Văn mẫu lớp 12: Nghị luận về ý kiến Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn

1. Mở bài - Giới thiệu khái niệm chi tiết, chức năng của chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm. - Đề cập quan điểm của M.Gorki- vấn đề cần nghị luận “chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

 

Chủ đề:

Văn mẫu 12 637 tài liệu

Môn:

Ngữ Văn 12 1 K tài liệu

Thông tin:
10 trang 3 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Văn mẫu lớp 12: Nghị luận về ý kiến Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn

1. Mở bài - Giới thiệu khái niệm chi tiết, chức năng của chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm. - Đề cập quan điểm của M.Gorki- vấn đề cần nghị luận “chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

 

94 47 lượt tải Tải xuống
Dàn ý nghị luận về ý kiến Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn
lớn
1. Mở bài
- Giới thiệu khái niệm chi tiết, chức năng của chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm.
- Đề cập quan điểm của M.Gorki- vấn đề cần nghị luận “chi tiết nhỏ làm nên nhà văn
lớn”.
2. Thân bài
- Nêu một số khái niệm liên quan đến vấn đề cần nghị luận: khái niệm văn học, tác
phẩm văn học, cảm thụ văn học, hình tượng văn học, nhãn tự, tứ thơ…
- giải tại sao chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn?. Ý nghĩa của chi tiết trong tác
phẩm.
- Phân tích cụ thể về quan điểm chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn qua một số tác
phẩm cụ thể điển hình.
3. Kết bài
- Tóm lược ý chính trong bài viết, giá trị của chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn.
- Bày tỏ cảm nghĩ khi phân tích nghị luận chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn.
Nghị luận về ý kiến Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn
ngắn gọn
M. Gorki từng khẳng định rằng “chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. M ột tác phẩm văn
học giá trị khi nhà văn sáng tạo ra được những chi tiết hay, gửi gắm thông điệp
nhân văn cao đẹp. dụ trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương,
Nguyễn Dữ đã sáng tạo ra chi tiết cái bóng, chỉ xuất hiện hai lần trong câu chuyện,
một lần đầu một lần cuối truyện đều qua lời nói của Đản. Nhưng lại quyết
định đến toàn bộ cốt truyện của tác phẩm này. Một chiếc bóng nhỏ bé, không lời lại
uy lực to lớn như thế với cuộc đời của một con người. Lần đầu tiên, chi tiết cái
bóng xuất hiện khi Trương Sinh trở về sau nhiều năm đi lính. Cái bóng qua lời nói
của Đản khiến Trương Sinh nghi ngờ vợ không chung thủy. quá đau khổ,
Nương mới tìm đến cái chết để chứng minh tấm lòng trong sạch. đây, chi tiết này
tính chất “thắt nút” đẩy câu chuyện đến cao trào khiến cuộc đời nhân vật rơi
vào bi kịch. quá đau khổ, Nương mới tìm đến cái chết để chứng minh tấm
lòng trong sạch. Lần thứ hai, chi tiết này xuất hiện gần cuối tác phẩm. Sau khi
Nương chết. Trương Sinh bế con ngồi trước ánh đèn. Đứa bỗng reo lên: “Cha
Đản lại đến kìa”. Lúc này, Trương Sinh hỏi lại con mới biết sự tình, nhận ra mình
đã nghi oan cho vợ. Thông qua chi tiết cái bóng, nhà văn cũng muốn gửi gắm thông
điệp nhân văn sâu sắc. Tóm lại, ý kiến “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn” hoàn
toàn đúng đắn.
Nghị luận về ý kiến Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn -
Mẫu 1
Một tác phẩm văn học ra đời đều một quá trình sáng tạo nghệ thuật của nhà văn.
Từng chi tiết, từng hình ảnh nhân vật trong tác phẩm đều tâm huyết của nhà văn.
thể từ những đời thường nhà văn nhìn thấy, hay thể do chính nhà
văn sáng tạo ra để mang đến cho độc giả một ý nghĩa nào đó. Mỗi chi tiết trong tác
phẩm đều nói lên một điều đó, chi tiết nhỏ, thể làm nên được nhà văn lớn.
Chi tiết trong mỗi tác phẩm được hiểu như thế nào? Chi tiết những sự việc, tình
tiết nhà văn thấy hoặc tự sáng tạo ra. Nhằm cho ta thấy hơn, sâu sắc hơn, ý
nghĩa tác phẩm hay chính Nhà văn mang lại. Một chi tiết nhỏ trong tác phẩm
thể làm nên tên tuổi sức, sống của một nhà văn. Trong kho tàng văn học số
những tác phẩm, hay nhiều chi tiết đặc sắc. Từ nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm
cùng tên của Nam Cao, Chí Phèo con quỷ dữ của làng Đại, nhưng cũng lúc
rơi nước mắt cảm động, tự kết liễu đời mình để nói lên phần nhân tính trong con
người vẫn còn. Đến Lão Hạc, một người nông dân hiền lành, chất phát, giàu lòng tự
trọng, thà chết chứ không chịu nhận sự giúp đỡ của một ai. Chi tiết liên nhớ đến
ngọn đèn leo lét của chị tí, giữa màn đêm tăm tối, đặc biệt không thể thiếu chi tiết
Huấn Cao cho chữ, trong cảnh cùng khác biệt trong “Chữ Người Tử Tù” của
Nguyễn Tuân.
Trong tác phẩm “Chữ Người Tử Tù”, nhiều chi tiết viên quản ngục với tấm lòng
chân thành đến chỗ Huấn Cao. Nhưng được đáp lại bằng thái độ khinh thường, rẻ
mạt. Huấn Cao nhận ra tấm lòng của viên quản ngục, cảnh cho chữ cùng đặc
biệt. Từng chi tiết, sự việc trong tác phẩm đều mang một ý nghĩa riêng. nói lên
tính cách con người của nhân vật Huấn Cao, một người chính trực, rất tự trọng,
trong hoàn cảnh nào cũng luôn giữ được phẩm chất tốt đẹp của mình. trong
cảnh hãm vẫn không ngần ngại sỉ nhục viên quản ngục, ông cho rằng tất cả
mọi kẻ tay sai cho hội đó đều không ra gì. Viên quản ngục người luôn bị nói ác
độc, làm tay sai cho bọn ác nhân hẳn người không ra gì. Chịu mọi tai tiếng, nghe
đủ điều không hay nhưng không bao giờ con người ấy trách mắng một ai. Ngược lại
luôn ân cần, quan tâm đến Huấn Cao. Tuy không tài, nhưng viên quản ngục lại
hiểu thấu được tâm tư, nỗi lòng của người tài. Với tấm lòng chân thành, thái độ
điềm đạm không oán trách của viên quản ngục. Huấn Cao đã cùng hối hận,
chút nữa đã bỏ lỡ một tấm lòng cao quý trên đời này. Ta vẫn thường nói, hoàn cảnh
làm nên tính cách con người. Điều kiện sống tốt, thì con người tốt. Còn hoàn cảnh
tối tăm, thì con người cũng xấu xa, không tốt. Nhưng qua chi tiết trên ta đã thấy,
không phải cứ sống trong ánh sáng tốt. Còn người sống trong hoàn cảnh xấu
con người xấu. Viên quản ngục sống trong môi trường khắc nghiệt, sự tàn bạo của
hội phong kiến nhưng ông vẫn giữ được phẩm chất tốt đẹp của mình, không
danh lợi đánh mất đi nhân phẩm của mình của con người nói chung, tấm lòng
ấy đã làm cảm động Huấn Cao.
Một sự chân thành đến vậy Huấn Cao sao nỡ từ chối nguyện vọng muốn xin chữ
của viên quản ngục được. Trong cảnh ngục tối tăm, bẩn thỉu, trên nền toàn những
phân chuột, phân gián, mùi hôi thối bốc lên. Vậy người nghệ ấy vẫn thể
sáng tạo nghệ thuật một cách say sưa, “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”,
một người trước ngưỡng cửa của sự sống cái chết. Nhưng vẫn thản nhiên không
chút bận tâm mình sẽ chết, sáng tạo ra một tác phẩm nghệ thuật nơi túng, quả
một điều phi thường “Chính tấm lòng biệt nhỡn liên tài” của viên quản ngục đã khiến
Huấn Cao cùng cảm động. Dồn hết tâm huyết tác giả lại cho tấm lòng ấy.
Chỉ một chi tiết nhỏ trong tác phẩm, cũng để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng
người đọc, làm nên một nhà văn lớn “Chữ Người Tử Tù” như một bản nhạc, đầy
những bản nhạc bồ của cuộc sống. Nổi bật lên âm thanh trong trẻo, tươi sáng
của viên quản ngục. Những lời nói ân cần của Huấn Cao khi khuyên viên quản ngục
tìm một nơi mình thể sống chính, con người mình không bị ép trong một
khuôn khổ nào. Cho thấy Huấn Cao thật sự không những người tài, tấm lòng
đạo đức rất sáng, lại luôn tràn đầy trong con người nghệ sĩ.
Thạch Lam một con người dịu dàng, nhẹ nhàng coi văn chương một thứ khí giới
thành cao, để thanh lọc tâm hồn. Tìm cái đẹp những nơi tầm thường nhất, ít ai để
ý. Nhân vật Liên trong “Hai đứa trẻ” như hiện thân của Thạch Lam, một gái mới
lớn nhưng mang nỗi u sầu, ngồi lặng trong đêm tối, nghĩ về cuộc sống, nghĩ về ngọn
đèn leo lét giữa màn đêm đen tối của Phố huyện nghèo. Về những con người với số
phận hẩm hiu, cùng với niềm hi vọng mong manh về một tương lai tươi sáng phía
trước. Đồng thời Thạch Lam cũng muốn nói lên tinh thần của những con người,
trong hoàn cảnh nào vẫn không bao giờ hết hy vọng, hết ước mơ, vẫn luôn sống
một tương lai tốt đẹp.
Hay Nam Cao cũng đã thành công trong nhân vật Chí Phèo của mình, từ một chi tiết
rất nhỏ, rất tầm thường, tưởng chừng như ít ai để ý đến cũng nói lên nam cao một
người rất tinh tế. Một con cóc xuất hiện trong cuộc tình của Chí Phèo Thị Nở, thì
hầu như mọi thứ đều xoay về phía con cóc, Nam Cao thể tự mình nhìn ra cảm
nhận nhưng không. Nhà văn đã dùng con cóc làm ống kính nhìn, quan sát sự việc
diễn biến một cách rất tinh tế, điều đó cho thấy nam cao một người nghệ luôn
biết chừng của một người nghệ sĩ, cái nên tự mình quan sát, cái không nên.
rất nhiều chi tiết tử mỗi tác phẩm, quan trọng chi tiết đó nói lên cái gì? Nguyễn
Tuân một người quan niệm về cái đẹp phải tuyệt mỹ, không ai được. Đúng vậy
con người ấy đã làm được một cảnh tượng Xưa nay chưa từng có, một chi tiết làm
nên nhà văn Nguyễn Tuân. Nếu như viên quản ngục người biệt những thiên tài,
chỉ Huấn Cao người biệt nhưỡng thiên lương, sáng tạo nghệ thuật trong Huấn
cao còn căn dặn viên quản ngục những lời chí cốt “đây không phải nơi treo những
chữ như vậy, tìm một nơi treo để nói lên hoài bão của mình”.
Qua cảnh cho chữ Nguyễn Tuân muốn nói lên cái đẹp luôn đi cùng với cái đạo đức,
cái thiên lương “Tài không đức, thì cũng không hết”, vậy nên cái quan trọng
phải đức, tâm.
Chi tiết nhỏ nhà văn lớn Nguyễn Tuân cùng nhiều các nhà văn đã làm nên được tên
tuổi bằng tâm huyết nghệ thuật của mình, không cần phải những cái to lớn,
chỉ cần một chi tiết nhỏ ta cũng thể nói lên tính cách con người đó.
Nghị luận về ý kiến Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn -
Mẫu 2
Làm nên thành công của một tác phẩm tự sự cần phải kể đến nhiều yếu tố trong đó
không thể không kể đến chi tiết nghệ thuật. Chi tiết một trong những yếu tố nhỏ
nhất, quan trọng nhất để tạo nên một tác phẩm. Chi tiết vốn cụ thể, sống động thế
khi tạo được một chi tiết độc đáo thì chi tiết đó sẽ khả năng gợi mở, tạo nhiều ý
nghĩa, nhiều liên tưởng thú vị cho người đọc. Bởi thế mới ý kiến cho rằng: “Chi
tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Để làm nên một chi tiết nhỏ giá trị đòi hỏi nhà văn
phải sự thăng hoa về cảm hứng tài năng nghệ thuật. Nghệ thuật một lĩnh
vực đặc thù thế tầm vóc của người nghệ thể được làm nên từ những yếu tố
nhỏ nhất ấy. Những nhà văn lớn thường khả năng sáng tạo được những chi tiết
nhỏ nhưng giàu giá trị biểu đạt, góp phần đắc lực trong việc thể hiện chủ đề
tưởng của tác phẩm. Chi tiết chiếc bóng trong “Chuyện người con gái Nam Xương”
của Nguyễn Dữ một chi tiết như thế.
Chiếc bóng trong “Chuyện người con gái Nam Xương” gắn liền với cốt truyện gắn
liền với cuộc đời, số phận của nhân vật Nương, xuất hiện ba lần trong truyện.
Lần thứ nhất, cái bóng xuất hiện trong lời nói của Đản nói với Trương Sinh khi
Trương Sinh vừa từ chiến trận trở về: “Thế ra ông cũng cha tôi ư? Ông lại biết nói,
chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít.”, “có một người đàn ông, đêm nào
cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản
cả.” chi tiết này, người đọc thể thấy được lòng vị tha cao cả cũng Nương.
"Chiếc bóng" đậm thêm nét đẹp phẩm chất của Nương trong vai trò người vợ,
người mẹ. Đó nỗi nhớ thương, sự thuỷ chung, ước muốn đồng nhất "xa mặt
nhưng không cách lòng" với người chồng nơi chiến trận; đó tấm lòng người mẹ
muốn khỏa lấp sự trống vắng, thiếu hụt tình cảm người cha trong lòng đứa con thơ
bỏng. Nàng muốn kéo xích gần hơn tình cảm cha con cho Đản. Nhưng cái
bóng ấy lại chính điểm thắt nút của câu chuyện. Cái bóng đó chẳng phải bóng
của chính nàng sao!
"Giống như người con gái trong ca dao xưa:
Nhớ chàng như mảnh trăng đầy,
Đêm đêm vầng sáng, hao gầy đêm đêm."
Bóng ấy chính bóng nàng hàng đêm thao thức, không ngủ mong nhớ, thậm chí
thấp thỏm lo âu cho chồng nơi chiến trận. Cảnh ngộ của Nương khiến ta nhớ tới
cảnh người vợ nhớ chồng trong “Lá thư thành phố” của Giang Nam:
"Con nhớ anh thường đêm biếng ngủ
khóc làm em cũng khóc theo
Anh gởi về em manh áo
Đắp cho con đỡ nhớ anh nhiều"
Nương đã làm vơi đi nỗi nhớ, nỗi khát khao cha nơi Đản, nhưng lại càng khắc
sâu thêm nỗi nhớ chồng của mình. Nếu như ai đó hiểu được tâm trạng này của
nàng, đặc biệt Trương Sinh thì nàng đã được an ủi phần nào. Song, chiếc bóng
trong lời nói của đứa con thơ dại lại chính lời tố cáo sự không đoan chính của
nàng. gieo vào lòng Trương Sinh mối nghi ngờ về tiết hạnh của Nương,
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của nàng sau này!
Trớ trêu thay, một lời nói của tình mẫu tử lại bị chính đứa con ngây thơ đẩy vào vòng
oan nghiệt; chiếc bóng của tình chồng nghĩa vợ, thể hiện nỗi khát khao đoàn tụ, sự
thuỷ chung son sắt lại bị chính người chồng nghi ngờ "thất tiết". Trương Sinh đinh
ninh một mực cho vợ hư, hết lời mắng nhiếc, mặc cho nàng biện bạch, hàng xóm
khuyên can để minh oan, Trương Sinh cũng không nghe. Không chỉ vậy, Nương
còn bị Trương Sinh đánh đuổi đi. Trương Sinh quá đa nghi, hồ đồ, Nương thì yếu
đuối, không đủ sức chống chọi nên đã để sức mạnh của cái bóng gieo vào gia đình
họ bi kịch đau đớn, chia lìa. Nương chịu không nổi, bị đẩy đến đường cùng, nàng
đã tìm đến cái chết để bảo toàn danh dự phẩm giá. đến đây, cái bóng lại xuất
hiện lần thứ hai. làm nhiệm vụ cởi nút cho câu chuyện, giải oan cho Nương.
Trong một đêm khuya, Trương Sinh ngồi với Đản bất ngờ được chỉ bóng
chàng trên vách nói: Cha Đản lại đến kia kìa! Nghe con nói lúc này Trương Sinh
mới tỉnh ngộ, thấu nỗi oan của vợ. Chẳng cần nói năng điều gì, cái bóng chỉ lặng lẽ
xuất hiện đã hóa giải được nỗi oan khuất của Nương khiến người đọc như vỡ
òa trong tiếng khóc thương cho số phận của nhân vật chính. Hạnh phúc thật
mong manh, ảo. "Chiếc bóng" một ẩn dụ mong manh như số phận của
người phụ nữ trong hội phong kiến. người phụ nữ đức hạnh nhưng họ
thể bất hạnh bởi bất cứ một nguyên nhân nào bản thân không lường trước
được. “Chiếc bóng” xuất hiện lần thứ hai đã nói lên một điều: người phụ nữ trong
hội phong kiến nạn nhân của bi kịch gia đình, bi kịch hội.
“Chiếc bóng” đã xuất hiện bất ngờ hợp đã diễn tả được mối nhân duyên
khập khiễng giữa Trương Sinh với Nương. Mối nhân duyên chứa đựng nguy
tiềm ẩn (Vũ Nương kết duyên cùng Trương Sinh thất học, đa nghi, ghen tuông, độc
đoán; còn Nương tính tình thùy mị, nết na, dung tốt đẹp) cộng với cảnh ngộ
chia ly bởi chiến tranh chính nguy tiềm ẩn bùng phát. Câu chuyện thắt nút
cởi nút bởi cái bóng. Cái bóng cái không thực nhưng lại quyết định số phận
con người. lặng lẽ nhưng lại đem đến cho tác phẩm một chiều sâu giá trị hiện
thực giá trị nhân đạo. Chẳng những thế còn đem đến cho tác phẩm một sức
hấp dẫn kỳ lạ.
"Chiếc bóng" xuất hiện cuối tác phẩm: "Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng
mờ nhạt dần biến đi mất". Chi tiết này thể hiện sự sáng tạo của Nguyễn Dữ so
với tích (Vợ chàng Trương), tạo nên vẻ đẹp lung linh cho tác phẩm đem đến
cho câu chuyện một kết thúc tưởng như hậu nhưng lại càng đậm thêm bi kịch
của người phụ nữ trong hội cũ. Nguyễn Dữ đã để Nương trở về, nhưng nàng
chỉ trở về trong chốc lát, thấp thoáng, lúc ẩn, lúc hiện giữa dòng sông rồi biến mất.
Đối với Nương, đàn giải oan chỉ một chút an ủi với người bạc phận chứ không
thể làm sống lại tình xưa; nỗi oan được giải, nhưng hạnh phúc thực sự đâu thể
tìm lại được. Tiếng nói của nàng từ giữa dòng sông vọng vào vừa xiết bao đau xót
vừa như một lời kết tội đanh thép hội đương thời đã đày đọa, đã tàn nhẫn cướp
đi cả cuộc đời, cả hạnh phúc của một con người hoàn toàn quyền được sống
hạnh phúc. như thế “chiếc bóng” còn mang ý nghĩa bài học về hạnh phúc
muôn đời: Một khi đánh mất niềm tin, hạnh phúc chỉ còn chiếc bóng ảo.
Trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, “chiếc bóng” đã ba lần xuất hiện, nếu ta
thử cắt bỏ đi sự xuất hiện của chi tiết này, một điều chắc chắn cốt truyện không
thể phát triển hoặc nếu phát triển thì sẽ theo hướng khác. Như vậy, chi tiết “chiếc
bóng” một chi tiết quan trọng, một nét nghệ thuật đặc sắc làm nên thành công
cho câu chuyện đồng thời còn thể hiện tài năng nghệ thuật tấm lòng nhân đạo
bờ của nhà văn Nguyễn Dữ. thế, quả không sai khi người ta nói: Chi tiết nhỏ
làm nên nhà văn lớn.
Nghị luận về ý kiến Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn -
Mẫu 3
Văn học đứa con tinh thần của nhà văn nhà thơ được cấu thành từ nhiều yếu tố.
Đó sự chắt lọc về mặt ngôn ngữ, việc xây dựng hình ảnh đầy dụng tâm của nhà
văn, nhà thơ. Một tác phẩm dài ngắn không quan trọng, hơn cả đó chính sự
neo đậu trong lòng người. Đôi khi chỉ cần một chi tiết nhỏ nhưng lại để lại dấu ấn
muôn đời, tạo thành nét riêng độc đáo của tác giả. Đó do sao nhà văn lớn
người Nga Maksim Gorky đã khẳng định “chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”.
Chi tiết gì? Theo định nghĩa, chi tiết chính một trong yếu tố cấu thành nên cốt
truyện, diễn biến sự việc. Chi tiết đó thể chỉ một sự kiện nhỏ, một ánh mắt, một
câu nói hay một sự thay đổi của cảnh vật. Trong nhận định đã sử dụng hai hình ảnh
phần đối lập nhau “chi tiết nhỏ” “nhà văn lớn” để nhằm nhấn mạnh vai trò quan
trọng của chi tiết nghệ thuật. Chi tiết nghệ thuật không chỉ làm nên sự thành công
của cốt truyện, của tác phẩm còn góp phần nâng tầm giá trị của nhà văn.
Trong tác phẩm nhiều chi tiết nhưng không phải chi tiết nào cũng làm nên thành
công lớn của tác giả. đó phải những chi tiết chứa đựng giá trị nghệ thuật sâu
sắc cũng như giá trị nhân sinh tác giả muốn truyền tải qua tác phẩm. Chi tiết ấy
vừa sự đọng của nghệ thuật nội dung, lại vừa làm nên sự độc đáo không
trùng lặp với bất kỳ tác phẩm của tác giả nào khác.
Chi tiết chính một lát cắt của đời sống được nhà thơ chắt lọc qua lăng kính chủ
quan của mình thổi hồn cũng như cảm xúc vào đó. vậy, chi tiết vừa thể hiện
được tài năng của tác giả vừa thể hiện được góc nhìn, quan điểm của tác giả về vấn
đề nào đó được nói đến. Ngoài ra, chi tiết ấy còn phải đóng vai trò quan trọng trong
việc phát triển cốt truyện, tạo ra bước ngoặt để nhân vật bày tỏ thái độ, tình cảm. Đó
cũng cách để nhân vật bộc lộ nhân cách của mình.
Nói “chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn” chi tiết ấy thể hiện tài năng của nhà thơ,
nhà văn. điều quan trọng phải gắn với một tầm vóc tưởng của nhà thơ, nhà
văn. vậy đây một nhận định hoàn toàn chính xác. Tác phẩm văn học chỉ gói
gọn vài khoảnh khắc đọng của cuộc sống nên chính chi tiết đã góp phần dồn nén
cái tình cái cảnh nhà văn muốn nói. Đó chất nhựa của cuộc sống căng tràn
hòa quyện cùng tình cảm của người nghệ để tạo nên. đó cũng cái ghi dấu
trong lòng người đọc. Khi nhắc về tác giả, về tác phẩm người đọc sẽ không nhớ đến
tác giả ấy đã sáng tác nên những tuyệt phẩm nào gây được nao tiếng vang điều
duy nhất người đọc nhớ đến đó chi tiết. Cái chi tiết ấy chứa đầy tình cảm lắng
đọng những suy tư.
Ước muốn được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà cái sở nguyện cả đời
của viên quản ngục. Huấn Cao đồng ý cho chữ hiểu tấm lòng của viên quản
ngục đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu chứ không phải được đối đãi
thân tình. Chữ của Huấn Cao không chỉ giá trị về mặt nghệ thuật còn
giá trị về mặt tinh thần. Phân tích nhân vật viên quản ngục, ta cũng nhận thấy đây
con người rất say cái đẹp, trân trọng sự thiện lương.
thể nói chữ thư pháp ấy kiệt tác cuối đời của Huấn Cao cũng di nguyện của
ông. Bởi ngày mai ông sẽ ra pháp trường chịu tội nhưng cái đẹp, cái tài ấy không
sao bị lãng quên bởi đã gieo mầm vào trong tâm khảm của viên quản ngục của
thầy thơ lại. Chữ viết ấy còn mang sức mạnh phục thiện làm cho những kẻ u tỉnh
ngộ như chính viên quản ngục đã nói “kẻ muội này xin bái lĩnh”. Khi phân tích
cảnh cho chữ, ta thấy đó cũng chính sức mạnh của cái đẹp. Với hình tượng nhân
vật Huấn Cao, ta thấy cái đẹp thật mong manh thể bị hủy hoại bị giết chết nhưng
khi đi chung với cái thiện thì sẽ mãi mãi trường tồn.
Một tác phẩm hay không chỉ nằm giá trị nội dung còn nằm giá trị nghệ thuật.
Hai giá trị ấy đã được kết tinh trong từng chi tiết được nhà thơ đặc tả. Một chi tiết
hay không chỉ gợi nội dung liên tưởng độc đáo còn phải một sự chỉn chu
thăng hoa về mặt nghệ thuật, như vậy mới neo đậu được trong lòng người. Nhà
văn nhà thơ lại càng phải nghiêm túc với công việc sáng tạo của mình để thể tạo
nên một tác phẩm hay đến với người đọc. Còn bản thân người đọc cần phải suy
ngẫm chiêm nghiệm nghiêm túc hơn tránh cái nhìn hời hợt nông cạn. như thế
người đọc mới thể giải những dụng ý nhà văn đã sáng tạo.
Nhận định trên một nhận định hoàn toàn chính xác. Sự thành công của tác phẩm
được cấu thành do nhiều yếu tố nhưng không thể không nhắc đến những chi tiết
nhỏ đắt giá. Đó hạt bụi vàng làm nên sức sống trường tồn của tác phẩm cùng với
thời gian.
| 1/10

Preview text:

Dàn ý nghị luận về ý kiến Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn 1. Mở bài
- Giới thiệu khái niệm chi tiết, chức năng của chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm.
- Đề cập quan điểm của M.Gorki- vấn đề cần nghị luận “chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. 2. Thân bài
- Nêu một số khái niệm liên quan đến vấn đề cần nghị luận: khái niệm văn học, tác
phẩm văn học, cảm thụ văn học, hình tượng văn học, nhãn tự, tứ thơ…
- Lý giải tại sao chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn?. Ý nghĩa của chi tiết trong tác phẩm.
- Phân tích cụ thể về quan điểm chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn qua một số tác
phẩm cụ thể và điển hình. 3. Kết bài
- Tóm lược ý chính trong bài viết, giá trị của chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn.
- Bày tỏ cảm nghĩ khi phân tích và nghị luận chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn.
Nghị luận về ý kiến Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn ngắn gọn
M. Gorki từng khẳng định rằng “chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. M ột tác phẩm văn
học có giá trị khi nhà văn sáng tạo ra được những chi tiết hay, gửi gắm thông điệp
nhân văn cao đẹp. Ví dụ trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương,
Nguyễn Dữ đã sáng tạo ra chi tiết cái bóng, chỉ xuất hiện hai lần trong câu chuyện,
một lần ở đầu một lần ở cuối truyện và đều qua lời nói của bé Đản. Nhưng lại quyết
định đến toàn bộ cốt truyện của tác phẩm này. Một chiếc bóng nhỏ bé, không lời lại
có uy lực to lớn như thế với cuộc đời của một con người. Lần đầu tiên, chi tiết cái
bóng xuất hiện khi Trương Sinh trở về sau nhiều năm đi lính. Cái bóng qua lời nói
của bé Đản khiến Trương Sinh nghi ngờ vợ không chung thủy. Vì quá đau khổ, Vũ
Nương mới tìm đến cái chết để chứng minh tấm lòng trong sạch. Ở đây, chi tiết này
có tính chất “thắt nút” đẩy câu chuyện đến cao trào và khiến cuộc đời nhân vật rơi
vào bi kịch. Vì quá đau khổ, Vũ Nương mới tìm đến cái chết để chứng minh tấm
lòng trong sạch. Lần thứ hai, chi tiết này xuất hiện ở gần cuối tác phẩm. Sau khi Vũ
Nương chết. Trương Sinh bế con ngồi trước ánh đèn. Đứa bé bỗng reo lên: “Cha
Đản lại đến kìa”. Lúc này, Trương Sinh hỏi lại con mới biết rõ sự tình, nhận ra mình
đã nghi oan cho vợ. Thông qua chi tiết cái bóng, nhà văn cũng muốn gửi gắm thông
điệp nhân văn sâu sắc. Tóm lại, ý kiến “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn” là hoàn toàn đúng đắn.
Nghị luận về ý kiến Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn - Mẫu 1
Một tác phẩm văn học ra đời đều là một quá trình sáng tạo nghệ thuật của nhà văn.
Từng chi tiết, từng hình ảnh nhân vật trong tác phẩm đều là tâm huyết của nhà văn.
Có thể là từ những gì đời thường mà nhà văn nhìn thấy, hay có thể là do chính nhà
văn sáng tạo ra để mang đến cho độc giả một ý nghĩa nào đó. Mỗi chi tiết trong tác
phẩm đều nói lên một điều gì đó, có chi tiết nhỏ, có thể làm nên được nhà văn lớn.
Chi tiết trong mỗi tác phẩm được hiểu như thế nào? Chi tiết là những sự việc, tình
tiết mà nhà văn thấy hoặc tự sáng tạo ra. Nhằm cho ta thấy rõ hơn, sâu sắc hơn, ý
nghĩa mà tác phẩm hay chính Nhà văn mang lại. Một chi tiết nhỏ trong tác phẩm có
thể làm nên tên tuổi sức, sống của một nhà văn. Trong kho tàng văn học có vô số
những tác phẩm, hay nhiều chi tiết đặc sắc. Từ nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm
cùng tên của Nam Cao, Chí Phèo con quỷ dữ của làng Vũ Đại, nhưng cũng có lúc
rơi nước mắt vì cảm động, tự kết liễu đời mình để nói lên phần nhân tính trong con
người vẫn còn. Đến Lão Hạc, một người nông dân hiền lành, chất phát, giàu lòng tự
trọng, thà chết chứ không chịu nhận sự giúp đỡ của một ai. Chi tiết liên nhớ đến
ngọn đèn leo lét của chị tí, giữa màn đêm tăm tối, đặc biệt không thể thiếu chi tiết
Huấn Cao cho chữ, trong cảnh vô cùng khác biệt trong “Chữ Người Tử Tù” của Nguyễn Tuân.
Trong tác phẩm “Chữ Người Tử Tù”, Có nhiều chi tiết viên quản ngục với tấm lòng
chân thành đến chỗ Huấn Cao. Nhưng được đáp lại bằng thái độ khinh thường, rẻ
mạt. Huấn Cao nhận ra tấm lòng của viên quản ngục, cảnh cho chữ vô cùng đặc
biệt. Từng chi tiết, sự việc trong tác phẩm đều mang một ý nghĩa riêng. Nó nói lên
tính cách con người của nhân vật Huấn Cao, một người chính trực, rất tự trọng, dù
trong hoàn cảnh nào cũng luôn giữ được phẩm chất tốt đẹp của mình. Dù trong
cảnh tù hãm vẫn không ngần ngại sỉ nhục viên quản ngục, vì ông cho rằng tất cả
mọi kẻ tay sai cho xã hội đó đều không ra gì. Viên quản ngục người luôn bị nói là ác
độc, làm tay sai cho bọn ác nhân hẳn là người không ra gì. Chịu mọi tai tiếng, nghe
đủ điều không hay nhưng không bao giờ con người ấy trách mắng một ai. Ngược lại
luôn ân cần, quan tâm đến Huấn Cao. Tuy không có tài, nhưng viên quản ngục lại
hiểu thấu được tâm tư, nỗi lòng của người tài. Với tấm lòng chân thành, thái độ
điềm đạm không oán trách của viên quản ngục. Huấn Cao đã vô cùng hối hận, vì
chút nữa đã bỏ lỡ một tấm lòng cao quý trên đời này. Ta vẫn thường nói, hoàn cảnh
làm nên tính cách con người. Điều kiện sống tốt, thì con người tốt. Còn hoàn cảnh
tối tăm, thì con người cũng xấu xa, không tốt. Nhưng qua chi tiết trên ta đã thấy,
không phải cứ sống trong ánh sáng là tốt. Còn người sống trong hoàn cảnh xấu là
con người xấu. Viên quản ngục sống trong môi trường khắc nghiệt, sự tàn bạo của
xã hội phong kiến nhưng ông vẫn giữ được phẩm chất tốt đẹp của mình, không vì
danh lợi mà đánh mất đi nhân phẩm của mình và của con người nói chung, tấm lòng
ấy đã làm cảm động Huấn Cao.
Một sự chân thành đến vậy Huấn Cao sao nỡ từ chối nguyện vọng muốn xin chữ
của viên quản ngục được. Trong cảnh tù ngục tối tăm, bẩn thỉu, trên nền toàn những
phân chuột, phân gián, mùi hôi thối bốc lên. Vậy mà người nghệ sĩ ấy vẫn có thể
sáng tạo nghệ thuật một cách say sưa, “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”,
một người trước ngưỡng cửa của sự sống và cái chết. Nhưng vẫn thản nhiên không
chút bận tâm mình sẽ chết, sáng tạo ra một tác phẩm nghệ thuật nơi tù túng, quả là
một điều phi thường “Chính tấm lòng biệt nhỡn liên tài” của viên quản ngục đã khiến
Huấn Cao vô cùng cảm động. Dồn hết tâm huyết tác giả lại cho tấm lòng ấy.
Chỉ một chi tiết nhỏ trong tác phẩm, cũng để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng
người đọc, làm nên một nhà văn lớn “Chữ Người Tử Tù” như một bản nhạc, đầy
những bản nhạc xô bồ của cuộc sống. Nổi bật lên âm thanh trong trẻo, tươi sáng
của viên quản ngục. Những lời nói ân cần của Huấn Cao khi khuyên viên quản ngục
tìm một nơi mình có thể sống là chính, con người mình không bị gò ép trong một
khuôn khổ nào. Cho thấy Huấn Cao thật sự không những là người tài, mà tấm lòng
đạo đức rất sáng, lại luôn tràn đầy trong con người nghệ sĩ.
Thạch Lam một con người dịu dàng, nhẹ nhàng coi văn chương là một thứ khí giới
thành cao, để thanh lọc tâm hồn. Tìm cái đẹp ở những nơi tầm thường nhất, ít ai để
ý. Nhân vật Liên trong “Hai đứa trẻ” như hiện thân của Thạch Lam, một cô gái mới
lớn nhưng mang nỗi u sầu, ngồi lặng trong đêm tối, nghĩ về cuộc sống, nghĩ về ngọn
đèn leo lét giữa màn đêm đen tối của Phố huyện nghèo. Về những con người với số
phận hẩm hiu, cùng với niềm hi vọng mong manh về một tương lai tươi sáng phía
trước. Đồng thời Thạch Lam cũng muốn nói lên tinh thần của những con người, dù
trong hoàn cảnh nào vẫn không bao giờ hết hy vọng, hết ước mơ, vẫn luôn sống vì
một tương lai tốt đẹp.
Hay Nam Cao cũng đã thành công trong nhân vật Chí Phèo của mình, từ một chi tiết
rất nhỏ, rất tầm thường, tưởng chừng như ít ai để ý đến cũng nói lên nam cao là một
người rất tinh tế. Một con cóc xuất hiện trong cuộc tình của Chí Phèo và Thị Nở, thì
hầu như mọi thứ đều xoay về phía con cóc, Nam Cao có thể tự mình nhìn ra và cảm
nhận nhưng không. Nhà văn đã dùng con cóc làm ống kính nhìn, quan sát sự việc
diễn biến một cách rất tinh tế, điều đó cho thấy nam cao là một người nghệ sĩ luôn
biết chừng của một người nghệ sĩ, cái gì nên tự mình quan sát, cái gì không nên.
Có rất nhiều chi tiết tử mỗi tác phẩm, quan trọng là chi tiết đó nói lên cái gì? Nguyễn
Tuân một người quan niệm về cái đẹp phải tuyệt mỹ, không ai có được. Đúng vậy
con người ấy đã làm được một cảnh tượng Xưa nay chưa từng có, một chi tiết làm
nên nhà văn Nguyễn Tuân. Nếu như viên quản ngục là người biệt những thiên tài,
chỉ Huấn Cao là người biệt nhưỡng thiên lương, sáng tạo nghệ thuật trong Huấn
cao còn căn dặn viên quản ngục những lời chí cốt “đây không phải là nơi treo những
chữ như vậy, tìm một nơi treo để nói lên hoài bão của mình”.
Qua cảnh cho chữ Nguyễn Tuân muốn nói lên cái đẹp luôn đi cùng với cái đạo đức,
cái thiên lương “Tài mà không đức, thì cũng không là gì hết”, vậy nên cái quan trọng
là phải có đức, có tâm.
Chi tiết nhỏ nhà văn lớn Nguyễn Tuân cùng nhiều các nhà văn đã làm nên được tên
tuổi bằng tâm huyết nghệ thuật của mình, không cần phải những cái gì to lớn, mà
chỉ cần một chi tiết nhỏ ta cũng có thể nói lên tính cách con người đó.
Nghị luận về ý kiến Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn - Mẫu 2
Làm nên thành công của một tác phẩm tự sự cần phải kể đến nhiều yếu tố trong đó
không thể không kể đến chi tiết nghệ thuật. Chi tiết là một trong những yếu tố nhỏ
nhất, quan trọng nhất để tạo nên một tác phẩm. Chi tiết vốn cụ thể, sống động vì thế
khi tạo được một chi tiết độc đáo thì chi tiết đó sẽ có khả năng gợi mở, tạo nhiều ý
nghĩa, nhiều liên tưởng thú vị cho người đọc. Bởi thế mới có ý kiến cho rằng: “Chi
tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Để làm nên một chi tiết nhỏ có giá trị đòi hỏi nhà văn
phải có sự thăng hoa về cảm hứng và tài năng nghệ thuật. Nghệ thuật là một lĩnh
vực đặc thù vì thế tầm vóc của người nghệ sĩ có thể được làm nên từ những yếu tố
nhỏ nhất ấy. Những nhà văn lớn thường có khả năng sáng tạo được những chi tiết
nhỏ nhưng giàu giá trị biểu đạt, góp phần đắc lực trong việc thể hiện chủ đề tư
tưởng của tác phẩm. Chi tiết chiếc bóng trong “Chuyện người con gái Nam Xương”
của Nguyễn Dữ là một chi tiết như thế.
Chiếc bóng trong “Chuyện người con gái Nam Xương” gắn liền với cốt truyện và gắn
liền với cuộc đời, số phận của nhân vật Vũ Nương, nó xuất hiện ba lần trong truyện.
Lần thứ nhất, cái bóng xuất hiện trong lời nói của bé Đản nói với Trương Sinh khi
Trương Sinh vừa từ chiến trận trở về: “Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói,
chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít.”, “có một người đàn ông, đêm nào
cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản
cả.” Ở chi tiết này, người đọc có thể thấy được lòng vị tha cao cả cũng Vũ Nương.
"Chiếc bóng" tô đậm thêm nét đẹp phẩm chất của Vũ Nương trong vai trò người vợ,
người mẹ. Đó là nỗi nhớ thương, sự thuỷ chung, ước muốn đồng nhất "xa mặt
nhưng không cách lòng" với người chồng nơi chiến trận; đó là tấm lòng người mẹ
muốn khỏa lấp sự trống vắng, thiếu hụt tình cảm người cha trong lòng đứa con thơ
bé bỏng. Nàng muốn kéo xích gần hơn tình cảm cha con cho bé Đản. Nhưng cái
bóng ấy lại chính là điểm thắt nút của câu chuyện. Cái bóng đó chẳng phải là bóng của chính nàng sao!
"Giống như người con gái trong ca dao xưa:
Nhớ chàng như mảnh trăng đầy,
Đêm đêm vầng sáng, hao gầy đêm đêm."
Bóng ấy chính là bóng nàng hàng đêm thao thức, không ngủ vì mong nhớ, thậm chí
thấp thỏm lo âu cho chồng nơi chiến trận. Cảnh ngộ của Vũ Nương khiến ta nhớ tới
cảnh người vợ nhớ chồng trong “Lá thư thành phố” của Giang Nam:
"Con nhớ anh thường đêm biếng ngủ
Nó khóc làm em cũng khóc theo
Anh gởi về em manh áo cũ
Đắp cho con đỡ nhớ anh nhiều"
Vũ Nương đã làm vơi đi nỗi nhớ, nỗi khát khao cha nơi bé Đản, nhưng lại càng khắc
sâu thêm nỗi nhớ chồng của mình. Nếu như có ai đó hiểu được tâm trạng này của
nàng, đặc biệt là Trương Sinh thì nàng đã được an ủi phần nào. Song, chiếc bóng
trong lời nói của đứa con thơ dại lại chính là lời tố cáo sự không đoan chính của
nàng. Nó gieo vào lòng Trương Sinh mối nghi ngờ về tiết hạnh của Vũ Nương, nó là
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của nàng sau này!
Trớ trêu thay, một lời nói của tình mẫu tử lại bị chính đứa con ngây thơ đẩy vào vòng
oan nghiệt; chiếc bóng của tình chồng nghĩa vợ, thể hiện nỗi khát khao đoàn tụ, sự
thuỷ chung son sắt lại bị chính người chồng nghi ngờ "thất tiết". Trương Sinh đinh
ninh một mực cho là vợ hư, hết lời mắng nhiếc, mặc cho nàng biện bạch, hàng xóm
khuyên can để minh oan, Trương Sinh cũng không nghe. Không chỉ vậy, Vũ Nương
còn bị Trương Sinh đánh đuổi đi. Trương Sinh quá đa nghi, hồ đồ, Vũ Nương thì yếu
đuối, không đủ sức chống chọi nên đã để sức mạnh của cái bóng gieo vào gia đình
họ bi kịch đau đớn, chia lìa. Vũ Nương chịu không nổi, bị đẩy đến đường cùng, nàng
đã tìm đến cái chết để bảo toàn danh dự và phẩm giá. Và đến đây, cái bóng lại xuất
hiện lần thứ hai. Nó làm nhiệm vụ cởi nút cho câu chuyện, giải oan cho Vũ Nương.
Trong một đêm khuya, Trương Sinh ngồi với bé Đản và bất ngờ được bé chỉ bóng
chàng trên vách mà nói: Cha Đản lại đến kia kìa! Nghe con nói lúc này Trương Sinh
mới tỉnh ngộ, thấu nỗi oan của vợ. Chẳng cần nói năng điều gì, cái bóng chỉ lặng lẽ
xuất hiện đã hóa giải được nỗi oan khuất của Vũ Nương và khiến người đọc như vỡ
òa trong tiếng khóc thương cho số phận của nhân vật chính. Hạnh phúc thật là
mong manh, hư ảo. "Chiếc bóng" là một ẩn dụ – nó mong manh như số phận của
người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Dù là người phụ nữ đức hạnh nhưng họ có
thể bất hạnh bởi bất cứ một nguyên nhân vô lí nào mà bản thân không lường trước
được. “Chiếc bóng” xuất hiện lần thứ hai đã nói lên một điều: người phụ nữ trong xã
hội phong kiến là nạn nhân của bi kịch gia đình, bi kịch xã hội.
“Chiếc bóng” đã xuất hiện bất ngờ và hợp lí vì nó đã diễn tả được mối nhân duyên
khập khiễng giữa Trương Sinh với Vũ Nương. Mối nhân duyên chứa đựng nguy cơ
tiềm ẩn (Vũ Nương kết duyên cùng Trương Sinh thất học, đa nghi, ghen tuông, độc
đoán; còn Vũ Nương tính tình thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp) cộng với cảnh ngộ
chia ly bởi chiến tranh chính là nguy cơ tiềm ẩn bùng phát. Câu chuyện thắt nút và
cởi nút bởi cái bóng. Cái bóng là cái không thực nhưng nó lại quyết định số phận
con người. Nó lặng lẽ nhưng lại đem đến cho tác phẩm một chiều sâu giá trị hiện
thực và giá trị nhân đạo. Chẳng những thế nó còn đem đến cho tác phẩm một sức hấp dẫn kỳ lạ.
"Chiếc bóng" xuất hiện ở cuối tác phẩm: "Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng
mờ nhạt dần mà biến đi mất". Chi tiết này thể hiện sự sáng tạo của Nguyễn Dữ so
với tích cũ (Vợ chàng Trương), tạo nên vẻ đẹp lung linh cho tác phẩm và đem đến
cho câu chuyện một kết thúc tưởng như có hậu nhưng lại càng tô đậm thêm bi kịch
của người phụ nữ trong xã hội cũ. Nguyễn Dữ đã để Vũ Nương trở về, nhưng nàng
chỉ trở về trong chốc lát, thấp thoáng, lúc ẩn, lúc hiện giữa dòng sông rồi biến mất.
Đối với Vũ Nương, đàn giải oan chỉ là một chút an ủi với người bạc phận chứ không
thể làm sống lại tình xưa; nỗi oan được giải, nhưng hạnh phúc thực sự đâu có thể
tìm lại được. Tiếng nói của nàng từ giữa dòng sông vọng vào vừa xiết bao đau xót
vừa như một lời kết tội đanh thép xã hội đương thời đã đày đọa, đã tàn nhẫn cướp
đi cả cuộc đời, cả hạnh phúc của một con người hoàn toàn có quyền được sống và
hạnh phúc. Và như thế “chiếc bóng” còn mang ý nghĩa là bài học về hạnh phúc
muôn đời: Một khi đánh mất niềm tin, hạnh phúc chỉ còn là chiếc bóng hư ảo.
Trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, “chiếc bóng” đã ba lần xuất hiện, nếu ta
thử cắt bỏ đi sự xuất hiện của chi tiết này, một điều chắc chắn là cốt truyện không
thể phát triển hoặc nếu phát triển thì sẽ theo hướng khác. Như vậy, chi tiết “chiếc
bóng” là một chi tiết quan trọng, là một nét nghệ thuật đặc sắc làm nên thành công
cho câu chuyện đồng thời nó còn thể hiện tài năng nghệ thuật và tấm lòng nhân đạo
vô bờ của nhà văn Nguyễn Dữ. Vì thế, quả là không sai khi người ta nói: Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn.
Nghị luận về ý kiến Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn - Mẫu 3
Văn học là đứa con tinh thần của nhà văn nhà thơ được cấu thành từ nhiều yếu tố.
Đó là sự chắt lọc về mặt ngôn ngữ, việc xây dựng hình ảnh đầy dụng tâm của nhà
văn, nhà thơ. Một tác phẩm dài ngắn không quan trọng, mà hơn cả đó chính là sự
neo đậu trong lòng người. Đôi khi chỉ cần một chi tiết nhỏ nhưng lại để lại dấu ấn
muôn đời, tạo thành nét riêng độc đáo của tác giả. Đó là lý do vì sao nhà văn lớn
người Nga Maksim Gorky đã khẳng định “chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”.
Chi tiết là gì? Theo định nghĩa, chi tiết chính là một trong yếu tố cấu thành nên cốt
truyện, diễn biến sự việc. Chi tiết đó có thể chỉ là một sự kiện nhỏ, một ánh mắt, một
câu nói hay một sự thay đổi của cảnh vật. Trong nhận định đã sử dụng hai hình ảnh
có phần đối lập nhau “chi tiết nhỏ” – “nhà văn lớn” để nhằm nhấn mạnh vai trò quan
trọng của chi tiết nghệ thuật. Chi tiết nghệ thuật không chỉ làm nên sự thành công
của cốt truyện, của tác phẩm mà còn góp phần nâng tầm giá trị của nhà văn.
Trong tác phẩm có nhiều chi tiết nhưng không phải chi tiết nào cũng làm nên thành
công lớn của tác giả. Mà đó phải là những chi tiết chứa đựng giá trị nghệ thuật sâu
sắc cũng như giá trị nhân sinh mà tác giả muốn truyền tải qua tác phẩm. Chi tiết ấy
vừa là sự cô đọng của nghệ thuật và nội dung, lại vừa làm nên sự độc đáo không
trùng lặp với bất kỳ tác phẩm của tác giả nào khác.
Chi tiết chính là một lát cắt của đời sống được nhà thơ chắt lọc qua lăng kính chủ
quan của mình và thổi hồn cũng như cảm xúc vào đó. Vì vậy, chi tiết vừa thể hiện
được tài năng của tác giả vừa thể hiện được góc nhìn, quan điểm của tác giả về vấn
đề nào đó được nói đến. Ngoài ra, chi tiết ấy còn phải đóng vai trò quan trọng trong
việc phát triển cốt truyện, tạo ra bước ngoặt để nhân vật bày tỏ thái độ, tình cảm. Đó
cũng là cách để nhân vật bộc lộ nhân cách của mình.
Nói “chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn” là vì chi tiết ấy thể hiện tài năng của nhà thơ,
nhà văn. Và điều quan trọng là phải gắn với một tầm vóc tư tưởng của nhà thơ, nhà
văn. Vì vậy đây là một nhận định hoàn toàn chính xác. Tác phẩm văn học chỉ gói
gọn vài khoảnh khắc cô đọng của cuộc sống nên chính chi tiết đã góp phần dồn nén
cái tình cái cảnh mà nhà văn muốn nói. Đó là chất nhựa của cuộc sống căng tràn
hòa quyện cùng tình cảm của người nghệ sĩ để tạo nên. Và đó cũng là cái ghi dấu
trong lòng người đọc. Khi nhắc về tác giả, về tác phẩm người đọc sẽ không nhớ đến
tác giả ấy đã sáng tác nên những tuyệt phẩm nào gây được nao tiếng vang mà điều
duy nhất người đọc nhớ đến đó là chi tiết. Cái chi tiết ấy chứa đầy tình cảm lắng đọng những suy tư.
Ước muốn có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà là cái sở nguyện cả đời
của viên quản ngục. Huấn Cao đồng ý cho chữ là vì hiểu tấm lòng của viên quản
ngục – đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu chứ không phải vì được đối đãi
thân tình. Chữ của Huấn Cao không chỉ có giá trị về mặt nghệ thuật mà nó còn có
giá trị về mặt tinh thần. Phân tích nhân vật viên quản ngục, ta cũng nhận thấy đây là
con người rất say mê cái đẹp, trân trọng sự thiện lương.
Có thể nói chữ thư pháp ấy là kiệt tác cuối đời của Huấn Cao cũng là di nguyện của
ông. Bởi ngày mai ông sẽ ra pháp trường chịu tội nhưng cái đẹp, cái tài ấy không
sao bị lãng quên bởi nó đã gieo mầm vào trong tâm khảm của viên quản ngục của
thầy thơ lại. Chữ viết ấy còn mang sức mạnh phục thiện làm cho những kẻ u mê tỉnh
ngộ như chính viên quản ngục đã nói “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Khi phân tích
cảnh cho chữ, ta thấy đó cũng chính là sức mạnh của cái đẹp. Với hình tượng nhân
vật Huấn Cao, ta thấy cái đẹp thật mong manh có thể bị hủy hoại bị giết chết nhưng
khi nó đi chung với cái thiện thì sẽ mãi mãi trường tồn.
Một tác phẩm hay không chỉ nằm ở giá trị nội dung mà còn nằm ở giá trị nghệ thuật.
Hai giá trị ấy đã được kết tinh trong từng chi tiết được nhà thơ đặc tả. Một chi tiết
hay không chỉ gợi nội dung liên tưởng độc đáo mà còn phải là một sự chỉn chu
thăng hoa về mặt nghệ thuật, có như vậy mới neo đậu được trong lòng người. Nhà
văn nhà thơ lại càng phải nghiêm túc với công việc sáng tạo của mình để có thể tạo
nên một tác phẩm hay đến với người đọc. Còn bản thân người đọc cần phải suy
ngẫm chiêm nghiệm nghiêm túc hơn tránh cái nhìn hời hợt nông cạn. Có như thế
người đọc mới có thể giải mã những dụng ý nhà văn đã sáng tạo.
Nhận định trên là một nhận định hoàn toàn chính xác. Sự thành công của tác phẩm
được cấu thành do nhiều yếu tố nhưng không thể không nhắc đến những chi tiết
nhỏ đắt giá. Đó là hạt bụi vàng làm nên sức sống trường tồn của tác phẩm cùng với thời gian.