏi tiếng chim vui/ Thiếu nữ nhìn sương chói mặt trời/ Sao buổi
đầu xuân êm ái thế/ Cánh hồng kết những nụ cười tươi Trời xanh thế, (Nụ cười xuân),
hàng cây thơ biết mấy!/ Vườn non sao! Đường cỏ mọng bao nhiêu (Xuân đầu),…
Xuân ko mùa
Xuân Diệu ko chỉ hẹp mùa xuân trong 3 tháng theo quy luật của trời đất, còn
nhìnxuânnhư1ýniệmvềcáiđẹp
Mùa xuân trong mọi thời khắc, mọi vẻ đẹp của đất trời. Khi ấy, cái đẹp chính
mùa xuân.
Con người là chuẩn mực của cái đẹp
- Xuân Diệu hướng đến những chàng trai – cô gái còn đang trẻ tuổi, trẻ lòng.
- Xuân Diệu hẳn 1 thi phẩm đặt nhan đề để thể hiện quan niệm thẩm củaĐẹp
mình: Em đẹp, khi em phồng nét ngực/ Hít ko gian và ngó thẳng trời xa/ Khi cánh tay
đang ôm cả sơn hà/ Chân vút thẳng sắp lên đường vượt trải; Mười chín tuổi! Mặt trời
đang óng ả/ Anh sáng ca, lanh lảnh tiếng đời ngăn/ Bông hạnh cười, mười chín tuổi
than tân/ Gánh nhẹ nhõm trên thân hình măng mọc.
- Thời trẻ thời thanh niên: Thanh niên ơi, người đangcùng ta. Thanh niên mang vẻ
đẹp của xuân thì: “Ôi! Thanh niên! Người mang hết xuân thì/ Hình ngực nở, nụ cười
tươi, màu tóc láng”. Khi mất thời trẻ, mất thanh niên thì cũng nghĩa con người
rơi vào sự đơn: đơn quá, bởi ko còn người nữa, xuân hết nghĩa tôi cũng
mất…
- Con người là thước đo vẻ đẹp của tự nhiên: lá liễu dài như 1 nét mi
Quan niệm thẩm mhướng về cái trẻ đã khiến Xuân Diệu hứng thú với mùa xuân
tuổi trẻ của con người, Cái trẻ chính là cái đẹp.
Quan niệm tình yêu
1. Quan niệm tình yêu cảm xúc tình yêu được thể hiện như thế nào trong thơ
Xuân Diệu? Đâu là nét mới của ông trong địa hạt thơ tình?
2. So sánh thơ viết về tình yêu của Nguyễn Bính thơ viết về tình yêu của Xuân
Diệu để thấy quan niệm thơ của Xuân Diệu?
C. Quan niệm tình yêu
- Nồng độ và cường độ yêu đều vô cùng mãnh liệt.
Đây quan niệm rất mới của XD so với đương thời. Trong hội cái ta giữ vị trí độc
quyền thời trung đại, tình yêu lứa đôi thuộc lĩnh vực cái tôi nhỏ bé, phải giấu kín.
Page | 40
Thơ tình của Xuân Diệu là 1 thứ rượu nồng và mạnh. Thi sĩ tự nhận mình là Kẻ uống tình
yêu dập cả môi, yêu từ khi chưa có tuổi khi chết đi rồi tôi sẽ yêu ma, luôn ko nguôi nỗi
khát thèm tình ái
Lí do tồn tại của Xuân Diệu là tình yêu: Tôi đã yêu khi đã hết tuổi rồi/ Ko xương vóc chỉ
huyền hồ bóng dáng Tôi khờ khạo lắm ngu ngơ lắm/. Tình yêu lẽ sống của Xuân Diệu
Chỉ biết yêu thôi chẳng hiểu gì.
- Yêu là phải công khai, tỏ bày, phải nói to lên tình cảm của mình.
- So sánh 2 bài thơ của Nguyễn Bính của Xuân Diệu:Ngườihàngxóm Phảinói
Đây là 2 thi phẩm thể hiện cách bộc lộ tình yêu riêng của từng thi sĩ
Người hàng xóm Phải nói
- Với Nguyễn Bính, tình yêu
thầm kín, ko nói, chính xác
ko dám nói: cho Nhà nàng
cạnh nhà tôi/ Cách nhau cái
dậu mùng tơi xanh rờn thì cái
dậu mùng tơi chỉ cái cớ để
che đậy sự nhút nhát của nhân
vật trữ tình: Gía đừng dậu
mùng tơi/ Thế nào tôi cũng
sang chơi thăm nàng. Đó cái
giậu mùng tơi mà lòng người tự
đặt ra, 1 giới hạn con người
tự thiết lập. Do đó, tồn tại
như 1 ko gian ngăn trở tình yêu
đôi lứa.
- Nhớ nàng, nhưng chỉ dám hỏi
nhỏ: bướm ơi, bướm hãy vào
đây/ cho tôi hỏi nhỏ câu này
chút thôi.
- Với Xuân Diệu, tình yêu phải
được tỏ bày. Nếu ko tỏ bày thì
tình yêu nghĩa: Yêu tha
thiết , thế vẫn còn chưa đủ/
Nếu em yêu chỉ để trong
lòng/ Ko tỏ hay, yêu mến cũng
là ko.
- Ko chỉ nói 1 lần mà là: Yêu tha
thiết thế vẫn còn chưa đủ/ Phải
nói yêu trăm bận đến nghìn lần.
- Nói yêu bằng nhiều cách, ko
chỉ nói bằng lời bằng tất cả
các giác quan, thậm chí, các
giác quan được phát huy lên
đến đỉnh điểm của sự đắm:
Em phải nói, phải nói, phải
nói/ Bằng lời riêng nơi cuối
mắt đầu mày/ Bằng nét vui,
bằng vẻ thẹn, chiều say/ Bằng
đầu ngả, bằng miệng cười, tay
riết.
Tương tư Tương tư, chiều
Tương được nói bóng nói gió, xa
xôi, phải gửi vào đối tượng thứ ba- 2
miền ko gian xa cách: Thôn Đoài
ngồi nhớ thôn Đông/ Một người chín
nhớ mười mong 1 người, Cau thôn
Đoài nhớ trầu ko thôn nào
Nỗi nhớ được phơi trải 1 cách trực
tiếp, mạnh mẽ. Thi thốt to, kêu to
lên nỗi nhớ da diết của mình.
Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh
nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm! em ơi!
Page | 41
- Nói vòng vo, xa xôi mới đến
được nỗi nhớ của mình: gió
mưa là bệnh của trời/ Tương
là bệnh của tôi yêu nàng
Quan niệm tình yêu
- Tình yêu phải là sự giao cảm tuyệt đối cả về thân thể lẫn tâm hồn
Đây là sự phục hưng trong lí tưởng thẩm mỹ từ những vần thơ tình đầy nhục cảm đã được
khơi lên từ Hồ Xuân Hương. Dòng chảy bên lề của văn học trung đại, giờ được phục
hưng thành dòng chảy chính thống trong Thơ mới. Ngoài Hồ Xuân Hương, tình yêu được
bộc lộ trong thơ trung đại thường mang tính quá mức thanh tao, thuần túy tinh thần. Bởi
với thơ cổ, ngay tình yêu cũng là 1 đề tài cấm kị, chưa nói gì đến tính dục với những khao
khát ái ân. Nguyễn Du khi tả nàng Kiều tắm, chỉ dám viết gợi:
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà/ Dày dày đúc sẵn 1 tòa thiên nhiên.
Nói đến quan hệ ái ân nam nữ, cũng phải che đậy bằng các điển cố điển tích: nói về quan
hệ ái ân giữa Kiều Thúc Sinh: Sớm đào tối mận lân la/ Trước còn trăng gió sau ra đá
vàng./ Miệt mài trong cuộc truy hoan/ Càng quen thuộc nết càng dan díu tình. Nói về
quan hệ thịt trong lầu xanh: Biết bao bướm lả ong lơi/ Cuộc say đầy tháng trận cười
suốt đêm/ Dập dìu lá gió cành chim/ Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.
- Xuân Diệu trong thời đại thức tỉnh ý thức nhân đã mạnh mẽ hơn, đưa những khát
khao nhục dục vào thơ.
- Thơ Xuân Diệu đầy những nụ hôn: Hãy sát đôi đầu, hãy kề đôi ngực/ Hãy trộn nhau
đôi mái tóc ngắn dài/ Những cánh tay! Hãy quấn riết đôi vai/ Hãy dâng cả tình yêu
lên sóng mắt/ Hãy khăng khít những cặp môi gắn chặt; Em vui đi răng nở ánh trăng
rằm/ Anh hút nhụy của mỗi giwof tình tự.
- Xuân Diệu có những vần thơ gợi cảm giác ái ân, được xem là rất táo bạo thời bấy giờ:
Hãy tuôn âu yếm lùa mơn trớn/ Sóng mắt, lời môi, nhiều – thật nhiều Trăng, vú mộng;
đã muôn đời thi sĩ/ Giơ hai tay mơn trớn vẻ tròn đầy Tay ân ái như những làn thân;
thể/ Đã ôm đời vào ngực để mơn ru;...
- Xuân Diệu đã trả tình yêu về với bản nguyên của nó. Cái tôi nhân đã tiến thêm 1
bước.
- Nhưng tình yêu trong thơ Xuân Diệu trần thế chứ ko dung tục, tình yêu của con
người ở giữa cõi đời. Xuân Diệu vẫn giữ thơ trên ranh giới của chủ nghĩa lãng mạn, ko
sa vào sự tụng ca xác thịt như Bích Khê sau này.
- Cái đích cuối cùng Xuân Diệu hướng đến trong tình yêu ko chỉ sự thỏa mãn
những đam nhục dục sự hòa hợp về tâm hồn sự hòa hợp trọn vẹn nhất,
tưởng hạnh phúc tình yêu cao nhất.
- Bởi thế, dẫu đã sát đôi đầu kề đôi ngực, đã trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài, khăng khít
những cặp môi, nhưng Xuân Diệu vẫn thốt lên rằng: Gần thêm nữa thế hãy còn xa
lắm. Thi khao khát 1 sự hòa điệu tâm hồn: Dầu tin tưởng chung 1 đời 1 mộng/ Em
Page | 42
em anh vẫn cứ anh/ thể nào qua Vạn Trường Thành/ Của 2 trụ chứa
đầy bí mật.
- Quan niệm về tình yêu của Xuân Diệu mang tính toàn diện: Nên lúc môi thơm kề
miệng thắm/ Trời ơi, ta muốn uống hồn em khao khát hòa hợp tuyệt đích cả thể xác
lẫn tâm hồn.
- Thơ Xuân Diệu là 1 cuốn từ điển về tình yêu
- Xuân Diệu từng nói: Đặc sản của tôi thơ tình, tôi sẽ lập 1 cuốn từ điển tình yêu
bằng thơ”. Tình yêu thứ tình cảm phong phú, phức tạp, trải qua nhiều thời điểm,
cung bậc.
- tình yêu buổi ban đầu nguyên Buổi ấy lòng tôi nghe ý bạn/ Lần đầu rung động
nỗi thương yêu
- tình yêu nồng nàn, say đắm: Nên lúc môi thơm kề miệng chén/ Trời ơi ta muốn
uống hồn em Lòng ta 1 cơn mưa lũ/ Đã gặp lòng em, lúc khổ đau tuyệt vọng
lá khoai
- những lúc tương vãn: Sương nương theo trăng ngừng lưng trời/ Tương
nâng lòng lên chơi vơi, nỗi nhớ ko kìm được trong lòng phải bật lên thành tiếng:
Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh/ Anh nhớ em. Anh nhớ lắm em ơi.
- Các cung bậc tình yêu ấy tạo nên sự đa dạng trong thế giới thơ tình Xuân Diệu. Nhưng
đa dạng chúng đều thống nhất sự nồng nàn say đắm. Mấy ai say người tình như
Xuân Diệu: ? Mấy ai khát khao tình yêu như XuânSay người như rượu tối tân hôn
Diệu: ,... Mấy ai cầu xin tìnhUống xong lại khát là tình/ Gặp rồi lại nhớ là mình với ta
yêu khẩn khoản thế này: Và hãy yêu tôi 1 giờ cũng đủ/ Một giây cũng cam 1 phút cũng
đành. Mấy ai rồi vẫn còn tha thiết: uống tình yêu đến rập cả môi Yêu tha thiết thế vẫn
còn chưa đủ/ Phải nói yêu đến trăm bận nghìn lần...
- Tình yêu với Xuân Diệu đã trở thành lẽ sống: . TìnhLàm sao sống được ko yêu
yêu là thứ tôn giáo mà nhà thơ tôn thờ.
Cái tôi sầu tủi cô đơn
- Diện mạo của cái tôi cô đơn:
+ Thơ XD 1 hệ thống hình ảnh ý nghĩa biểu tượng cho nỗi đơn: Núi xa, Hi
Lạp Sơn, chiếc đảo, bông hoa trong rừng thẳm, con nai bị chiều đánh lưới, kẻ đi đày,
người kĩ nữa: Em sợ lắm băng tràn mọi nẻ/ Trời đầy trăng lạnh lẽ suốt xương da,...
+ Cái tôi hiện lên đầy thảm hại như 1 kẻ thất tình, bị bủa vây bởi nỗi cô đơn: Lòng ta như
ngựa trẻ ko cương/ Còn ngựa ngất ngây dường diệu viễn, Lòng như chiếc thuyền ko
bến đỗ Cô đơn muôn lần, muôn thủa cô đơn, Ta nằm đây như. Nhà thơ thê thiết kêu than:
1 ải quan xa Trái tim buồn như 1 bãi tha ma, thậm chí: ,...
Cái tôi tình si và cái tôi sầu tủi cô đơn
- Trong Thơ thơ 40% bài thơ xuất hiện chữ tôi, cái tôi nhân được khắc họa
hùng vĩ, tầm vóc, đủ sức mở ra bao chứa vũ trụ.
Cái tôi tình si:
Cái tôi XD được bộc lộ rõ nét và đầy đủ nhất trong tình yêu. Người tình nhân hiện lên
theo đúng nghĩa của 1 người si mê, si cuồng. XD tuyệt đối hóa tình yêu: tình si:
Page | 43
- Tự nhận mình là yêu từ khi chưa có tuổi: Thủa xưa kia là con của mặt trời/ Tôi có lửa
ở trong lòng nắng dội/ Tôi đã yêu từ khi chưa có tuổi/ Lúc chưa sinh vơ vẩn giữa dòng
đời.
- Tự họa mình trong 1 diện mạo đầy quyến rũ: mặt tươi, môi đậm, đầu mây gợn, mắt
mây qua Tay ân ái như những nàn thân thể, đôi tay luôn sẵn sàng ân ái: .
- Thành thực với những sở trường, sở đoản: Tôi khờ dại lắm ngu ngơ quá/ Chỉ biết yêu
thôi chẳng hiểu gì.
- Cái tôi khao khát 1 tình yêu sự hòa hợp tuyệt đối giữa thể xác tâm hồn (xem
phần: thi sĩ của tình yêu)
- Tình yêu được tuyệt đối hóa như lẽ sống cao nhất của XD, như thứ tôn giáo nhà
thơ 1 tín đồ ngoại đạo: Tài năng chi, Danh vọng kể chi/ Kể chi Tiền với 1 kẻ si
mê/ Chỉ thấy nghĩa trong Ái tình vĩnh viễn, Tôi ko biết, ko biết nữa cả/ Chỉ yêu
nhiều là tôi biết mà thôi,...
Cái tôi sầu tủi cô đơn
- Diện mạo của cái tôi cô đơn:
+ Thơ XD 1 hệ thống hình ảnh ý nghĩa biểu tượng cho nỗi đơn: Núi xa, Hi
Lạp Sơn, chiếc đảo, bông hoa trong rừng thẳm, con nai bị chiều đánh lưới, kẻ đi đày,
người kĩ nữa: Em sợ lắm băng tràn mọi nẻ/ Trời đầy trăng lạnh lẽ suốt xương da,...
+ Cái tôi hiện lên đầy thảm hại như 1 kẻ thất tình, bị bủa vây bởi nỗi cô đơn: Lòng ta như
ngựa trẻ ko cương/ Còn ngựa ngất ngây dường diệu viễn, Lòng như chiếc thuyền ko
bến đỗ Cô đơn muôn lần, muôn thủa cô đơn, Ta nằm đây như. Nhà thơ thê thiết kêu than:
1 ải quan xa Trái tim buồn như 1 bãi tha ma, thậm chí: ,...
- Lí giải sự cô đơn trong cái tôi của XD:
+ Cái tôi XD mang ý thức cao về bản thể và khao khát được khẳng định mình. Trong tình
yêu, nó nồng nhiệt, cuồng si. Nhưng chỉ gặp sự ruồng rẫy, phụ tình của người đời. Trong
tinh yêu Xuân Diệu nên càng cuồng nhiệt đamcho nhiều nhưng nhận chẳng bao nhiêu
thì càng gặp sự lạnh lẽo hững hờ: Lòng anh 1 cơn mưa lũ/ Đã gặp lòng em
khoai, Người si muôn kiếp là hoa núi/ Uống nhụy lòng tươi tặng khách hờ. XD cũng hiểu
được điều đó tự trách mình khờ dại: Người ta khổ thương ko phải cách/ Yêu sai
duyên mến chẳng nhằm người/ kho vàng nhưng chẳng tặng tùy nơi/ Người ta khổ
vì xin ko phải chỗ.
+ Cũngthể lí giải sựđơn trong cái tôi XD từ cấu trúc thân thể đặc biệt của ông. Là
1 người đồng tính, XD luôn mang mặc cảm bị đồng loại xa lánh, rời bỏ. Sự đơn của
XD thế cội nguồn từ cái của mình của Đỗ Lai Thúy) mặc cảm thiểu số Chớ để
riêng em phải gặp lòng em, Tôi mội mình đối diện với tình ko,..
NHẬN XÉT:
- Những chặng đầu, nỗi cô đơn tuy đã xuất hiện nhưng chưa trở thành ám ảnh. Càng về
sau, XD càng cảm nhận sâu sắc nỗi cô đơn.
Page | 44
- Tuy nhiên, sựđơn trong thơ XD chưa phải đã đến mức quằn quại, da diết như Hàn
Mặc Tử, Hoàng Chương, Đinh Hùng sau này. Bởi Thơ mới lúc ấy vẫn còn tìm
được sự đồng vọng ở tầng lớp độc giả đô thị trẻ tuổi, chứ chưa rơi vào trạng thái tuyệt
vọng, bế tắc.
XD càng tình si thì càng cô đơn, càng đơn thì càng khao khát tình yêu. Cái tôi tình
si và cái tôi sầu tủi cô đơn, do đó, là 2 mặt của cái tôi trữ tình XD.
2. NGHỆ THUẬT
2.1. Ngôn từ
Hai loại từ xuất hiện chủ yếu trong thơ XD là động từ và từ láy.
- XD thường sử dụng những động từ diễn tả cảm giác mạnh bạo, quyết liệt: ôm, riết,
say, thâu, cắn, hút, bấu, uống, ngoàm,...để biểu thị sự ham hố vô biên cuộc sống.
- Từ láy được sử dụng nhiều XD nhà thơ của cảm giác, của những rung động tinh
vi: ngẩn ngơ, chon von, run rẩy, lung linh,...
Mây biếc về đâu bay gấpgấp
Con cò trên ruộng cánh phânvân
Lạchàdữcôlộtềphi
Thuthủycộngtrườngthiênnhấtsắc
(VươngBột)
Mộtnghìnnăm–Haithếgiới
- Cách tổ chức lời thơ: thơ XD phát huy triệt để việc tổ chức lời thơ dưới dạng thơ trữ
tình điệu nói.
- Ngôn ngữ thơ giàu chất nhạc: Huyền diệu, Nguyệt cầm, Nhị hồ,...
- Ngôn ngữ giàu tính biểu tượng
Thơ XD đầy những biểu tượng của sự sống: xuân, thu, trăng, chim, bướm, hoa, gió,
vườn,...
2.2. Giọng thơ
- Thơ XD sự hòa phối của nhiều giọng điệu, nhưng chủ âm giọng cuồng nhiệt, gấp
gáp, tiêu biểu là các bài: , , , ,...Vội vàng Xa cách Phải nói Giục giã
2.3. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, bút pháp tương giao (dấu ấn của thơ
tượng trưng)
- Điển hình trong bài , XD đã tìm đến thủ pháp chuyển đổi cảm giác để tạo nên 1Huyền diệu
ko gian đầy âm nhạc, ánh sáng, màu sắc, hương thơm:
- Bài thơ 1 lâu đài kiến trúc thượng tầng đầy âm vang âm hưởng chủ đạo của
cảm hứng về sự tương ứng giữa các giác quan” (Nguyễn Lệ Hà)
- 4 khổ thơ, mỗi khổ là 1 khúc nhạc với sự chuyển điệu tinh vi: Này lắng nghe em khúc nhạc
thơm; Hãy uống thơ tan trong khúc nhạc/ Ngọt ngào kêu gọi thủa xa khơi, khúc nhạc hưởng,
Ngừng i thở lại em trong ấy/ Hiển hiện hoa phảng phất hương . Một bản đàn (thính
giác) được diễn tả bằng (khứu giác), (thị giác)thơm hưởng
Page | 45
(Đọc: “Tương ứng” – Charles baudelaire)
NGUYỄN BÍNH
I. Tiểu sử và con người
1. Tiểu sử
- Nguyễn Bính sinh năm 1918, tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính tại xóm Trạm, thôn
Thiện Vịnh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định trong 1 gia đình nhà Nho nghèo.
Ảnh hưởng đến con đường văn chương; giấc mơ quan trạng.
- Ảnh hưởng từ Nho học của Nguyễn Bính đậm hơn (nhóm Áo bào gốc liễu)
- Hoài Nam: “Áo bào gốc liễu” lại xuất hiện, như 1 nghịch phách, qua thơ Nguyễn Bính
– đặc biệt là qua thơ của Thâm Tâm, Trần Huyền Trân – và khiến người ta phải chú ý.
Chú ý vì cái dư vị cổ kính mà các tác giả đó đã tạo được qua thể “ca”, “hành” mượn từ
cổ thi. Chú ý giọng điệu ngang tàng phẫn hận trong lời thơ, 1 giọng điệu quả
thực ko mấy phổ biến trong Thơ Mới.
- “Hỡi ơi, Nhiếp Chính băm mặt/ Giữa chợ ai người khóc nhận thây?/ Kinh Kha
quán lạnh sầu nghiêng chén/ Ai kẻ dâng vàng, ai biếu tay?/ Áp Tiết thiêu văn
tự/ Giày cỏ, gươm cùn, ta đi đây!” (Hành phương Nam)
- Mồ côi mẹ từ sớm. Cha Nguyễn Đạo Bình, làm nghề dạy học, mẹ Bùi Thị
Miện, con gái ruột gia đình khá giả.
+ ông sinh được 3 người con trai Nguyễn Mạnh Phác (Trúc Đường), Nguyễn
Ngọc Thụ và Nguyễn Bính.
+ Miện bị rắn độc cắn rồi mất năm 1918, lúc đó mới 24 tuổi, để lại cho ông
Bình ba đứa con thơ, khi đó Nguyễn Mạnh Phác mới 6 tuổi, Nguyễn Ngọc Thụ 3 tuổi
và Nguyễn Bính mới sinh được 3 tháng. Đúng như câu thơ Nguyễn Bính viết: Còn tôi
sống sót là may/ Mẹ hiền mất sớm giời đày làm thơ.
+ Khi mới 13, 14 tuổi, Nguyễn Bính đã phải rời quê theo anh cả ra Đông kiếm
sống.
Mặc cảm côi cút, cô đơn.
- Quê hương: nghèo, nhưng đẹp
Gương mặt thôn Vân trở đi trở lại như 1 thiên đường trong thơ Nguyễn Bính.
Quê NB làng Thiện Vịnh, quang cảnh tiêu điều, ảm đạm, nheo nhóc (Tô Hoài), nhưng
hình bóng trong thơ lại tươi sáng, thơ mộng, thi vị. ông cònthứ làng quê thứ 2 ông
gắn bó, yêu quý, sống ở đó lâu ngày: thôn Vân.
- Học vấn: vốn chữ nghĩa ít ỏi, học theo lối truyền khẩu ở nhà Nguyễn Bính làm thơ
theo bản năng, chất thuần Việt càng được khắc sâu.
Học trò trường huyện ngày năm ấy
Anh tuổi bằng em lớp tuổi thơ
Những buổi học về ko có nón
Page | 46
Đội đầu chung 1 lá sen tơ
Lá sen vương vấn hương sen ngát
Ấp ủ hai ta chút nhụy hờ
Lũ bướm tưởng hoa cài mái tóc
Theo về tận cửa mới tan mơ.
Em đi, phố huyện tiêu điều lắm
Trường huyện giờ xây kiểu khác rồi
Mà đến hôm nay anh mới biết
Tình ta như chuyện bướm xa thôi. (Trường huyện)
- Đường đời:
+ Nguyễn Bính làm thơ sớm, từ năm 13 14 tuổi, đến năm 1937, tập t Tâm hồn tôi
được giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn.
+ Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Nguyễn Bính tham gia kháng chiến ở Nam Bộ. Ban
đầu, phụ trách văn hóa cứu quốc ở tỉnh Rạch Giá, sau chuyển về cơ quan Văn nghệ kháng
chiến khu VIII
+ 1954, Nguyễn Bính tập kết ra Bắc, rồi về công tác ở Hội Nhà văn VN. 1956, chủ trương
báo Trăm Hoa. 1958, báo Trăm Hoa giải thể, văn nghệ chỉnh huấn đi thực tế dài
ngày ở các địa phương sau vụ án , ông về cư trú công tác tại Ty VănNhân Văn Giai Phẩm
hóa Thông tin Nam Định
- Nguyễn Bính mất đột ngột cuối năm Ất Tỵ (1966), giữa lúc đến nhà bạn dự lễ Tết.
(ngày 20/1/1966 nhằm ngày 29 tháng chạp âm lịch (Tết năm ấy ko có ngày 30).
- Năm 2000, ông được truy tặng giải thưởng HCM về Văn học Nghệ thuật đợt II
2. Con người.
- Nguyễn Bínhnhà thơ gắn bó sâu nặng với thôn quê : tuy ko sinh ra trong 1 gia đình
nông dân, làm rộng, nhưng sống gia truyền nông thôn nên ông đã tiếp thu trọn vẹn
tinh hoa của nền văn hóa xóm làng. Chất thôn quê đã thấm vào hồn thơ Nguyễn Bính,
tạo nên sự gắn bó sâu nặng giữa nhà thơ với thôn quê.
- Nguyễn Bính con người độc, yêu nhiều si nhưng luôn đơn trong tình
yêu. Con gái Nguyễn Bính Nguyễn Bích Hồng Cầu nói: “Hồi nhỏ tôi cũng giận
ba tôi lắm. Nhưng lớn lên trìm hiểu, tôi vỡ lẽ, đời ba tôi bất hạnh nhiều. Nhiều vợ
nhưng ko ai hiểu ông. ông cứ phải đi tìm cái bóng hạnh phúc cho đến khi nhắm
mất xuôi tay vào đêm giao thừa năm 1966”.
Kiêng nhất đừng lấy chồng thi sĩ
Nghèo lắm con ơi bạc lắm con
- Nguyễn Bínhnhà thơ thích dịch giang hồ . 2 loạidịch: phiêu lưu (tìm thấy
chất thơ của sự bất trắc Nguyễn Tuân), bất đắc (bị ném vào giang hồ - dấn thân
vào giang hồ nhưng luôn ái ngại). Nguyễn bính luôn băn khoăn về nơi đễn như thế
Page | 47
nào: dấn thân vào giang hồ nhưng luôn băn khoăn về sự giang hồ của mình – gốc tiểu
nông.
- Nguyễn Bính đi nhiều nơi nhưng ko nơi nào thật lâu . Mỗi chuyến đi đều mang đến
cho ông 1 nguồn cảm hứng thi ca dồi dào. Những tập thơ Nguyễn Bính trước Cách
mạng phần lớn được làm trong những chuyến xê dịch giang hồ. Nguyễn Bính làm thơ
về quê ngay khi thành thị. Càng về sau, dấu ấn của những chuyễn dịch giang hồ
trong thơ Nguyễn Bính càng đậm nét.
II. Qúa trình sáng tác
- 7 tập thơ: “Lỡ bước sang ngang”, “Tâm hồn tôi”, “12 bến nước và mây tầng”...
- 2 tiểu thuyết
NB sáng tác khá nhiều, đều đặn trên các thể loại nhưng nhiều nhất thơ. Nhà phê
bình Đỗ Lai Thúy: có thể thấy cấu trúc cảm hứng trong toàn bộ sáng tác của ông. VD:
tập tâm hồn của 1 thanh niên nông thôn, ko gian của nông thôn kotâm hồn tôi
gian của bao la bát ngát, ko gian của đô thị ko gian 1000 cửa sổ... NB luôn về
quê cũ: Phương nao kết giải mây tần cho ta...
Cấu trúc thơ NB chính dời bỏ quê hương để tha hương nhưng lại luôn luôn khắc
khoải mối hoài hương.
III. Thơ Nguyễn Bính trước CM
Về nội dung – tư tưởng
1. Nguyễn Bính là nhà thơ chân quê:
- Nguyễn Bính là người bảo lưu, gìn giữ những giá trị quê – những giá trị bền vững của
đời sống thôn quê, gồm cả giá trị vật chất tinh thần. Giá trị quê hình thành những
cảnh sắc quê, tập tục quê, nếp sống quê, cách cảm, cách nghĩ, nét đẹp tâm hồn của con
người quê.
- Nguyễn Bính nói về quê xưa bằng niềm hân hoan, tự hào ko che giấu
- cảnh sắc quê: những cảnh sắc đặc trưng của thôn miền quê kiểng:
+ Cảnh sắc trong thơ Nguyễn Bính trước hết thuộc về ko gian của làng, thôn, ao, hồ, vườn
tược, bến đò, con đê,... những ko gian đặc thù của chốn quê: Sáng giăng chia nửa vườn chè/
Một gian nhà nhỏ đi về có nhau Hôm nay dưới bến xuôi đò/ Thương nhau qua (Thời trước),
cửa nhìn nhau Hôm qua em đi tỉnh về/ Đợi em mãi con đê đầu làng (Không đề),
(Chân quê), (Lỡ bước sang ngang),Em ơi em ở lại nhà/ Vườn dâu em đốn mẹ già em thương
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/ Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn (Người hàng xóm),...
+ Cảnh sắc tươi sáng, thơ mộng, thi vị:
Qua giậu tầm xuân thấy bướm nhiều/ Bướm vàng vàng quá bướm yêu yêu/ Em
sang bắt bướm vườn anh mãi/ Quên cả làng Ngang động trống chèo (Hết bướm
vàng)
Cành dâu cao lá dâu cao/ Lênh đênh bóng bướm trôi vào mắt em
Dừng chân trước cửa nhà nàng/ Thấy hoa vàng với bướm vàng hôn nhau
Thong thả dân gian nghỉ việc đồng/ Lúa thì con gái mượt như nhung/ Đầy vườn
hoa bưởi hoa cam rụng/ Ngào ngạt hương bay bướm vẽ vòng (Xuân về)
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/ Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy (Mưa xuân
Nguyễn Bính)
Page | 48
Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời
(Mưa xuân – Nguyễn Bính)
Thôn Vân:
Thôn Vân biếc hồng/ Hồng trong nắng sớm biếc trong vườn chiều/ Đê
cao có đất thả diều/ giờ cao lăm lắm nhiều chim bay/ Quả lành nặng chĩu từng
cây/ Sen đầy ao cá đầy áo sen/ Hiu hiu gió quạt trăng đèn/ Với dăm trẻ nhỏ thả
thuyền ta chơi/ Ăn gỏi cá, đánh cờ người/ Thần tiên riêng 1 góc trời thôn Vân (Anh
về quê cũ),…
Ở đây số những trời xanh/ Và một con sông chảy rất lành/ Và những tâm
hồn nghe rất đẹp/ Từng chung sống dưới mái nhà tranh/ Sao chẳng về đây múc
nước sông/ Tưới cho những luống hoa hồng/ Xuân sang hoa nụ rồi hoa nở/
Cánh bướm vờn hoa loạn phấn hương/ Sao chẳng về đây có bạn hiền/ Có hương có
sắc có thiên nhiên/ Sống vào giản dị ra tươi sáng/ Tìm thấy trong lòng 1 cảnh tiên
Không gian quê của Nguyễn Bính được lãng mạn thi vị hóa. Đó không gian trong tâm
tưởng, hiện lên như 1 miền cổ tích, chốn hoài niệm tươi đẹp khi nhà thơ đang trên bước
đường lưu lạc giang hồ Thiên đường chân quê trong thơ Nguyễn Bính.
- Nếp sống, nếp cảm, nếp nghĩ:
+ Cách bộc lộ tình cảm kín đáo:
Bà mẹ trong động viên, mắng yêu con trước khi về nhà chồng:Lòng mẹ
Gái lớn ai không phải lấy chồng/ Can gì mà khóc nín đi không/ Nín đi mặc áo
ra chào họ/ quý con tôi các chị trông/ ương ương dở dở quá đi thôi/ còn
thương đến chúng tôi/ Thì đứng lên nào lau nước mắt/ Mình làm khổ mấy mươi
người/ Này áo đồng lầm quần lĩnh tía/ Này gương này lược này hoa tai/ Muốn tôi
sắm cho cô đủ/ Nào có thua ai có kém ai
…Đưa con ra đến cửa buồng thôi/ Mẹ phải xa con khổ mấy mươi/ Con ạ! Đêm
nay mình mẹ khóc/ Đêm đêm mình mẹ lại đưa thoi,…
So sánh hình tượng gái quê trong thơ Hàn Mặc Tử và thơ Nguyễn Bính (tập trung vào
các bài: Nụ cười, Gái quê của Hàn Mặc Tử Mưa xuân, Người hàng xóm của
Nguyễn Bính)
Tiếng ca ngắt – Cành lá rung rinh
1 nường con gái trông xinh xinh
Ống quần vo xắn lên đầu gối
Da thịt, trời ơi! Trắng rợn mìnhi
Xuân trẻ, xuân non, xuân lịch sự
Tôi đều nhận thấy trên môi em
Làn môi mong mỏng tươi như máu
Đã khiến môi tôi mấp máy thèm
Cô thôn nữ của Nguyễn Bính mang vẻ đẹp của sự thuần khiết, trong trắng, e ấp, kín
đáo, như 1 thứ hoa thơm còn phong nhụy: Em con gái trong khung cửi/ Dệt lụa
Page | 49
quanh năm với mẹ già/ Lòng trẻ con như cây lụa trắng/ Mẹ già chưa bán chợ làng
xa,
Sống lặng lẽ Chả bao githấy nàng cười/ Nàng hong ướt ra mái nhà hiên/ Mắt
nàng đăm đắm trông lên/ Con bươm bướm trắng về bên ấy rồi
Nhận xét:
Thơ NB nói nhiều về cảnh sắc, phong tục, nếp sống quê, nhưng nói về điều NB cũng
gọi dậy hồn quê (khác Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân: nhìn quê từ bên ngoài. NB nói
về quê bằng cách gọi dậy hồn vía quê hương).
Thơ NB đã bảo lưu trọn vẹn chân ảnh của thôn quê, thứ thôn quê mang vẻ đẹp thuần phác,
nguyên sơ, chưa nhuốm vết bụi thị thành. Hai chữ do đó nói về nguồn gốc, ngọnchânquê
nguồn chưa bị pha tạp, biến chất, đổi thay. Còn giữ được sự thuần phác ấy, NB còn sự
tự hào, hân hoan. Mất đi sự thuần phác ấy, NB trở nên sầu tủi.
Lo âu buồn sầu về quê nay:
- được coi như 1 tuyên ngôn nghệ thuật của NB: tứ thơ: gái từ quê ra tỉnh, khiChân quê
về, hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.
Quan niệm thấm nhuần vào hình tượng thơ: cuộc xâm lăng của đô thị được hình tượng hóa
bằng 1 gái quê ra tỉnh rồi trở về trong sự đổi khác: Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng/ Áo
cài khuy bấm em làm khổ tôi. Khuy bấm: sản phẩm của văn minh phương Tây. Bài thơ khép
lại trong nỗi tiếc nuối bâng khuâng về sự thực nhỡn tiền đang diễn ra trước mắt, ko thể đổi
thay: đau xót về sự phôi phaHôm qua em đi tỉnh về/ Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều
của chất đồng nội.
- Các cặp đối lập: quê – tỉnh, nông thôn – thành thị, truyền thống – hiện đại.
- Thể hiện khát vọng bảo lưu chất chân quê trong tâm hồn mỗi người: Hoa chanh nở giữa
vườn tranh/ Thầy u mình với chúng mình chân quê (lấy thầy u – hiện thân của truyền thống –
để làm chuẩn cho hiện tại)
- Van xin: Van em, em hãy giữ nguyên quê mùa
- giữ nguyên: khát vọng làm cho chất quê trở nên nguyên vẹn, ko pha tạp. Nhưng ngay trong
lời van này đã ngầm báo hiệu 1 sự bất lực, sự cầu xin của kẻ yếu, ko thể chủ động, ko thể
quyết định.
- 1 mặt cho thấy mỹ cảm của NB hướng về 1 thứ quê thuần khiết, nhưng mặt khác, cũng
ngầm báo hiệu sự thất bại trong việc bảo lưu sự sự thuần khiết ấy của quê hương.
quê nay: đã bị phôi pha hương nhụy, do đó, buồn sầu, đau xót.
Liên hệ:
Đồng Đức Bốn: Biết bao là thứ bùa mê/ Cũng ko bằng được nhà quê của mình/ Câu thơ nấp
ở sân đình/ Nhuộm trăng trăng sáng nhuộm tình tình đau.
Page | 50
Phạm Công Trứ: : Lời thề cỏ may Thủa ấy tôi mới lên mười/ Còn em lên bảy theo tôi cả ngày/
Quần em dệt kín bông may/ Áo tôi đứt cúc mực dây tím bầm/ Tuổi thơ chân đất đầu trần/ Từ
trong bùn đất em thầm lớn lên/ Bây giờ xinh đẹp là em/ Em ra thành phố dần quên 1 thời/ Về
quê ăn Tết vừa rồi/ Em tôi áo chẽn em tôi quần bò/ Gặp tôi em hỏi hững hờ/ Anh chưa lấy vợ
anh còn chờ ai/ Em đi để lại chuỗi cười/ Trong tôi vỡ 1 khoảng trời pha lê/ Trăng vàng đêm
ấy bờ đê/ Có người ngồi gỡ lời thề cỏ may.
Nhận xét:
- Thời nào cũng Nguyễn Bính của mình. Thời nào cũng tâm sự Nguyễn Bính: đó
nỗi lo âu, phấp phỏng trước sự phôi pha những giá trị muôn đời của thôn quê trong thì
hiện tại. Chân quê đối tượng thẩm mỹ lớn, tưởng của Nguyễn Bính. Nhưng ngầm ẩn
trong một sự báo hiệu cho bi kịch về sự đổi thay, về chất thuần quê bị pha tạp, chất
chân quê bị phá vỡ.
- Nguyễn Bính không phải là nhà thơ của những xác tín kiên định mà là nhà thơ của nỗi phấp
phỏng âu lo.
Sự biện chứng của hai tình điệu cảm xúc: hân hoan cách nói khác của nỗi buồn sầu, lo
âu.
- Nguyễn Bính, chân quê còn được hiểu luôn lấy quê làm tâm điểm, làm hệ quy
chiếu để đo đếm, định giá mọi giá trị. Khi ấy, Nguyễn Bính thể rời xa không gian quê,
con người quê để đến với những miền không gian khác, con người khác, nhưng chất chân
quê không mất đi trở thành 1 nỗi khắc khoải day dứt lớn. lấy quê làm hệ quy chiếu,
luôn khắc khoải về quê, day dứt đã bỏ quê, nên dù, Nguyễn Bính viết về đô thị hay
những chuyến xe dịch giang hồ, dù thơ Nguyễn Bính không ít lần xuất hiện gương mặt kinh
thành thì vẫn không thể được coi là thi của đô thị. Nguyễn Bính, muôn đời mãi mãi,
thi chân quê. Thơ cuộc đời ràng buộc nhà thơ. Trước, sau mãi mãi NB vẫn nhà
thơ của tình quê, chân quê hồn quê(Tô Hoài Lời giới thiệu Tuyển tập Nguyễn Bính,
Nxb Văn học 1986).
- Gương mặt đô thị trong thơ NB:
+ Quê người:
Trôi dạt dám mong gì vấn vít/ Sòng đời thua nhẵn cả thơ ngây/ Tỉ tê gợi tới niềm tâm sự/ Cúi
mặt soi gương chén rượu đầy.
Giời mưa ở Huế:
Giời mưa ở Huế sao buồn thế!
Cứ kéo dài ra đến mấy ngày
Thềm cũ nôn nao đàn kiến đói
Giời mờ ngao ngán một loài mây
Page | 51
Trường Tiền vắng ngắt người qua lại
Đập Đá mênh mang bến nước đầy
Đò vắng khách chơi nằm bát úp
Thu về lại giở gió heo may…
Hàng xóm có người con gái lẻ
Ý chừng duyên nợ với nhau đây
Chao ôi! Ba bốn tao ân ái
Đã đủ tan tành một kiếp trai.
Tôi rờn rợn lắm giai nhân ạ!
Đành phụ nhau thôi, kẻo đến ngày
Khăn gói gió đưa sang xứ lạ
Ai cười cho được lúc chia tay?
Nhận xét:
- Quê được nhìn trong sự xâm lăng của đô thị 1 đóng góp lớn của NB. Nếu quê của
Anh Thơ, Bàng Lân, Đoàn Văn Cừ thứ quê tĩnh tại thì quê của Nguyễn Bính
thứ quê rất động. Bởi chỉ NB là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước
cuộc xâm lăng của đô thị. Thơ NB là sự thương nhớ, khắc khoải, âu lo về sự phôi pha
của quê hương. Nói cách khác, thơ Nguyễn Bính là “thơ về sự thay đổi của cái dường
như ko thể đổi thay”. (Cả Xuân Diệu và Nguyễn Bính đều nhạy cảm, âu lo với sự phôi
pha, nhưng Xuân Diệu âu lo về cái tất yếu sẽ đổi thay (thời gian, tuổi trẻ), còn Nguyễn
Bính sự âu lo về cái không thể đổi thay hội nông thôn Việt Nam ngàn đời bất
di bất dịch sau lũy tre làng).
- Đỗ Lai Thúy. . Nxb giáo dục. H,1997Con mắt thơ
2. Nguyễn Bính là nhà thơ của những bi kịch lỡ dở:
A) Tình duyên lỡ làng
- Cái tôi trữ tình:
+ Cái tôi NB tìm về tình yêu, nhưng chỉ gặp dở dang, phụ phàng, chỉ gặp những thứ tình bèo
bọt: Nàng bèo bọt quá em lăn lóc/ Chắp nối nhau hoài cũng uổng công/ (Một trăm con gái
đời nay ấy/ Đừng nói ân tình với thủy chung), Một chút công danh rất hão huyền/ dang
dở nữa cuộc tình duyên. Chị ơi tết đến em mua rượu/ Em uống cho say đến não nùng/ Uống
say cười vỡ ba gian gác/ Ném cái chung tình xuống đáy sông (Xuân tha hương).
Page | 52
+ Con đường công danh phải được lập bằng khoa cử đỗ đạt. Những hình ảnh quan trạng,
thám hoa, là những hình ảnh mơ ước của Nguyễn Bính. Cả đời, Nguyễn Bính khắc khoải với
giấc mơ quan trạng.
+ Cái tôi mơ được sống trong cuộc đời tựa như trong thế giới truyện Nôm, nhưng thế giới ấy
chỉ còn trong thời trước. Thời đó vĩnh viễn đi qua không trở lại: Khoa cử bỏ rồi thôi hết
trạng/ Giờ đem hoa cỏ giả vườn tiên, Lỡ duyên búi tóc củ hành/ Trường thi Nam Định biến
thành trường bay. Cổ tích truyện Nôm tan vỡ trước sự xâm lăng của lối sống mới, của thế
giới đô thị. Giấc quan trạng 1 thứ chìa khóa để mở vào cuộc đời giờ đây thành
vọng.
+ Cái tôi NB 1 quan niệm về thân thế cuộc đời theo khuôn mẫu truyền thống của 1 thôn
dân nho sinh. Hạnh phúc gắn liền với công danh, phải được xây dựng trên sự thành đạt về
công danh. Giấcanh lái đò: Tưng bừng vua mở khoa thi/ Anh đỗ quan trạng vinh quy về
làng/ Võng anh đi trước võng làng/ Cả 2 chiếc võng cùng sang 1 đò. Nếu công danh không
đến thì anh lái đò cũng không còn đến hạnh phúc đã mong muốn: Con sông 2 bờ/
Tôi chưa đỗ trạng thôi cô lại nhà Thời trước. Trong bài , Nguyễn Bính đã mượn lời người vợ
để nói quan niệm hạnh phúc: tằm tôi phải chạy dâu/ chồng tôi phải dầu hao bắc
gầy/ Chồng tôi thi đỗ khoa này/ công đèn sách từ ngày lấy tôi. Khi công danh của người
chồng thành đạt thì hạnh phúc đến với họmãn nguyện: Đêm nay mới thật đêm/ Ai đem
giăng sáng giãi lên vườn chè.
3. Giọng điệu
- Giọng than: than vãn, kể lể, trầm trọng hóa, nặng nề hóa nỗi khổ: Hai tay ôm vào lòng/
Than ôi chiếc lá cuối cùng là đây, Bao nhiêu ân ái thế thôi/ bấy nhiêu oan nghiệt hỡi
trời, Nhưng mộng mà thôi mộng mất thôi/ Hoa thứa rượu ế ấy tình tôi,…
- Điệu ghẹo: Cái ngày cô chưa lấy chồng/ Đường gần tôi cứ đi vòng cho xa, Biết đâu rồi chả
nói chòng/ Làng mình khối đứa phải lòng mình đây
- Hệ quả: lối nói lấp lửng vòng vo
Mang đậm chất dân gian
HÀN MẶC TỬ
I. Tiểu sử - con người
1. Tiểu sử
- :Quê hương và gia đình
Quêhương:QuêởLệMỹ,ĐồngHới,QuảngBình
+ Quê hương và các không gian sống: miền Trung: quê gốc Thanh Hóa (Bắc miền Trung),
cụ HMT họ Phạm, bị triều đình truy bức, phải rời quê hương bản quán và cải họ theo triều
đình nên đã đổi sang họ Nguyễn, đổi từ Thanh Hóa đến sống ở Thừa Thiên Huế.
Page | 53
+ Hồi nhỏ sống ở Quy Nhơ, từ khi 5 tuổi đến khi học tiểu học (1920 – do công việc của
người cha phải di chuyển nhiều nơi nên mãi đến 1920 khi cha dừng lại ở Sa Kỳ - Quảng
Ngãi, HMT mới học tiểu học) HMT sống ở gần động cát, chợ Chua Me, Quảng Ngãi.
Đông cát là một dạng sa mạc thu nhỏ, khi có ánh sáng thì rực rỡ, khi ánh sáng tắt thì ma
quái, như 1 cõi liêu trai không gian này vừa hấp dẫn, vừa dễ sợ, vừa thần tiên, vừa ma
quái, ảnh hưởng đến càm quan thiên nhiên của HMT sau này.
+ HMT chỉ có khoảng thời gian ngắn sống ở Sài Gòn: làm báo, chưa đủ để trở thành một
quãng đời riêng.
+ Thôn Vĩ Dạ là nơi HMT lui tới khi học Trung học, gắn với Hoàng Cúc: HMT theo thiên
chúa, Kim Cúc theo Phật giáo.
+ Phần đời đau thương nhất của HMT gắn với Bình Định: yêu, thất tình, bệnh tật
Cuộc đời HMT gắn bó trọn vẹn với dải đất miền Trung, kết tinh của văn hóa miền Trung.
Gia đình: sinh ra trong một gia đình Nho giáo và Thiên Chúa giáo.
+ Nho giáo: cách đặt tên con cái: Nguyễn Bá Nhân (1), Nguyễn Thị Như Nghĩa (2), Nguyễn
Thị Như Lễ (3), Nguyễn Trọng Trí (4), Nguyễn Trọng Tín (5). Chú ý ảnh hưởng của chị Lễ
với HMT, cũng như ảnh hưởng của chị Thế với Thạch Lam (nguyên mẫu để TL viết HĐT).
+ Việc học chữ Nho ảnh hưởng đến chất tượng trưng trong thơ HMT, dấu ấn của Thiên Chúa
giáo cũng in dấu đậm nét trong thơ Hàn, hình thành nên khao khát luôn hướng đến đức tin và
những giá trị tuyệt đối.
Học vấn: học cả chữ Nho (liên quan đến chất tượng trưng), tiếp cận thơ Pháp (liên
quan đến sự đổi mới thơ ca)
+ Thế hệ nhà văn như HMT được giới nhân văn Sài Gòn cũ gọi là thế hệ 32, đặc điểm:
Học vấn nhà trường ít, nhưng tài năng văn chương cao (ít học tài cao). Tô Hoài viết Dế mèn
phiêu lưu kí lúc trình độ lớp 4 (< bậc thành chung), Nguyễn Bính chưa đến trường buổi nào
(bài thơ học trò trường huyện là nhập vai, mơ ước không thành). HMT: học hết trung học
(hết thành chung).
Trong lĩnh vực sáng tạo, học vấn và tài năng không đồng hành cùng nghệ thuật.
+ Tuy học vấn xuất phát điểm thấp, nhưng có tinh thần tự học cao. Điển hình Nguyễn Tuân:
bỏ dở thành chung uyên bác, Xuân Diệu: tốt nghiệp tú tài viện sĩ.
+ HMT: học vấn nhà trường không cao, lúc học thành chung được giới thiệu học bổng du
học Pháp, nhưng bị gạch tên vì bị coi là đối tượng nguy hiểm, (do có liên hệ với Phan Bội
Châu). Nhưng HMT làm thơ được bằng tiếng Pháp, làm thơ tài hoa (làm được thơ theo lối
thuận nghịch độc, lục chuyển hồi văn) HMT học không cao nhưng vốn học vấn rất chắc
chắn
Bút danh: Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử?
Page | 54
+ Hàn Mạc Tử: Phạm Xuân Tuyền khẳng định bút danh Hàn Mặc Tử vì đây là bút danh
được dùng nhiều (Phạm Xuân Tuyền say mê HMT, từng tự đặt bút danh là Huyền Diệp Tử).
+ Hàn Mặc Tử: cũng được sử dụng nhiều (hai bút danh được sử dụng nhiều tương đương
như nhau)
Căn cứ vào:
+ Người thân của Hàn: Nguyễn Như Lễ, Nguyễn Bá Tín dùng Hàn Mặc Tử: Hàn Mặc Tử
anh tôi, Hàn Mặc Tử trong riêng tư.
+ Những người bạn thân được Hàn ủy nhiệm hoàn toàn sáng tác của mình: Chế Lan Viên,
Quách Tấn đều dùng Hàn Mặc Tử. Chế Lan Viên trả lười Võ Long Tê khi Võ Long Tê nói
Hàn Mặc Tử không hay, Hàn Mạc Tử mới hay: “Anh luận về Hàn Mạc Tử rất hay nhưng
chúng tôi vẫn gọi Hàn Mặc Tử là Hàn Mặc Tử)
+ Theo Quách Tuấn khi còn sống HMT rất nhiều bút danh:
Lệ Thanh: Lệ Mĩ + Thanh Phong (Nguyễn Tuân có bút danh Thanh Hà: Thanh Hóa +
HN); cũng có nghĩa là dòng lệ thanh khiết.
Phong Trần
Minh Duệ Thị
Trật Sên (tuột xích, sên tiếng miền nam là xích), bút danh khi viết báo, nghịch ngợm.
Hàn Mạc Tử
Hàn Mặc Tử
Lúc đầu Hàn lấy bút danh là Hàn Mạc Tử: người đứng trong bức rèm lạnh.
Theo Quách Tấn trong “Đôi nét về Hàn Mặc Tử” (1988): “Hàn Mạc là bức rèm lạnh.
Tử cho là độc đáo, tìm đến khoe cùng tôi (…). Tôi đáp: - Đã có rèm thì thêm bóng
trăng vào. Hỏi còn cách nào nên thơ cho bằng? Tử hội ý, cầm bút vạch vành trăng non
lên đầu chữ A của chữ Mạc, thành Hàn Mặc Tử (…). Mặc là Mực, Hàn là Bút. Hàn
Mặc Tử là anh chàng BÚT MỰC”. Tử sửa xong, thích chí nói – Đã có bóng trăng rọi
vào thì từ nay tôi cũng như thơ tôi sẽ mỗi ngày thêm rạng ngời như bóng trăng…”
Từ đó, Hàn Mặc Tử trở thành bút danh chính thức.
Hàn Mạc: bút danh đến trước, dùng trong thời gian ngắn
Hàn Mặc: bút danh đến sau, dùng trong thời gian dài, bút danh chính thức của HMT.
Hàn Mặc Tử là bút danh cuối cùng, được coi là thống nhất và chính xác nhất.
Đường đời: điển hình cho kiếp tài hoa bạc mệnh: long đong đời sống, lận đận tình
trường, ngắn ngủi sinh mệnh.
+ Mất sớm: thế hệ nhà văn 32 nhiều người mất sớm: Nguyễn Tường Lân mất năm 25 tuổi.
Tô Ngọc Vân: 34 tuổi – chết bom. Vũ Trọng Phụng: 28, Thạch Lam: 32, Bích Khê: 30,
HMT: 28
+ Chết vì bệnh phong người mắc bệnh phong phải trải qua 3 lần chết:
Page | 55
Chết vì đau đớn: vi trùng hanxen, ưa thích dây thần kinh ngoại biên, thường đau khi ngày
chuyển sang âm (đêm về sáng) gắn với ánh trăng. TRăng trong thơ HMT gắn với đau
đớn, vừa là sự cứu rỗi
Chết trong cô đơn: vì bị ghẻ lạnh, xa lánh, HMT chủ động tuyệt giao với thế giới, nhưng
càng tuyệt giao lại càng tha thiết Họ đã xa rồi khôn níu lại/ Lòng thương chưa đã mến chưa
bưa/ Người đi 1 nửa hồn tôi mất/ một nửa hồn tôi hóa dại khờ
Chết sinh mệnh
HMT chết ở Quy Nhơn khi ko có người thân bên cạnh
Đường tình: phần lớn tình yêu đơn phương, 1 tình cảm sâu sắc với Mộng Cần, 1
tình cảm thuần túy tinh thần với Thương Thương.
Kim Cúc:
Thu về nhuộm thắm nét hoàng hoa,
Sương đẫm trăng lồng bóng thướt tha.
Vẻ mặt khác chi người quốc sắc,
Trong đời tri kỉ chỉ riêng ta.
Vẫn theo Nguyễn Tín, thì “Hoàng Hoa vẻ ko từ chối tình Anh, nhưng rất
nặng về lễ giáo, chị nói với Hoàng Tùng Ngâm 1 cách lo lắng: Cái ngăn cách
lớn nhất của chị ko thể nào vượt qua được vấn đề lương giáo”. Bởi HMT
con chiên ngoan đạo, còn Hoàng Hoa lại Phật tử, đường tình thuận,
đường tín ngưỡng lại cách ngăn.
Mộng Cần: sâu nặng nhất. Mộng Cần cháu ruột Bích Khê, khi HMT thất tình với Hoàng
Cúc, Bích Khê mai mối cho cháu. Mối tình đem lại cay đắng cho HMT:
Trời hỡi nhờ ai cho khỏi đói?
Gió trăng có sẵn làm sao ăn?
Làm sao giết được người trong mộng?
Để trả thù duyên kiếp phũ phàng? (Lang thang)
“Ôi trời ơi! Là Phan Thiết, Phan Thiết,
Mà tang thương còn lại mảnh trăng rơi.
Ta đến nơi nường ấy vắng lâu rồi.
Nghĩ là chết từ muôn trăng thế kỉ.”
Ngọc Sương: chị ruột Bích Khê
Ta để chữ Ngọc lên tàu lá
Sương ở cung thềm gió chẳng thôi
Chỉ có 1 mối tình được đền đáp: với Mai Đình (tình thơ văn)
Page | 56
Hôm nay sáng tỏ cung Hằng
Khiến lòng em nhớ đêm rằm bên anh
Hãi hùng em sợ trăng thanh
Vắng e, anh lại tự tình cùng trăng
(thơ Mai Đình)
- Mối tình thuần túy tinh thần với Thương Thương
Ngoài những mối tình thực đã trải qua trong đời, Hàn còn có 1 mối tình khác, đầy ảo n
mộng, mơ hồ. “Trong bối cảnh lạ lùng này thì Thương Thương xuất hiện mơ hồ trong
mộng thực của anh Trí như 1 nàng tiên (Thương Thương chỉ 1 cái tên Trần
Thanh Địch bắt gặp đâu đó giữa mây trời để giới thiệu với HMT)”
Cuộc đời bất hạnh hiếm có là cội nguồn của cảm xúc đau thương trong thơ HMT.
- Nhạy cảm với những mất mát, hụt hẫng: thường gặp những trạng thái hụt hẫng trong
tinh thần về thể chất, luôn cảm giác đang rơi, ko đi tới đáy (đọc Chơi giữa mùa
trăng); những cảm nhận khác người: “Tôi luôn cảm giác 1 thế lực hình
chụp lấy tôi… luôn có cảm giác rơi mà thấy mình chưa chạm đáy”).
Ảnh hưởng đến cảm giác đau thương: dùng cảm giác đau đớn về thân xác để diễn tả
nỗi đau thương về tinh thần.
- Là người mộ đạo:
+ có đức tin: HMT sống với đức tin
+có đời sống tâm linh: khao khát hướng tới cái thiêng liêng
II. Quá trình sáng tác
- Quá trình sáng tác ngắn ngủi, khoảng 10 năm nhưng tầm cỡ, chất lượng.
- Là sự thu nhỏ hành trình cách tân của phong trào Thơ mới:
+ : Thơ Đường luật Lệ Thanh thi tập
Bóng nguyệt leo trăng sờ sẫm gối/ Gió thu lọt cửa cọ mài chăn, có những câu thơ rất mới.
+ : tập thơ duy nhất được in khi Hàn Mặc Tử sống: thơ lãng mạn.Gái quê
+ : Từ thơ lãng mạn đến thơ tượng trưng, đã có yếu tố siêu thực.Đau thương
+ : yếu tố tượng trưng, siêu thực, tôn giáo, trội là tôn giáo.Xuân như ý, Thượng thanh khí
+ : đạo giáo, kito giáo.Duyên kì ngộ, Cẩm châu duyên
Thơ HMT liên tục chuyển kênh: mỗi sáng tạo là 1 khám phá mới.
Hàn Mặc Tử đã đi từ thơ đến thơ mới, từ thơ đường, lãng mạn đến tượng trưng,
siêu thực. Hành trình thơ Hàn Mặc Tử phản ánh hành trình cách tân của Thơ mới.
Hành trình thơ trên cho thấy Hàn Mặc Tử thi nội lực dồi dào. Mỗi sáng tạo
mới là một sự khám phá mới về bản thân.
III. Tư tưởng và nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử
Page | 57
1. Tư tưởng
1.1. Quan niệm nghệ thuật
- Thể hiện trong những bài thơ văn xuôi (Quan niệm thơ, Chơi giữa mùa trăng, Chiêm bao
và sự thật… Thơ điên) và tựa tập
- Xoay quanh vấn đề bản thể thơ ca, về phẩm chất, tâm lý sáng tạo… của nhà thơ.
- Hàn Mặc Tử có 1 quan niệm nghệ thuật khác lạ so với đương thời.
- :Quan niệm về bản thể thơ
+ Thơ cổ quan niệm “Văn tải đạo”, “Thi ngôn chí”, thơ lãng mạn: “Văn thơ kia tức
tâm hồn tôi” (Thế Lữ - Bóng mây chiều).
+ Hàn Mặc Tử quan niệm thơ là địa hạt của huyền diệu, thần bí, cao siêu ông gọi đó
nguồn trong trẻo (“Người thơ khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo” Tựa tập Đau
thương), là 1 ” (Thơ là sự ham muốn vô biên những nguồn khoái lạc trongcõi trời cách biệt
trắng của 1 cõi trời cách biệt” – Quan niệm thơ),cõi ”, ”, “huyền diệu mông lung địa hạt
siêu thần những bến bờ xa lạ của cảm giác ước Huyền diệu”, ”, cõi giới của ”, ”,
Sáng láng vượt ra ngoài hẳn linh rộng rinh không bờ bến ánh ”, đó nơi với
sáng lạ càng đi xa càng ớn lạnh” mà “ ”.
-Quan niệm về nhà thơ:
+ Thơ trung đại: kiểu thi Nho gia, nhà thơ mang danh phận, bổ phận, chức phận của một
nhà Nho, nhiều khi con người thi nhân bị chìm khuất sau những sải mũi cánh chuồn.
+ Thơ lãng mạn mẫu nhà thơ “ru với gió”, “mơ theo trăng và vẩn cùng mây”, phơi bày
tâm hồn mình theo những giai điệu của cảm xúc.
+ Thơ tượng trưng, siêu thực: quan niệm về nhà thơ sự vận động ràng. Mẫu hình thi
nhân tượng trưng siêu thực hiện lên như 1 chủng loại đặc biệt: “người khách lạ đi giữa
nguồn trong trẻo”. Đó cách để thi nhân tự giãn cách mình khỏi những lối mòn của đời
sống. Bởi cái lạ luôn nguồn hứng khởi cho sáng tạo. Trong quan niệm của ông, thi sĩ tiềm
ẩn những năng lượng bất thường và báo hiệu những bùng nổ phá cách trong thơ.
+ HMT quan niệm nhà thơ là kẻ khác thường.
- Quan niệm về việc sáng tạo: trạng thái thăng hoa, khác thường: Điên.
Là trạng thái nằm ngoài sự kiểm soát của ý thức, chỉ trong vòn điều khiển của ý thức: “Nàng
đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú” (Tự tập ). “điên”,Đau thương
“mơ”, “say” – trạng thái nằm ngoài hành lang kiểm duyệt của ý thức.
- Quan niệm nghệ thuật này chi phối trực tiếp đến cách nhìn thế giới; cái tôi trữ tình;
không gian, thời gian nghệ thuật cũng như ngôn ngữ nghệ thuật, cách tổ chức văn bản
của Hàn Mặc Tử.
2. CÁI NHÌN THẾ GIỚI SIÊU THỰC
Page | 58
- Mang cái nhìn siêu thực để quan sát thế giới, Hàn Mặc Tử đã tạo ra được một thế giới hình
tượng kì dị, đậm chất siêu thực.
- Thế giới nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử trở đi trở lại ba hình ảnh: trăng, hồn và máu.
+ Trăng:
Thanh khiết: trăng vàng trăng ngọc, trời nguyệt bạch.
Kì quái, lạ lẫm
Trăng bao phủ, xâm chiếm và đồng hóa tất cả.
“Không gian dày đặc toàn trăng cả/ Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng” (Huyền ảo).
Liên tưởng đồng nhất trăng – người, trăng – nước
Lụa ướt đẫm cả trăng thơm”, nên trang phục của con người cũng trang
phục được dệt bằng trăng: ”, con người trong cõi trăngăn vận toàn trăng cả
thuần túy đó hóa thành ”, miệng người đầy một miệng trăng: người trăng Cả
miệng ta trăng trăng/ Cả lòng ta số gái hồng nhan/ Ta nhả ra đây một
nàng/ Cho mây lặng lờ cho nước ngất ngây” (Một miệng trăng).
Sự đồng nhất đã xóa nhòa ranh giới thực mộng để tạo ra một thế giới siêu thực,
đó trăng bao phủ toàn cõi không gian xâm chiếm cõi sâu nhất của hồn
người.
Cảm nhận về câu thơ: Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối
nay”.
So sánh: (Xuân Diệu) vàTrăng từ viễn xứ/ Đi khoan thai trên ngự đỉnh trời tròn
Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ/ Sấp mặt xuống cúi mình theo dáng
liễu. (Hàn Mặc Tử).
+ Hồn: vừa linh thiêng, vừa yêu ma:
Hồn xa lạ với bản thân thi sĩ: Hồn ai? ai? Tôi chẳng biết/ Hồn theo tôi như muốn cợt
tôi chơi (Hồn là ai).
Hồn và xác vật lộn, rượt đuổi nhau:Hồn đã cấu, đã cào, nhai ngấu nghiến”, “Tôi dìm hồn
xuống một bóng trăng êm” (Hồn là ai).
Hồn lìa thoát xác vĩnh viễn không trở lại: (HồnHồn đi rồi, không nhập xác thê lương
lìa khỏi xác),…
Hồn xác như những thực thể tách rời, hồn thoát thai ra ngoài xác thịt:Anh đã thoát hồn
anh ngoài xác thịt/ Để chập chờn trong ánh sáng mông lung” (Sáng láng).
Hồn thoát xác, nhập hoàn toàn vào cõi siêu thoát, nằm ngoài lí trí: “Hồn vội thoát ra khỏi bờ
trí tuệ” (Siêu thoát),…
Ám ảnh “hồn lìa khỏi xác” một mặt khát vọng muốn linh hồn vượt thoát khỏi những đau
thương của thân xác; mặt khác một cách diễn tả nỗi đau đớn, ám ảnh về cái chết cận kề;
hồn lìa khỏi xác còn là cuột vật lộn để hướng về cái linh thiêng, về với chúa.
Page | 59
Thơ lãng mạn cũng nói nhiều đến biểu tượng “hồn”. Nhưng trong thơ lãng mạn, hồn biểu
trưng cho đời sống tình cảm con người: “Một chớp man, hồn gặp hồn/ Lòng chưa kịp
hiểu mắt trao hôn” (Xuân Diệu – Tình cờ).
Đến Hàn Mặc Tử, hồn đã vượt ngoài thế giới tình cảm để trở thành một thực thể của cõi
thức. Hồn như một sinh thể thực sự, bản thể thứ hai của con người, “một sự nhân cách hóa
những nội dung vô thức”.
Máu: vừa thanh khiết vừa kinh dị
Gái quê Làn môi, máu là biểu tượng cho sức sống tươi nguyên của vẻ đẹp đang độ xuân thì: “
mong mỏng tươi như máu/ Đã khiến môi tôi mấp máy thèm” (Gái quê)
Đau thương Trời hỡi bao giờ tôi chết đi/ Bao giờ tôi, máu gắn liền với đớn đau và cái chết: “
hết được yêu vì/ Bao giờ mặt nhật tan thành máu/ Và khối lòng tôi cứng tợ si?” (Những giọt
lệ), (Cuối thu). Máu bao ai gánh máu đi trên tuyết/ Mảnh áo da cừu ngắm nở nang
trùm cả không gian thời gian: Thét chòm sao hoảng rơi vào đáy giếng/ muôn năm
rướm máu trong không gian” (Rướm máu).
Máu là cội nguồn của sự sáng tạo nghệ thuật: “Máu đã khô rồi thơ cũng khô” (Trút linh hồn),
là sự hình tượng hóa của nguồn sáng tạo.
Hàn Mặc Tử đã coi thơsinh mệnh, máu huyết của mình: “ Anh cắn lời thơ để máu trào…
(Lưu luyến), “Mỗi lời thơ để dính não cân ta/ Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt/ Như
man chết điếng cả làn da” (Rướm máu),…
Biểu tượng Trăng, hồn, máu phản ánh đúng tâm của Hàn Mặc Tử: tranh chấp không
ngừng giữa thể xác linh hồn, bệnh hoạn khải thị, ánh sáng và bóng tối, sự sống và cái
chết.
Sởthơ Hàn Mặc Tử xuất hiện nhiều hình ảnhdị, lạ lẫm, thậm chí ma quái như
vậy bởi đó thế giới được khúc xạ từ cái nhìn bên trong của một tính sáng tạo độc
đáo, từ những ám ảnh của bệnh tệt, tình yêu cái chết, sự lên tiếng của cuộc đời,
thân phận của thi nhân.
3. CÁI TÔI TRỮ TÌNH: TỪ CÁI TÔI KHAO KHÁT YÊU THƯƠNG ĐẾN CÁI TÔI
MẶC CẢM ĐAU THƯƠNG
- :Gáiquê
Cái tôi trữ tình mang tiếng lòng của 1 chàng trai mới lớn, đầy khao khát yêu thương
Lòng ta dào dạt như làn sóng/ Ta đang khao khát tình yêu thương” (Tiếng vang).
Cái tôi đầy bỡ ngỡ trước cánh cửa ái tình, mang những cung bậc của một chàng trai đứng
trước cánh cửa tình yêu.
Thơ thẩn, ngân ngơ: “ ” (Tình quê).Trước sân anh thơ thẩn/ Đăm đăm trông nhạn về
Ngây dại: “ ” (Âm thầm).Anh đi thơ thẩn như ngây dại/ Hứng lấy hương nồng trong áo em
Page | 60
Bẽn lẽn, ngượng ngùng: ” (TôiTôi không muốn gặp người tôi yêu/ Có lẽ vì tôi mắc cỡ nhiều
không muốn gặp).
Đầy hoài bão, ước mơ: Đời anh lưu lạc tự bao giờ/ Đi đi... đi mãi nơi định/ Tìm cái phi
thường cái ước mơ” (Đời phiêu lãng).
- Đauthương, cái tôi trữ tình sự chuyển đổi rệt, trở thành cái tôi đầy mặc cảm,
đau thương.
+ Mặc cảm bị xa lánh, ko được đời đón nhận
Hình tượng khách xa:
Cái tôi luôn tự mình đứng tách ra khỏi những gì vốn rất gần gũi, cảm thấy tất cả những gì
tốt đẹp cứ rời xa mình:Khánh xa gặp lúc mùa xuân chín/ Lòng trí bâng khuâng sực nhớ
làng” (Mùa xuân chín),
Gió ơi lại đấy mà ngừa/ Tôi đứng xa lắm xin chừa tôi đi” (Say nắng),
Não nề lòng viễn khách giữa cơn mê” (Hãy nhập hồn em).
Mơ khách đường xa khách đường xa
Các hình ảnh “khách xa”, “xa lắm”, “xa xôi”, “khách đường xa”,... trở đi trở lại
Cái tôi trữ tình khao khát yêu đương tình đã làm cho cái tôi trong Gáiquê Đau
thương càng đau thương hơn, bởi chính khao khát không thể thực hiện sẽ làm
con người càng thêm đau đớn.
- Chìm đắm trong một thế giới riêng và càng trở nên điên loạn.
Cái tôi “điên loạn” được thể hiện trên nhiều mức độ.
+ Trực tiếp nhận mình là điên dại: “Anh điên anh nói như người dại/ Van lạy không gian xóa
những ngày” (Lưu luyến).
Bây giờ tôi dại tôi điên/ Chắp tay tôi lạy cả miền ko gian” (Một miệng trăng).
+ Hành động bất thường:
Cười như điên sặc sụa cả mùi trăng Cùng ngả nghiêng lăn lộn giữa muôn hình/ Để gào”, “
thét một hơi cho rởn ốc Ôi ngông cuồng! Ôi rồ dại, rồ dại/ Ta đi thuyền trên(Hồn ai),
mặt nước lòng ta/ Ôi ngông cuồng! Ôi rồ dại rồ dại! Ta cắm thuyền chính giữa vũng hồn ta
(Biển hồn ta), “ ” (Rượt trăng),...A ha! Ta đuổi theo trăng/ Ta đuổi theo trăng
+ Nhạy cảm với những hành động liên quan đến miệng: ”, ”, ”, ,ăn nhấp hớp uống”
nhai”, cắn”,đớp”,... Tôi toan hớp cả váng trời/ Tôi toan đớp cả miếng cười trong khe
(Say nắng), ” (Ghen), “ (LưuMiệng lưỡi khô khan hết cả thèm Anh cắn lời thơ để máu trào
luyến), “ ” (Biển hồn ta), “ Ôi ta đã mửa ra từng búng huyết Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng
Page | 61
(Say trăng), ( liêu), sao ngậm kín thơ đầy miệng Ta sẽ hộc ra từng búng huyết
(Người ngọc).
“Thi ảnh khẩu cảm” (Bùi Xuân Bào).
+ Trạng thái hoảng loạn: Ta hoảng hồn, hoảng vía, ta hoảng thiên/ Nhảy ùm xuống giếng
vớt xác trăng lên Tiếng gáy rụng trăng đầu hạ/ Tôi hoảng hồn lên giận(Trăng tự tử),
sững sờ” (Một miệng trăng),...
Vd: Trăng tự tử:
Lòng giếng lạnh! Lòng giếng lạnh
Sao chẳng một ai hay
Nghe nói mùa thu náu ở chỗ này
Tất cả âm dương đều tụ họp
Và trăng mây ngừng lại ở nơi đây
Để nghe, à để nghe
Bao lời bí mật đêm thời loạn
Bao giọng buồn thương gió đã thề
Bao lời ai oán của si mê
Mà trai gái tự tin bên miệng giếng
Miệng giếng hả ra
Nuốt ực bao la
Nuốt vì sao rơi rụng
Loạn rồi! Loạn rồi, ôi giếng loạn
Ta hoảng hồn, hoảng vía, ta hoảng thiên
Nhảy ùm xuống giếng vớt trăng lên.
Trăng tự tử:
. “Hoảng hồn”, “hoảng vía”, “hoảng thiên” là những trạng thái thường trực của tâm lí đầy bất
ổn trong thi sĩ. “Cuồng”, “điên”, “loạn”, “hoảng” tạo nên ấn tượng mạnh nhất về trạng thái
tinh thần của cái tôi Hàn Mặc Tử.
. Tóm lại, cái tôi trữ tình trong thơ HMT đã đi từ cái tôi với những xúc cảm khao khát yêu
thương đến cái tôi chất đầy mặc cảm, đau thương, mà sự điên loạn, đau đớn là biểu hiện khác
Page | 62
của lòng yêu đời, khát sống trong thi sĩ. HMT, những vần thơ viết khi thể xác bị giày
đau đớn đã trở thành những sáng tạo nghệ thuật đích thực.
3. KHÔNG GIAN – THỜI GIAN NGHỆ THUẬT: MANG TÍNH PHÂN CỰC
a) Không gian: không gian đầy ánh sáng, và ko gian ảo mờ, u tối.
- Không gian đầy ánh sáng: Nắng, trăng, cõi tâm linh tôn giáo.
+ : HMT hầu như ko viết về mưa. Nhiều câu thơ tả nắng: “Ánh nắng lao xao trên đọnNắng
tre/ Tiếng ca lanh lảnh trong vườn me” (Quả dưa)
Nắng tượng trưng cho những vẻ đẹp tươi mới, tinh khôi của đất trời: Trong làn nắng ửng
khói mơ tan/ Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng Ta mới thấy xuân vờn trong ánh sáng”, “ ” (Thi
Chàm). (Đây thôn Sao anh ko về chơi thôn Vĩ/ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Dạ), “ ” (Dấu tích).Vườn chói lọi thì tình yêu phải ngợp
- Không gian với ánh nắng của HMT còn không gian hoài niệm, đúng hơn, chính
những hoài niệm đã làm cho không gian trở nên rực rỡ, tươi mới, tinh khôi hơn.
- Khi biết mình mắc bệnh, HMT tự cho rằng mình ko bao giờ có thể trở lại được “ngày
xưa” tươi đẹp nữa, ko gian của hoài niệm đã biến thành ko gian của khao khát.
- Trong thơ Hàn thường xuất hiện những hình ảnh tươi đẹp phút chốc trượt từ hiện tại
về hoài niệm, tạo nên cảm giác hụt hẫng, mất mát, xa xăm: Khách xa gặp lúc mùa
xuân chín/ Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng/ Chị ấy năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ
sông trắng nắng chang chang”.
+ Trăng: Vườn trăng: ”, vườn tiên:Ai nói vườn trăng vườn vườn tiên sáng láng
như lòng người thương(Chơi lên trăng), những đêm trăng sáng đầy hương hoa: Vui
thay cảnh sáng trăng/ Ái tình bắt đầu căng Tôi yêu trời nguyệt bạch/ Tôi(Sáng trăng),
say màu thanh thiên” (Cao hứng),...
: nơi cứu rỗi đức tin của con người: + Tôn giáo Muôn thần phẩm trong lâng lâng chầu
chực/ Ánh hào quang chan chói ngất lưu ly Trời hôm nay bình an như nguyệt (Ra đời),
bạch/ Đường trăng xa, ánh sáng tuyệt vời bay Hồn tôi bay đến (Đêm xuân cầu nguyện),
bao giờ mới đậu/ Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang” (Thánh nữ đồng trinh Maria),...
Không gian đầy ánh sáng nhằm xác lập 1 thế giới tràn ngập sức sống, thể hiện cái nhìn lạc
quan của nhân vật trữ tình. Đó là thế giới của hạnh phúc, lí tưởng, ước mơ, ánh sáng gắn với
màu sắc, hương thơm và nhạc điệu.
- Không gian mờ ảo, u tối:
+ “Cõi trời sâu”, nơi giam cầm thi sĩ: Tôi đang còn đây hayđâu/ Ai đem tôi bỏ dưới trời
sâu/ Sao bông phượng nở trong màu huyết/ Nhỏ xuống long tôi những giọt châu (Những
giọt lệ)
Page | 63
Với người đang tràn ngập niềm yêu đời thì hoa phượng sẽ “ngọn đuốc” hân hoan,
ngọn lửa thắp sáng niềm hy vọng, nhưng với người bị giam cầm trong thế giới tối tăm không
hi vọng ngày trở lại với cuộc sống bình thường, thì hoa phượng lại mang màu của máu, của
đau thương, chết chóc. Chính màu máu xuất hiện đã khiến cho ko gian u tối trở thành ko
gian ma quái, hoảng loạn, sợ hãi, ko gian của sự đau đớn chuyển từ đau đớn thể xác thành
đau đớn tinh thần.
Máu ko chỉ gợi lên nỗi đau đớn về thể xác, còn gợi nên những hoảng loạn tinh thần,
về sự sống mất dần trong đau đớn: “Kìa ai gánh máu đi trên tuyết” (Cuối thu), “Bao giờ mặt
nhật tan thành máu” (Những giọt lệ), “Cả niềm yêu, ý nhớ của một vùng/ Hóa thành vũng
máu đào trong ác lặn” (Trường tương tư),...
Cũng như trăng luôn được miêu tả trong tính phủ ngập, máu cũng xuất hiện trong thơ
HMT bao phủ cả cõi ko gian: “mặt nhật tan” biến tất cả ko gian thành máu.
+ Không gian của thế giới u tối:
“Lòng giếng lạnh! Lòng giếng lạnh! Sao chẳng một ai hay/ Nghe nói mùa thu náu chỗ
này/ Tất cả âm dương đều tụ họp” (Trăng tự tử).
Lòng giếng lạnh giam cầm con người như một kiểu chôn sống nhân vật trữ tình ý
thức rất về cái chết đang đến gần trong sự giam cầm này. Khoảng trống nho nhỏ của
miệng giếng chỉ đủ để nhân vật bị nhốt trong đó ý thức được mình đang thuộc về cõi âm u,
thuộc về cõi chết.
Cái mà bài thơ “Trăng tự tử” thể hiện ko pahri là cái chết, mà là giai đoạn khủng
hoảng trước cái chết. Nơi ấy 1 cõi dương âm khí bao phủ, chỉ mùa thu, buồn
thương, oán hận.
+ Trong thế giới âm u này gắn liền với cái lạnh và sương khói:
Tôi đi trong ánh sương mờ/ Tìm con trăng lạc ngoài bờ bến kia” (Chơi lên trăng),
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh/ Ai biết tình ai có đậm đà” (Đây thôn Vĩ Dạ),
Bóng người thục nữ ẩn trong mơ/ Trong lá trong hoa khói bụi mờ”,
Ô hay người ngọc biến ra hơi” (Mơ hoa),...
- Khoảng cánh giữa 2 ko gian ấy:
Không chỉ khoảng cách vật thông thường còn là khoảng cách của cõi thực
cõi mộng, thế giới bên này thế giới bên kia: ”, Nhưng xa xôi quá biết làm sao Lệ
Kiều ơi! Em còn giữ ý thơ/ Trong đôi mắt mùa thu trong leo lẻo/ xa xôi lặng nhìn anh
khô héo/ Bên kia trời hãy chụp cả hồn anh (Trường tương tư). Thâm chí, hai ko gian ấy
Page | 64
đều là ko gian của cõi mộng: “Anh nằm ngoài sự thực/ Em ngồi trong chiêm bao/ Cách xa
nhau biết mấy/ Nhớ thương quá thì sao” (Anh điên).
Nguyên nhân của liên tưởng xa cách: thi sĩ luôn mang mặc cảm về bệnh tật nên cho dù
rất tha thiết với cuộc đời nhưng lại chọn cách đứng xa cuộc đời. Thế giới trần gian rất gần
nhưng ko còn thế giới thuộc về mình. 1 thiên đường nhưng 1 thiên đường
ngoài tầm với. Chính những mặc cảm chia lìa này đã chia cấu ko gian của thơ Hàn
thành 2 cõi miền đối lập, gắn với 2 hệ thống hình ảnh liên tưởng đối lập nhau.
Tạo dựng 1 ko gian nghệ thuật theo lối đối lập ko phải chỉ xuất hiện trong thơ HMT,
mà là đặc điểm chung của thơ lãng mạn.
Thơ lãng mạn thường tổ chức hình tượng nghệ thuật kết cấu ko gian theo phương
thức đối lập.
Khác biệt ở chỗ, sự đối lập ở HMT được đẩy đến cực điểm với những hình tượng nghệ
thuật và liên tưởng mang tính đặc thù ko thể trộn lẫn.
b) Thời gian: chủ yếu là đêm và hiện tại.
(t) cả ngày đêm, nhưng chủ yếu đêm: đêm trăng, cõi trăng. Trăng nguồn
sáng thuần khiết, thuần linh. Chỉ trong đêm trăng trong hiện tại, HMT mới thực sự cảm
nhận rõ nét sự ám ảnh của thời gian.
Hiện tại gắn với thời gian đêm: ”, “ ”, ”, ”. Nhàđêm nay năm nay tối nay tối hôm nay
thơ luôn khắc khoải với thời gian hiện tại, sợ hiện tại tan biến “Thuyền ai đậu bến sông trăng
đó/ Có chở trăng về kịp tối nay” (Đây thôn Vĩ Dạ).
Cũng như Xuân Diệu rất nhiều nhà thơ mới khác, HMT luôn bị ám ảnh bởi thời
gian. Nhưng nếu nỗi sợ thời gian trôi chảy khiến Xuân Diệu phải sống hối hả, sống vội vàng,
níu kéo tuổi xuân thì HMT lại phải gấp gáp ko phải để tận hưởng mọi sắc hương của cuộc
đời mà bởi luôn hoảng hốt khi quỹ thời gian sống ko còn bao nhiêu nữa.
4. KẾT CẤU VÀ NGÔN NGỮ THƠ HÀN MẶC TỬ
a) Kết cấu: mạch liên tưởng siêu logic
- Hình ảnh liên tưởng trong thơ Hàn Mặc Tử dường như ko có logic liên kết của lí trí mà kết
nối với nhau theo một mạch liên tưởng siêu logic.
Kết cấu hình tượng như hỗn loạn, những hình ảnh dường như ko có liên hệ gì với nhau.
- VD: Đây thôn Vĩ Dạ:
Những hình ảnh nằm trong các trường liên tưởng rất xa nhau, lại kết nối trong 1 chỉnh
thể văn bản, tạo thành một cấu trúc hình tượng như bất an, bất ổn. Tuy nhiên, bài thơ
vẫn tồn tại 1 mạch liên tưởng logic ở bề sâu.
Page | 65
Ba khổ thơ được liên kết với nhau bởi ba câu hỏi và 4 đại từ phiếm chỉ “ai”: “Vườn ai
mướt quá xanh như ngọc Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Ai biết tình ai có đậm”, “ ”, “
đà”.
Mạch liên kết ngầm ẩn trong bài thơ chính lòng yêu sống, khát sống đến đau đớn.
Hàn Mặc Tử thấy chới với khi tất cả tuột khỏi tay mình. Tử “hoài niệm” về thôn Vĩ,
thi sĩ khao khát hi vọng chở trăng về kịp đêm nay, như khao khát được kết nối với thế
giới tươi đẹp, nhưng niềm hi vọng lại quá đỗi mong manh, nên thi sĩ “hoài nghi” chính
mình, chính thế giới của mình, hoài nghi cả người tình xa từng là hiện thân cho những
khao khát thầm kín của mình. Hoài niệm thì rực rỡ mà hiện tại thì âm u.
Chính khao khát sống đến đau đớn đã tạo nên mạch liên tưởng trong cấu triucs hình
tượng của bài thơ.
B. NGÔN NGỮ:
- Ngôn từ lạ hóa, cực tả:
+ Dùng liên tưởng độc đáo
+ Bẻ chữ: trắng như tinh
+ Dùng các loại cảm giác khác để nhấn mạnh: : cáchtrắng rợn mình, trắng quá nhìn ko ra
cực tả sắc trắng chứ ko phải sắc trắng lẫn vào sương khói.
+ Phi logic
Kết hợp ngôn ngữ siêu logic: võ đoán, ko thể tìm thấy sự liên kết trên bề mặt.
Ví dụ: “ ” (Huyền ảo),... Mới lớn lên trăng đã thẹn thò/ Thơm như tình ái của ni cô
“Tình ái của ni cô”: kết hợp lạ hóa. Tại sao lại nói đến tình yêu của người theo đạo tu
hành? Sự liên tưởng trong kết hợp ngôn từ tưởng nhưng lại hàm chứa mạch ngầm
hợp lí: trong cảm nhận của Hàn Mặc Tử, tình ái của ni thứ tình trong trắng, tinh
khiết, ko vướng chút tục lụy bụi trần.
Liên tưởng ấy làm vầng trăng trở nên thánh thiện, phù hợp với cảm nhận về sự “thẹn
thò” của vầng trăng “mới lớn lên”.
A. Breton: “Có thể kết hợp mọi từ với nhau không loại trừ từ nào. Giá trị thơ ca của sự
kết hợp như thế càng cao nếu nó càng võ đoán mà thoạt nhìn ngỡ như ko thể được”.
- Ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử mang đậm chất tượng trương, siêu thực nhiều khi sự
hòa hợp khó tách bạch giữa siêu thực và tượng trưng.
“Sao bông phượng nở trong màu huyết/ Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu” (Những
giọt lệ)
Page | 66
| 1/138

Preview text:

VĂN HỌC VN TỪ ĐẦU THẾ KỈ XX - 1945 KHÁI QUÁT
Phương Tây hóa: Là quá trình mà môi trường văn học, quan niệm văn học, hệ thống
thể loại VH truyền thống từng bước bị giải thể
cấu trúc lại theo mô hình VH
Phương Tây. Nhờ vào quá trình này mà VHọc VN thoát khỏi quỹ đạo VHọc Đông Á
(lấy Trung Quốc làm trung tâm – văn học già) để gia nhập VHọc thế giới.
Dân tộc hóa: nhờ quá trình này mà nhân tố P.Tây được tích hợp với yếu tố bản địa
để tạo nên những kết tinh nghệ thuật mới. Ko có P.Tây hóa thì ko có dưỡng chất
mới, ko gian tư duy nghệ thuật mới cho Vhọc, nhưng nếu ko có dân tộc hóa thì văn
học cũng dễ trở thành lai căng, khó có được những thành tựu đích thực. Phương 
Tây hóa và dân tộc hóa vì thế là tiền đề của nhau và cũng là yếu tố cần và đủ cho tiến
trình hiện đại hóa VHVN từ 1885 – 1945. Trong thời kì này, 1 số tiền đề Vhóa cho
tiến trình hiện đại hóa VHọc xuất hiện, cụ thể: 1. Chữ quốc ngữ: Phương Tây Dân tộc hóa
- Chữ quốc ngữ được latinh hóa.
- Sĩ phu (chủ thể thuộc địa/ Việt) bị
- Tôn giáo: bài giảng (tuyên thánh
đàn áp = trả giá máu + ngục tù Maiorica)
- Xâm lược thuộc địa của TD Pháp
Chữ quốc ngữ được sd như 1 văn tự trong sáng tác VHọc  đưa VHọc đến với đông đảo
quần chúng. Tính đại chúng, tính phổ thông vì thế là thuộc tính đầu tiên của VHVN hiện đại. Văn học Trung đại Văn học Hiện đại Hán – Nôm = đặc tuyển
Chữ quốc ngữ: đại chúng/ phổ thông
Thư bản – truyền khẩu – khắc in
In ấn P.Tây báo chí nhà báo: tin – nhà tư  tưởng VHọc báo chí:
- Tính sùng cổ
- Thơ – truyện ngắn – tiểu thuyết
- Tính thời sự: con người, sự kiện đang
- Nhà văn tài tử/ nghiệp dư
diễn ra ở thời hiện tại  Về giáo dục:
- Tính chu kì  nhà văn chuyên Hán hóa
nghiệp-người đọc chuyên nghiệp.
 Về giáo dục Pháp – Việt:
Phương Tây hóa (người đọc, người viết)
Giáo dục truyền thống bị bãi bỏ
Số lượng người tiếp cận Văn học:
người đọc, người viết: phát triển cao
(cái tôi), phương Tây hóa) Page | 1
Văn học quà tặng: dành cho người tri kỷ. Đô thị hiện đại Ông quan – người dân
… kinh tế thị trường: cung – cầu … văn học = hàng hóa
-Thị hiếu của thị dân (tò mò – tiêu khiển: tình
ái, giật gân, mới lạ = đại chúng; thị hiếu của
thị dân luôn thay đổi buộc người cầm bút
phải tự thay đổi để theo kịp với sự thay đổi đó.
- Tải đạo – nói chí (tâm lý)
VD: Tản Đà (1916) sáng tác “Giấc mộng con 1”; “Khối tình”
- Thị hiếu: Thích sự đa dạng  cái “tôi”
I. BỐI CẢNH LS, XH, VH
Tiếp xúc với P.Tây và 2 nhiệm vụ trung tâm (độc lập và duy tân) 1. Về chính trị:
- Nền chính trị “thuộc địa”
- Là nền chính trị có 2 nhà nước trong 1 đất nước: nhà nước bản xứ Nam triều có vai
trò bù nhìn, đứng đầu là vua; và nhà nước bảo hộ của TD Pháp.
- Nhà nước Nam triều chỉ thừa hành nhà nước bảo hộ, đứng đầu là toàn quyền giai đoạn
này người dân VN phải sống trong cảnh 1 cổ 2 tròng. 2. Văn hóa, XH
- Báo chí hiện đại:
+ Tờ báo nào cũng có 1 trang dành cho văn học, phổ biến là truyện dài kì. Nhu cầu đọc văn
trở thành nhu cầu thường trực, đặc biệt rõ nét ở các đô thị. Những viên chức, tầng lớp thị dân
mới có thời gian rỗi và tiền bạc để đọc sách. Điều này hình thành nên lớp công chúng chuyên
nghiệp (ko chỉ đọc mà còn dùng tiền đầu tư cho văn học) và xuất hiện loại hình nhà văn
chuyên nghiệp (kí hợp đồng, sáng tác có tính chất định kì)
+ Khi người đọc tiếp xúc với tác phẩm, họ thường có những phản ứng bộc lộ thái độ, tri nhận
của họ về tác phẩm. Những phản ứng này mang tính tức thời, được đăng tải tức thì trên báo.
Đây là cơ sở để xuất hiện phê bình, nghiên cứu khoa học.
 Báo chí đã tạo ra kênh giao tiếp trực tuyến giữa nhà văn và độc giả.
 Tóm lại: Báo chí là nhân tố quan trọng nhất cấu thành nên 1 môi trường văn học mới.
Nó ko chỉ kiến tạo nên 1 mqh giữa nhà văn và độc giả mà còn hình thành 1 khuynh
hướng khai thác chất liệu, thể loại mới (phóng sự, tiểu thuyết). Báo chí cũng là tiêu chí
để phân biệt ko gian xuất hiện của văn học hiện đại (tờ báo) và văn học trung đại (thi tập) Page | 2
II. QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN
1. Từ đầu thế kỉ XX – khoảng 1930
- Từ đầu thế kỉ XX đến khoảng 1920 - Từ 1920 – khoảng 1930
2. Từ đầu những năm 1930 – CMT8 - 1945
III. ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA VHVN TỪ ĐẦU THẾ KỈ XX - 1945
1. Nền văn học đổi mới mạnh mẽ theo hướng hiện đại hóa
1.1. Khái niệm hiện đại hóa

- Hiện đại hóa là quá trình làm cho văn học Việt Nam có tính chất hiện đại, có thể nhịp
bước và hòa nhập với nền văn học thế giới. Nói văn học từ đầu thế kỉ 20 đến CM T8
1945 đổi mới mạnh mẽ theo hướng hiện đại hóa tức là khẳng định nó thoát khỏi những
đặc trưng VHTĐ, tạo nên được những đặc điểm, tính chất của một nền văn học hiện đại
- “Văn học VN trước thế kỉ XX nằm trong quỹ đạo VHọc Trung đại phương Đông
thuộc hệ hình tiền hiện đại. Khi tiếp xúc với P.Tây, qua trường hợp nước Pháp, Văn
học VN bắt đầu quá trình hiện đại hóa theo quy luật phát triển của văn học thế giới lấy
hình mẫu Châu Âu” (GS. Trần Ngọc Vượng).
1.2. Các phương diện hiện đại hóa
Quan niệm về văn học :
- Từ văn chương chở đạo, nói chí thời trung đại chuyển sang quan niệm văn chương
như một hoạt động nghệ thuật đi tìm và sáng tạo cái đẹp; chuyển từ văn chương để răn
đời sang văn chương để hiểu đời, để nhận thức và khám phá hiện thực.
- Văn học tồn tại độc lập, không còn tình trạng văn sử triết bất phân
- Thi pháp: thoát khỏi hệ thống thi pháp của văn học trung đại (ước lệ - sùng cổ - phi
ngã), chuyển sang thi pháp hiện đại (hướng đến cái thực, cái hiện tại, đào sâu vào cái tôi cá nhân)
- Thể loại: các thể loại truyền thống: thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn biến đổi trong bản
thân thể loại: xuất hiện những thể loại mới (kịch nói, phóng sự, phê bình văn học)
- Ngôn ngữ, chữ viết: ngôn ngữ văn học được hiện đại hóa: sử dụng chữ quốc ngữ thay thế chữ Hán, chữ Nôm
Chủ thể sáng tạo: từ nhà Nho trung đại sang kiểu nhà văn nghệ sĩ chuyên nghiệp
Công chúng văn học: từ tầng lớp nho sĩ sang tầng lớp thị dân
1.3. Tiến trình hiện đại hóa và các thành tựu :
a. Đầu thế kỉ đến khoảng 1930:
- Sự hình thành của báo chí và vhọc mới của vhọc Nam Bộ, những biến đổi trong nội
dung và cảm hứng của vhọc miền Bắc
- Văn học VN mang tính vùng rõ nét, chia làm 2 vùng chính: Page | 3
+ Văn học Sài Gòn và 6 tỉnh Nam Kì : Trung tâm là Sài Gòn Gia Định
+ Văn học miền Bắc và miền Trung
Đầu thế kỉ XX đến khoảng 1913: Văn học miền Nam :
- Miền Nam (Sài Gòn) sớm trở thành thuộc địa của Pháp, quyền tự do được thừa nhận,
báo chí quốc ngữ phát triển rất sớm, nên sớm có thành tựu văn học, đặc biệt là những
thể loại mới du nhập từ phương Tây như truyện ngắn, tiểu thuyết
- Cuối thế kỉ 19 Nam Kì đã xuất hiện một số sáng tác văn xuôi viết bằng chữ quốc ngữ, có giá trị hơn cả là của Nguyễn Trọng Quản
Truyện thầy Lazaro Phiền
- Đầu thế kỉ 20 tác phẩm văn xuôi bằng chữ quốc ngữ xuất hiện nhiều hơn, tiêu biểu là
Hoàng Tố Anh hàm oan (Trần Chánh Chiếu, 1910)
- Phần lớn truyện ngắn, tiểu thuyết trong thời kì này còn vụng về, non nớt (truyền thống văn học Miền Nam...)
VD:NhữngdấuhiệuhiệnđạihóatrongTruyệnthầyLazaroPhiền:
Tácgiả: Nguyễn Trọng Quản (nhà văn giáo hội, con rể Trương Vĩnh Ký, sang Angiere –
vùng thuộc địa Pháp mà văn hóa P.Tây rất đậm)
Cốttruyện:
- Nhân vật tôi trên chuyến tàu về Bà Rịa gặp Phiền, Phiền sắp chết, muốn kể cuộc đời mình
- Phiền là nhân vật tôi 2: gia đình đạo cơ đốc, bố mẹ bị giết, vào trường dòng, gặp Vê rô Liễu,

gặp được cô gái có em họ xa (nữ 1). Sau đó, công cá vào Kiên Giang, gặp vợ quan ba Pháp
(nữ 2). Nữ 2 yêu Phiền nhưng ko được đáp lại nên đã trả thù Phiền, giả nét chữ Liễu, viết thư
cho nữ 1 với lời lẽ tình tứ. Phiền trúng kế căm ghét Liễu, tìm cách giết Liễu. Về gặp nữ 1, nữ
1 ốm, lưỡng lự, cắt cỏ ngoài vườn, cắt cỏ độc sắc thuốc cho vợ suốt mấy tháng trời. Nữ 2
mấy năm sau chết, viết thư kể lại, Phiền ân hận, bệnh nhưng ko chữa để sám hối. Dặn tôi 1
tìm Phiền trong nghĩa trang xứ đạo.

- Vĩ thanh: tôi 1 thăm mộ Phiền.
Cáchtân :
- Kĩ thuật : Truyện thầy Laxaro Phiền chịu ảnh hưởng từ nguồn văn học Pháp, nguồn văn học

khác với truyền thống
Trần thuật từ ngôi thứ nhất
Cách kể chuyện : không theo trật tự thời gian, sự kiện, có sự luân phiên đổi vai hiện
tại – quá khứ theo hồi tưởng của nhân vật 1
Kết thúc bi kịch, không phải kết thúc có hậu
Cốt truyện : khai thác yếu tố hiểu lầm, tình yêu tay ba, ghen tuông, mượn mô típ kẻ trả
thù giấu mặt mang màu sắc phương Tây rất rõ. Văn học truyền thống thường vay
mượn cốt truyện của Trung Quốc
- Nội dung :
Lấy khung cảnh đời sống XH Việt Nam đương thời Page | 4
Cuộc tình tay ba, dục vọng đời thường của con người. Thầy Laxaro Phiền đã xây
dựng nên hình tượng con người bình thường, bị thiêu đốt trong lòng ghen và thù hận,
khác hẳn con người lí tưởng, con người cao cả trong văn học cổ
Hạnchế :
- Văn xuôi nhưng ngữ pháp lủng củng
- Số lượng từ địa phương lớn
- Câu văn nhiều khi tăm tối, không rõ nghĩa nhưng hoàn toàn ko chịu ảnh hưởng của ngữ

pháp thơ, điều mà đến tận năm 1916 ở miền Bắc còn rất đậm
- Ngay từ đầu văn xuôi Nam Bộ đã mang văn phong khẩu ngữ
Với thầy Laxaro Phiền, VHVN đã dịch chuyển từ quỹ đạo văn học truyền thống sang quỹ đạo
văn học phương Tây
- Truyền thống văn học miền Nam, ko lớn, không có sức cản của truyền thống khi tiếp nhận cái mới.
- Mặc dù sớm có những thành tựu, nhưng VH miền Nam trong ngót ba thập kỉ sau vẫn
ko có kiệt tác đích thực. Hàng trăm truyện ngắn, hàng chục bộ tiểu thuyết ở thời kì này
nhưng hầu hết ko tạo lập được gương mặt nghệ thuật tiêu biểu.
 Miền Nam nhạy cảm với cái mới nhưng ko có khả năng đi đến những thể loại văn học
mới, không dứt điểm theo nghĩa tạo ra những tác phẩm mang giá trị nghệ thuật đích thực
 Nguyên nhân: vì truyền thống mỏng, hạt giống cái mới ko kết tinh được với truyền
thống dân tộc, nên ko phát triển được, ko có kiệt tác
Văn học miền bắc và miền trung:
- Lực cản của truyền thống quá lớn khiến cái mới gần như ko thâm nhập. Lực lượng
sáng tác chủ yêu là trí thức nho học với các thể loại truyền thống. Tuy đã có chữ quốc
ngữ, nhưng chữ Hán và chữ Nôm vẫn chiếm vai trò quan trọng
- Chủ yếu là đổi mới về nội dung tư tưởng, nhưng thể loại, ngôn ngữ, văn tư, thi pháp
vẫn thuộc phạm trù văn học trung đại
- Nhà văn tiêu biểu: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, Ngô Đức Kế
Giai đoạn 1913 đến 1930:
- Vai trò của tầng lớp tri thức Tây học, sự đổi mới trong quan niệm văn học, văn học
dịch và sự hình thành của bộ khung thể loại mới : thơ – kịch – tiểu thuyết – phê bình văn học.
- Giai đoạn này hiện đại hóa đã đi vào chiều sâu. Quan niệm văn học có sự thay đổi, tạo
nên sự đổi mới có hệ thống và các chủ lưu. - Bối cảnh :
+ Những cuộc khai thác thuộc địa lần 1 và lần 2 đã mang phạm vi toàn quốc. Page | 5
+ Ảnh hưởng của văn học phương Tây đã lan rộng trên cả 3 miền, 1 cơ tầng chung cho
văn hóa dân tộc đã được thiết lập, tính vùng miền bắt đầu mờ đi, thay thế vào đó là tính
nhất thể, văn học dân tộc bắt đầu định hình rõ nét.
(!) Những người mở đường : Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh.
- Một thời gian dài, họ bị đánh giá nghiệt ngã, Đặng Thai Mai gọi họ là bồi bút, ý kiến
đánh giá về họ tương đối phức tạp, có luồng ý kiến coi họ là công cụ của TD Pháp, có
luồng ý kiến lại coi trọng những dự đồ văn hóa của họ. Nhưng họ vẫn là những người yêu nước.
- Họ vấn đề “đồng đẳng”, “muốn bình đẳng thì phải đồng đẳng”, và chọn con đường
phát triển văn hóa rồi dành độc lập. Nguyễn Văn Vĩnh:
- Năm 1913 cho xuất bản Đông Dương tạp chí : « đề cập nhiều vấn đề : thời sự, cải cách
kinh tế, hành chính … nhưng có 1 mục thường kì dành cho văn học » - Trong mục này :
+ Dịch các tác phẩm VHọc Pháp như tiểu thuyết « Miếng da lừa », « Những người khốn
nạn » thơ ngụ ngôn Laphongten (bản dịch kiến và ve sầu), Kịch : hài kịch Molie
 Ko thuyết lí về văn học nhưng việc dịch như vậy có giá trị giới thiệu những thực đơn
mới cho người Việt. Lần đầu tiên độc giả VN biết những hình thức VHọc mới, làm
quen với 1 khung khổ mới
+ Năm 1915, xuất hiện những tác phẩm bằng chữ quốc ngữ đầu tiên trong mục « 1 lối văn
Nôm » do Tản Đà phụ trách. Mục này đã giới thiệu những nhà văn chuyên nghiệp đầu tiên. Phạm Quỳnh
- Năm 1917, mở Nam Phong tạp chí, giải quyết vấn đề quốc văn.
- Đẩy mạnh dịch thuật 1 cách có ý thức, nhằm 2 mục tiêu :
+ Phát triển vốn từ vựng của người Việt, là mầm mống của Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh.
+ Học mô hình câu văn xuôi của Pháp, kiểu câu Chủ ngữ - tân ngữ bắt đầu thông
dụng. Câu văn Tiếng Việt bắt đầu đi từ quy phạm đến sáng rõ.
- Giới thiệu 1 cách hệ thống toàn bộ hệ thống văn học phương Tây : thơ, kịch, truyện
ngắn, tiểu thuyết (khác Nguyễn Văn Vĩnh ở chỗ Phạm Quỳnh có những giải thích
về thể loại, củng cố từ khóa, nền tảng cho người đọc Việt
). Trong các thể loại,
Phạm Quỳnh tập trung đi sâu vào tiểu thuyết vì cho tiểu thuyết là nòng cốt để kiến tạo
văn xuôi VN hiện đại, đẩy Vhọc VN – nền VHọc nặng về thơ sang quỹ đạo văn xuôi.
Phaann loại tiểu thuyết thành 3 loại: trường thiên, trung thiên, đoản thiên. Theo ông,
VN chỉ nên tập trung vào đoản thiên vì nó phù hợp với nhà văn VN hơn cả. Page | 6
- Nhân vật trong tiểu thuyết: người bình thường, mang những trải nhiệm nhân sinh phổ
biến, những cảm xúc thường nhật, khác với các nhân vật đấng bậc trong văn học
truyền thống. Phạm Quỳnh dịch tác phẩm “Câu chuyện anh chàng đi tìm cảm giác rùng mình” của Pháp.
- Việc tập trung vào những con người bình thường trong cuộc sống đời thường đã khiến
văn học thông tục giai đoạn 1913 – 1932 ở VN tương đối phát triển. Điều này có cội
nguồn từ truyền thống (yếu tố nội sinh), cuộc gặp gỡ với Phương Tây đã kích hoạt sức
mạnh nội sinh này bừng dậy.
- Đối tượng phản ánh của tiểu thuyết: tập trung vào 3 lĩnh vực chính của nhân sinh: tình ái, hám lợi, danh vọng.
- Kỹ thuật: tiểu thuyết có 2 mạch: + mạch kể (sự kiện)
+ mạch tả (chân dung, trang phục, thiên nhiên, tâm lí)
 Đổi mới tiểu thuyết vì đã đi sâu vào miêu tả. Lối miêu tả dày đặc, chi tiết, xác thực, tỉ
mỉ là chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết phương Tây thế kỉ 19 (khác với tiểu thuyết
phương Đông chủ yếu tả theo lối chấm phá, nắm bắt cái thần)
- Phạm Quỳnh cũng chú trọng tính logic, cái mà người VN rất yếu. Tiểu thuyết là 1
chuyện bịa (hư cấu) nhưng phải giống như thật vì nó có logic.
 Kết luận chung: Bằng những công trình dịch thuật, những bài phê bình trong suốt hơn
1 thập kỉ, Phạm Quỳnh có vai trò quan trọng trong việc kiến tạo 1 quan niệm mới về
văn học, đặc biệt là những quan niệm mới về thể loại, đối tượng và những kĩ thuật
nhằm hiện đại hóa văn học.
- Đương thời, ko có 1 tác giả, tác phẩm nào có khả năng thỏa mãn mọi tiêu chí mà
Phạm Quỳnh đưa ra. Tuy nhiên từ 1932 trở đi, những ý tưởng của Phạm Quỳnh dần
được hiện thực hóa trong đời sống sáng tác, có thể hình dung về ông như 1 kiến trúc sư của nền VHọc mới.
Diện mạo văn học :
- Tiểu thuyết: Hồ Biểu Chánh, Hoàng Ngọc Phách
- Truyện ngắn: Phạm Duy Tốn: thiên sang phương Tây; Nguyễn Bá Học: thiên về truyền thống
- Thơ: Tản Đà (lãng mạn), Trần Tuấn Khải (hiện thực)
- Kịch: Vũ Đình Long « chén thuốc độc », Nam Xương « ông Tây An Nam”
- Phê bình: Phạm Quỳnh, Thiếu Sơn (Phê bình và cảo luận 30 - 31)
 Ở Việt Nam đã hình thành một bộ khung thể loại mới đậm màu sắc phương Tây đã
hình thành, mặc dù chưa có những kiệt tác đích thực (trừ thơ Tản Đà).
 Những hình thức thể loại mới này sẽ là nền tảng cho sự phát triển đột biến của văn học giai đoạn sau
 Đóng góp của giai đoạn này chủ yếu ở việc chuẩn bị câu văn, quan niệm và hình thức thể loại mới Page | 7
b. Từ 1932 - 1945 (giai đoạn kết tinh)
Những tiền đề văn hóa XH khiến Vhọc thời kì này tồn tại nhiều trào lưu, khuynh
hướng sáng tác đa dạng, phức tạp và tác động qua lại với nhau.
Tiền đề văn hóa XH
Tầng lớp học sinh, sv đô thị bắt đầu chiếm tỉ lệ đáng kể, họ đóng vai trò là độc giả
chính của giai đoạn này
- Văn học phương Tây thực sự ngấm sâu trong cấu trúc văn hóa Việt, trở thành 1 thành
tố nội tại. Những gì trước đó không lâu người ta còn thấy bỡ ngỡ, xa lạ, bây giờ trở
nên quen thuộc, thậm chí trở thành thời thượng, được say mê, ngưỡng mộ
- Cùng với sự phồn vinh về kinh tế, những năm 30 cái tôi cá nhân bắt đầu hiện diện tự
tin và quả quyết hơn, công khai khẳng định mình, đòi hỏi thỏa mãn phiêu lưu trong
tình ái, trong những chân trời mới lạ, đây là tiền đề cho dòng văn học lãng mạn xuất
hiện, trở thành một khuynh hướng chủ đạo (từ “Hồm bướm mơ tiên” của Khái Hưng
đến “Thiếu quê hương” của Nguyễn Tuân)
- Tuy nhiên, bên cạnh sự phồn vinh, sự phát triển kinh tế thị trường đôi khi trở thành
đảng điếm. Khoảng cách giàu nghèo gia tăng, mâu thuẫn giữa đô thị và nông thôn.
Những người nông dân bị bần cùng hóa, những người làm nhiều nghề mạt hạng ở đô
thị như đi ở, đánh giầy, đánh xe đã kích thích sự phát triển của phóng sự, hình thành
dòng văn học tả chân (văn học hiện thực)
- Dòng văn học yêu nước có thêm sức sống mới, giai đoạn này đánh dấu sự trở lại của
những chí sĩ CM giai đoạn trước như Huỳnh Thúc Kháng. ĐCS ngày càng có sự tác
động lớn đến đời sống xã hội (Đề cương văn hóa 1943, Hội văn hóa cứu quốc) khiến
văm học yêu nước có bước phát triển mới về chất
 Văn học thời kì này tồn tại nhiều trào lưu, khuynh hướng sáng tác đa dạng, phức tạp
và tác động qua lại với nhau
Diện mạo văn học:
- Khái niệm: CNLM là 1 KHCH thẩm mỹ được khởi nguồn từ sự khẳng định cái tôi cá
nhân được giải phóng về tình cảm, cảm xúc và trí tưởng tượng. Nó phản ứng với tính
duy lý, quy phạm mực thước của văn chương cổ điển, thích hợp với công chúng thanh
niên vì tuổi trẻ thường giàu nhiệt tình, mộng mơ, thích những điều mới lạ, khác thường.
- Đề tài: CNLM dễ có cảm hứng trước 3 đề tài: thiên nhiên, tình yêu, tôn giáo. Vì 3 đề
tài này khơi gợi tình cảm đắm say và kích thích trí tưởng tượng.
- Bút pháp: sử dụng rộng rãi bút pháp đối lập: ánh sáng và bóng tối, cái đẹp và cái xấu, cao cả và thấp hèn.
Vănhọclãngmạn:Tựlựcvănđoàn,Thơmới
Tựlựcvănđoàn: Khái quát: Page | 8
- Người sáng lập là Nguyễn Tường Tam, thuộc thế hệ nhà văn lớn lên trên nhà trường
Pháp Việt, học tiểu học ở phố huyện Cẩm Giàng, về sau học ở trường Bưởi (Hà Nội)
- Năm 1924, đỗ Đại học y khoa, cuối năm thi Đại học mĩ thuật Đông Dương, là sinh
viên khóa đầu tiên của trường này. Một lần đi điền dã ngoại ô thấy nguyên mẫu người
nông dân lãm lũ, nhưng lên tranh lại rất đẹp, nên đã hình thành mong muốn: xóa bớt
khoảng cách nghệ thuật và cuộc đời, đưa cuộc đời đến gần hơn với nghệ thuật.
- Năm 1927 sang Pháp, say mê luật, kinh tế, báo chí, dùng báo để thể hiện những day
dứt nội tâm, là phương tiện để thể hiện ý tưởng xã hội. Năm 1930 về nước. Năm 1932
mua lại tờ Phong hóa đang ế ẩm và cách tân hóa: 1 – đưa mĩ thuật vào tờ báo, 2 – đưa
tiếng cười vào tờ báo do chủ trương báo chí phải dân chủ
- Năm 1933 quyết định thành lập Tự lực văn đoàn, công bố tôn chỉ sáng tác:
1. Tự mình làm sách có giá trị, ko dịch thuật nữa.
2. Giới thiệu và viết những sách có tư tưởng xã hội, chú ý làm cho XH ngày một hay hơn lên
3. Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, tin vào sự tiến bộ
4. Đề cao lối văn thật có tính cách An Nam
5. Ca tụng những nét hay vẻ đẹp của đất nước, những vẻ đẹp có tính chất bình dân
6. Ủng hộ phát triển bình dân, tránh phong cách trưởng giả, quý phái 7. Trọng tự do cá nhân
8. Làm cho người ta biết đạo Khổng không còn thời nữa
9. Đem phương pháp khoa học phương Tây ứng dụng vào văn chương VN
10. Theo 1 trong 9 điều trên cũng được, miễn là đừng trái ngược với những điều còn lại - Nhận xét:
Trong tôn chỉ nổi lên các vấn đề: coi trọng văn học dân tộc, coi trọng tính bình dân đại
chúng, nhấn mạnh ý nghĩa XH của văn học
 TLVĐ là nghệ thuật vị nhân sinh theo lập trường tiểu tư sản
- Nhân sự: (từ tk 17 ở Pháp có nhóm thất tinh làm cho Vhọc Pháp chuyển từ Trung đại sang hiện đại)
Nhóm cốt cán có 7 người:
1. Nguyễn Trường Tam (Nhất Linh, Tam Linh, Bảo Sơn)
2. Trần Khánh Dư (Khái Hưng), phụ trách tiểu thuyết.
3. Nguyễn Tường Long (Hoàng Đạo, Tứ Li) Page | 9
4. Nguyễn Thứ Lễ ( Thứ Lễ, Lê Ta)
5. Nguyễn Tường Lân (Nguyễn Tường Vinh, Thạch Lam, Việt Sinh)
6. Hồ Trọng Hiếu (Tú Mỡ)
7. Nguyễn Gia Trí (họa sĩ)
- Giai đoạn sau có thêm 1 số cộng tác viên: văn xuôi có Trần Tiêu, Thanh Tịnh, thơ có
Xuân Diệu, Huy Cận, họa sĩ có Nguyễn Thanh Vân, Nguyễn Cát Tường.
- Cơ quan: 2 tờ báo Phong hóa và Ngày nay. Nhà xuất bản đời nay (80 Quán Thánh)
- Giải thưởng thường niên cho những nhà văn có tác phẩm hay, có uy tín: Anh Thơ, Nguyễn Bính đạt giải
 TLVĐ là một tổ chức văn học của những nhà văn chuyên nghiệp đầu tiên của VN,
được tổ chức đồng bộ trên tất cả các yếu tố. Bản thân sự hiện diện của 1 tổ chức văn
học trong văn học VN khiến văn học VN thực sự bước vào lộ trình hiện đại hóa.
- Chấm dứt hoạt động vào năm 1942 sau cái chết của Thạch Lam - Nội dung:
o Cổ vũ tình yêu tự do, ý thức cá nhân: Hồn bướm mơ tiên (33 – Khải Hưng),
Đoạn tuyệt (35 – Nhất Linh), Lạnh lùng (36 – Nhất Linh)
o Cải cách nông thôn và hình tượng người nông dân (giai đoạn 36 – 39): Gia đình
(Khái Hưng), Thừa tự (Khái Hưng), Con đường sáng (Hoàng Đạo)
o Thám hiểm về ý nghĩa sự sống, tra vấn ráo riết về ý nghĩa sự sống: Đời mưa gió
(Nhất Linh – 34), Đôi bạn (37 – Nhất Linh), Bướm trắng (Nhất Linh – 39)
Mang đậm màu sắc hiện sinh chủ nghĩa
 Các vấn đề TLVĐ quan tâm là những vấn đề nằm trong phổ hệ lớn, những mẫu số
chung của văn học phương Đông và thế giới - Hạn chế:
o Do sự thiếu hiểu biết về đời sống người nông dân dù có thừa thương cảm
o Màu sắc bi quan, thoát li
- Đóng góp cho tiến trình hiện đại hóa văn học:
o Đến TLVĐ, mô hình thể loại tiểu thuyết hiện đại VN mới thực sự hình thành :
nghệ thuật kể chuyện biến hóa, thường bắt đầu bằng thời hiện tại nhưng luôn có
sự luân chuyển giữa quá khứ, hiện đại, tương lai. Điểm nhìn trần thuật luôn có
sự hoán đổi, chuyển giao; thích lối kết thúc để ngỏ.
o Kĩ thuật miêu tả, đặc biệt là miêu tả thiên nhiên và tả thực đạt được những thành
tựu đáng kể, khiến cho tiểu thuyết TLVĐ về cơ bản thoát khỏi sự đơn điệu của lối kể truyền thống
o Bắt đầu xây dựng tính cách nhân vật có bề dày đời sống tâm lí, đặc biệt là
những chi tiết xây dựng nhân vật sinh động
o Ngôn ngữ trong sáng, tinh tế, đặc biệt giàu có về mảng miêu tả âm thanh, màu
sắc, đặc biệt là miêu tả cảm giác => tác phẩm của những hình dung từ. Page | 10
o Câu văn mềm mại, uyển chuyển, khoảng 70% câu văn xuôi hiện đại là được hoàn thiện bởi TLVĐ
 Ở TLVĐ thấy rõ được sự kết hợp giữa dân tộc và phương Tây, truyền thống và hiện
đại, những tác phẩm xuất sắc của TLVĐ có giá trị nhân văn cao.
Thơmới:
A. Các cách phân loại Thơ Mới :
- Căn cứ vào nguồn ảnh hưởng, Hoài Thanh chia làm 3 dòng: Pháp, Đường, Việt. Cách
phân loại này đã xác định các nhân tố hình thành phong trào Thơ Mới. Nhưng khó
khăn khi phân biệt từng tác giả. Những tác giả hạng 2, hạng 3 dễ xếp vào các dòng
nhưng những nhà thơ xuất sắc thường tích hợp ba dòng.
VD: lục bát của Huy Cận khảm sâu nhiều chất liệu Đường thi
- Căn cứ vào thời gian chia làm 3 giai đoạn: 32 – 35 (32 đến Xuân Diệu, giai đoạn xung
đột, đi tìm tiếng nói chung với thơ cũ), 36 – 39 (giai đoạn hòa giải), 40 – 45 (giai đoạn
thể hiện tiếng nói riêng tư).
Trong giai đoạn đầu, để nhấn mạnh sự khác biệt với thơ cổ điển, thơ mới nhất loạt
tấn công vào tính quy phạm của thơ cũ, đưa cú pháp văn xuôi vào thơ, dỡ bỏ mọi niêm
luật, cho phép cảm xúc tự do bộc lộ. Nhưng đến giai đoạn sau nhiều nhà thơ lại tìm về
các thể thơ cổ điển : thất ngôn, ngũ ngôn…
- Phân chia theo vùng : Hà Nội, Nam Trung Bộ
B. Đóng góp của Thơ mới vào tiến trình hiện đại văn hóa văn học dân tộc
1. Xét về phương diện hình thức:
Ngay từ khi mới ra đời, Thơ mới được nhìn nhận từ phương diện hình thức thể loại. Danh từ
Thơ mới lần đầu được chính thức khởi xướng bởi Phan Khôi trên báo Phụ nữ Tân văn khi
ông muốn dấy lên một phong trào thơ “đem ý thật có trong tâm khám tả ra bằng những câu
văn có vần mà không phải bó buộc bởi những niêm luật gì hết” - Thể loại:
Thơ Đường luật bị tuyệt diệt, nhưng Thơ mới lại phát triển thơ 7 chữ,
chia 1 khổ, một bài thơ điển hình khoảng 5 khổ, mỗi khổ bỏ niêm luật
nhưng vẫn giữ được nhịp
Phát triển thể 8 chữ, đây là đặc sản của phong trào thơ mới (Bức tranh
quê, Nhớ rừng, Chợ tết,…) có công năng miêu tả cao
Lục bát: rất phát triển, hầu như nhà thơ nào cũng có một bài thơ lục bát (Huy Cận, Nguyễn Bính).
Thơ 5 chữ: không nhiều về số lượng nhưng có thành tựu: Tiếng thu, Ông đồ, Hàn Mạc Tử
Thơ tự do: phát triển ở giai đoạn đầu nhưng càng về cuối càng ngần ngại Page | 11
 Thơ mới đã phá bỏ sự độc tôn của một thể loại, chấp nhận nhiều thể loại cùng tồn tại
 Thơ mới đã phá bỏ tính chất gò bó của thơ Đường luật, tìm kiếm sự rộng rãi hơn, đã dạng hơn cho cảm xúc
 Không hướng đến phương Tây, mà chủ yếu hướng về những thể loại mang dấu ấn dân
tộc (sự ứng xử với thơ tự do) => Thơ mới đã đi từ xung đột đến hòa giải, là phong trào
thơ có tính dân tộc cao.
- Cách tổ chức câu thơ và xây dựng hình ảnh thơ và xây dựng hình ảnh thơ: Tổ chức câu thơ
: (câu thơ điệu nói)
Câu thơ có cú pháp lỏng lẻo, nhiều hư từ
Đặc biệt ưa thích hình thức câu thơ vắt dòng, nhiều dòng mới hợp thành một
câu (Mùa xuân xanh), tạo nên sự liền mạch trong cảm xúc, những đoạn miêu
tả tạo thành bức tranh hoành tráng. Thế giới miêu tả vì thế sống động hơn,
nới rộng biê độ câu thơ và khả năng miêu tả
Nhạc tính: câu thơ mới rất giàu tính nhạc (thơ Đường nhạc tính thấp, thơ
Đường: thi trung hữu họa, thơ mới: thi trung hữu nhạc) Xây
dựng hình ảnh thơ : chịu ảnh hưởng của Baudelaire, đặc biệt ưa thích
hình ảnh dựa trên liên tưởng, chuyển hóa giữa cái hữu hình và cái vô hình
VD1: Xác cô thơm quá thơm hơn ngọc/ Cả 1 mùa xuân đã hiện hình  ẩn
dụ chuyển đổi cảm giác
 nói về sự tái sinh, sự trong sạch của cô gái đồng trinh.
VD2: “Anh đi đâu, anh về đâu/ Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm”.
Buồn trông cửa bể chiều hôm/ Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”.
Thơ Nguyễn Du rất hàm súc, ko lặp lại: Kiều nhìn cánh buồm xa xa:
khẳng định nỗi buồn, cuộc đời nổi trôi, vô định.
Nguyễn Bính cũng nói về nỗi buồn, mặc dù lặp lại ko nhiều từ láy, sự vật
như trong thơ Nguyễn Du nhưng trong cánh buồm đã nói lên tất cả.
VD3: Câu thơ vắt dòng: Mùa xuân là cả 1 mùa xanh
Giời ở trên cao lá ở cành
Lúa cở đồng tôi và lúa ở
Đồng nàng và lúa ở đồng anh. Page | 12
Nới chiều kích của ko gian mùa xuân mở ra bát ngát, vô tận. Nghệ thuật vắt
dòng “lúa ở đồng tôi…đồng
anh nhấn mạnh về ko gian bát ngát, mênh mông, ngút ngàn tầm mắt.
2. Đóng góp của Thơ Mới xét về phương diện nội dung:
- Đóng góp lớn nhất của Thơ mới vào tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc là đề cao
cái tôi cá nhân, Hoài Thanh đã chỉ ra đích xác tinh thần thơ mới là cái tôi cá nhân, chữ
“tôi” với ý nghĩa tuyệt đối. Văn học trung đại đề cao tính phi ngã, xóa bỏ cái tôi, đến
Thơ mới, lần đầu trên cái tôi có cơ hội lên tiếng, trỗi dậy
- “Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân. Chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì
gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia
như giọt nước trong biển cả” (Hoài Thanh).
- Văn học trung đại thể hiện “một hệ thống ước lệ chặt chẽ, có tính uyên bác, cách điệu
hóa, sùng cổ và phi ngã, đề cao văn học đạo lí hơn văn học tình cảm” (Nguyễn Đăng Mạnh) - Nội dung:
Cái tôi và quan niệm cá nhân là thành tựu lớn nhất của cuộc cách tân về nội dung, cảm
hứng trong Thơ mới. Lúc đầu nó xuất hiện trên thi đàn trong trạng thái đầy bỡ ngỡ,
“như lạc loài nơi đất khách”, về sau nó được biểu hiện phong phú với các cá tính độc đáo:
“Trong lịch sử thơ ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại
này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế
Lữ, mơ mộng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn
Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kí dị như Chế Lan
Viên,… và thiết tha, rạo rực, boăn khoăn như Xuân Diệu”
 Thơ mới có công giải phóng thơ ra khỏi chức năng tải đạo, ngôn chí, đưa đến một
quan niệm mới về thơ: thể hiện cảm xúc của cái tôi cá nhân
 Kích thích sự phát triển của ý thức cá nhân, khơi dậy khát khao yêu đời, khát vọng song mãnh liệt
o Lòng yêu nước, tinh thần dân tộc
o Tình yêu thiên nhiên, những bức tranh đẹp, đẩy mộng mơ về quê hương, đất nước Page | 13
VĂN HỌC HIỆN THỰC PHÊ PHÁN
A. Lịch sử phát triển:
1. Giai đoạn 1930 – 1935: giai đoạn này các nhà văn hiện thực viết một cách riêng lẻ, tự
phát. Nổi bật là phóng sự của Tam Lang, VTP, truyện ngắn Nguyễn Công Hoan
- Nguyễn Công Hoan là người cầm bút từ trước 1930, vốn sống phong phú, sức viết dồi
dào, có sở trường truyện ngắn trào phúng. Nguyễn Công Hoan là người đầu tiên khẳng định
phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực truyện ngắn. Truyện Kép tư bền gây
tiếng vang trong tranh luận nghệ thuật vị nghệ thuật, nghệ thuật vị nhân sinh. Khi Kép tư bền
xuất hiện, 17 tờ báo tranh luận, chủ yếu ca ngợi, NCH được chọn như nhà văn hiện thực tiêu
biểu nhất. Có thể nói NCH cầm mốc vinh quang cho chủ nghĩa hiện thực trên lĩnh vực truyện ngắn.
- Vũ Trọng Phụng: Cạm bẫy người (1933), Kĩ nghệ lấy Tây (1934). Mai Xuân Nhân đánh
giá Vũ Trọng Phụng là ông vua phóng sự đất Bắc
- Tam Lang: là nhà văn đầu tiên viết phóng sự ở Việt Nam (Tôi kéo xe 1932). Tam Lang và
Vũ Trọng Phụng đã mở đầu cho thể loại phóng sự trong VHHĐVN
- Tú Mỡ: thơ trào phúng “Dòng nước ngược” (1934). Cái nhìn tương tự NCH, VTP
Đánh giá: giai đoạn này tầm bao quát của chủ nghĩa hiện thực còn hạn hẹp, phản ánh cục
bộ, thế giới nhân vật chủ yếu là dân nghèo thành thị, thiếu chiều sâu hiện thực, chưa thể hiện
mâu thuẫn cơ bản của XH.
Chưa có tiểu thuyết hiện thực xuất sắc.
Tính chiến đấu chưa cao, một số cây bút dao động lập trường.
2. Giai đoạn 1936 – 1939:
- Đây là thời kì mặt trận dân chủ, thời kì sôi sục CM, lưỡi kéo kiểm duyệt không cắt xén,
thuận lợi cho sự phát triển của chủ nghĩa hiện thực
- Thời kì này tạo nên đặc điểm nổi bật của văn học hiện thực: giàu tính thời sự, mang tính
chiến đấu cao. Tác phẩm tiêu biểu: Vũ Trọng Phụng (Số đỏ, Giông tố, Vỡ đê), Nguyễn Công
Hoan (Bước đường cùng), Ngô Tất Tố (Tắt đèn), Bí vỏ (Nguyên Hồng)
- Văn học hiện thực băt đầu phát triển tự giác, thể hiện ở hàng loạt các cuộc bút chiến  Đánh giá:
- Trực tiếp khai thác mâu thuẫn xung đột, tố cáo mặt trái xã hội Page | 14
- Tập trung thể hiện nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Đã xuất hiện những điển hình bất hủ
- Hình tượng người lao động không chỉ là nạn nhân đáng thương mà còn có vẻ đẹp tinh thần đáng quý
- Chủ nghĩa hiện thực vượt lên làm chủ văn đàn. Một số tác phẩm của TLVĐ chứa đựng
nhiều yếu tố hiện thực. Những đỉnh cao của tiểu thuyết TLVĐ đều là những tiểu
thuyết mang đậm hiện thực
Hạn chế: 1 số tác phẩm còn bộc lộ tư tưởng cải lương, văn chương còn ảnh hưởng phong
cách báo chí. Tuy nhiên đây vẫn là thời kì đỉnh cao chủ nghĩa hiện thực với những tác giả
xứng đáng là nhà văn lớn, “Những cuốn sách ghê gớm có thể đem lại vinh dự cho cả thời
đại” (Nguyễn Khải): Tắt đèn, Số đỏ, Bí vỏ…
3. Giai đoạn 1940 – 1945: Hoàn cảnh lịch sử, văn hóa xã hội không thuận lợi cho sự phát
triển của văn học hiện thực - :
1939 chiến tranh thế giới Đảng hoạt động bí mật, sách bảo không được xuất hiện công khai -
: Nhật vào Đông Dương, phát xít Nhật thi hành chính sách văn hóa phản động 1940 - 1940 – :
1945 là chặng đường không thuận lợi, văn học công khau có sự phân hóa phức tạp,
nhiều cây bút hoang mang. VHHTPP vẫn tồn tại, có những phương diện không bằng giai
đoạn trước, nhưng có những phương diện lại vượt trội
- Đội ngũ sáng tác:
+ Bớt đi một số cây bút tiêu biểu, những nhà văn tiêu biểu giai đoạn trước không viết nữa hoặc viết khác đi  Vũ Trọng Phụng mất năm 1939  Nguyễn
Công Hoan đề cao đạo đức phong kiến (do không giữ được lập trường:
“Thanh đạm”, “Danh tiết”)  Ngô
Tất Tố : chuyển sang dịch thuật, khảo cứu, tính chiến đấu của ngòi bút giảm xuống
+ Nhưng lại xuất hiện nhiều cây bút trẻ tài năng  Nguyên
Hồng : Những ngày thơ ấu. Từ 1940, Nguyên Hồng càng tỏ ra sung sức. Con
người giàu tình thương (họa sĩ Phan Kế An về Nguyên Hồng, trong đôi mắt về trái tim
vào đó). Ảnh từ Thế Lữ, Lưu Trọng Lư (những người cầm bút CNHT đều chịu ảnh
hưởng ban đầu của CNLM). Cuộc sống lam lũ, đói khổ đã kéo NH đến CNHT. Ánh
sáng của cách mạng đã đưa đến cho sáng tác NH yếu tố lãng mạn mới, vượt ra khỏi Page | 15
khuôn khổ của CNHT, dự cảm về tương lai: hình thành cảm quan lãng mạn khỏe khoắn (lãng mạn CM)  Tô
Hoài : tác phẩm “Quê người” Tô Hoài viết truyện về phong tục tập quán ở nông
thôn, nhìn đời sống bằng con mắt đời thường, nhân quan phong tục . Tác phẩm của Tô
Hoài giúp người đọc nhận ra một xã hội cùng quẫn, bế tắc, bần cùng không lối thoát.
Tô Hoài có biệt tài quan sát hóm hỉnh thế giới loài vật. Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, thơ mộng  Bùi
Hiển: Đề tài: cây bút truyện ngắn viết về những người vùng biển; miêu tả con
người không mất đi bản chất hồn nhiên. Tiêu biểu: tập truyện “Nằm vạ” (1941): nhìn
cuộc sống qua lăng kính hài hước, Bùi Hiển tập trung thể hiện bản chất lạc quan của
con người vùng chài, am hiểu tính cách tâm lí của người dân chài. Sau trang sách,
người đọc luôn thấy nụ cười hóm hỉnh, cái nhìn đôn hậu của nhà văn  Kim Lân
: Viết về phong tục làng quê: thú chơi, sinh hoạt của vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Khác với thú chơi trong Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân. Kim Lân viết về cảnh
ngộ buồn tủi của bản thân ông và những người đồng cảnh ngộ. -> Đằng sau những đề
tài phong tục, thế giới cùng khổ, truyện Kim Lân thể hiện sự lạc quan của người nông dân  Nam
Cao : Trực tiếp phân tích, truy tìm nguyên nhân sự sống của con người. Cách tân
về nhiều mặt, có nhiều điểm mới trong tư duy nghệ thuật. Nam Cao kết tinh sự vận
động của văn xuôi VN trước CM, CNHT đến Nam Cao đã hoàn tất chặng đường
Đặc điểm giai đoạn 40 – 45:
- Không trực tiếp thể hiện mâu thuẫn cơ bản của xã hội. Tô Hoài hầu như không phản ánh mâu thuẫn giai cấp
- Đề tài có tính chất phong tục hoặc đi vào chuyện đời tư vặt vãnh hoặc gắn với tính
chất thời sự, ít đề cập đến vấn đề xã hội rộng lớn
- Không tập trung xây dựng những điển hình phản diện.
Đặc điểm của giai đoạn 36 – 39: điển hình thuộc tầng lớp thống trị: Nghị Hách, Nghị Quế.
Nguyên nhân: hoàn cảnh xã hội kiểm duyệt. 40 – 45: người nông dân nghèo, tru thức
tiểu sư sản nghèo, những con người yếu đuối bất lực, không giống con người gân guốc giai đoạn trước. So sánh:
36 - 39: nhạy cảm với vấn đề xã hội (VTP); CNHT phơi bày, tố khổ
VD: Số đỏ đặt ra vđề XH rất lớn là vđề Âu hóa; ông khai thác nó
từ góc độ tiếng cười trào phúng ta thấy cả 1 XH “chó  đểu”
40 - 45: nhạy cảm với vấn đề con người (Nam Cao); CNHT cắt nghĩa và lí giải Page | 16
VD: những nhân vật của Ncao, ông đào sâu vào đời sống, diễn biến tâm lí
của nhân vật, trong khi gđoạn 36-39 ta ít thấy hiện lên vđề tâm lí.
B. ĐÓNG GÓP CHO TIẾN TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA:
- Quy mô phản ánh hiện thực:
o VHLM: phản ánh hiện thực tầng lớp trung lưu và đô thị VN
o VHHTPP: mở rộng quy mô phản ánh, miêu tả mọi số phận, cảnh đời, bao quát
không gian xã hội rộng lớn từ nông thôn đến thành thị - Nhân vật:
o VHLM: nhân vật ở bên trên, bên ngoài hoàn cảnh (Giang Văn Giăng, Huấn Cao)
o VHHT: nhân vật ở trong mối quan hệ với hoàn cảnh, nhân vật chính diện lí
tưởng biến mất, khai thác hai kiểu nhân vật chính: phản diện và tha hóa. Nhân
vật luôn có sự vận động mà chính nó không lí giải được (logic có tính chất quyết định) - Ngôn ngữ:
o Tự lực văn đoàn: trong sáng, tinh tế, sách vở -> dễ sáo
o VHHT: khẩu ngữ, xô bồ nhổn nháo, bụi bặm => tính cá thể hóa cao độ.
 Mặc dù hướng đến bức tranh toàn cảnh nhưng VHHT vẫn quan tâm đến những con
người nhỏ bé dưới đáy XH, không chỉ đồng cảm mà còn trân trọng => khuynh
hướng hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo luôn kết hợp nhuần nhuyễn. VĂN HỌC CÁCH MẠNG
- Văn học yêu nước cách mạng hải ngoại (Nguyễn Ái Quốc ở Pháp và Phan Bội Châu ở TQ).
Bút pháp nghệ thuật cao nhưng phần lớn không được người đọc Việt Nam tiếp nhận,
tác động đến lịch sử văn học
- Văn học yêu nước cách mạng trong nước (thơ ca Xô Viết Nghệ Tĩnh, thơ ca trong tù
và vai trò của Tố Hữu). Tính chất tuyên truyền cổ động, hầu như không có văn xuôi, chỉ có văn vần
Đội ngũ sáng tác: nhà CM không sáng tác ở môi trường chuyên nghiệp, sáng tác
bằng kinh nghiệm truyền thống là chính. Tâm sự cao cả, nhiều vần thơ khí phách
nhưng không cập nhật với sự thay đổi tiến tình hiện đại hóa
Bước ngoặt: 1938 – hiện tượng Tố Hữu. Là học sinh trường Pháp Việt nên chịu
ảnh hưởng đậm của văn hóa Pháp. Khi bắt đầu sáng tác, Thơ mới cũng đạt tới độ
chín viên mãn của nó. Tố Hữu tiếp thu thành tựu Thơ mới, dùng nó để thể hiện lí tưởng, nhiệt tình CM
Nhờ Tố Hữu, VHCM không bị phong bế đưa VHCM ra nhập dòng chảy lớn:
VH yêu nước. Thơ Tố Hữu: Thơ mới + nhiệt tình CM Page | 17
2. Văn học hình thành hai bộ phận (công khai và không công khai), và phân hóa
thành nhiều khuynh hướng, nhiều trào lưu, vừa đấu tranh, vừa bố sung cho nhau để cùng phát triển
Bộ phận văn học công khai
- Là bộ phận văn học hợp pháp tồn tại trong vòng pháp luật của chính quyền thực dân
phong kiến. Những tác phẩm này có tính dân tộc và tư tưởng lành mạnh nhưng không
có ý thức cách mạng và tinh thần chống đối trực tiếp với chính quyền thực dân
- Bộ phận văn học công khai phân hóa thành hai khuynh hướng: Lãng mạn; Hiện thực - Các
khuynh hướng đấu tranh với nhau : Lãng mạn và hiện thực khác nhau ở cái
nhìn và sự phản ánh thế giới:
o Lãng mạn: Đào sâu vào thế giới chủ quan
o Hiện thực: Phản ánh thế giới khách quan  Nguyên nhân:
o Sự khác biệt về tư tưởng, lập trường của người sáng tác
o Sự khác biệt giữa hình thức thể hiện
o Sự thúc bách của thời đại, sự cạnh tranh của thị trường văn hóa: thời kì văn
chương trở thành một thứ hàng hóa, viết văn trở thành một nghề kiếm sống, các
tác gia phải cạnh tranh sức ảnh hưởng trên văn đàn, phải viết khác để tạo lập bản sắc  Đấu tranh:
o Nam Cao phê phán khuynh hướng thoát li
o VTP: Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết, còn tôi và các nhà văn cùng
chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời
o Thơ mới: có khuynh hướng thoát li hiện thực đời sống
 Thời kì này đã xuất hiện các khuynh hướng nghệ thuật thật sự.
- Các khuynh hướng bổ sung cho nhau cùng p hát triển :
o Hiếm có tác phẩm nào thuần túy lãng mạn hay hiện thực, hai tinh chất này luôn
đan cài, sự khác biệt chỉ ở mức độ đậm – nhạt
o Lí giải: Dẫu là LM, HT hay CM thì đều nằm trong bầu khí quyển của văn học
thời kì ấy. Việc chia các khuynh hướng không khiên cưỡng mà uyển chuyển, mềm dẻo
o Vd: sáng tác Nam Cao vẫn đầy tính lãng mạn. Sáng tác Thạch Lam đầy tính hiện thực
3. Văn học phát triển mau lẹ
- “Ở nước ta, một năm đã có thể kể như 30 năm của người” (Vũ Ngọc Phan)
- Nhịp độ phát triển về số lượng
Trong 15 năm giai đoạn kết tinh, khối lượng tác phẩm vô cùng đồ sộ trên nhiều thể
loại: thơ, tiểu thuyết, kịch, phóng sự, lí luận phê bình
+ Nguyễn Công Hoan: mấy trăn truyện ngắn, hàng chục truyện dài Page | 18
+ Vũ Trọng Phụng: mất năm 27 tuổi nhưng để lại 7 phóng sự, 8 tiểu thuyết
+ Lê Văn Trương: sản xuất dăm chục tiểu thuyết trong mấy năm
- Văn học phát triển chất lượng:
+ Thời kì 30 – 45: có sự phát triển vượt bậc về chất lượng
+ Thời đầu thế kỉ: vẫn còn lối viết biền ngẫu, thiếu tự nhiên
+ Giai đoạn 30 – 45: hành văn hiện đại, có giá trị thẩm mĩ cao TẢN ĐÀ I.
TIỂU SỬ - CON NGƯỜI
- Tản Đà (Nguyễn Khắc Hiếu) sinh ngày 25 – 5 – 1889 (20 tháng 4 năm Kỷ Sửu, Thành
Thái nguyên niên) tại làng Khê thượng, huyện Bất bạt, tỉnh Sơn Tây nay là thôn Khê
thượng, xã Sơn Đà, huyện Ba Vì – Hà Nội. Nguyên quán: làng Lu (tức Kim Lũ) huyện
Thanh Trì Hà Nội. Mất ngày 7 – 6 – 1939 (20 tháng 4 âm lịch)
- Dòng họ có truyền thống khoa bảng. Thân phụ Nguyễn Danh Kế, Án sát Ninh Bình.
Anh ruột Nguyễn Tái Tích đỗ phó bảng, tri huyện sau đổi sang ngạch Học quan giữ chức giáo thụ.
- Mẹ: Nhữ Thị Nghiêm một đào hát tài sắc Nam Định, lấy lẽ Nguyễn Danh Kế khi ông
làm quan tri phủ Xuân Trường, hát hay, có tài làm thơ Nôm. Tản Đà là con trai út của
cuộc lương duyên giữa tài tử và giai nhân
3 nỗi buồn lớn trong cuộc đời Tản Đà: nỗi buồn gia đình, nỗi buồn tình duyên, nỗi buồn công danh dang dở
Nỗi buồn gia đình: - Cha mất sớm
- Mẹ vì bất hòa trở lại nghề ca xướng cùng con gái út “đem thân con gái nhà khuê các,
đắp đôi tháng ngày bằng điệu phách câu ca”
- Tản Đà vốn nung đúc ở trong đạo Khổng Mạnh, cho là một sự không chính đáng,
khiến tâm cảnh tiên sinh lúc nào cũng u uất, đau đớn, buồn rầu, không muốn biết đến, không muốn nói ra
Nỗi buồn tình duyên:
- Năm 1907 (19 tuổi), yêu con gái tư sản Đỗ Thận ở Hàng Bồ, mối tình đầu rất sâu sắc
- Năm 1908 (20 tuổi) ông Nguyễn Tái Tích về giáo thụ ở phủ Vĩnh Tường, tri huyện là
Vũ Duy Kiểm mời ông Tích mở lớp dạy học, làm nhà học ba gian lớp lá. Trong số học
trò có con gái út của ông Kiểm là cô út Vinh, một cô gái “đàn hay chữ tốt, thường cưỡi
ngựa bắn súng, mặc yếm nhiều đào, cài bông hoa trắng, chân đi giày thoa”. Út Vinh và
ấm Hiếu có tình cảm, mặc dù ấm Hiếu phải học thi để có thể lấy được con gái Đỗ Thận làm vợ.
- 1909 (21 tuổi), thi trượt Hương Page | 19
- Năm 1912, Mùa xuân, thi Hậu bổ trượt, mùa thu thi hương trượt, vội về Hà Nội lại
thấy cảnh người yêu ở Hàng Bồ lên xe hoa:
Vì ai cho tớ phải lênh đênh
Nặng lắm ai ơi một gánh tình

- Mùa đông về Nam Định, ở nhà một người quen thân với ông Nguyễn Tái Tích, có câu
chuyện tình cảm với một nữ sinh 13 tuổi, ghi lại trong Kỉ niệm hái hoa đào, Chép mộng…
Nỗi buồn công danh dang dở:
- Nổi tiếng thần đồng:
Xuân xưa bảy, tám, chín, mười tuổi
Văn chương ta mới làm câu đối
Đến xuân mười một học làm thơ
Xuân 14 tuổi văn đủ lối
- Trượt thi Hương năm 1909:
Sang năm hăm mốt học đi thi
Thi tại trường Nam lọt một kì

Kỳ luận hỏng vì vua Hạ Võ
Hỏng thi càng học để đi thi
- Năm 1912:
Xuân 24 tuổi thi ấm sinh
Tên đỗ thứ ba, đăng nhật trình
Hậu bổ thi luôn, hỏng vấn đáp

Chữ Pháp thất bại đường công danh
Xuân qua thu lại, lại đi thi
Nam Định bay luôn đệ nhất kì
Càng học để thi, thi cứ hỏng
Thi tàn, học cũng tàn theo thi
- 1915, có tác phẩm đăng trên Đông Dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh, nhanh chóng
có được tiếng vang -> “một lối văn Nôm”
- 1916, bút danh Tản Đà và chính thức chọn con đường viết văn, làm báo chuyên
nghiệp. Từ 1916 – 1926 – những năm tháng đắc ý nhất, liên tiếp cho xuất bản: Khối
tình con I (1916), Giấc mộng con I (1917), Khối tình con II (1918), Đài gương, Đàn
bà Tầu, Thần tiền, Lên sáu (1919), Lên tám (1920), Còn chơi (1921), Tản Đà tùng vãn
(1922), Thề non nước (1922), Truyện thế gian I và II (1923), nhuận sắc Truyện Tỳ bà
(tuồng) của Đoàn Tự Thuật và dịch Đại học (1922), Kinh thi (1924)
- 1926 đến 1933 bỏ hết tâm sức vào việc làm báo với kì vọng vào một sự nghiệp văn
chương “có bóng mây hơi nước đến dân xã”. Sự lạc điệu của nhà nho Tản Đà với môi
trường đô thị bắt dầu bộc lộ rõ rệt Page | 20
- Từ 1933 đến cuối đời, làm trợ bút cho các báo, dịch thơ Đường cho tờ Ngày nay, dịch
Liêu trai, quảng cáo chữa văn, xem số Hà Lạc… Vì sinh kế nhai phải trôi dạt nhiều
nơi: vào Nam, ra Hà Nội, về quê, ra Quảng Yên rồi lại về Hà Đông
- Mất tại Ngã tư sở, ngày 7 tháng 6 năm 1939, trong cảnh bần bách, để lại vợ và đàn con
mà theo lời thuật của Nguyễn Tuân “vừa yếu lại vừa đuối”
- Vũ Bằng: những ngày cuối đời của Tản Đà là “địa ngục nơi trần thế”: “Đó là thời kì
hết ở Bạch Mai mở lớp Hán văn diễn giảng mà không có học trò, lại về Hà Trì dịch
thơ Đường và Liêu Trai, rồi rút về làm nghề xem số Hà Lạc, mà không có khách, sau
rốt vì không có tiền trả tiền nhà, bị chủ đưởi, phải rút về Cầu mới (Ngã tư sở) với một
tấm thân tàn phế, trên một căn gác nhỏ thiếu rượu, thiếu ăn, thiếu cả thuốc thang, bè bạn”. 2. Con người:
- Nửa cuộc đời sau: môi tường đô thị và chịu ảnh hưởng của lối sống thị dân
- Nhưng về cơ bản, cốt cách của một Nhà nho tàu tử vẫn rất đậm nét: đa tình, phóng túng, ngông ngạo
- Bậc trích tiên trong mắt đương thời. Ngay cả khi những sáng tác của Tản Đà không
còn sự hấp dẫn, sự hấp dẫn đến từ con người thực của Tản Đà vẫn không hề giảm sút,
Lưu Trọng Lư: “con người Nguyễn Khắc Hiếu chính là cái tác phẩm tuyệt xảo, một
bài thơ hay nhất trong sự nghiệp của Tản Đà” Nhà nho hành đạo Nhà nho tài tử
Có tính chất chính thống, coi văn chương có Có xu hướng thoát li chính thống, ước mơ
quan hệ đến đạo lí cương thường
thoát khỏi cảnh bụi bậm của cuộc đời, sự tù
Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thì túng của xã hội phong kiến, của lễ giáo
Nhậm, Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Phạm Thái, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ,
Khuyến, Nguyễn Thượng Hiền, Phan Bội Cao Bá Quát, Tản Đà Châu Ra đời sớm hơn
Ra đời muộn hơn, gắn với sự phát triển của
đô thị, văn chương cuả nhà nho tài tử không
nhiều, nhưng phát triển thành dòng riêng
Coi đạo đức là nền tảng giá trị của con Coi tài tình là giá trị của con người: đa tài, đa người. tình
Tài tử quan niệm tài có nhiều cách: tài kinh
Nho giáo không tán thành đa tình vì tình gắn luân như Nguyễn Công Trứ, tài học vấn như
với dục, không phải tình dục mà là dục vọng, Cao Bá Quát, nhưng dù là tài gì thì cũng phải
sự ham muốn, say mê, do đó , Nho giáo gắn với tình
khuyến khích con người tiết dục, giữ gìn tình
Rắp mong treo ấn từ quan
cảm mực thước, trọng lễ nghĩa
Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng qua
Trong những thứ tình thứ dục, Nho giáo sợ Vì tình từ bỏ, điều không có ở nhà Nho hành
nhất là đàn bà và tình yêu, vì đó là thứ tính đạo
mạnh nhất, thứ dục thiết tha nhất thứ đam mê Tình ở người tài tử đa tình không chỉ là say Page | 21 dai dẳng nhất
mê sắc đẹp mà còn là dễ xúc động, nhiều tình
Người con gái được đề cao ở sự nết na công cảm, nhưng vì nhiều tình cảm mà họ dễ bị lôi
dung ngôn hạnh chứ không phải là sự sắc cuốn vì sắc đẹp, do đó họ có nhiều xúc động
đẹp. Dung là giữ cho nét mặt dịu dàng, thùy với những người tài sắc. mị II.
KIỂU NHÀ THƠ GIAO THỜI: TỪ NHÀ NHO TRỞ THÀNH NGƯỜI SÁNG
TÁC CHUYÊN NGHIỆP VÀ QUAN NIỆM VỀ VĂN HỌC CỦA TẢN ĐÀ
1. Từ nhà nho trở thành người sáng tác chuyên nghiệp

a. Từmộtnhànho
- Lộ trình vào đời: học hành – đi thi – làm quan => bài bản, con đường lập thân duy
nhất của người đàn ông trong xã hội phong kiến, giấc mơ quan trạng trở thành giấc mơ
lớn của cả một thế hệ kẻ sĩ
- Thất bại liên tiếp trong 2 kì thi Hương: 1909, 1912 khiến Tản Đà chán nản, bi phẫn.
1915: khoa thi chữ Hán cuối cùng của miền Bắc chính thức làm phá sản lối vào đời
truyền thống của Tản Đà. Giấc mộng công danh đỗ vỡ, nhà nho Tản Đà bị mất cơ hội
đánh cược vào khoa cử, trượt ra khỏi quỹ đạo truyền thống, hoàn toàn mất phương hướng trong hành xử
 Trở thành nhà văn nhà báo chuyên nghiệp là một sự lỡ :
dở Chữ nghĩa Tây Tàu trót dơ
dang/ Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng (Đề “Khối tình con” thứ nhất)
b. Đếnmộtnhàvănchuyênnghiệp
- Chỉ thực sự lựa chọn con đường kiếm sống bằng ngòi bút vào năm 1916 – năm bước
ngoặt trong sự nghiệp của Tản Đà. Đây là năm ông lấy hiệu Tản Đà:
“Nước rợn sông Đà con cá nhảy
Mấy trùm non Tản cái diều bay”

“Văn chương thời hôm nay Thú chơi có sơn hà Tản viên ở trước mặt Đà giang bên cạnh nhà Tản Đà!”Kiểu
nhà thơ giao thời. Tản Đà đến với nghề văn muộn màng nhưng rất cương quyết
Cơ sở để Tản Đà trở thành nhà văn chuyên nghiệp: - Khách quan:
 Sự va chạm với văn minh phương Tây
 Sự ưu việt của Tây phương, sự thất thế của cựu học đã mở ra những kì vọng
mới cho những lựa chọn lập thân mới
 Từ sau những năm 1910, viết văn làm báo đã trở thành một nghề
 Danh phận của người viết văn làm báo được thừa nhận và xem trọng Page | 22
 Danh hiệu nhà báo (kí giả) lúc đó rất quan trọng, có thể xếp ngang với tầng lớp
quan lại ưu tú. Với quốc dân, nhà báo được xem là bậc sư đạo, với chính phủ
nhà báo có tác động lớn.
 Phạm Quỳnh: “Các nước Âu Mĩ trọng các nhà văn sĩ hơn các bậc đề vương vì
cái công nghiệp tinh thần còn có giá trị quý báu và ảnh hưởng sâu xa hơn là
những sự nghiệp nhất thời về mặt chính trị” (Nam Phong tạp chí số 30)
 Sự đổi thay của thời đại cuộc đem đến sự hấp dẫn cho sự lựa chọn mới - Chủ quan;
 Ngay từ bài tản văn đầu tiên trên Đông Dương tạp chí, Tản Đà đã được tán thưởng đặc biệt
 Một loạt những bài tản văn tiếp theo: Cái chùa trong bụng người, Giả ngày, Giả
người, Giải sầu đưa lại cho Nguyễn Khắc Hiếu một địa vị danh tiếng trong văn đàn
 Quan niệm LẬP NGÔN của kẻ sĩ
 Tản Đà đã mạnh dạn để đến văn học chuyên nghiệp một cách quyết liệt và triệt để
Con người chuyên nghiệp dở dang
Con đường trở thành nhà văn chuyên nghiệp về sau càng quanh co, chung cuộc thành dở dang
- Xuất phát điểm của một nhà Nho và giấc mộng bất thành khoảng đầu đời vẫn tồn tại
âm thầm, tạm bỏ quên chứ không hoàn toàn dứt bỏ
- Mục đích giáo huấn, truyền bá thiên lương – mục đích của văn học nhà Nho Tản Đà
rất mực đề cao, thậm chí coi như mục đích tối thượng cho hoạt động sáng tác
- Từ 1926 trở đi, Tản Đà bỏ hẳn những sáng tác thuộc hệ thống văn chơi để chuyển
sang viết báo truyền bá thiêm lương theo đuổi giấc mộng giáo hóa
 Xa rời quỹ đạo của nhà văn chuyên nghiệp để bị hút về lực tư tưởng của kiểu văn học nhà nho truyền thống
- Sự “lại giống” (Trần Đình Hựu) nay khiến Tản Đà không những đánh mất độc giả mà
còn đánh mất sự đổi mới văn học theo hướng hiện đại
 Tản Đà là nhà thơ giao thời, người dạo bản đàn cho khúc nhạc tân kì chứ chưa thể
nhập hoàn toàn vào bản đồng ca tân kì ấy được
2. Quan niệm của Tản Đà
a. Tínhhiệnđạitiênphong
“Còn non còn nước còn trăng gió/ Còn có thơ ca bán phố phường (1916 – lời đề tựa cho ) Khối tình con I
- Tản Đà đã khai sinh một loại hình nhà văn mới: nhà văn chuyên nghiệp – đem đến
một danh phận mới cho nhà văn
- Tản Đà đem đến một thuộc tính mới cho thơ ca: thuộc tính hàng hóa. Văn học được
đặt trong một không gian mới: không gian đô thị Page | 23
- Thị hiếu độc giả luôn thay đổi vừa tạo áp lực kích thích nhà văn sáng tạo khắc nghiệt
của nghề viết, cũng tạo nên vị trí của nhà văn
- 1909, khi Nguyễn Khuyến mất, vẫn ung dung làm một thị bá suốt đời, tại vị với danh hiệu Tam Nguyên Yên Đồ
- 1916 khi Tản Đà viết giấc mộng con, được tặng 1000 Đông Dương đồng.
- 1933, khi tạp chí bị đình bản, Tản Đà phải đăng báo: chữa thơ cho thiên hạ, mỗi tháng
bán phí lấy 1 đồng (Khi làm chu báo lúc viết mướn (Tiễn ông Công lên chầu trời)
- Thế Lữ: làm bá chủ thi đàn 1935 nhưng 1938 đã viết lời đề tựa cho tập Thơ Thơ như
một lời thoái vị, người ta không còn đọc Thế Lữ
- Đến Tản Đà, mới xuất hiện những điều kiện khắc nghiệt của thị trường: Bao nhiêu củi
nước mới thành văn/ Được bán văn ra chết mấy lần/ Ông chủ nhà in in đã đắt/ Lại
ông hàng sách mấy mươi phân
(Lo văn ế). Văn chương hạ giới rẻ như bèo. Kiếm được
đồng lãi thực rất khó

- Những tác phẩm xoay quanh để tái du kí, tình ái, sầu muộn trong Khối tình con I, II. 1
phần xuất phát từ cá tính sáng tạo của Tản Đà, mặt khác có sự kích thích từ thị hiếu
độc giả ở môi trường đô thị
- Đằng sau sáng tác văn học là nhu cầu, thị hiếu mới của thời đại, người cầm bút khi đã
dấn thân vào con đường chuyên nghiệp đều phải chịu tác động của chúng
 Tản Đà đã đi từ lối viết văn, làm thơ của nhà Nho sang lối viết văn, làm thơ của một
nhà văn, nhà báo chuyên nghiệp
b. Tínhcổđiểntruyềnthống
- Nhấn mạnh chức năng giáo huấn của văn chương
Hai chữ thiên lương thằng Hiếu nhớ/ Dám mong không phụ Trời trông mong (Tiễn ông Công lên hầu trời)
Trời rằng: không phải trời đây/ Trời định sai con một việc này/ Là việc thiên lương của
nhân loại/ Cho con xuống thuật cùng đời hay
(Hầu trời)
“Văn chương có trọng giá, không phải là một sự đùa vui trong ý thức, không phải là sự
mua vui trong phẩm bình, mà phải cóc bỏng mây hơi nước đến dân xã… Sao cho nhân
tâm, phong tục, được thuần chính, dân trí tư tưởng được khai minh, là chức trách của ngòi bút đại văn gia”
 Giá trị của văn chương là ở chức năng giáo huấn. Tản Đà vẫn khắc khoải lí tưởng của
văn học trung đại: văn dĩ tải đạo
- Phân chia các thể loại văn học:
Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
Hai quyển Khối tình văn thuyết lí
Thần tiên, Giấc mộng văn tiểu thuyết
Đài gương, Lên sáu văn vị đời Page | 24
Sự trọng thị của Tản Đà với loại văn vị đời. Mặc dù thành danh với giấc mộng con nhưng
trong quan niệm, Tản Đà không xem trọng tiểu thuyết như tản văn. Văn vị đời – có bóng
mây hơi nước đến dân xã – mới là thể loại mà Tản Đà xem trọng. III.
BẢN SẮC CÁI TÔI CÁ NHÂN CỦA TẢN ĐÀ 1. Cái tôi ngông Trong đời sống:
 Ngông là những lời nói, chủ chỉ, hành động ngang tàng, khác đời, trái với cái
thông thường, vượt những quy chuẩn xã hội, biểu hiện thành thái độ sống ngạo
nghễ, khinh bạc (Nguyễn Công Trứ cưỡi bò thay vì cưỡi ngựa, đeo mo cau nói
rằng che miệng thế gian…)
 Không phải ai cũng ngông được. Nó xuất phát từ ý thức sâu sắc về cá tính, tài
năng của cá nhân. Con người càng tài năng càng muốn bất chấp khuôn khổ
Trong văn học: Vấn đề ngông gắn với sự phát triển của con người cá nhân, gắn với ý
thức cao về bản ngã, muốn được thi tài, khoe tài. Ở văn học trung đại, khái niệm ngông
chỉ xuất hiện ở các nhà Nho tài tử (Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát,…) khi ý thức cá
nhân đã manh nha phát triển
Tản Đà nhiều lần nói đến chữ ngông: Thiên tảo tra sổ xét vừa xong/ Để sổ lên trình
thượng đế trông/ Bẩm qua có tên Nguyễn Khắc Hiếu/ Đày xuống hạ giới về tội ngông
a. Lốisốngthịtài,khoetài
- Khoe văn tài: Văn dài hơi tốt ran cung mây/ Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay/ Tảm
như nở dạ, Cơ lè lưỡi/ Hằng Nga, Chức nữ chau dồi mày/ Song thành, Tiêu Ngọc lắng
tai đứng/ Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay: Văn đã giàu thay, lại lắm lối/ Trời nghe Trời
cũng bật buồn cười/ Chư tiên ao ước tranh nhau dặn/ Anh gánh lên đây bán chợ Trời.
Trời đã phê cho: Văn thật tuyệt/ Văn trần được thế chắc có ít/ Lời văn chuốt đẹp như
sao băng/ Khí văn hùng mạnh như mây chyên/ Êm như gió thoảng, tính như sương/
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết

 Ngông ngay trong cách khoe tài, không tìm được tri kỉ nơi hạ giới: Văn chương
hạ giới rẻ như bèo, phải lên trời tìm tri âm
 Sự thừa nhận, khen ngợi của trời: sự thừa nhận tối cao
 Trời khen, không có sự kiêm nghiệm – cũng chính là cách biểu hiện khác của
việc tự khen mình => cách biểu thị ngông thường thấy của văn nhân
- Ngông là một phản ứng với xã hội: Thi không đỗ: Tự trào
Sau khi hỏng thi ở trường Nam Định
Vùng đất Sơn Tây nay một ông Page | 25
Tuổi chưa bao nhiêu văn rất húng
Sông Đà núi Tản ai hun đúc?
Bút thánh câu thần sớm vãi vung
Chữ chữ nôm nôm nào kém cạnh
Khuyên khuyên điểm điểm có hay không?
Bởi ông hay quá ông không đỗ
Không đỗ ông càng tốt bộ ngông (1912)
 Phản ứng với chế độ khoa cử bất công có thể coi đây là khởi nguyên của ý thức cá hân trong văn học
b. Thisĩcủasayvàchơi
- Ngông bộc lộ qua những văn thơ say:
Say sưa nghĩ cũng hư đời/ Hư thời hư vậy, say thời cứ say/ Khi say quên cả cái đinh phù
du/ Trăm năm thi sĩ tửu đồ là ai?/ Công danh sự nghiệp mặc đời/ Bên thời be rượu bên
thời bài thơ/ Trời đất sinh ta rượu với thơ/ Không thơ không rượu sống như thừa
- Cái ngông bộc lộ qua sự ham thích những thú chơi:
 Tản Đà là thi sĩ tôn thờ khoái lạc (Còn chơi) – Ai đã hay đầu tớ chán đời/ Đời chưa
chán tớ, tớ còn chơi/ Chơi cho thật chán, cho đời chán/ Đời chán nhau rồi, tớ sẽ
thôi/ Chơi cho thật chán, cho đời chán/ Đời chán nhau rồi, tớ sẽ thôi/ Chơi cho biết
mặt sơn hà/ Cho sơn hà biết ai là mặt chơi/ Chơi xuân kẻo hết xuân đi/ Cái già sồng sộc nó thù theo sau
 Tôn ăn chơi thành thứ vận nghiệp của đời mình: Trăm năm hai chữ Tản Đà/ Còn
sông còn núi còn là ăn chữ, Trời sinh ra bác Tản Đà/ Quê hương thời có cửa nhà
thời không/ Nửa đời Nam Bắc Đông Tây/ Bạn bè sum họp vợ chồng biệt li
 Chơi gắn với cái tôi cá nhân: sự phản ứng lại tuyền thống khắc kỉ phục lễ của nhà
Nho, gắn với triết lí hưởng thụ
2. Cái tôi sầu mộng a. Sầu
Sầu nhân thế: Mạch sầu của Tản Đà bắt nguồn từ mạch sầu truyền thống:
- Xuất phát từ ý thức của con người thời trung đại: con người chỉ là một bộ phận trong
cái toàn thể, luôn khắc khoải ta là ai: Tiến bất kiến cố nhân/ Hậu bất kiến lại giá/ Niêm
thiên địa chí du du/ Độc thượng nhiên nhi lệ hạ (Trần Tử Ngang), Nghìn năm ta là ai
(Nguyễn Khuyến), Ba ngàn thế giới ta là vô danh (Tú Xương), Ta là ai (Chế Lan Viên)
- Sầu về kiếp người ngắn ngủi
 Tản Đà chấp nhận bi kịch này như một tất yếu của kiếp người, không còn dằn
dỗi ông chỉ ngậm ngùi than thở:
Ấy ai quay tít địa cầu/ Đầu ai nửa trắng nửa pha mầu xuân xanh/ Trông gương
mình lại ngợ mình/ Phải chăng vẫn giống đa tình ngày xưa (Bài hát xuân tình) Page | 26
- Càng về sau này, cảm giác về sự hữu hạn của kiếp người càng giày vò, khiến ông bâng
khuâng trước cảnh tượng bông hoa: Đương ở trên cành bỗng chốc rơi (Hoa rụng);
chạnh lòng trước ngôi mả cũ ven đường: Tài cao phân thấp chí khí uất/ Giang hồ mê
chơi quên quê hương; ngao ngán, thậm chí hoảng sợ khi phải đối diện với thực cảnh:
Tuyết nhuộm đầu xanh, tóc bạc phơ (Thơ thẩn)…; ý niệm về kiếp người ngắn ngủi:
Vèo trông lá rụng đầy sân (so sánh với lá vàng trước gió khẽ đưa vèo): Thương thay
xuân chẳng đợi chờ/ Tiếc thay xuân những hững hờ với xuân/ Trăm nghìn gửi lại đồng
xuân/ Hãy khoan khoan tới hãy dần dần lui
- Mài sắc cảm nhận về thời gian khiến Tản Đà ngay khi khai thác những vấn đề thời
gian khiến Tản Đà ngay khi khai thác những vấn đề quen thuộc vẫn có được những nét
riêng trong cách khai triển tứ thơ và phô diễn cảm xúc
 Hệ thống ngôn từ và thi liệu vẫn là của truyền thống nhưng cảm nhận thời gian đã báo
trước những từ thơ chất đầy ám ảnh thời gian trong thơ mới sau này So sánh:
Ao thu lặng lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu béo tẻo teo Nào những ai
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí Kê vàng tỉnh mộng
Là vàng trước gió khẽ đưa vèo Tóc bạc thương thân
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Vèo trông lá rụng đầy sân
Ngố trúc quanh co khách vắng teo
Công danh phù thế có ngần ấy thôi
Tựa gối ôm câu lâu chẳng được/Cá đâu
đớp động dưới chân bèo
Vị trí của 2 chữ “vèo” nằm ở 2 vị trí khác trong câu thơ: Nguyễn Khuyến Tản Đà
“Vèo” trong Thu điếu nằm ở cuối (kết thúc 1 “Vèo” đứng đầu câu, phía sau của nó là cả 1 ý thơ) ý thơ chưa khai thác.
Là 1 nét chấm phá của bức tranh thiên nhiên Nhân vật trữ tình bàng hoàng trước tốc độ
=> bút pháp lấy động tả tĩnh, gợi sự thanh của sự tàn lụi. tịnh của cảnh vật.
Thiên về cảm hứng ko gian
Nhấn mạnh tốc độ của thời gian: cảm thức về
thời gian, nhà thơ cảm nhận thời gian chảy trôi 1 cách nhanh chóng.
Sầu thời thế:
- Hình ảnh đất nước luôn canh cánh trong thơ Tản Đà: hình ảnh bức dư đồ rách - ẩn dụ
cho đất nước những năm đầu thế kỉ XX Page | 27
 Hình ảnh của bức Dư đồ rách: Vịnh Bức Dư Đồ Rách:
Nọ bức dư đồ thử đứng coi/ Sông sông núi núi khéo bia cười!/ Biết bao lúc mới công
vời vẽ/ Sao đến bây giờ rách tả tơi?/ Ấy trước ông cha mua để lại/ Mà sau con cháu
lấy làm chơi/ Thôi thôi có trách chi đàn trẻ/ Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi
”.
Tản Đà mang bức Dư đồ rách đi khắp 3 miền đất nước, nhưng: Bức dư đồ rách đã
cam khó lòng/ Văn chương chút nghĩa đèo bòng/ Thuyền không tay lái vẫy vùng được
sao/ Ngày xuân thêm tuổi càng cao/ Non xanh nước biếc càng ngao ngán lòng!

 Hình ảnh non – nước : Thề non nước:
Non cao những ngóng cùng trông
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày
Xương mai một năm hao gầy
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương
Trời Tây ngả bóng tà dương
Càng phơi về ngọc, nét vàng phôi pha
Sầu thân thế :
- Vì ai tớ phải lênh đênh/ Nặng lắm ai ơi một gánh tình
- Tổng kết về sự lỡ dỡ, thất bại của cuộc đời : Khi làm chủ báo lúc viết mướn/ Hai chục
năm dư cảnh không cùng/ Trần gian thước đất vẫn không có/ Bút sắt chẳng hơn gì bút
lông/ Ngày canh như ngựa đầu xanh bạc/ Chán cả giang hồ hết cả ngông
(Tiễn ông Công lên chầu trời)
 Việc những chất liệu có tính chất tiểu sử đi vào tác phẩm văn học qua cửa ngõ của cái
sầu cho thất sầu là một phương tiện để cái Tôi thân thế của Tản Đà xuất hiện với tư
cách là một cái Tôi cá nhân được ý thức.
Sầu gắn với nỗi cô đơn :
- Cô đơn trong văn học truyền thống
 Thời trung đại : cô đơn gắn với tâm sự ưu thời mẫn thế: ý thức về phân vị đặc
tuyển, tinh thần tự nhiệm làm nên những nỗi « tiên ưu » (Nguyễn Trãi), những
cảnh ngộ « ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ » (ta có tấc lòng không biết nói cùng ai – Nguyễn Du)
 Về sau, nỗi cô đơn trong VH trung đại gắn với nỗi thương thân xót mình, đậm
màu sắc ưu phiền, nặng nề, thậm chí là bi lụy VD:
Nguyễn Trãi : « Bui có 1 lòng trung với hiếu/ Mài răng khuyết nhuộm trăng đen »
Ở văn học tk 18, con người cá nhân đã manh nha phát triển. VD: Nguyễn
Du có đoạn trích « Nỗi thương mình » ta thấy NDu thể hiện rõ « giật mình mình
lại thương mình xót xa
»
Bi lụy : Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn (HXH)
- Đến Tản Đà cái cô đơn bắt đầu có những nét mới lạ trong cách phô diễn: Page | 28
+ Ngay khi bi lụy nhất , Tản Đà cũng thiên về cái réo rắt buông lơi. Tâm sự cô đơn
không nén lại, u uẩn mà chỉ như một hơi thở nhẹ thoát, bàng lảng :
+ Chiều quá khách chơi về đã vãn/ Gốc cây thơ thẩn một mình ngồi (Chơi trại hàng
hoa), Mạch sầu canh vắng như tuôn/ Nhớ ai nước nước non non bạn tình (Đêm đông
hoài cảm), Những ai mặt biển chân giời/ Nghe mưa ai có nhớ nhời nước non (Mưa thu đất khách)
+ Nỗi cô đơn trong điều sầu man mác và không hiếm khi nó được vờn vẽ trong 1
khung cảnh thiên nhiên đầy gợi cảm :
« Con đường vô hạn khách Đông Tây/ Ta nhớ ai mà đứng mãi đây » (Quê nhà chơi mát cảm hứng)
« Suối tuôn róc rách ngang đèo/ Gió thu bay lá bóng chiều về tây/ Chung quang
những lá cùng cây/ Biết người tri kỉ đâu đây mà tìm
» (Vô đề)
 Cái cô đơn không còn thích thú với cung bậc bi thương, chất chứa vẫn thường gặp
trong thơ cô điển mà bắt đầu hướng tới cái du dương, êm ái thi vị đầy mới mẻ
 Báo trước cho cái tôi – cảm xúc và sự say mê đặc biệt với những cô đơn, sầu khổ
của thơ ca giai đoạn tiếp theo b. Mộng:
- Dòng văn học mộng từ xưa cho đến nay
- Mộng đi vào văn chương từ rất sớm :
+ Phương Tây gồm có thần thoại Hi Lạp, kịch Shakespeare : giấc mộng đêm hè.
+ Phương Đông : Trang Tử, Hồng Lâu mộng, Liêu trai chí dị, một kho điển cố điển tích về mộng.
+ Ở Việt Nam : truyện dân gian, Từ Thức gặp tiên, Lưu Nguyễn gặp thiên thai, Kiều
gặp Đạm Tiên, Nguyễn Công Trứ : Ôi nhân sinh là thế ấy, như bóng đèn/ Như mây
nổi, như gió thổi, như chiêm bao

- Qua mộng, tác giả thể hiện :
+ Quan niệm nhân sinh : đời là mộng : Xử thế nhược đại mộng/ Hổ vi lao kỉ sinh (Ở đời
như giấc mộng/ tội chi vất vả mình).
 Đời người như giấc mộng : đời người ngắn ngủi phù du, hạnh phúc là thứ dễ tan
biến : bích câu chi quá khích (Đời người như bóng câu qua cửa sổ - Lão Tử). Lưu
Nguyễn gặp Thiên thai : cuộc đời là giấc mộng, hư ảo, phù vân.
 Hồng Lâu mộng giấc mộng lầu hồng – cuộc sống phú quý, vàng son rồi cũng qua
như giấc mộng, vật đổi sao dời Page | 29
+ Mộng là phương tiện của tư duy nghệ thuật : văn học được tư duy bằng mộng tạo nên
khả năng hư cấu, tưởng tượng : thế giới kì ảo trong tuyện cổ tích, đem đến vẻ đẹp thực –
ảo trộn lẫn trong tác phẩm văn học.
Sau này, chủ nghĩa siêu thực đã khai thác mộng vừa như một nhân thức mới về cuộc sống
toàn vẹn, vừa như một bút pháp nghệ thuật : bút pháp tự động được dựa trên đặc tính của
mộng : đứt đoạn, nhảy cóc
- Đến Tản Đà : dòng văn học mộng được kế tục xứng đáng :
Con đường đến với mộng của Tản Đà : Nghịch lí : Tản Đà nhập mộng vì vỡ mộng : vỡ
mộng công danh, tình duyên đã khiến Tản Đà đắm chìm trong giấc mộng ở cõi văn chương
 « Thân chẳng bằng mộng nên mộng cho cam thân vậy » (Phạm Quỳnh)
Ý NGHĨA PHẠM TRÙ MỘNG TRONG THƠ VĂN TẢN ĐÀ
Qua mộng để thể hiện quan niệm nhân sinh:
Quan niệm đời như một giấc mộng: Đời người như giấc chiêm bao (Thơ rượu), Trăm
năm một giấc mộng mơ màng (Đời lắm việc), Thế sự phù vân chi cảnh/ Những ai mê mà
tỉnh là ai (Hơn nhau một chẻn rượu mời)
“Mộng và nộng, đời người cũng là mộng, mộng là cái mộng con, đời là cái mộng lớn, chỉ
khác nhau là dài ngắn lớn nhỏ mà thôi”
“Giấc mộng con là mộng! Giấc mộng lớn cũng là mộng ! Duyên trái Hà Thành, thi bay
Nam Định đã là mộng ! Diễn thuyết trí tri, giảng học Hồng Bàng là mộng. Thư điếm phố
Hà Nọi, biệt thự đồi Vĩnh Yên, chẳng qua cũng là mộng »
Tống biệt: nửa năm tiên cảnh, một bước trần ai
 Sự ngắn ngủi, phù du hư ảo của cuộc đời. Mộng của Tản Đà gần gũi truyền thống.
Qua mộng để thể hiện bản ngã, cá tính :
Mộng gắn với ý thức về cái tôi cá nhân : (cái mới) : hướng đến thế giới mộng – thế
giới lí tưởng bằng hành động mộng tưởng - Thế giới mộng :
 Cõi lí tưởng, cao hơn hiện thực, qua đó Tản Đà có thể thực hiện được những
chuyến phiêu lưu du kí bằng tưởng tượng
Địa điểm có thật nhưng chưa được đến : Hồ Eriê, thác nước Niagara, những chiếc
quạt nước ở miền thượng lưu sông Madison, đưa Tản Đà phiêu lưu đến châu Phi,
châu Mĩ, Bắc Cực, Viễn Đông… -> Chỉ biết đến qua sách vở
 Khao khát phiêu du để kiếm tìm và thưởng ngoạn khiến những trang viết tràn đầy
cảm quan nghệ sĩ với rung động mãnh liệt. Cảnh vật phương xa hiện lên sống động
trong những màu sắc, âm thanh quyến rũ
 Tản Đà thỏa mãn ý thích xê dịch giang hồ, là nơi tác giả thể nghiệm bản thân : cái tôi
thích phiêu lưu, xê dịch Page | 30
 Những địa điểm chỉ có trong tưởng tượng cõi tiên, cảnh bạc. Trong Giấc mộng con
I : cõi tiên : « không có sự thiên tai, không có sự địa biển, không có trộm cướp,
không có án từ, không có sự kiện cảo, không có sự buôn danh bán lợi, không có
câu thế thái nhân tình ». Giấc mộng con :
II hữu hình hóa cõi Tiên, cung Quảng
Hàn, Bồng lai, sông Ngân Hà,…
Hầu trời : cõi trời và chư tiên, cung quế, chị Hằng
 Khao khát chiếm lĩnh cõi tiên : xuất hiện nhiều biểu tượng : cảnh hạc, cảnh nhạn,
cảnh hồng -> nối liền cõi tiên và hạ giới
- Hành động mộng tưởng :
Mộng như một phương cách để thỏa mãn cái tôi ngông ngạo : đứng cao hơn
hạ giới : Muốn làm thằng Cuội, hầu trời
Mộng để thỏa mãn sự hưởng lạc :
Nguyễn Khắc Hiếu uống rượu, theo « mệnh lệnh của mỹ nhân » mà làm thơ, nghe
« Chiêu Quân đánh tỳ bà, Dương Qúy phi say rượu, đứng dậy múa. Tây Thi hát ».
Tham lam hơn (và vì thế mà cũng thật đáng yêu) khi ông dựng nên những
cảnh « Dự tiệc có hơn trăm người mà chỉ có một mình mình không phải là mĩ nhân ».
Những cảnh yêu đương trong cõi mộng như trên làm phát lộ cái Tôi đa tình, lục lụy
nơi Tản Đà : lên tiên không phải đẻ thoát tục, để tìm thuốc trường sinh mà để tìm
giai nhân, tìm vui, tìm ý thú của chính mình
 Cõi mộng là không gian ở đó cái Tôi của Tản Đà phơi trải những dự phòng, sở thích
của mình. Mộng là phương tiện để thám hiểm những chân trời mới lạ trong thế giới
tinh thần của cái Tôi. Đây chính là ý nghĩa mỹ học mới mẻ của thế giới ảo mộng mà
Tản Đà đem đến cho văn học thời kì này.
Mộng là một cách thoát li hiện thực, bù đắp những mất mát trong đời thực : Muốn làm thằng cuội
Giấc mộng 10 đã tỉnh rồi/ Tỉnh rồi lại muốn mộng mà thôi
Theo Nguyễn Khắc Xương, Chu Kiều Oanh là hình bóng của cô gái trong mối tình
đầu (cũng tên là Oanh) của Tản Đà. Cuộc tình trong đời thực, như chính Tản Đà thuật
lại trong giấc mộng lớn kết thúc ngang trái.
Cõi mộng là nơi Tản Đà được sống và nếm trải những hương sắc ngọt ngào của thế
giới tình yêu. Những mất mát trong đời thực được bù đắp
 Mộng trong thơ văn Tản Đà đặt nền móng cho văn học lãng mạn sau này.
- Mộng trong thơ lãng mạn được nhìn nhận trên hai góc độ :
(1) Mộng là cõi mộng : cõi mộng đồng nhất với cõi lí tưởng, đối lập với thực tại tầm
thường, trần trụi hàng ngày. Đặc điểm : diễm lệ, đầy chất thơ, giống thế giới đại ngàn
mà con hổ trong Thế Lữ mơ tưởng, chốn bồng lai, tiên
(2) Mộng là hành động hướng đến lí tưởng -> dù là mộng, nhưng nó đầy tỉnh táo
Bi kịch mà các nhà lãng mạn là bi kịch tình mộng : « động tiên đã khép, tình yêu
không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ » (Thi nhân Việt Nam) Page | 31
- Ở Tản Đà, mộng có cả hai nét nghĩa này, mộng có cả hai nét nghĩa, khiến Tản Đà rất
hiện đại, rất gần với thơ mới
c. Mối quan hệ giữa hai phạm trù sầu – mộng
- Sầu và mộng là sự triển khai của 2 mặt trong cái tôi Tản Đà : cái tôi trong hai thế giới :
hiện thực và lí tưởng : tương phản gay gắt, không thể hòa giải
- Điểm thống nhất giữa sầu và mộng khi thể hiện cái tôi : đều thể hiện tính « tự yêu
mình » - Chủ nghĩa Narcissism
- Điểm thống nhất : Ba chữ « mình yêu mình » chính là điểm thống nhất của ngòi bút
Tản Đà khi viết về cái Tôi của mình trong mọi biểu hiện :
 Tản Đà đã lấy tên khai sinh của mình làm tên nhân vật chính trong tác phẩm. Cả
trong giấc mộng lớn và giấc mộng con dù khi viết về kỉ niệm tuổi thơ, thói quen
ẩm thực hay những phiêu du trong ảo mộng… cái Tôi của Tản Đà luôn được
thuật lại một cách đầy hứng khởi, say mê. Mọi cảnh huống trong tác phẩm chỉ là
cái cớ để ông phô diễn về cái Tôi của mình.
 Ngay cả Chu Kiều Oanh thực chất nhân vật này là một hóa thân của chính Tản
Đà trong hình hài của một giai nhân. Tình yêu sự tán thưởng, kì vọng của Chu
Kiều Oanh dành cho Nguyễn Khắc Hiếu là một cách để Tản Đà bộc lộ sự say
mê của ông đối với chính bản thân mình.
 Vì thế có thể nói đến một Narcissism trong những sáng tác của Tản Đà. Nhà văn
công khai bộc lộ sự say mê với bản thân mình, lấy cái Tôi làm chất liệu cho mọi
khám phá. Sự tôn thờ và say mê cái Tôi khiến cho Tản Đà và các tác phẩm của ông
trở nên đặc biệt khác lạ VD : TỐNG BIỆT :
- Đề tài cũ: Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Thúc Sinh từ biệt
Thúy Kiều. Thâm tâm dùng đề tài Tống biệt hành để đối thoại lại với tống biệt xưa kia
« Đưa người ta không đưa qua sông »
- Tản Đà: cuộc chia tay của tiên nữ tiễn 2 chàng Lưu Thành – Nguyễn Triệu khỏi thiên thai - Thi liệu cũ
- Bút pháp cũ : tả cảnh ngụ tình
Nửa năm tiên cảnh : Một bước trần ai
Một bước không chit là không gian mà là bước qua hai cõi
- Mới : cảm thức thời gian tất cả trong những cái cũ nhất đều gợi sự uyển chuyển động
của thời gian, trong vỏ bọc thi liệu, thể tài rất cũ là một tình điệu mới đang chuyển
động, cảm thức về cái mất mát, chảy trôi, một đi không trở lại.
« Cái hạc bay đi vút tận trời », « xa cách mãi », « cửa đông đầu non đường lối cũ »:
tạo hình theo lối tan biến, rất giống Tản Đà là đầu gạch nối: ở cõi tiên ông là khách
tục, ở cõi trần ông là khách tiên Page | 32
 Tản Đà chưa phải là nhà thơ mới. Nhưng ông là nhà thơ đã có tư tưởng cách tân, có
nhiều tìm tòi, sáng tạo và mạnh dạn vượt ra ngoài khuôn sáo cũ. Trong thời buổi mà
lối thơ niêm luật gò bó đang còn phổ biến, thì lối thơ như « Tống biệt » này của Tản
Đà đã đem đến một tiếng nói mới, vượt ra ngoài khuôn sáo cũ tạo nên « một giọng
phóng túng riêng » trong phong cách thơ Tản Đà. XUÂN DIỆU I.
Tiểu sử - Con người 1. Tiểu sử
- Xuân Diệu, tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo Nhan
- Quê cha ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Quê mẹ ở Gò Bồi, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định
- Thuở nhỏ học chữ Hán và chữ quốc ngữ với cha, rồi đi học ở Quy Nhơn, trường Bưởi
(Hà Nội) và trường Khải Định (Huế). Sinh ra và lớn lên ở quê mẹ
- Năm 1940, Xuân Diệu đỗ Tham tá nhà Thương chính vào làm ở ti Thương chính Mĩ Tho (nay thuộc Tiền Giang)
- Sau đó 4 năm, Xuân Diệu thôi việc, ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn, là thành viên của Tự lực văn đoàn
- Sau Cách mạng tháng 8, hăng hái hoạt động văn nghệ phục vụ hai cuộc kháng chiến.
Năm 1948, được bầu làm Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa 1, 2, 3.
Ông được Viện Hàn lâm nghệ thuật nước Cộng hòa dân chủ Đức bầu làm Viện sĩ thông tấn (1983)
- Năm 1985, Xuân Diệu từ trần sau một cơn đau tim đột ngột. Ông được Nhà nước tặng
Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I – 1996) 2. Con người
« Cha đàng ngoài mẹ ở đàng trong
Ông đồ Nho lấy cô làm nước mắm.
Làng xóm cười giọng ông đồ trọ trẹ,
Nhưng quý ông đồ văn vẻ giỏi giang.
Bà ngoại nói : tôn trọng người chữ nghĩa,
Dám gả con cho cách tỉnh, xa đàng »
(Cha đàng ngoài mẹ ở đàng trong) Page | 33
- Xuân Diệu được thừa hưởng ở cha – ông đồ nghệ đức tính cần cù, kiên nhẫn trong học
tập rèn luyện tài năng và lao động nghệ thuật bền bỉ. Với XD, rèn luyện và lao động
sáng tạo vừa là 1 thử thách gian khổ, vừa là 1 lẽ sống lớn, 1 niềm đam mê lớn.
- Sinh ra và lớn lên ở quê mẹ, XD thường nói đến tác động của thiên nhiên Quy Nhơn
với hồn thơ nồng nàn, sôi nổi của ông, đặc biệt là những ngọn gió nồm « Quê mẹ gió
nồm thổi lên tươi mát » và những con sóng biển « như hôn mãi ngàn năm ko thỏa/ bởi
yêu đời lắm lắm em ơi »
- Là con vợ lẽ, phải sống xa mẹ từ nhỏ, thường bị hắt hủi khiến XD luôn khao khát tình
thương và sự cảm thông của người đời.
- Là 1 trí thức Tây học, XD hấp thụ ảnh hưởng của tư tưởng và văn hóa Pháp 1 cách có hệ thống.
- Mặt khác, do xuất thân từ 1 gđ nho học nên được tiếp thu 1 cách tự nhiên ảnh hưởng
của nền văn hóa truyền thống.
 Vì vậy, ở XD có sự kết hợp của cả 2 yếu tố cổ điển và hiện đại, phương Đông và
phương Tây. Tuy nhiên, ảnh hưởng của Phương Tây vẫn sâu đậm hơn.
- Cha XD là 1 nhà nho, từng thi đỗ tú tài (ông tú kép) nên XD chịu ảnh hưởng sâu sắc
của văn học Trung Quốc, đặc biệt là Đường thi. Tuy nhiên XD thuộc thế hệ hs, sv
ngồi trên ghế nhà trường Pháp - Việt nên tiếp thu thi ca phương Tây 1 cách sâu sắc.
- Trải nghiệm trên nhiều vùng đất.
- Cấu trúc thân thể, mặc cảm thiểu số khiến XD vừa cô độc, vừa cô đơn giữa cuộc đời.
-  XD là thi sĩ luôn khao khát tình yêu nhưng lại mang nặng ám ảnh cô đơn. 2 trạng
thái tinh thần này tạo thành 1 phức cảm trong con người XD, ko loại trừ mà cộng
hưởng lẫn nhau. Càng cô đơn, thi sĩ càng khao khát tình yêu. Càng khao khát tình yêu thì càng thấy cô đơn.
II. QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC
1. Sáng tác trước CM
- Thơ : thơ thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945)
- Văn xuôi : Phấn thông vàng (1939) 2. Sáng tác sau CM
- Thơ : Ngọn quốc kì (1945) ; Hội nghị non sông (1946) ; Dưới sao vàng (1949) ; Sáng
(1953) ; Mẹ con (1953) ; Ngôi sao (1954) ; Riêng chung (1960),…
- Văn xuôi : Trường ca (1945, bút kí) ; Miền Nam nước Việt (1945, 1946, 1947, bút kí) ;
Việt Nam nghìn dặm (1946, bút ký), Việt Nam trở dạ (1948, bút kí) ; Kí sự thăm nước
Hung (1954, bút kí) ; Triều lên (1958, bút kí) Page | 34
- Tiểu luận phê bình : Thanh niên với quốc văn (1945), Tiếng thơ (1951, 1954) ; Những
bước đường tư tưởng của tôi (1958, hồi kí), Ba thi hào dân tộc (1954) ; Phê bình giới
thiệu thơ (1960), HXH –bà chúa thơ Nôm (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Thi hào
dân tộc Nguyễn Du (1966) ; Đi trên đường lớn (1968), Thơ Trần Tê Xương (1970), Đojc
thơ Nguyễn Khuyến (1971), Và cuộc đời mãi xanh tươi (1971)…  Nhận xét :
- XD là 1 tài năng nhiều mặt : làm thơ, viết văn, viết nghiên cứu phê bình, dịch thuật. Ở
phương diện nào, XD cũng đạt được những thành tựu lớn. Tuy nhiên XD trước hết
được biết đến như 1 nhà thơ lớn của nền VHVN hiện đại.
- Quá trình sáng tác của XD có sự thống nhất và vận động ở cả 2 giai đoạn trước và sau
CM. Thống nhất ở 1 tâm hồn yêu đời, tha thiết với cuộc đời, nồng nàn sôi nổi.
- Nhưng nếu trước CM, thơ XD mang ám ảnh cô đơn thì sau CM, ông đã « phá cô đơn
ta hòa nhập với người ».
- Trước CM chủ yếu là đề tài tình yêu lứa đôi. Sau CM, mở sộng sang tình yêu với đất
nước, nhân dân, đồng loại.
- Tuy nhiên thơ XD trước CM có sự kết tinh về nghệ thuật. Sau CM, do tính đại chúng
và nghiệp dư của nền văn nghệ, thơ XD có phần dễ dãi, độ kết tinh ko còn như trước.
III. Phong cách thơ XD trước CM 1. Tư tưởng
a. Quanniệmnhânsinh:

cách nhìn cuộc sốngcách sống. Cách nhìn cuộc đời chi phối cách sống. Cách
sống sẽ tác động trở lại, tạo nên sự vận động liên tục trong cái nhìn cuộc đời của nhà thơ.
- Cuộc đời như một “thiên đường trên mặt đất” (Cái nhìn lãng mạn về hiện thực)
+ “Xuân Diệu đốt cảnh bồng lai để xua ai nấy về hạ giới” (Hoài Thanh)
+ Câu nói hướng đến sự đối thoại của hai quan niệm lớn đương thời: Thế Lữ và Xuân
Diệu, nhằm đặt Xuân Diệu trong tương quan với Thế Lữ
+ Thế Lữ quan niệm thoát lên cõi tiên để quên đi cõi tục. Xuân Diệu đốt cảnh bồng lai
quay về cuộc sống trần gian. Khi XD bước vào làng thơ mới, danh vọng của Thế Lữ đã mờ đi ít nhiều
+ Câu nói của Hoài Thanh đánh giá về sự lên ngôi của một tư tưởng mới và sự thoái vị
của tư tưởng cũ. Khi XD xuất hiện thì ngọn cờ tiên phong của Thơ mới đã được
chuyển giao từ Thế Lữ sang Xuân Diệu. Nhìn cuộc đời như một “thiên đường trên
mặt đất”, hướng về những vẻ đẹp của trần gian
là sự độc đáo trong quan niệm của
XD so với các nhà thơ mới khác.  SO SÁNH
- Thế Lữ : với Thế Lữ đô thị là 1 chốn đầy bon chen. Nhà thơ tìm đường thoát li, trở
thành khách chinh phu, khách giang hồ say đắm thiên nhiên. Nhưng con đường thoát li
quan trọng nhất của Thế Lữ là thoát lên tiên, tìm đến tiên giới như 1 môi trường thanh Page | 35
sạch để gột bỏ bụi trần : « Tiếng sáo thiên thai », « Tiên đồng ngọc nữ »,… Thế Lữ
nhìn thế giới nhập nhòa ở cõi tiên và cõi người, cảnh thực và cảnh mộng.
- Lưu Trọng Lư : thoát li vào thế giới của mộng và sầu
- Chế Lan Viên : tìm về quá khứ vàng son và đổ nát của đất nước Chiêm Thành xưa,
vừa hoài niệm, vừa tiếc thương, hướng đến thế giới của mồ hoang, huyệt lạnh, xương
khô, sọ người, não trắng, những bóng ma hời, những tường thành lở lói,…
- Hàn Mặc Tử : càng về sau hồn thơ HMT càng tìm về thượng giới, càng điên loạn
hơn. Nhà thơ tìm cách thoát li lên chốn trăng sao, tìm ko gian để quên time : « van lạy ko gian xóa những ngày »
- Vẻ đẹp trần gian trong thơ XD:
 Cuộc sống trần gian chính là thiên đường của XD. Cõi trần thế đẹp như một thiên đường
Dịu dàng đan những ánh tơ xanh/ Cho gió du dương điệu múa cành” (Trăng)
Vườn cười hằng bướm, hót bằng chim/ Dưới nhánh không còn một chút đêm/
Những tiếng tung hô bằng ánh sáng/ Ca đời hưng phục trẻ trung thêm
” (Lạc quan)
- Phân tích vẻ đẹp trần gian trong thơ XD qua đoạn thơ:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật…. Tháng Giêng ngon như 1 cặp môi gần
 Điệp ngữ, đảo ngữ
 Thế giới đầy âm thanh, ánh sáng, sắc màu, hương thơm
 Vạn vật hiện lên trong tư thế cặp đôi
b.QuanniệmvềtimecủaXuânDiệu
- Thời gian tồn tại một cách khác quan, nhưng được con người nhận thức và thể
nghiệm, do đó nở trở thành sản phẩm chủ quan, in dấu ấn tư duy của mỗi chủ thể. Mỗi
thời đại, mỗi nền văn hóa khác nhau quy định cái nhìn về thời gian khác nhau.
- Quan niệm về thời gian của con người thời trung đại:
+ Thời gian là một chu kì khép kín, tuần hoàn: “hiện tại kéo dài vĩnh viễn không tách
khỏi quá khứ”. Cả phương Đông và phương Tây mà đại diện là hai nền văn minh rực
rỡ Trung Quốc và Hi Lạp, “lịch sử đối với họ và những đồng bào của họ chẳng qua chỉ
là một sự xoay vần vĩnh cửu của chừng ấy hình thức chính trị theo một trình tự nhất định”
+ Quan niệm về thời gian trên bắt nguồn từ tư duy nông nghiệp. Hoạt động nông
nghiệp khiến con người cảm nhận thời gian theo những chu kì của tự nhiên: tự nhiên
sự lặp lại tuần tự, vận động liên hoàn và xoay vần trường cửu
+ Thơ xưa cũng có ko ít bài than thở về sự hữu hạn của đời người trong sự vô hạn của
thời gian. Nhưng cố nhân kho hoang mang hoảng hốt, vì họ cho rằng vũ trụ tuần hoàn,
thời gian quay trở lại và con người sẽ hòa nhập vào cái vĩnh hằng của trời đất.
- Trước Xuân Diệu, cũng ko ít thi sĩ ngậm ngùi trước time chảy trôi
- Nguyễn Du: Sen tàn cúc lại nở hoa/ Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân, Ngày vui
ngắn chẳng tày gang. Page | 36
- Nguyễn Công Trứ: Nhân sinh ba vạn sáu nghìn thôi/ Vạn sáu chơi nhăng đã hết rồi
- Tản Đà: Đời người thử ngẫm mà hay/ Trăm năm là ngắn 1 ngày dài ghê. Vèo trông lá rụng đầy sân
- Nhưng chỉ đến Xuân Diệu mới ý thức được sự xói mòn, phá hủy của time, “time mới
trở thành 1 nỗi ám ảnh” (Đỗ Lai Thúy) Bài thơ Đi thuyền
Thuyền qua, mà nước cũng trôi
Lại thêm mây bạc trên trời cũng bay
Tôi đi trên chiếc thuyền này
Dòng mơ tơ tưởng cũng thay khác rồi
Cái bay ko đợi cái trôi
Từ tôi phút trước, sang tôi phút này...
Quan niệm về thời gian của Xuân Diệu:
- Thông qua hình tượng “nước” và “thuyền” nói lên sự nhận thức rõ ràng nhịp điệu trôi
chảy của time. Time trong thế giới vũ trụ thì vĩnh cửa, còn thời gian đời người là hữu hạn.
- Time như dòng nước, đời người như con thuyền. Con người bất lực hoàn toàn trước
sức mạnh của thời gian vũ trụ và luôn có nguy cơ bị cuốn trôi hoặc bị nhấn chìm:
Nước cũng mất luôn/ Nhưng nước còn nguồn/ Thyền chìm trong nước/ Đêm ngày nước tuôn.
- Cách mượn dòng chảy của nước để nói đến dòng chảy của time là quen thuộc trong
thơ ca xưa nay. Nhưng cái mới của Xuân Diệu là nhìn time 1 cách gấp rút, ko đo time
bằng chiều kích vĩ mô mà bằng time vi mô: time của đời người, thậm chí vi mô đến
từng phút giây: “Cái bay ko đợi cái trôi/ Từ tôi phút trước sang tôi phút này”. Nhận xét:
- Xuân Diệu nhìn time mang tính chất tuyến tính.
- Time được phân lập thành time của vũ trụ và time của đời người. Time của vũ trụ vận
hành theo quy luật của tự nhiên. Nó là bất biến, vô hạn. Còn time của đời người là ngắn ngủi, hữu hạn.
- Time của đời người ko còn lẫn trong time của tự nhiên, ko mang tính lặp lại mà là
time mất đi vĩnh viễn, 1 đi ko trở lại
- Time ko còn tính theo chiều vĩ mô: một đời, nghìn năm, vạn năm, thiên thu… mà là
time được vi mô hóa đến từng giây phút.
- Cách đo đếm và cảm nhận time bằng thi liệu hiện đại (giờ, giây, phút)
Dòng chảy của time sẽ đem đến ý niệm về sự phôi pha.
- Thơ Xuân Diệu mang cảm thức phôi pha khá mạnh. Đó là hệ quả tất yếu của cái nhìn time tuyến tính Page | 37
- Time làm phôi pha vẻ đẹp thiên nhiên: Với áo mơ phai dệt lá vàng (Đây mùa thu tới),
Ta tiếc theo sau, Sắc tàn hương nhạt mùa xuân dụng/ Những mặt hồng chia rã hết
cười
(Xuân rụng),
giữa vườn im, hoa sợ hãi/ Bao nỗi phôi pha khô héo rụng rời
(Gió), Chẳng hái mà cũng hết dần, Ừ nhỉ, sao hoa lại phải rơi (Ý thu)… (Đây mùa
thu tới là đây mùa thu qua)
- Time làm phôi pha nhan sắc của giai nhân: Ta tiếc theo sau những đóa hồng/ Những
nàng con gái sớm phai bông (Ngẩn ngơ), của con người Chỉ mấy năm thôi, đủ phận
chồng / Chàng trai tơ mởn đã thành ông/ Ko còn mộng dễ ngày tươi trẻ/ Mắt sáng
phai rồi, má hóp ko
(Tặng bạn bây giờ) Ý niệm phôi pha
- Time làm tàn phai tình ái: Một chút hương phai của ái tình, Để lòng ước với tình phai
ấy, Gió mặc hồn hương nhạt với chiều,… Time trong thơ Xuân Diệu được chia làm 2
thời: thời tươi và thời phai (ý của Chu Văn Sơn). Thời gian tàn hủy để thời tươi trở thành thời phai
- Cách nhìn thời gian này thể hiện quan niệm sống của Xuân Diệu. Cùng là sự vận động
của time, nhưng Xuân Diệu nhạy cảm với vẻ đẹp của sự rụng rơi, tàn phai, cảm xúc
ngưng đọng trong nỗi xót xa, tiếc nuối về sự mất mát của cái đẹp. (Khác với HCM:
Hết mưu là nắng hửng lên thôi/ Hết khổ là vui vốn lẽ đời).
Sống là tận hưởng vẻ đẹp của cuộc đời
- Em mười lăm tuổi, em tuổi hai mươi
Đừng để mất một cái gì mà ko hưởng
- Xuân Diệu muốn tận hưởng đến no nê, đến đã đầy hương sắc của cuộc đời: Cho
chuếch choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng/ Cho no nê thanh cắc của thời tươi
- Sống là bám riết lấy cuộc đời trần thế
Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn
Làm dây da quấn quýt cả mình xuân
Ko muốn đi ở mãi mãi vườn trần
Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất
Quan niệm sống hết mình, tận hiến
- Xuân Diệu quan niệm sống là phải hết mình:
Sống toàn tâm, toàn trí, toàn hồn
Sống toàn thân và thức nhọn giác quan
“khi vui cũng như khi buồn, nàng đều nồng nàn tha thiết”. (Hoài Thanh)

- Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời,
Kẻ đựng trái tim trìu máu đất,
Hai tay chín móng bám vào đời. Chíu/ chín

 Cách sống của 1 con người ko nguôi khát sống , thèm yêu. Cường độ cảm xúc luôn
được đẩy đến mức tuyệt đối, khao khát được thụ hưởng cuộc sống 1 cách tuyệt đối.
Cuộc đời: đẹp  (t): hữu hạn  vội vàng Page | 38
Vì time trôi chảy và làm tàn phai tất cả, nên XuânDiệuquanniệmsốngphảivội
vàngđểchạyđuavớitime,đểtậnhưởngnhiềunhấtnhữngânhưởngcủacuộcđời
trongquỹđạotimeeohẹpnhất.

- Thơ Xuân Diệu ồn ào bởi những lời giục giã: Mau lên chứ vội vàng lên với chứ/ Em
em ơi tình non sắp già rồi; Mau lên đi/ Mùa chưa ngả chiều hôm. Nhà thơ ước muốn
níu kéo time: Tôi muốn tắt nắng đi/ cho màu đừng nhạt mất. Tắt nắng để làm ngừng
dòng thời gian trôi chảy.
- Thơ Xuân Diệu quan tâm đến chấtlượngsống nhiều
hơn là độdàicuộcsống:Thà 1
phút huy hoàng rồi chợt tối/ Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm. Vì vậy, phải sống
toàn thân và thức nhọn giác quan
. Điều này càng nhấn mạnh cách ham hố, hết mình của Xuân Diệu  Nhận xét:
- Cách nhìn và cách sống là 2 yếu tố giúp xác định quan niệm nhân sinh của Xuân Diệu.
Cách nhìn cuộc đời và cách nhìn thời gian là nguyên nhân sâu sa chi phối đến cách
sống của Xuân Diệu. Cuộc đời tươi đẹp như 1 thiên đường, nên sống là phải tận
hưởng cuộc đời. Thời gian làm phôi pha mọi vẻ đẹp, nên sống là phải vội vàng để
chạy đua với thời gian để có thể hưởng thụ cuộc đời được nhiều nhất trong 1 quỹ thời gian ít nhất.
B. Quan niệm thẩm mỹ
- Cái đẹp là cái đầy sức sống: tuổi trẻ và mùa xuân
- Cuộc xung đột giữa thơ cũ và thơ mới ko chỉ là cuộc xung đột giữa cái cũ và cái mới. Nhìn
sâu xa hơn, đó là cuộc xung đột giữa trẻ và già. Bìa thơ Tình già của Phan Khôi thực chất là
nói về tình trẻ: Con mắt có đuôi. Sự phục hưng của Thơ mới chính là sự phục hưng của tinh thần trẻ.
- Cái đẹp là cái đầy sức sống: tuổi trẻ và mùa xuân
- Xuân Diệu ko phải là thi sĩ đầu tiên ca ngợi tuổi trẻ. Trước ông đã có ko ít tư tưởng ca ngợi
tuổi trẻ và đề cao sự hưởng thụ tuổi trẻ: Chơi xuân kẻo hết xuân đi/ Cái già sồng sộc nó thì theo sau. (Ca dao)
- Nhưng cái độ đáo của Xuân Diệu là ở chỗ: Nhà thơ đã dùng trẻ để làm thước đo định
giá mọi vẻ đẹo của cuộc đời, 1 phương diện thiết yếu của nhân sinh.
Trẻ đã trở thành 1
thứ mỹ cảm để Xuân Diệu hướng tới . Với Xuân Diệu, trẻ nghĩa là đẹp. Phạm trù cái đẹp
được đo bằng cái trẻ. Trong lời đưa duyên cho tập Thơ thơ, Xuân Diệu coi tuổi trẻ và tình
yêu là phần ngon nhất của cuộc đời
- Mỹ cảm trẻ đã hướng Xuân Diệu đến 2 đối tượng: Với thiên nhiên, thi sĩ hướng đến
mùa xuân; với con người thi sĩ hướng đến những người còn trẻ tuổi – trẻ lòng.

Mùa xuân trong thơ Xuân Diệu:
- Xuân Diệu say đắm với mùa xuân vì mùa xuân là quãng thời gian ý nghĩa nhất của tạo
vật, mùa trẻ nhất của đất trời, cũng như tuổi trẻ là quãng thời gian ý nghĩa nhất của Page | 39
cuộc đời mỗi con người. (Khác với Chế Lan Viên: thù ghét mùa xuân, yêu mùa thu, vì
quan niệm mùa xuân là hiện tại, mùa thu là quá khứ: Tôi có chờ đâu có đợi đâu/ Đem
chi xuân đến chỉ thêm sầu

- Mùa xuân trong thơ Xuân Diệu hiện lên ở độ trẻ trung, tươi thắm, rạo rực nhất của nó.
Mùa xuân ấy là hội tụ, kết tinh của nhiều vẻ đẹp đến mức đỉnh điểm. Mùa xuân có ánh
sáng rực rỡ, trong trẻ, có màu sắc tươi thắm, có âm thanh ríu rít, có hương vị nồng
nàn: Giữa vườn inh ỏi tiếng chim vui/ Thiếu nữ nhìn sương chói mặt trời/ Sao buổi
đầu xuân êm ái thế/ Cánh hồng kết những nụ cười tươi
(Nụ cười xuân), Trời xanh thế,
hàng cây thơ biết mấy!/ Vườn non sao! Đường cỏ mọng bao nhiêu
(Xuân đầu),… Xuân ko mùa
 Xuân Diệu ko chỉ bó hẹp mùa xuân trong 3 tháng theo quy luật của trời đất, mà còn
nhìnxuânnhư1ýniệmvềcáiđẹp
 Mùa xuân có trong mọi thời khắc, mọi vẻ đẹp của đất trời. Khi ấy, cái đẹp chính là mùa xuân.
Con người là chuẩn mực của cái đẹp
- Xuân Diệu hướng đến những chàng trai – cô gái còn đang trẻ tuổi, trẻ lòng.
- Xuân Diệu có hẳn 1 thi phẩm đặt nhan đề là Đẹp để thể hiện quan niệm thẩm mĩ của
mình: Em đẹp, khi em phồng nét ngực/ Hít ko gian và ngó thẳng trời xa/ Khi cánh tay
đang ôm cả sơn hà/ Chân vút thẳng sắp lên đường vượt trải; Mười chín tuổi! Mặt trời
đang óng ả/ Anh sáng ca, lanh lảnh tiếng đời ngăn/ Bông hạnh cười, mười chín tuổi
than tân/ Gánh nhẹ nhõm trên thân hình măng mọc.
- Thời trẻ là thời thanh niên: Thanh niên ơi, người đang ở cùng ta. Thanh niên mang vẻ
đẹp của xuân thì: “Ôi! Thanh niên! Người mang hết xuân thì/ Hình ngực nở, nụ cười
tươi, màu tóc láng”. Khi mất thời trẻ, mất thanh niên thì cũng có nghĩa là con người
rơi vào sự cô đơn: Cô đơn quá, bởi ko còn người nữa, Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất…
- Con người là thước đo vẻ đẹp của tự nhiên: lá liễu dài như 1 nét mi
 Quan niệm thẩm mỹ hướng về cái trẻ đã khiến Xuân Diệu hứng thú với mùa xuân và
tuổi trẻ của con người, Cái trẻ chính là cái đẹp. Quan niệm tình yêu
1. Quan niệm tình yêu và cảm xúc tình yêu được thể hiện như thế nào trong thơ
Xuân Diệu? Đâu là nét mới của ông trong địa hạt thơ tình?

2. So sánh thơ viết về tình yêu của Nguyễn Bính và thơ viết về tình yêu của Xuân
Diệu để thấy quan niệm thơ của Xuân Diệu?

C. Quan niệm tình yêu
- Nồng độ và cường độ yêu đều vô cùng mãnh liệt.
Đây là quan niệm rất mới của XD so với đương thời. Trong xã hội cái ta giữ vị trí độc
quyền thời trung đại, tình yêu lứa đôi thuộc lĩnh vực cái tôi nhỏ bé, phải giấu kín. Page | 40
Thơ tình của Xuân Diệu là 1 thứ rượu nồng và mạnh. Thi sĩ tự nhận mình là Kẻ uống tình
yêu dập cả môi, yêu từ khi chưa có tuổi
khi
chết đi rồi tôi sẽ yêu ma, luôn ko nguôi nỗi khát thèm tình ái
Lí do tồn tại của Xuân Diệu là tình yêu: Tôi đã yêu khi đã hết tuổi rồi/ Ko xương vóc chỉ
huyền hồ bóng dáng
. Tình yêu là lẽ sống của Xuân Diệu Tôi khờ khạo lắm ngu ngơ lắm/
Chỉ biết yêu thôi chẳng hiểu gì.

- Yêu là phải công khai, tỏ bày, phải nói to lên tình cảm của mình.
-
So sánh 2 bài thơ Ngườihàngxómcủa Nguyễn Bính và Phảinói của Xuân Diệu:
Đây là 2 thi phẩm thể hiện cách bộc lộ tình yêu riêng của từng thi sĩ Người hàng xóm Phải nói
- Với Nguyễn Bính, tình yêu
- Với Xuân Diệu, tình yêu phải
thầm kín, ko nói, chính xác là
được tỏ bày. Nếu ko tỏ bày thì
ko dám nói: Dù cho Nhà nàng
tình yêu là vô nghĩa: Yêu tha
ở cạnh nhà tôi/ Cách nhau cái
thiết , thế vẫn còn chưa đủ/
dậu mùng tơi xanh rờn thì cái
Nếu em yêu mà chỉ để trong
dậu mùng tơi chỉ là cái cớ để
lòng/ Ko tỏ hay, yêu mến cũng
che đậy sự nhút nhát của nhân là ko.
vật trữ tình: Gía đừng có dậu
- Ko chỉ nói 1 lần mà là: Yêu tha
mùng tơi/ Thế nào tôi cũng
thiết thế vẫn còn chưa đủ/ Phải
sang chơi thăm nàng. Đó là cái
nói yêu trăm bận đến nghìn lần.
giậu mùng tơi mà lòng người tự
- Nói yêu bằng nhiều cách, ko
đặt ra, 1 giới hạn mà con người
chỉ nói bằng lời mà bằng tất cả
tự thiết lập. Do đó, nó tồn tại
các giác quan, thậm chí, các
như 1 ko gian ngăn trở tình yêu
giác quan được phát huy lên đôi lứa.
đến đỉnh điểm của sự mê đắm:
- Nhớ nàng, nhưng chỉ dám hỏi
Em phải nói, phải nói, và phải
nhỏ: bướm ơi, bướm hãy vào
nói/ Bằng lời riêng nơi cuối
đây/ cho tôi hỏi nhỏ câu này
mắt đầu mày/ Bằng nét vui, chút thôi.
bằng vẻ thẹn, chiều say/ Bằng
đầu ngả, bằng miệng cười, tay riết. Tương tư Tương tư, chiều
Tương tư được nói bóng nói gió, xa Nỗi nhớ được phơi trải 1 cách trực
xôi, phải gửi vào đối tượng thứ ba- 2 tiếp, mạnh mẽ. Thi sĩ thốt to, kêu to
miền ko gian xa cách: Thôn Đoài lên nỗi nhớ da diết của mình.
ngồi nhớ thôn Đông/ Một người chín Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh
nhớ mười mong 1 người, Cau thôn nhớ ảnh
Đoài nhớ trầu ko thôn nào
Anh nhớ em, anh nhớ lắm! em ơi! Page | 41
- Nói vòng vo, xa xôi mới đến
được nỗi nhớ của mình: gió
mưa là bệnh của trời/ Tương tư
là bệnh của tôi yêu nàng Quan niệm tình yêu
- Tình yêu phải là sự giao cảm tuyệt đối cả về thân thể lẫn tâm hồn
Đây là sự phục hưng trong lí tưởng thẩm mỹ từ những vần thơ tình đầy nhục cảm đã được
khơi lên từ Hồ Xuân Hương. Dòng chảy bên lề của văn học trung đại, giờ được phục
hưng thành dòng chảy chính thống trong Thơ mới. Ngoài Hồ Xuân Hương, tình yêu được
bộc lộ trong thơ trung đại thường mang tính quá mức thanh tao, thuần túy tinh thần. Bởi
với thơ cổ, ngay tình yêu cũng là 1 đề tài cấm kị, chưa nói gì đến tính dục với những khao
khát ái ân. Nguyễn Du khi tả nàng Kiều tắm, chỉ dám viết gợi:
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà/ Dày dày đúc sẵn 1 tòa thiên nhiên.
Nói đến quan hệ ái ân nam nữ, cũng phải che đậy bằng các điển cố điển tích: nói về quan
hệ ái ân giữa Kiều và Thúc Sinh: Sớm đào tối mận lân la/ Trước còn trăng gió sau ra đá
vàng./ Miệt mài trong cuộc truy hoan/ Càng quen thuộc nết càng dan díu tình
. Nói về
quan hệ xã thịt trong lầu xanh: Biết bao bướm lả ong lơi/ Cuộc say đầy tháng trận cười
suốt đêm/ Dập dìu lá gió cành chim/ Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh
.
- Xuân Diệu trong thời đại thức tỉnh ý thức cá nhân đã mạnh mẽ hơn, đưa những khát khao nhục dục vào thơ.
- Thơ Xuân Diệu đầy những nụ hôn: Hãy sát đôi đầu, hãy kề đôi ngực/ Hãy trộn nhau
đôi mái tóc ngắn dài/ Những cánh tay! Hãy quấn riết đôi vai/ Hãy dâng cả tình yêu
lên sóng mắt/ Hãy khăng khít những cặp môi gắn chặt; Em vui đi răng nở ánh trăng
rằm/ Anh hút nhụy của mỗi giwof tình tự
.
- Xuân Diệu có những vần thơ gợi cảm giác ái ân, được xem là rất táo bạo thời bấy giờ:
Hãy tuôn âu yếm lùa mơn trớn/ Sóng mắt, lời môi, nhiều – thật nhiều; Trăng, vú mộng
đã muôn đời thi sĩ/ Giơ hai tay mơn trớn vẻ tròn đầy; Tay
ân ái như những làn thân
thể/ Đã ôm đời vào ngực để mơn ru;...
- Xuân Diệu đã trả tình yêu về với bản nguyên của nó. Cái tôi cá nhân đã tiến thêm 1 bước.
- Nhưng tình yêu trong thơ Xuân Diệu trần thế chứ ko dung tục, là tình yêu của con
người ở giữa cõi đời. Xuân Diệu vẫn giữ thơ trên ranh giới của chủ nghĩa lãng mạn, ko
sa vào sự tụng ca xác thịt như Bích Khê sau này.
- Cái đích cuối cùng mà Xuân Diệu hướng đến trong tình yêu ko chỉ là sự thỏa mãn
những đam mê nhục dục mà là sự hòa hợp về tâm hồn – sự hòa hợp trọn vẹn nhất, lí
tưởng hạnh phúc tình yêu cao nhất.
- Bởi thế, dẫu đã sát đôi đầu kề đôi ngực, đã trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài, khăng khít
những cặp môi, nhưng Xuân Diệu vẫn thốt lên rằng: Gần thêm nữa thế hãy còn xa
lắm
. Thi sĩ khao khát 1 sự hòa điệu tâm hồn: Dầu tin tưởng chung 1 đời 1 mộng/ Em Page | 42
là em anh vẫn cứ là anh/ Có thể nào qua Vạn Lí Trường Thành/ Của 2 vũ trụ chứa đầy bí mật.
- Quan niệm về tình yêu của Xuân Diệu mang tính toàn diện: Nên lúc môi thơm kề
miệng thắm/ Trời ơi, ta muốn uống hồn em  khao khát hòa hợp tuyệt đích cả thể xác lẫn tâm hồn.
- Thơ Xuân Diệu là 1 cuốn từ điển về tình yêu
- Xuân Diệu từng nói: “Đặc sản của tôi là thơ tình, tôi sẽ lập 1 cuốn từ điển tình yêu
bằng thơ”. Tình yêu là thứ tình cảm phong phú, phức tạp, trải qua nhiều thời điểm, cung bậc.
- Có tình yêu buổi ban đầu nguyên sơ Buổi ấy lòng tôi nghe ý bạn/ Lần đầu rung động nỗi thương yêu
- Có tình yêu nồng nàn, say đắm: Nên lúc môi thơm kề miệng chén/ Trời ơi ta muốn
uống hồn em, có lúc khổ đau tuyệt vọng Lòng ta là 1 cơn mưa lũ/ Đã gặp lòng em là lá khoai
- Có những lúc tương tư vơ vãn: Sương nương theo trăng ngừng lưng trời/ Tương tư
nâng lòng lên chơi vơi, có nỗi nhớ ko kìm được trong lòng phải bật lên thành tiếng:
Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh/ Anh nhớ em. Anh nhớ lắm em ơi.
- Các cung bậc tình yêu ấy tạo nên sự đa dạng trong thế giới thơ tình Xuân Diệu. Nhưng
dù đa dạng chúng đều thống nhất ở sự nồng nàn say đắm. Mấy ai say người tình như
Xuân Diệu: Say người như rượu tối tân hôn? Mấy ai khát khao tình yêu như Xuân
Diệu: Uống xong lại khát là tình/ Gặp rồi lại nhớ là mình với ta,... Mấy ai cầu xin tình
yêu khẩn khoản thế này: Và hãy yêu tôi 1 giờ cũng đủ/ Một giây cũng cam 1 phút cũng
đành
. Mấy ai uống tình yêu đến rập cả môi rồi vẫn còn tha thiết: Yêu tha thiết thế vẫn
còn chưa đủ/ Phải nói yêu đến trăm bận nghìn lần
...
-  Tình yêu với Xuân Diệu đã trở thành lẽ sống: Làm sao sống được mà ko yêu. Tình
yêu là thứ tôn giáo mà nhà thơ tôn thờ.
Cái tôi sầu tủi cô đơn
- Diện mạo của cái tôi cô đơn:
+
Thơ XD có 1 hệ thống hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng cho nỗi cô đơn: Núi xa, Hi Mã
Lạp Sơn, chiếc đảo, bông hoa trong rừng thẳm, con nai bị chiều đánh lưới, kẻ đi đày,
người kĩ nữa: Em sợ lắm băng tràn mọi nẻ/ Trời đầy trăng lạnh lẽ suốt xương da
,...
+ Cái tôi hiện lên đầy thảm hại như 1 kẻ thất tình, bị bủa vây bởi nỗi cô đơn: Lòng ta như
ngựa trẻ ko cương/ Còn ngựa ngất ngây dường diệu viễn, Lòng như chiếc thuyền hư ko
bến đỗ
. Nhà thơ thê thiết kêu than: Cô đơn muôn lần, muôn thủa cô đơn, Ta nằm đây như
1 ải quan xa
, thậm chí: Trái tim buồn như 1 bãi tha ma,...
Cái tôi tình si và cái tôi sầu tủi cô đơn
- Trong Thơ thơ có 40% bài thơ xuất hiện chữ tôi, cái tôi cá nhân được khắc họa
hùng vĩ, tầm vóc, đủ sức mở ra bao chứa vũ trụ. Cái tôi tình si:
Cái tôi XD được bộc lộ rõ nét và đầy đủ nhất trong tình yêu. Người tình nhân hiện lên
theo đúng nghĩa của 1 người tình si: si mê, si cuồng. XD tuyệt đối hóa tình yêu: Page | 43
- Tự nhận mình là yêu từ khi chưa có tuổi: Thủa xưa kia là con của mặt trời/ Tôi có lửa
ở trong lòng nắng dội/ Tôi đã yêu từ khi chưa có tuổi/ Lúc chưa sinh vơ vẩn giữa dòng đời.
- Tự họa mình trong 1 diện mạo đầy quyến rũ: mặt tươi, môi đậm, đầu mây gợn, mắt
mây qua, đôi tay luôn sẵn sàng ân ái: Tay ân ái như những nàn thân thể.
- Thành thực với những sở trường, sở đoản: Tôi khờ dại lắm ngu ngơ quá/ Chỉ biết yêu
thôi chẳng hiểu gì.
- Cái tôi khao khát 1 tình yêu có sự hòa hợp tuyệt đối giữa thể xác và tâm hồn (xem
phần: thi sĩ của tình yêu)
- Tình yêu được tuyệt đối hóa như lẽ sống cao nhất của XD, như thứ tôn giáo mà nhà
thơ là 1 tín đồ ngoại đạo: Tài năng chi, Danh vọng kể mà chi/ Kể chi Tiền với 1 kẻ si
mê/ Chỉ thấy nghĩa trong Ái tình vĩnh viễn, Tôi ko biết, ko biết gì nữa cả/ Chỉ yêu
nhiều là tôi biết mà thôi
,...
Cái tôi sầu tủi cô đơn
- Diện mạo của cái tôi cô đơn:
+
Thơ XD có 1 hệ thống hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng cho nỗi cô đơn: Núi xa, Hi Mã
Lạp Sơn, chiếc đảo, bông hoa trong rừng thẳm, con nai bị chiều đánh lưới, kẻ đi đày,
người kĩ nữa: Em sợ lắm băng tràn mọi nẻ/ Trời đầy trăng lạnh lẽ suốt xương da
,...
+ Cái tôi hiện lên đầy thảm hại như 1 kẻ thất tình, bị bủa vây bởi nỗi cô đơn: Lòng ta như
ngựa trẻ ko cương/ Còn ngựa ngất ngây dường diệu viễn, Lòng như chiếc thuyền hư ko
bến đỗ
. Nhà thơ thê thiết kêu than: Cô đơn muôn lần, muôn thủa cô đơn, Ta nằm đây như
1 ải quan xa
, thậm chí: Trái tim buồn như 1 bãi tha ma,...
- Lí giải sự cô đơn trong cái tôi của XD:
+ Cái tôi XD mang ý thức cao về bản thể và khao khát được khẳng định mình. Trong tình
yêu, nó nồng nhiệt, cuồng si. Nhưng chỉ gặp sự ruồng rẫy, phụ tình của người đời. Trong
tinh yêu Xuân Diệu cho nhiều nhưng nhận chẳng bao nhiêu nên càng cuồng nhiệt đam
mê thì càng gặp sự lạnh lẽo hững hờ: Lòng anh là 1 cơn mưa lũ/ Đã gặp lòng em là lá
khoai, Người si muôn kiếp là hoa núi/ Uống nhụy lòng tươi tặng khách hờ
. XD cũng hiểu
được điều đó và tự trách mình khờ dại: Người ta khổ vì thương ko phải cách/ Yêu sai
duyên và mến chẳng nhằm người/ Có kho vàng nhưng chẳng tặng tùy nơi/ Người ta khổ vì xin ko phải chỗ
.
+ Cũng có thể lí giải sự cô đơn trong cái tôi XD từ cấu trúc thân thể đặc biệt của ông. Là
1 người đồng tính, XD luôn mang mặc cảm bị đồng loại xa lánh, rời bỏ. Sự cô đơn của
XD vì thế có cội nguồn từ cái mặc cảm thiểu số của mình (ý của Đỗ Lai Thúy) Chớ để
riêng em phải gặp lòng em, Tôi mội mình đối diện với tình ko,..
NHẬN XÉT:
- Những chặng đầu, nỗi cô đơn tuy đã xuất hiện nhưng chưa trở thành ám ảnh. Càng về
sau, XD càng cảm nhận sâu sắc nỗi cô đơn. Page | 44
- Tuy nhiên, sự cô đơn trong thơ XD chưa phải đã đến mức quằn quại, da diết như Hàn
Mặc Tử, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng sau này. Bởi Thơ mới lúc ấy vẫn còn tìm
được sự đồng vọng ở tầng lớp độc giả đô thị trẻ tuổi, chứ chưa rơi vào trạng thái tuyệt vọng, bế tắc.
 XD càng tình si thì càng cô đơn, càng cô đơn thì càng khao khát tình yêu. Cái tôi tình
si và cái tôi sầu tủi cô đơn, do đó, là 2 mặt của cái tôi trữ tình XD. 2. NGHỆ THUẬT 2.1. Ngôn từ
Hai loại từ xuất hiện chủ yếu trong thơ XD là động từ và từ láy.
- XD thường sử dụng những động từ diễn tả cảm giác mạnh bạo, quyết liệt: ôm, riết,
say, thâu, cắn, hút, bấu, uống, ngoàm,...để biểu thị sự ham hố vô biên cuộc sống.
- Từ láy được sử dụng nhiều vì XD là nhà thơ của cảm giác, của những rung động tinh
vi: ngẩn ngơ, chon von, run rẩy, lung linh,...
Mây biếc về đâu bay gấpgấp
Con cò trên ruộng cánh phânvân
Lạchàdữcôlộtềphi
Thuthủycộngtrườngthiênnhấtsắc (VươngBột)
Mộtnghìnnăm–Haithếgiới

- Cách tổ chức lời thơ: thơ XD phát huy triệt để việc tổ chức lời thơ dưới dạng thơ trữ tình điệu nói.
- Ngôn ngữ thơ giàu chất nhạc: Huyền diệu, Nguyệt cầm, Nhị hồ,...
- Ngôn ngữ giàu tính biểu tượng
Thơ XD đầy những biểu tượng của sự sống: xuân, thu, trăng, chim, bướm, hoa, gió, vườn,... 2.2. Giọng thơ
- Thơ XD là sự hòa phối của nhiều giọng điệu, nhưng chủ âm là giọng cuồng nhiệt, gấp
gáp, tiêu biểu là các bài: Vội vàng, Xa cách, Phải nói, Giục giã,...
2.3. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, bút pháp tương giao (dấu ấn của thơ tượng trưng)
- Điển hình trong bài Huyền diệu, XD đã tìm đến thủ pháp chuyển đổi cảm giác để tạo nên 1
ko gian đầy âm nhạc, ánh sáng, màu sắc, hương thơm:
- “Bài thơ là 1 lâu đài kiến trúc thượng tầng đầy âm vang và âm hưởng chủ đạo của nó là
cảm hứng về sự tương ứng giữa các giác quan
” (Nguyễn Lệ Hà)
- 4 khổ thơ, mỗi khổ là 1 khúc nhạc với sự chuyển điệu tinh vi: Này lắng nghe em khúc nhạc
thơm; Hãy uống thơ tan trong khúc nhạc/ Ngọt ngào kêu gọi thủa xa khơi, khúc nhạc hưởng,
Ngừng hơi thở lại em trong ấy/ Hiển hiện hoa
phảng phất hương. Một bản đàn (thính
giác) được diễn tả bằng thơm (khứu giác), (thị giác) hưởng Page | 45
(Đọc: “Tương ứng” – Charles baudelaire) NGUYỄN BÍNH
I. Tiểu sử và con người 1. Tiểu sử
- Nguyễn Bính sinh năm 1918, tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính tại xóm Trạm, thôn
Thiện Vịnh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định trong 1 gia đình nhà Nho nghèo.
 Ảnh hưởng đến con đường văn chương; giấc mơ quan trạng.
- Ảnh hưởng từ Nho học của Nguyễn Bính đậm hơn (nhóm Áo bào gốc liễu)
- Hoài Nam: “Áo bào gốc liễu” lại xuất hiện, như 1 nghịch phách, qua thơ Nguyễn Bính
– đặc biệt là qua thơ của Thâm Tâm, Trần Huyền Trân – và khiến người ta phải chú ý.
Chú ý vì cái dư vị cổ kính mà các tác giả đó đã tạo được qua thể “ca”, “hành” mượn từ
cổ thi. Chú ý vì giọng điệu ngang tàng và phẫn hận trong lời thơ, 1 giọng điệu quả
thực ko mấy phổ biến trong Thơ Mới.
- “Hỡi ơi, Nhiếp Chính mà băm mặt/ Giữa chợ ai người khóc nhận thây?/ Kinh Kha
quán lạnh sầu nghiêng chén/ Ai kẻ dâng vàng, ai biếu tay?/ Mơ gì Áp Tiết thiêu văn
tự/ Giày cỏ, gươm cùn, ta đi đây!” (Hành phương Nam)
- Mồ côi mẹ từ sớm. Cha là Nguyễn Đạo Bình, làm nghề dạy học, mẹ là bà Bùi Thị
Miện, con gái ruột gia đình khá giả.
+ ông bà sinh được 3 người con trai là Nguyễn Mạnh Phác (Trúc Đường), Nguyễn
Ngọc Thụ và Nguyễn Bính.
+ Bà Miện bị rắn độc cắn rồi mất năm 1918, lúc đó bà mới 24 tuổi, để lại cho ông
Bình ba đứa con thơ, khi đó Nguyễn Mạnh Phác mới 6 tuổi, Nguyễn Ngọc Thụ 3 tuổi
và Nguyễn Bính mới sinh được 3 tháng. Đúng như câu thơ Nguyễn Bính viết: Còn tôi
sống sót là may/ Mẹ hiền mất sớm giời đày làm thơ
.
+ Khi mới 13, 14 tuổi, Nguyễn Bính đã phải rời quê theo anh cả ra Hà Đông kiếm sống.
 Mặc cảm côi cút, cô đơn.
- Quê hương: nghèo, nhưng đẹp
 Gương mặt thôn Vân trở đi trở lại như 1 thiên đường trong thơ Nguyễn Bính.
Quê NB ở làng Thiện Vịnh, quang cảnh tiêu điều, ảm đạm, nheo nhóc (Tô Hoài), nhưng
hình bóng trong thơ lại tươi sáng, thơ mộng, thi vị. Vì ông còn có thứ làng quê thứ 2 ông
gắn bó, yêu quý, sống ở đó lâu ngày: thôn Vân.
- Học vấn: vốn chữ nghĩa ít ỏi, học theo lối truyền khẩu ở nhà  Nguyễn Bính làm thơ
theo bản năng, chất thuần Việt càng được khắc sâu.
Học trò trường huyện ngày năm ấy
Anh tuổi bằng em lớp tuổi thơ
Những buổi học về ko có nón Page | 46
Đội đầu chung 1 lá sen tơ
Lá sen vương vấn hương sen ngát
Ấp ủ hai ta chút nhụy hờ
Lũ bướm tưởng hoa cài mái tóc
Theo về tận cửa mới tan mơ.
Em đi, phố huyện tiêu điều lắm
Trường huyện giờ xây kiểu khác rồi
Mà đến hôm nay anh mới biết
Tình ta như chuyện bướm xa thôi. (Trường huyện) - Đường đời:
+ Nguyễn Bính làm thơ sớm, từ năm 13 – 14 tuổi, đến năm 1937, tập thơ Tâm hồn tôi
được giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn.
+ Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Nguyễn Bính tham gia kháng chiến ở Nam Bộ. Ban
đầu, phụ trách văn hóa cứu quốc ở tỉnh Rạch Giá, sau chuyển về cơ quan Văn nghệ kháng chiến khu VIII
+ 1954, Nguyễn Bính tập kết ra Bắc, rồi về công tác ở Hội Nhà văn VN. 1956, chủ trương
báo Trăm Hoa. 1958, báo Trăm Hoa giải thể, văn nghệ sĩ chỉnh huấn và đi thực tế dài
ngày ở các địa phương sau vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, ông về cư trú công tác tại Ty Văn hóa Thông tin Nam Định
- Nguyễn Bính mất đột ngột cuối năm Ất Tỵ (1966), giữa lúc đến nhà bạn dự lễ Tết.
(ngày 20/1/1966 nhằm ngày 29 tháng chạp âm lịch (Tết năm ấy ko có ngày 30).
- Năm 2000, ông được truy tặng giải thưởng HCM về Văn học Nghệ thuật đợt II 2. Con người. - Nguyễn
Bính là nhà thơ gắn bó sâu nặng với thôn quê : tuy ko sinh ra trong 1 gia đình
nông dân, làm rộng, nhưng sống gia truyền ở nông thôn nên ông đã tiếp thu trọn vẹn
tinh hoa của nền văn hóa xóm làng. Chất thôn quê đã thấm vào hồn thơ Nguyễn Bính,
tạo nên sự gắn bó sâu nặng giữa nhà thơ với thôn quê. - Nguyễn
Bính là con người cô độc, yêu nhiều và si mê nhưng luôn cô đơn trong tình
yêu. Con gái Nguyễn Bính – bà Nguyễn Bích Hồng Cầu nói: “Hồi nhỏ tôi cũng giận
ba tôi lắm. Nhưng lớn lên trìm hiểu, tôi vỡ lẽ, đời ba tôi bất hạnh nhiều. Nhiều vợ
nhưng ko ai hiểu ông. Và ông cứ phải đi tìm cái bóng hạnh phúc cho đến khi nhắm
mất xuôi tay vào đêm giao thừa năm 1966”.
Kiêng nhất đừng lấy chồng thi sĩ
Nghèo lắm con ơi bạc lắm con - Nguyễn
Bính là nhà thơ thích xê dịch giang hồ . Có 2 loại xê dịch: phiêu lưu (tìm thấy
chất thơ của sự bất trắc – Nguyễn Tuân), bất đắc dĩ (bị ném vào giang hồ - dấn thân
vào giang hồ nhưng luôn ái ngại). Nguyễn bính luôn băn khoăn về nơi đễn như thế Page | 47
nào: dấn thân vào giang hồ nhưng luôn băn khoăn về sự giang hồ của mình – gốc tiểu nông. - Nguyễn
Bính đi nhiều nơi nhưng ko ở nơi nào thật lâu . Mỗi chuyến đi đều mang đến
cho ông 1 nguồn cảm hứng thi ca dồi dào. Những tập thơ Nguyễn Bính trước Cách
mạng phần lớn được làm trong những chuyến xê dịch giang hồ. Nguyễn Bính làm thơ
về quê ngay khi ở thành thị. Càng về sau, dấu ấn của những chuyễn xê dịch giang hồ
trong thơ Nguyễn Bính càng đậm nét.
II. Qúa trình sáng tác
- 7 tập thơ: “Lỡ bước sang ngang”, “Tâm hồn tôi”, “12 bến nước và mây tầng”... - 2 tiểu thuyết
 NB sáng tác khá nhiều, đều đặn trên các thể loại nhưng nhiều nhất là thơ. Nhà phê
bình Đỗ Lai Thúy: có thể thấy cấu trúc cảm hứng trong toàn bộ sáng tác của ông. VD:
tập tâm hồn tôi là tâm hồn của 1 thanh niên nông thôn, ko gian của nông thôn là ko
gian của bao la bát ngát, ko gian của đô thị là ko gian 1000 cửa sổ... NB luôn mơ về
quê cũ: Phương nao kết giải mây tần cho ta...
 Cấu trúc thơ NB chính là dời bỏ quê hương để tha hương nhưng lại luôn luôn khắc khoải mối hoài hương.
III. Thơ Nguyễn Bính trước CM
Về nội dung – tư tưởng
1. Nguyễn Bính là nhà thơ chân quê:
- Nguyễn Bính là người bảo lưu, gìn giữ những giá trị quê – những giá trị bền vững của
đời sống thôn quê, gồm cả giá trị vật chất và tinh thần. Giá trị quê hình thành những
cảnh sắc quê, tập tục quê, nếp sống quê, cách cảm, cách nghĩ, nét đẹp tâm hồn của con người quê.
- Nguyễn Bính nói về quê xưa bằng niềm hân hoan, tự hào ko che giấu
- cảnh sắc quê: những cảnh sắc đặc trưng của thôn miền quê kiểng:
+ Cảnh sắc trong thơ Nguyễn Bính trước hết thuộc về ko gian của làng, thôn, ao, hồ, vườn
tược, bến đò, con đê,... những ko gian đặc thù của chốn quê: Sáng giăng chia nửa vườn chè/
Một gian nhà nhỏ đi về có nhau
(Thời trước), Hôm
nay dưới bến xuôi đò/ Thương nhau qua
cửa tò vò nhìn nhau (Không đề), Hôm
qua em đi tỉnh về/ Đợi em ở mãi con đê đầu làng
(Chân quê), Em ơi em ở lại nhà/ Vườn dâu em đốn mẹ già em thương (Lỡ bước sang ngang),
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/ Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn (Người hàng xóm),...
+ Cảnh sắc tươi sáng, thơ mộng, thi vị:
Qua giậu tầm xuân thấy bướm nhiều/ Bướm vàng vàng quá bướm yêu yêu/ Em
sang bắt bướm vườn anh mãi/ Quên cả làng Ngang động trống chèo (Hết bướm vàng)
Cành dâu cao lá dâu cao/ Lênh đênh bóng bướm trôi vào mắt em
Dừng chân trước cửa nhà nàng/ Thấy hoa vàng với bướm vàng hôn nhau
Thong thả dân gian nghỉ việc đồng/ Lúa thì con gái mượt như nhung/ Đầy vườn
hoa bưởi hoa cam rụng/ Ngào ngạt hương bay bướm vẽ vòng (Xuân về)
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/ Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy (Mưa xuân – Nguyễn Bính) Page | 48
Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời
(Mưa xuân – Nguyễn Bính)  Thôn Vân:
Thôn Vân có biếc có hồng/ Hồng trong nắng sớm biếc trong vườn chiều/ Đê
cao có đất thả diều/ giờ cao lăm lắm có nhiều chim bay/ Quả lành nặng chĩu từng
cây/ Sen đầy ao cá cá đầy áo sen/ Hiu hiu gió quạt trăng đèn/ Với dăm trẻ nhỏ thả
thuyền ta chơi/ Ăn gỏi cá, đánh cờ người/ Thần tiên riêng 1 góc trời thôn Vân
(Anh về quê cũ),…
Ở đây vô số những trời xanh/ Và một con sông chảy rất lành/ Và những tâm
hồn nghe rất đẹp/ Từng chung sống dưới mái nhà tranh/ Sao chẳng về đây múc
nước sông/ Tưới cho những luống có hoa hồng/ Xuân sang hoa nụ rồi hoa nở/
Cánh bướm vờn hoa loạn phấn hương/ Sao chẳng về đây có bạn hiền/ Có hương có
sắc có thiên nhiên/ Sống vào giản dị ra tươi sáng/ Tìm thấy trong lòng 1 cảnh tiên

Không gian quê của Nguyễn Bính được lãng mạn và thi vị hóa. Đó là không gian trong tâm
tưởng, hiện lên như 1 miền cổ tích, chốn hoài niệm tươi đẹp khi nhà thơ đang trên bước
đường lưu lạc giang hồ  Thiên đường chân quê trong thơ Nguyễn Bính.
- Nếp sống, nếp cảm, nếp nghĩ:
+ Cách bộc lộ tình cảm kín đáo:
Bà mẹ trong Lòng mẹ động viên, mắng yêu con trước khi về nhà chồng:
Gái lớn ai không phải lấy chồng/ Can gì mà khóc nín đi không/ Nín đi mặc áo
ra chào họ/ Rõ quý con tôi các chị trông/ ương ương dở dở quá đi thôi/ Cô có còn
thương đến chúng tôi/ Thì đứng lên nào lau nước mắt/ Mình cô làm khổ mấy mươi
người/ Này áo đồng lầm quần lĩnh tía/ Này gương này lược này hoa tai/ Muốn gì tôi
sắm cho cô đủ/ Nào có thua ai có kém ai
…Đưa con ra đến cửa buồng thôi/ Mẹ phải xa con khổ mấy mươi/ Con ạ! Đêm
nay mình mẹ khóc/ Đêm đêm mình mẹ lại đưa thoi,…
So sánh hình tượng gái quê trong thơ Hàn Mặc Tử và thơ Nguyễn Bính (tập trung vào
các bài: Nụ cười, Gái quê của Hàn Mặc Tử và Mưa xuân, Người hàng xóm của Nguyễn Bính)
 Tiếng ca ngắt – Cành lá rung rinh
1 nường con gái trông xinh xinh
Ống quần vo xắn lên đầu gối
Da thịt, trời ơi! Trắng rợn mìnhi
 Xuân trẻ, xuân non, xuân lịch sự
Tôi đều nhận thấy trên môi em
Làn môi mong mỏng tươi như máu
Đã khiến môi tôi mấp máy thèm
 Cô thôn nữ của Nguyễn Bính mang vẻ đẹp của sự thuần khiết, trong trắng, e ấp, kín
đáo, như 1 thứ hoa thơm còn phong nhụy: Em là con gái trong khung cửi/ Dệt lụa Page | 49
quanh năm với mẹ già/ Lòng trẻ con như cây lụa trắng/ Mẹ già chưa bán chợ làng xa,
 Sống lặng lẽ Chả bao giờ thấy nàng cười/ Nàng hong tơ ướt ra mái nhà hiên/ Mắt
nàng đăm đắm trông lên/ Con bươm bướm trắng về bên ấy rồi Nhận xét:
Thơ NB nói nhiều về cảnh sắc, phong tục, nếp sống quê, nhưng dù nói về điều gì NB cũng
gọi dậy hồn quê (khác Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân: nhìn quê từ bên ngoài. NB nói
về quê bằng cách gọi dậy hồn vía quê hương).
Thơ NB đã bảo lưu trọn vẹn chân ảnh của thôn quê, thứ thôn quê mang vẻ đẹp thuần phác,
nguyên sơ, chưa nhuốm vết bụi thị thành. Hai chữ chân
quê do đó nói về nguồn gốc, ngọn
nguồn chưa bị pha tạp, biến chất, đổi thay. Còn giữ được sự thuần phác ấy, NB còn sự
tự hào, hân hoan. Mất đi sự thuần phác ấy, NB trở nên sầu tủi.

Lo âu buồn sầu về quê nay:
- Chân quê được coi như 1 tuyên ngôn nghệ thuật của NB: tứ thơ: cô gái từ quê ra tỉnh, khi
về, hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.
Quan niệm thấm nhuần vào hình tượng thơ: cuộc xâm lăng của đô thị được hình tượng hóa
bằng 1 cô gái quê ra tỉnh rồi trở về trong sự đổi khác: Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng/ Áo
cài khuy bấm em làm khổ tôi
. Khuy bấm: sản phẩm của văn minh phương Tây. Bài thơ khép
lại trong nỗi tiếc nuối bâng khuâng về sự thực nhỡn tiền đang diễn ra trước mắt, ko thể đổi
thay: Hôm qua em đi tỉnh về/ Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều
 đau xót về sự phôi pha của chất đồng nội.
- Các cặp đối lập: quê – tỉnh, nông thôn – thành thị, truyền thống – hiện đại.
- Thể hiện khát vọng bảo lưu chất chân quê trong tâm hồn mỗi người: Hoa chanh nở giữa
vườn tranh/ Thầy u mình với chúng mình chân quê
(lấy thầy u – hiện thân của truyền thống –
để làm chuẩn cho hiện tại)
- Van xin: Van em, em hãy giữ nguyên quê mùa
- giữ nguyên: khát vọng làm cho chất quê trở nên nguyên vẹn, ko pha tạp. Nhưng ngay trong
lời van này đã ngầm báo hiệu 1 sự bất lực, là sự cầu xin của kẻ yếu, ko thể chủ động, ko thể quyết định.
- 1 mặt cho thấy mỹ cảm của NB hướng về 1 thứ quê thuần khiết, nhưng mặt khác, cũng
ngầm báo hiệu sự thất bại trong việc bảo lưu sự sự thuần khiết ấy của quê hương.
 quê nay: đã bị phôi pha hương nhụy, do đó, buồn sầu, đau xót. Liên hệ:
Đồng Đức Bốn: Biết bao là thứ bùa mê/ Cũng ko bằng được nhà quê của mình/ Câu thơ nấp
ở sân đình/ Nhuộm trăng trăng sáng nhuộm tình tình đau
. Page | 50
Phạm Công Trứ: Lời thề cỏ may: Thủa ấy tôi mới lên mười/ Còn em lên bảy theo tôi cả ngày/
Quần em dệt kín bông may/ Áo tôi đứt cúc mực dây tím bầm/ Tuổi thơ chân đất đầu trần/ Từ
trong bùn đất em thầm lớn lên/ Bây giờ xinh đẹp là em/ Em ra thành phố dần quên 1 thời/ Về
quê ăn Tết vừa rồi/ Em tôi áo chẽn em tôi quần bò/ Gặp tôi em hỏi hững hờ/ Anh chưa lấy vợ
anh còn chờ ai/ Em đi để lại chuỗi cười/ Trong tôi vỡ 1 khoảng trời pha lê/ Trăng vàng đêm
ấy bờ đê/ Có người ngồi gỡ lời thề cỏ may.
Nhận xét:
- Thời nào cũng có Nguyễn Bính của mình. Thời nào cũng có tâm sự Nguyễn Bính: đó là
nỗi lo âu, phấp phỏng trước sự phôi pha những giá trị muôn đời của thôn quê trong thì
hiện tại.
Chân quê là đối tượng thẩm mỹ lớn, lí tưởng của Nguyễn Bính. Nhưng ngầm ẩn
trong nó là một sự báo hiệu cho bi kịch về sự đổi thay, về chất thuần quê bị pha tạp, chất chân quê bị phá vỡ.
- Nguyễn Bính không phải là nhà thơ của những xác tín kiên định mà là nhà thơ của nỗi phấp phỏng âu lo.
 Sự biện chứng của hai tình điệu cảm xúc: hân hoan là cách nói khác của nỗi buồn sầu, lo âu.
- Ở Nguyễn Bính, chân quê còn được hiểu là luôn lấy quê làm tâm điểm, làm hệ quy
chiếu để đo đếm, định giá mọi giá trị
. Khi ấy, Nguyễn Bính có thể rời xa không gian quê,
con người quê để đến với những miền không gian khác, con người khác, nhưng chất chân
quê không mất đi mà trở thành 1 nỗi khắc khoải day dứt lớn. Vì lấy quê làm hệ quy chiếu,
luôn khắc khoải về quê, day dứt vì đã bỏ quê, nên dù, Nguyễn Bính có viết về đô thị hay
những chuyến xe dịch giang hồ, dù thơ Nguyễn Bính không ít lần xuất hiện gương mặt kinh
thành thì vẫn không thể được coi là thi sĩ của đô thị. Nguyễn Bính, muôn đời và mãi mãi, là
thi sĩ chân quê. “Thơ và cuộc đời ràng buộc nhà thơ. Trước, sau và mãi mãi NB vẫn là nhà
thơ của tình quê, chân quê và hồn quê
” (Tô Hoài – Lời giới thiệu Tuyển tập Nguyễn Bính, Nxb Văn học 1986).
- Gương mặt đô thị trong thơ NB: + Quê người:
Trôi dạt dám mong gì vấn vít/ Sòng đời thua nhẵn cả thơ ngây/ Tỉ tê gợi tới niềm tâm sự/ Cúi
mặt soi gương chén rượu đầy
. Giời mưa ở Huế:
Giời mưa ở Huế sao buồn thế!
Cứ kéo dài ra đến mấy ngày
Thềm cũ nôn nao đàn kiến đói
Giời mờ ngao ngán một loài mây Page | 51
Trường Tiền vắng ngắt người qua lại
Đập Đá mênh mang bến nước đầy
Đò vắng khách chơi nằm bát úp
Thu về lại giở gió heo may…
Hàng xóm có người con gái lẻ
Ý chừng duyên nợ với nhau đây
Chao ôi! Ba bốn tao ân ái
Đã đủ tan tành một kiếp trai.
Tôi rờn rợn lắm giai nhân ạ!
Đành phụ nhau thôi, kẻo đến ngày
Khăn gói gió đưa sang xứ lạ
Ai cười cho được lúc chia tay? Nhận xét:
- Quê được nhìn trong sự xâm lăng của đô thị là 1 đóng góp lớn của NB. Nếu quê của
Anh Thơ, Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ là thứ quê tĩnh tại thì quê của Nguyễn Bính là
thứ quê rất động. Bởi chỉ NB là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước
cuộc xâm lăng của đô thị. Thơ NB là sự thương nhớ, khắc khoải, âu lo về sự phôi pha
của quê hương. Nói cách khác, thơ Nguyễn Bính là “thơ về sự thay đổi của cái dường
như ko thể đổi thay
”. (Cả Xuân Diệu và Nguyễn Bính đều nhạy cảm, âu lo với sự phôi
pha, nhưng Xuân Diệu âu lo về cái tất yếu sẽ đổi thay (thời gian, tuổi trẻ), còn Nguyễn
Bính là sự âu lo về cái không thể đổi thay – xã hội nông thôn Việt Nam ngàn đời bất
di bất dịch sau lũy tre làng).
- Đỗ Lai Thúy. Con mắt thơ. Nxb giáo dục. H,1997
2. Nguyễn Bính là nhà thơ của những bi kịch lỡ dở:
A) Tình duyên lỡ làng
- Cái tôi trữ tình:
+ Cái tôi NB tìm về tình yêu, nhưng chỉ gặp dở dang, phụ phàng, chỉ gặp những thứ tình bèo
bọt: Nàng bèo bọt quá em lăn lóc/ Chắp nối nhau hoài cũng uổng công/ (Một trăm con gái
đời nay ấy/ Đừng nói ân tình với thủy chung), Một chút công danh rất hão huyền/ Và dang
dở nữa cuộc tình duyên. Chị ơi tết đến em mua rượu/ Em uống cho say đến não nùng/ Uống
say cười vỡ ba gian gác/ Ném cái chung tình xuống đáy sông
(Xuân tha hương). Page | 52
+ Con đường công danh phải được lập bằng khoa cử đỗ đạt. Những hình ảnh quan trạng,
thám hoa, là những hình ảnh mơ ước của Nguyễn Bính. Cả đời, Nguyễn Bính khắc khoải với giấc mơ quan trạng.
+ Cái tôi mơ được sống trong cuộc đời tựa như trong thế giới truyện Nôm, nhưng thế giới ấy
chỉ còn trong thời trước. Thời đó vĩnh viễn đi qua không trở lại: Khoa cử bỏ rồi thôi hết
trạng/ Giờ đem hoa cỏ giả vườn tiên, Lỡ duyên búi tóc củ hành/ Trường thi Nam Định biến
thành trường bay
. Cổ tích truyện Nôm tan vỡ trước sự xâm lăng của lối sống mới, của thế
giới đô thị. Giấc mơ quan trạng là 1 thứ chìa khóa để mở vào cuộc đời giờ đây thành vô vọng.
+ Cái tôi NB có 1 quan niệm về thân thế cuộc đời theo khuôn mẫu truyền thống của 1 thôn
dân nho sinh. Hạnh phúc gắn liền với công danh, phải được xây dựng trên sự thành đạt về
công danh. Giấc mơ anh lái đò: Tưng bừng vua mở khoa thi/ Anh đỗ quan trạng vinh quy về
làng/ Võng anh đi trước võng làng/ Cả 2 chiếc võng cùng sang 1 đò
. Nếu công danh không
đến thì anh lái đò cũng không còn mơ đến hạnh phúc đã mong muốn: Con sông nó có 2 bờ/
Tôi chưa đỗ trạng thôi cô lại nhà
. Trong bài Thời
trước, Nguyễn Bính đã mượn lời người vợ
để nói rõ quan niệm hạnh phúc: Vì tằm tôi phải chạy dâu/ Vì chồng tôi phải dầu hao bắc
gầy/ Chồng tôi thi đỗ khoa này/ Bõ công đèn sách từ ngày lấy tôi
. Khi công danh của người
chồng thành đạt thì hạnh phúc đến với họ là mãn nguyện: Đêm nay mới thật là đêm/ Ai đem
giăng sáng giãi lên vườn chè
. 3. Giọng điệu
- Giọng than: than vãn, kể lể, trầm trọng hóa, nặng nề hóa nỗi khổ: Hai tay ôm lá vào lòng/
Than ôi chiếc lá cuối cùng là đây, Bao nhiêu ân ái thế là thôi/ Là bấy nhiêu oan nghiệt hỡi
trời, Nhưng mộng mà thôi mộng mất thôi/ Hoa thứa rượu ế ấy tình tôi,…

- Điệu ghẹo: Cái ngày cô chưa lấy chồng/ Đường gần tôi cứ đi vòng cho xa, Biết đâu rồi chả
nói chòng/ Làng mình khối đứa phải lòng mình đây

- Hệ quả: lối nói lấp lửng vòng vo
 Mang đậm chất dân gian HÀN MẶC TỬ
I. Tiểu sử - con người 1. Tiểu sử
- Quê hương và gia đình:
Quêhương:QuêởLệMỹ,ĐồngHới,QuảngBình
+ Quê hương và các không gian sống: miền Trung: quê gốc Thanh Hóa (Bắc miền Trung),
cụ HMT họ Phạm, bị triều đình truy bức, phải rời quê hương bản quán và cải họ theo triều
đình nên đã đổi sang họ Nguyễn, đổi từ Thanh Hóa đến sống ở Thừa Thiên Huế. Page | 53
+ Hồi nhỏ sống ở Quy Nhơ, từ khi 5 tuổi đến khi học tiểu học (1920 – do công việc của
người cha phải di chuyển nhiều nơi nên mãi đến 1920 khi cha dừng lại ở Sa Kỳ - Quảng
Ngãi, HMT mới học tiểu học) HMT sống ở gần động cát, chợ Chua Me, Quảng Ngãi.
Đông cát là một dạng sa mạc thu nhỏ, khi có ánh sáng thì rực rỡ, khi ánh sáng tắt thì ma
quái, như 1 cõi liêu trai  không gian này vừa hấp dẫn, vừa dễ sợ, vừa thần tiên, vừa ma
quái, ảnh hưởng đến càm quan thiên nhiên của HMT sau này.
+ HMT chỉ có khoảng thời gian ngắn sống ở Sài Gòn: làm báo, chưa đủ để trở thành một quãng đời riêng.
+ Thôn Vĩ Dạ là nơi HMT lui tới khi học Trung học, gắn với Hoàng Cúc: HMT theo thiên
chúa, Kim Cúc theo Phật giáo.
+ Phần đời đau thương nhất của HMT gắn với Bình Định: yêu, thất tình, bệnh tật
 Cuộc đời HMT gắn bó trọn vẹn với dải đất miền Trung, kết tinh của văn hóa miền Trung.
Gia đình: sinh ra trong một gia đình Nho giáo và Thiên Chúa giáo.
+ Nho giáo: cách đặt tên con cái: Nguyễn Bá Nhân (1), Nguyễn Thị Như Nghĩa (2), Nguyễn
Thị Như Lễ (3), Nguyễn Trọng Trí (4), Nguyễn Trọng Tín (5). Chú ý ảnh hưởng của chị Lễ
với HMT, cũng như ảnh hưởng của chị Thế với Thạch Lam (nguyên mẫu để TL viết HĐT).
+ Việc học chữ Nho ảnh hưởng đến chất tượng trưng trong thơ HMT, dấu ấn của Thiên Chúa
giáo cũng in dấu đậm nét trong thơ Hàn, hình thành nên khao khát luôn hướng đến đức tin và
những giá trị tuyệt đối.
Học vấn: học cả chữ Nho (liên quan đến chất tượng trưng), tiếp cận thơ Pháp (liên
quan đến sự đổi mới thơ ca)
+ Thế hệ nhà văn như HMT được giới nhân văn Sài Gòn cũ gọi là thế hệ 32, đặc điểm:
Học vấn nhà trường ít, nhưng tài năng văn chương cao (ít học tài cao). Tô Hoài viết Dế mèn
phiêu lưu kí
lúc trình độ lớp 4 (< bậc thành chung), Nguyễn Bính chưa đến trường buổi nào
(bài thơ học trò trường huyện là nhập vai, mơ ước không thành). HMT: học hết trung học (hết thành chung).
 Trong lĩnh vực sáng tạo, học vấn và tài năng không đồng hành cùng nghệ thuật.
+ Tuy học vấn xuất phát điểm thấp, nhưng có tinh thần tự học cao. Điển hình Nguyễn Tuân:
bỏ dở thành chung  uyên bác, Xuân Diệu: tốt nghiệp tú tài viện sĩ. 
+ HMT: học vấn nhà trường không cao, lúc học thành chung được giới thiệu học bổng du
học Pháp, nhưng bị gạch tên vì bị coi là đối tượng nguy hiểm, (do có liên hệ với Phan Bội
Châu). Nhưng HMT làm thơ được bằng tiếng Pháp, làm thơ tài hoa (làm được thơ theo lối
thuận nghịch độc, lục chuyển hồi văn) HMT học không cao nhưng vốn học vấn  rất chắc chắn
Bút danh: Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử? Page | 54
+ Hàn Mạc Tử: Phạm Xuân Tuyền khẳng định bút danh Hàn Mặc Tử vì đây là bút danh
được dùng nhiều (Phạm Xuân Tuyền say mê HMT, từng tự đặt bút danh là Huyền Diệp Tử).
+ Hàn Mặc Tử: cũng được sử dụng nhiều (hai bút danh được sử dụng nhiều tương đương như nhau) Căn cứ vào:
+ Người thân của Hàn: Nguyễn Như Lễ, Nguyễn Bá Tín dùng Hàn Mặc Tử: Hàn Mặc Tử
anh tôi, Hàn Mặc Tử trong riêng tư
.
+ Những người bạn thân được Hàn ủy nhiệm hoàn toàn sáng tác của mình: Chế Lan Viên,
Quách Tấn đều dùng Hàn Mặc Tử. Chế Lan Viên trả lười Võ Long Tê khi Võ Long Tê nói
Hàn Mặc Tử không hay, Hàn Mạc Tử mới hay: “Anh luận về Hàn Mạc Tử rất hay nhưng
chúng tôi vẫn gọi Hàn Mặc Tử là Hàn Mặc Tử)
+ Theo Quách Tuấn khi còn sống HMT rất nhiều bút danh:
 Lệ Thanh: Lệ Mĩ + Thanh Phong (Nguyễn Tuân có bút danh Thanh Hà: Thanh Hóa +
HN); cũng có nghĩa là dòng lệ thanh khiết.  Phong Trần  Minh Duệ Thị
 Trật Sên (tuột xích, sên tiếng miền nam là xích), bút danh khi viết báo, nghịch ngợm.  Hàn Mạc Tử  Hàn Mặc Tử
 Lúc đầu Hàn lấy bút danh là Hàn Mạc Tử: người đứng trong bức rèm lạnh.
 Theo Quách Tấn trong “Đôi nét về Hàn Mặc Tử” (1988): “Hàn Mạc là bức rèm lạnh.
Tử cho là độc đáo, tìm đến khoe cùng tôi (…). Tôi đáp: - Đã có rèm thì thêm bóng
trăng vào. Hỏi còn cách nào nên thơ cho bằng? Tử hội ý, cầm bút vạch vành trăng non
lên đầu chữ A của chữ Mạc, thành Hàn Mặc Tử (…). Mặc là Mực, Hàn là Bút. Hàn
Mặc Tử là anh chàng BÚT MỰC”. Tử sửa xong, thích chí nói – Đã có bóng trăng rọi
vào thì từ nay tôi cũng như thơ tôi sẽ mỗi ngày thêm rạng ngời như bóng trăng…”
 Từ đó, Hàn Mặc Tử trở thành bút danh chính thức.
 Hàn Mạc: bút danh đến trước, dùng trong thời gian ngắn
 Hàn Mặc: bút danh đến sau, dùng trong thời gian dài, bút danh chính thức của HMT.
 Hàn Mặc Tử là bút danh cuối cùng, được coi là thống nhất và chính xác nhất.
Đường đời: điển hình cho kiếp tài hoa bạc mệnh: long đong đời sống, lận đận tình
trường, ngắn ngủi sinh mệnh.
+ Mất sớm: thế hệ nhà văn 32 nhiều người mất sớm: Nguyễn Tường Lân mất năm 25 tuổi.
Tô Ngọc Vân: 34 tuổi – chết bom. Vũ Trọng Phụng: 28, Thạch Lam: 32, Bích Khê: 30, HMT: 28
+ Chết vì bệnh phong người mắc bệnh phong phải trải qua 3 lần chết: Page | 55
Chết vì đau đớn: vi trùng hanxen, ưa thích dây thần kinh ngoại biên, thường đau khi ngày
chuyển sang âm (đêm về sáng)  gắn với ánh trăng. TRăng trong thơ HMT gắn với đau
đớn, vừa là sự cứu rỗi
Chết trong cô đơn: vì bị ghẻ lạnh, xa lánh, HMT chủ động tuyệt giao với thế giới, nhưng
càng tuyệt giao lại càng tha thiết Họ đã xa rồi khôn níu lại/ Lòng thương chưa đã mến chưa
bưa/ Người đi 1 nửa hồn tôi mất/ một nửa hồn tôi hóa dại khờ
Chết sinh mệnh
HMT chết ở Quy Nhơn khi ko có người thân bên cạnh
Đường tình: phần lớn là tình yêu đơn phương, 1 tình cảm sâu sắc với Mộng Cần, 1
tình cảm thuần túy tinh thần với Thương Thương. Kim Cúc:
Thu về nhuộm thắm nét hoàng hoa,
Sương đẫm trăng lồng bóng thướt tha.
Vẻ mặt khác chi người quốc sắc,
Trong đời tri kỉ chỉ riêng ta.
 Vẫn theo Nguyễn Bá Tín, thì “Hoàng Hoa có vẻ ko từ chối tình Anh, nhưng rất
nặng về lễ giáo, chị nói với Hoàng Tùng Ngâm 1 cách lo lắng: Cái ngăn cách
lớn nhất của chị ko thể nào vượt qua được là vấn đề lương giáo”. Bởi HMT là
con chiên ngoan đạo, còn Hoàng Hoa lại là Phật tử, đường tình có thuận, mà
đường tín ngưỡng lại cách ngăn.
Mộng Cần: sâu nặng nhất. Mộng Cần là cháu ruột Bích Khê, khi HMT thất tình với Hoàng
Cúc, Bích Khê mai mối cho cháu. Mối tình đem lại cay đắng cho HMT:
Trời hỡi nhờ ai cho khỏi đói?
Gió trăng có sẵn làm sao ăn?
Làm sao giết được người trong mộng?
Để trả thù duyên kiếp phũ phàng? (Lang thang)
“Ôi trời ơi! Là Phan Thiết, Phan Thiết,
Mà tang thương còn lại mảnh trăng rơi.
Ta đến nơi nường ấy vắng lâu rồi.
Nghĩ là chết từ muôn trăng thế kỉ.”
Ngọc Sương: chị ruột Bích Khê
Ta để chữ Ngọc lên tàu lá
Sương ở cung thềm gió chẳng thôi
Chỉ có 1 mối tình được đền đáp: với Mai Đình (tình thơ văn) Page | 56
Hôm nay sáng tỏ cung Hằng
Khiến lòng em nhớ đêm rằm bên anh
Hãi hùng em sợ trăng thanh
Vắng e, anh lại tự tình cùng trăng (thơ Mai Đình)
- Mối tình thuần túy tinh thần với Thương Thương
Ngoài những mối tình thực đã trải qua trong đời, Hàn còn có 1 mối tình khác, đầy ảo n
mộng, mơ hồ. “Trong bối cảnh lạ lùng này thì Thương Thương xuất hiện mơ hồ trong
mộng và thực của anh Trí như 1 nàng tiên (Thương Thương chỉ là 1 cái tên mà Trần
Thanh Địch bắt gặp đâu đó giữa mây trời để giới thiệu với HMT)”
 Cuộc đời bất hạnh hiếm có là cội nguồn của cảm xúc đau thương trong thơ HMT.
- Nhạy cảm với những mất mát, hụt hẫng: thường gặp những trạng thái hụt hẫng trong
tinh thần về thể chất, luôn có cảm giác đang rơi, ko đi tới đáy (đọc Chơi giữa mùa
trăng
); có những cảm nhận khác người: “Tôi luôn có cảm giác có 1 thế lực vô hình
chụp lấy tôi… luôn có cảm giác rơi mà thấy mình chưa chạm đáy”).
 Ảnh hưởng đến cảm giác đau thương: dùng cảm giác đau đớn về thân xác để diễn tả
nỗi đau thương về tinh thần. - Là người mộ đạo:
+ có đức tin: HMT sống với đức tin
+có đời sống tâm linh: khao khát hướng tới cái thiêng liêng
II. Quá trình sáng tác
- Quá trình sáng tác ngắn ngủi, khoảng 10 năm nhưng tầm cỡ, chất lượng.
- Là sự thu nhỏ hành trình cách tân của phong trào Thơ mới: + : Thơ Đường luật Lệ Thanh thi tập
Bóng nguyệt leo trăng sờ sẫm gối/ Gió thu lọt cửa cọ mài chăn, có những câu thơ rất mới.
+ Gái quê: tập thơ duy nhất được in khi Hàn Mặc Tử sống: thơ lãng mạn.
+ Đau thương: Từ thơ lãng mạn đến thơ tượng trưng, đã có yếu tố siêu thực.
+ Xuân như ý, Thượng thanh khí: yếu tố tượng trưng, siêu thực, tôn giáo, trội là tôn giáo.
+ Duyên kì ngộ, Cẩm châu duyên: đạo giáo, kito giáo.
Thơ HMT liên tục chuyển kênh: mỗi sáng tạo là 1 khám phá mới.
 Hàn Mặc Tử đã đi từ thơ cũ đến thơ mới, từ thơ đường, lãng mạn đến tượng trưng,
siêu thực. Hành trình thơ Hàn Mặc Tử phản ánh hành trình cách tân của Thơ mới.
Hành trình thơ trên cho thấy Hàn Mặc Tử là thi sĩ có nội lực dồi dào. Mỗi sáng tạo
mới là một sự khám phá mới về bản thân.
III. Tư tưởng và nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử Page | 57 1. Tư tưởng
1.1. Quan niệm nghệ thuật
- Thể hiện trong những bài thơ văn xuôi (Quan niệm thơ, Chơi giữa mùa trăng, Chiêm bao
và sự thật…
) và tựa tập Thơ điên
- Xoay quanh vấn đề bản thể thơ ca, về phẩm chất, tâm lý sáng tạo… của nhà thơ.
- Hàn Mặc Tử có 1 quan niệm nghệ thuật khác lạ so với đương thời.
- Quan niệm về bản thể thơ:
+ Thơ cổ quan niệm “Văn dĩ tải đạo”, “Thi dĩ ngôn chí”, thơ lãng mạn: “Văn thơ kia tức là
tâm hồn tôi” (Thế Lữ - Bóng mây chiều).
+ Hàn Mặc Tử quan niệm thơ là địa hạt của huyền diệu, thần bí, cao siêu mà ông gọi đó là
nguồn trong trẻo” (“Người thơ là khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo” – Tựa tập Đau
thương
), là 1 “cõi trời cách biệt” (Thơ là sự ham muốn vô biên những nguồn khoái lạc trong
trắng của 1 cõi trời cách biệt” – Quan niệm thơ), là cõi “huyền ”,
diệu mông lung”, “địa hạt
siêu thần”, “những bến bờ xa lạ của cảm giác”, là cõi giới của “Mơ ước”, “Huyền diệu”,
Sáng láng” và “vượt ra ngoài hẳn hư linh”, đó là nơi “rộng rinh không bờ bến” với “ánh
sáng lạ
” mà “càng đi xa càng ớn lạnh”.
-Quan niệm về nhà thơ:
+ Thơ trung đại: kiểu thi sĩ Nho gia, nhà thơ mang danh phận, bổ phận, chức phận của một
nhà Nho, nhiều khi con người thi nhân bị chìm khuất sau những sải mũi cánh chuồn.
+ Thơ lãng mạn – mẫu nhà thơ “ru với gió”, “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”, phơi bày
tâm hồn mình theo những giai điệu của cảm xúc.
+ Thơ tượng trưng, siêu thực: quan niệm về nhà thơ có sự vận động rõ ràng. Mẫu hình thi
nhân tượng trưng và siêu thực hiện lên như 1 chủng loại đặc biệt: “người khách lạ đi giữa
nguồn trong trẻo”. Đó là cách để thi nhân tự giãn cách mình khỏi những lối mòn của đời
sống. Bởi cái lạ luôn là nguồn hứng khởi cho sáng tạo. Trong quan niệm của ông, thi sĩ tiềm
ẩn những năng lượng bất thường và báo hiệu những bùng nổ phá cách trong thơ.
+ HMT quan niệm nhà thơ là kẻ khác thường.
- Quan niệm về việc sáng tạo: trạng thái thăng hoa, khác thường: Điên.
Là trạng thái nằm ngoài sự kiểm soát của ý thức, chỉ trong vòn điều khiển của ý thức: “Nàng
đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú” (Tự tập Đau thương). “điên”,
“mơ”, “say” – trạng thái nằm ngoài hành lang kiểm duyệt của ý thức.
- Quan niệm nghệ thuật này chi phối trực tiếp đến cách nhìn thế giới; cái tôi trữ tình;
không gian, thời gian nghệ thuật cũng như ngôn ngữ nghệ thuật, cách tổ chức văn bản của Hàn Mặc Tử.
2. CÁI NHÌN THẾ GIỚI SIÊU THỰC Page | 58
- Mang cái nhìn siêu thực để quan sát thế giới, Hàn Mặc Tử đã tạo ra được một thế giới hình
tượng kì dị, đậm chất siêu thực.
- Thế giới nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử trở đi trở lại ba hình ảnh: trăng, hồn và máu. + Trăng:
Thanh khiết: trăng vàng trăng ngọc, trời nguyệt bạch. Kì quái, lạ lẫm
Trăng bao phủ, xâm chiếm và đồng hóa tất cả.
“Không gian dày đặc toàn trăng cả/ Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng” (Huyền ảo).
 Liên tưởng đồng nhất trăng – người, trăng – nước
 “Lụa là ướt đẫm cả trăng thơm”, nên trang phục của con người cũng là trang
phục được dệt bằng trăng: “ăn vận toàn trăng cả”, con người trong cõi trăng
thuần túy đó hóa thành “người trăng”, miệng người đầy một miệng trăng: “Cả
miệng ta trăng là trăng/ Cả lòng ta vô số gái hồng nhan/ Ta nhả ra đây một
nàng/ Cho mây lặng lờ cho nước ngất ngây
” (Một miệng trăng).
 Sự đồng nhất đã xóa nhòa ranh giới thực mộng để tạo ra một thế giới siêu thực,
ở đó trăng bao phủ toàn cõi không gian và xâm chiếm cõi sâu nhất của hồn người.
 Cảm nhận về câu thơ: Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay”.
 So sánh: Trăng từ viễn xứ/ Đi khoan thai trên ngự đỉnh trời tròn (Xuân Diệu) và
Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ/ Sấp mặt xuống cúi mình theo dáng liễu. (Hàn Mặc Tử).
+ Hồn: vừa linh thiêng, vừa yêu ma:
Hồn xa lạ với bản thân thi sĩ: Hồn là ai? Là ai? Tôi chẳng biết/ Hồn theo tôi như muốn cợt tôi chơi (Hồn là ai).
Hồn và xác vật lộn, rượt đuổi nhau: “Hồn đã cấu, đã cào, nhai ngấu nghiến”, “Tôi dìm hồn
xuống một bóng trăng êm
” (Hồn là ai).
Hồn lìa thoát xác và vĩnh viễn không trở lại: “Hồn đi rồi, không nhập xác thê lương” (Hồn lìa khỏi xác),…
Hồn và xác như những thực thể tách rời, hồn thoát thai ra ngoài xác thịt: “Anh đã thoát hồn
anh ngoài xác thịt/ Để chập chờn trong ánh sáng mông lung
” (Sáng láng).
Hồn thoát xác, nhập hoàn toàn vào cõi siêu thoát, nằm ngoài lí trí: “Hồn vội thoát ra khỏi bờ
trí tuệ
” (Siêu thoát),…
Ám ảnh “hồn lìa khỏi xác” một mặt là khát vọng muốn linh hồn vượt thoát khỏi những đau
thương của thân xác; mặt khác là một cách diễn tả nỗi đau đớn, ám ảnh về cái chết cận kề;
hồn lìa khỏi xác còn là cuột vật lộn để hướng về cái linh thiêng, về với chúa. Page | 59
Thơ lãng mạn cũng nói nhiều đến biểu tượng “hồn”. Nhưng trong thơ lãng mạn, hồn biểu
trưng cho đời sống tình cảm con người: “Một chớp mê man, hồn gặp hồn/ Lòng chưa kịp
hiểu mắt trao hôn” (Xuân Diệu – Tình cờ).
Đến Hàn Mặc Tử, hồn đã vượt ngoài thế giới tình cảm để trở thành một thực thể của cõi vô
thức. Hồn như một sinh thể thực sự, bản thể thứ hai của con người, “một sự nhân cách hóa
những nội dung vô thức”.
Máu: vừa thanh khiết vừa kinh dị
Gái quê, máu là biểu tượng cho sức sống tươi nguyên của vẻ đẹp đang độ xuân thì: “Làn môi
mong mỏng tươi như máu/ Đã khiến môi tôi mấp máy thèm
” (Gái quê)
Đau thương, máu gắn liền với đớn đau và cái chết: “Trời hỡi bao giờ tôi chết đi/ Bao giờ tôi
hết được yêu vì/ Bao giờ mặt nhật tan thành máu/ Và khối lòng tôi cứng tợ si?
” (Những giọt
lệ), “Và ai gánh máu đi trên tuyết/ Mảnh áo da cừu ngắm nở nang” (Cuối thu). Máu bao
trùm cả không gian và thời gian: “Thét chòm sao hoảng rơi vào đáy giếng/ Mà muôn năm
rướm máu trong không gian
” (Rướm máu).
Máu là cội nguồn của sự sáng tạo nghệ thuật: “Máu đã khô rồi thơ cũng khô” (Trút linh hồn),
 là sự hình tượng hóa của nguồn sáng tạo.
Hàn Mặc Tử đã coi thơ là sinh mệnh, máu huyết của mình: “Anh cắn lời thơ để máu trào…
(Lưu luyến), “Mỗi lời thơ để dính não cân ta/ Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt/ Như mê
man chết điếng cả làn da
” (Rướm máu),…
 Biểu tượng Trăng, hồn, máu phản ánh đúng tâm lí của Hàn Mặc Tử: tranh chấp không
ngừng giữa thể xác và linh hồn, bệnh hoạn và khải thị, ánh sáng và bóng tối, sự sống và cái chết.
Sở dĩ thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện nhiều hình ảnh kì dị, lạ lẫm, thậm chí ma quái như
vậy bởi đó là thế giới được khúc xạ từ cái nhìn bên trong của một cá tính sáng tạo độc
đáo, từ những ám ảnh của bệnh tệt, tình yêu và cái chết, là sự lên tiếng của cuộc đời,
thân phận của thi nhân.

3. CÁI TÔI TRỮ TÌNH: TỪ CÁI TÔI KHAO KHÁT YÊU THƯƠNG ĐẾN CÁI TÔI MẶC CẢM ĐAU THƯƠNG - Gáiquê:
Cái tôi trữ tình mang tiếng lòng của 1 chàng trai mới lớn, đầy khao khát yêu thương
Lòng ta dào dạt như làn sóng/ Ta đang khao khát tình yêu thương” (Tiếng vang).
Cái tôi đầy bỡ ngỡ trước cánh cửa ái tình, mang những cung bậc của một chàng trai đứng
trước cánh cửa tình yêu.
Thơ thẩn, ngân ngơ: “Trước sân anh thơ thẩn/ Đăm đăm trông nhạn về” (Tình quê).
Ngây dại: “Anh đi thơ thẩn như ngây dại/ Hứng lấy hương nồng trong áo em” (Âm thầm). Page | 60
Bẽn lẽn, ngượng ngùng: “Tôi không muốn gặp người tôi yêu/ Có lẽ vì tôi mắc cỡ nhiều” (Tôi không muốn gặp).
Đầy hoài bão, ước mơ: “Đời anh lưu lạc tự bao giờ/ Đi đi... đi mãi nơi vô định/ Tìm cái phi
thường cái ước mơ
” (Đời phiêu lãng).
- Đauthương, cái tôi trữ tình có sự chuyển đổi rõ rệt, trở thành cái tôi đầy mặc cảm, đau thương.
+ Mặc cảm bị xa lánh, ko được đời đón nhận  Hình tượng khách xa:
Cái tôi luôn tự mình đứng tách ra khỏi những gì vốn rất gần gũi, cảm thấy tất cả những gì
tốt đẹp cứ rời xa mình: “Khánh xa gặp lúc mùa xuân chín/ Lòng trí bâng khuâng sực nhớ
làng
” (Mùa xuân chín),
Gió ơi lại đấy mà ngừa/ Tôi đứng xa lắm xin chừa tôi đi” (Say nắng),
Não nề lòng viễn khách giữa cơn mê” (Hãy nhập hồn em).
Mơ khách đường xa khách đường xa
Các hình ảnh “khách xa”, “xa lắm”, “xa xôi”, “khách đường xa”,... trở đi trở lại
 Cái tôi trữ tình khao khát yêu đương ở Gáiquê vô tình đã làm cho cái tôi trong Đau
thương càng đau thương hơn, bởi chính vì khao khát mà không thể thực hiện sẽ làm
con người càng thêm đau đớn.
- Chìm đắm trong một thế giới riêng và càng trở nên điên loạn.
Cái tôi “điên loạn” được thể hiện trên nhiều mức độ.
+ Trực tiếp nhận mình là điên dại: “Anh điên anh nói như người dại/ Van lạy không gian xóa
những ngày
” (Lưu luyến).
Bây giờ tôi dại tôi điên/ Chắp tay tôi lạy cả miền ko gian” (Một miệng trăng).
+ Hành động bất thường:
Cười như điên sặc sụa cả mùi trăng”, “Cùng ngả nghiêng lăn lộn giữa muôn hình/ Để gào
thét một hơi cho rởn ốc
” (Hồn là ai), “Ôi ngông cuồng! Ôi rồ dại, rồ dại/ Ta đi thuyền trên
mặt nước lòng ta/ Ôi ngông cuồng! Ôi rồ dại rồ dại! Ta cắm thuyền chính giữa vũng hồn ta

(Biển hồn ta), “A ha! Ta đuổi theo trăng/ Ta đuổi theo trăng” (Rượt trăng),...
+ Nhạy cảm với những hành động liên quan đến miệng: “ ”, ăn “ ”,
nhấp hớp”, “uống”,
nhai”, “cắn”, “đớp”,... “Tôi toan hớp cả váng trời/ Tôi toan đớp cả miếng cười trong khe
(Say nắng), “Miệng lưỡi khô khan hết cả thèm” (Ghen), “Anh cắn lời thơ để máu trào” (Lưu
luyến), “Ôi ta đã mửa ra từng búng huyết” (Biển hồn ta), “Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng” Page | 61
(Say trăng), “Mà sao ngậm kín thơ đầy miệng” (Cô liêu), “Ta sẽ hộc ra từng búng huyết” (Người ngọc).
 “Thi ảnh khẩu cảm” (Bùi Xuân Bào).
+ Trạng thái hoảng loạn: “Ta hoảng hồn, hoảng vía, ta hoảng thiên/ Nhảy ùm xuống giếng
vớt xác trăng lên
” (Trăng tự tử), “Tiếng gà gáy rụng trăng đầu hạ/ Tôi hoảng hồn lên giận
sững sờ
” (Một miệng trăng),... Vd: Trăng tự tử:
Lòng giếng lạnh! Lòng giếng lạnh
Sao chẳng một ai hay
Nghe nói mùa thu náu ở chỗ này
Tất cả âm dương đều tụ họp
Và trăng mây ngừng lại ở nơi đây
Để nghe, à để nghe
Bao lời bí mật đêm thời loạn
Bao giọng buồn thương gió đã thề
Bao lời ai oán của si mê
Mà trai gái tự tin bên miệng giếng
Miệng giếng hả ra Nuốt ực bao la
Nuốt vì sao rơi rụng
Loạn rồi! Loạn rồi, ôi giếng loạn
Ta hoảng hồn, hoảng vía, ta hoảng thiên
Nhảy ùm xuống giếng vớt trăng lên. Trăng tự tử:
. “Hoảng hồn”, “hoảng vía”, “hoảng thiên” là những trạng thái thường trực của tâm lí đầy bất
ổn trong thi sĩ. “Cuồng”, “điên”, “loạn”, “hoảng” tạo nên ấn tượng mạnh nhất về trạng thái
tinh thần của cái tôi Hàn Mặc Tử.
. Tóm lại, cái tôi trữ tình trong thơ HMT đã đi từ cái tôi với những xúc cảm khao khát yêu
thương đến cái tôi chất đầy mặc cảm, đau thương, mà sự điên loạn, đau đớn là biểu hiện khác Page | 62
của lòng yêu đời, khát sống trong thi sĩ. Ở HMT, những vần thơ viết khi thể xác bị giày vò
đau đớn đã trở thành những sáng tạo nghệ thuật đích thực.
3. KHÔNG GIAN – THỜI GIAN NGHỆ THUẬT: MANG TÍNH PHÂN CỰC
a) Không gian: không gian đầy ánh sáng, và ko gian ảo mờ, u tối.
- Không gian đầy ánh sáng: Nắng, trăng, cõi tâm linh tôn giáo.
+ Nắng: HMT hầu như ko viết về mưa. Nhiều câu thơ tả nắng: “Ánh nắng lao xao trên đọn
tre/ Tiếng ca lanh lảnh trong vườn me” (Quả dưa)
Nắng tượng trưng cho những vẻ đẹp tươi mới, tinh khôi của đất trời: “Trong làn nắng ửng
khói mơ tan/ Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
”, “Ta mới thấy xuân vờn trong ánh sáng” (Thi
sĩ Chàm). “Sao anh ko về chơi thôn Vĩ/ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên” (Đây thôn Vĩ
Dạ), “Vườn chói lọi thì tình yêu phải ngợp” (Dấu tích).
- Không gian với ánh nắng của HMT còn là không gian hoài niệm, đúng hơn, chính
những hoài niệm đã làm cho không gian trở nên rực rỡ, tươi mới, tinh khôi hơn.
- Khi biết mình mắc bệnh, HMT tự cho rằng mình ko bao giờ có thể trở lại được “ngày
xưa” tươi đẹp nữa, ko gian của hoài niệm đã biến thành ko gian của khao khát.
- Trong thơ Hàn thường xuất hiện những hình ảnh tươi đẹp phút chốc trượt từ hiện tại
về hoài niệm, tạo nên cảm giác hụt hẫng, mất mát, xa xăm: “Khách xa gặp lúc mùa
xuân chín/ Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng/ Chị ấy năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ
sông trắng nắng chang chang
”.
+ Trăng: Vườn trăng: “Ai nói vườn trăng là vườn mơ”, vườn tiên: “vườn tiên sáng láng
như lòng người thương
” (Chơi lên trăng), là những đêm trăng sáng đầy hương hoa: “Vui
thay cảnh sáng trăng/ Ái tình bắt đầu căng
” (Sáng trăng), “Tôi yêu trời nguyệt bạch/ Tôi
say màu thanh thiên
” (Cao hứng),...
+ Tôn giáo: nơi cứu rỗi đức tin của con người: “Muôn thần phẩm trong lâng lâng chầu
chực/ Ánh hào quang chan chói ngất lưu ly
” (Ra đời), “Trời hôm nay bình an như nguyệt
bạch/ Đường trăng xa, ánh sáng tuyệt vời bay
” (Đêm xuân cầu nguyện), “Hồn tôi bay đến
bao giờ mới đậu/ Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang
” (Thánh nữ đồng trinh Maria),...
Không gian đầy ánh sáng nhằm xác lập 1 thế giới tràn ngập sức sống, thể hiện cái nhìn lạc
quan của nhân vật trữ tình. Đó là thế giới của hạnh phúc, lí tưởng, ước mơ, ánh sáng gắn với
màu sắc, hương thơm và nhạc điệu.
- Không gian mờ ảo, u tối:
+ “Cõi trời sâu”, nơi giam cầm thi sĩ: “Tôi đang còn đây hay ở đâu/ Ai đem tôi bỏ dưới trời
sâu/ Sao bông phượng nở trong màu huyết/ Nhỏ xuống long tôi những giọt châu
” (Những giọt lệ) Page | 63
Với người đang tràn ngập niềm yêu đời thì hoa phượng sẽ là “ngọn đuốc” hân hoan, là
ngọn lửa thắp sáng niềm hy vọng, nhưng với người bị giam cầm trong thế giới tối tăm không
hi vọng ngày trở lại với cuộc sống bình thường, thì hoa phượng lại mang màu của máu, của
đau thương, chết chóc. Chính màu máu xuất hiện đã khiến cho ko gian u tối trở thành ko
gian ma quái, hoảng loạn, sợ hãi, ko gian của sự đau đớn chuyển từ đau đớn thể xác thành đau đớn tinh thần.
Máu ko chỉ gợi lên nỗi đau đớn về thể xác, mà còn gợi nên những hoảng loạn tinh thần,
về sự sống mất dần trong đau đớn: “Kìa ai gánh máu đi trên tuyết” (Cuối thu), “Bao giờ mặt
nhật tan thành máu” (Những giọt lệ), “Cả niềm yêu, ý nhớ của một vùng/ Hóa thành vũng
máu đào trong ác lặn” (Trường tương tư),...
Cũng như trăng luôn được miêu tả trong tính phủ ngập, máu cũng xuất hiện trong thơ
HMT bao phủ cả cõi ko gian: “mặt nhật tan” biến tất cả ko gian thành máu.
+ Không gian của thế giới u tối:
“Lòng giếng lạnh! Lòng giếng lạnh! Sao chẳng một ai hay/ Nghe nói mùa thu náu chỗ
này/ Tất cả âm dương đều tụ họp” (Trăng tự tử).
Lòng giếng lạnh giam cầm con người như một kiểu chôn sống – nhân vật trữ tình ý
thức rất rõ về cái chết đang đến gần trong sự giam cầm này. Khoảng trống nho nhỏ của
miệng giếng chỉ đủ để nhân vật bị nhốt trong đó ý thức được mình đang thuộc về cõi âm u, thuộc về cõi chết.
Cái mà bài thơ “Trăng tự tử” thể hiện ko pahri là cái chết, mà là giai đoạn khủng
hoảng trước cái chết. Nơi ấy là 1 cõi dương mà âm khí bao phủ, chỉ có mùa thu, buồn thương, oán hận.
+ Trong thế giới âm u này gắn liền với cái lạnh và sương khói:
Tôi đi trong ánh sương mờ/ Tìm con trăng lạc ngoài bờ bến kia” (Chơi lên trăng),
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh/ Ai biết tình ai có đậm đà” (Đây thôn Vĩ Dạ),
Bóng người thục nữ ẩn trong mơ/ Trong lá trong hoa khói bụi mờ”,
Ô hay người ngọc biến ra hơi” (Mơ hoa),...
- Khoảng cánh giữa 2 ko gian ấy:
Không chỉ là khoảng cách vật lí thông thường mà còn là khoảng cách của cõi thực và
cõi mộng, thế giới bên này và thế giới bên kia: “Nhưng xa xôi quá biết làm sao”, “Lệ
Kiều ơi! Em còn giữ ý thơ/ Trong đôi mắt mùa thu trong leo lẻo/ Ở xa xôi lặng nhìn anh
khô héo/ Bên kia trời hãy chụp cả hồn anh
” (Trường tương tư). Thâm chí, hai ko gian ấy Page | 64
đều là ko gian của cõi mộng: “Anh nằm ngoài sự thực/ Em ngồi trong chiêm bao/ Cách xa
nhau biết mấy/ Nhớ thương quá thì sao
” (Anh điên).
Nguyên nhân của liên tưởng xa cách: thi sĩ luôn mang mặc cảm về bệnh tật nên cho dù
rất tha thiết với cuộc đời nhưng lại chọn cách đứng xa cuộc đời. Thế giới trần gian rất gần
nhưng ko còn là thế giới thuộc về mình. Nó là 1 thiên đường nhưng là 1 thiên đường
ngoài tầm với. Chính những mặc cảm chia lìa này đã chia cơ cấu ko gian của thơ Hàn
thành 2 cõi miền đối lập, gắn với 2 hệ thống hình ảnh liên tưởng đối lập nhau.
Tạo dựng 1 ko gian nghệ thuật theo lối đối lập ko phải chỉ xuất hiện trong thơ HMT,
mà là đặc điểm chung của thơ lãng mạn.
Thơ lãng mạn thường tổ chức hình tượng nghệ thuật và kết cấu ko gian theo phương thức đối lập.
Khác biệt ở chỗ, sự đối lập ở HMT được đẩy đến cực điểm với những hình tượng nghệ
thuật và liên tưởng mang tính đặc thù ko thể trộn lẫn.
b) Thời gian: chủ yếu là đêm và hiện tại.
(t) có cả ngày và đêm, nhưng chủ yếu là đêm: đêm trăng, cõi trăng. Trăng là nguồn
sáng thuần khiết, thuần linh. Chỉ trong đêm trăng và trong hiện tại, HMT mới thực sự cảm
nhận rõ nét sự ám ảnh của thời gian.
Hiện tại gắn với thời gian đêm: “đêm nay”, “năm nay”, “tối nay”, “tối hôm nay”. Nhà
thơ luôn khắc khoải với thời gian hiện tại, sợ hiện tại tan biến “Thuyền ai đậu bến sông trăng
đó/ Có chở trăng về kịp tối nay
” (Đây thôn Vĩ Dạ).
Cũng như Xuân Diệu và rất nhiều nhà thơ mới khác, HMT luôn bị ám ảnh bởi thời
gian. Nhưng nếu nỗi sợ thời gian trôi chảy khiến Xuân Diệu phải sống hối hả, sống vội vàng,
níu kéo tuổi xuân thì HMT lại phải gấp gáp ko phải để tận hưởng mọi sắc hương của cuộc
đời mà bởi luôn hoảng hốt khi quỹ thời gian sống ko còn bao nhiêu nữa.
4. KẾT CẤU VÀ NGÔN NGỮ THƠ HÀN MẶC TỬ
a) Kết cấu: mạch liên tưởng siêu logic
- Hình ảnh liên tưởng trong thơ Hàn Mặc Tử dường như ko có logic liên kết của lí trí mà kết
nối với nhau theo một mạch liên tưởng siêu logic.
 Kết cấu hình tượng như hỗn loạn, những hình ảnh dường như ko có liên hệ gì với nhau.
- VD: Đây thôn Vĩ Dạ:
 Những hình ảnh nằm trong các trường liên tưởng rất xa nhau, lại kết nối trong 1 chỉnh
thể văn bản, tạo thành một cấu trúc hình tượng như bất an, bất ổn. Tuy nhiên, bài thơ
vẫn tồn tại 1 mạch liên tưởng logic ở bề sâu. Page | 65
 Ba khổ thơ được liên kết với nhau bởi ba câu hỏi và 4 đại từ phiếm chỉ “ai”: “ Vườn ai
mướt quá xanh như ngọc”, “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó”, “Ai biết tình ai có đậm đà”.
 Mạch liên kết ngầm ẩn trong bài thơ chính là lòng yêu sống, khát sống đến đau đớn.
Hàn Mặc Tử thấy chới với khi tất cả tuột khỏi tay mình. Tử “hoài niệm” về thôn Vĩ,
thi sĩ khao khát hi vọng chở trăng về kịp đêm nay, như khao khát được kết nối với thế
giới tươi đẹp, nhưng niềm hi vọng lại quá đỗi mong manh, nên thi sĩ “hoài nghi” chính
mình, chính thế giới của mình, hoài nghi cả người tình xa từng là hiện thân cho những
khao khát thầm kín của mình. Hoài niệm thì rực rỡ mà hiện tại thì âm u.
 Chính khao khát sống đến đau đớn đã tạo nên mạch liên tưởng trong cấu triucs hình tượng của bài thơ. B. NGÔN NGỮ:
- Ngôn từ lạ hóa, cực tả:
+ Dùng liên tưởng độc đáo
+ Bẻ chữ: trắng như tinh
+ Dùng các loại cảm giác khác để nhấn mạnh: trắng rợn mình, trắng quá nhìn ko ra: cách
cực tả sắc trắng chứ ko phải sắc trắng lẫn vào sương khói. + Phi logic
Kết hợp ngôn ngữ siêu logic: võ đoán, ko thể tìm thấy sự liên kết trên bề mặt.
Ví dụ: “Mới lớn lên trăng đã thẹn thò/ Thơm như tình ái của ni cô” (Huyền ảo),...
“Tình ái của ni cô”: kết hợp lạ hóa. Tại sao lại nói đến tình yêu của người theo đạo tu
hành? Sự liên tưởng trong kết hợp ngôn từ tưởng vô lí nhưng lại hàm chứa mạch ngầm
hợp lí: trong cảm nhận của Hàn Mặc Tử, tình ái của ni cô là thứ tình trong trắng, tinh
khiết, ko vướng chút tục lụy bụi trần.
Liên tưởng ấy làm vầng trăng trở nên thánh thiện, phù hợp với cảm nhận về sự “thẹn
thò” của vầng trăng “mới lớn lên”.
A. Breton: “Có thể kết hợp mọi từ với nhau không loại trừ từ nào. Giá trị thơ ca của sự
kết hợp như thế càng cao nếu nó càng võ đoán mà thoạt nhìn ngỡ như ko thể được”.
- Ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử mang đậm chất tượng trương, siêu thực và nhiều khi có sự
hòa hợp khó tách bạch giữa siêu thực và tượng trưng.
“Sao bông phượng nở trong màu huyết/ Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu” (Những giọt lệ) Page | 66