Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến hay chọn lọc

Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến của Quang Dũng mang đến 2 gợi ý cách viết kèm theo 12 mẫu cực hay. Giúp cho các em học sinh tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức biết cách phân tích cảm hứng lãng mạn, tinh thần bi tráng và thông điệp mà nhà văn muốn gửi đến bạn đọc.

Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Dàn ý phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng
Dàn ý số 1
I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến.
- Nêu vấn đề cần phân tích: Cảm hứng lãng mạn tinh thần bi tráng trong bài thơ
Tây Tiến.
II. Thân bài
1. Khái niệm
- Cảm hứng lãng mạn: Cảm hứng sáng tác dựa trên cái tôi chủ quan của tác giả,
vượt lên trên thực tế, thoát li hiện thực và đề cao cái tôi.
- Cảm hứng lãng mạn trong văn học giai đoạn 1945 - 1975:
Ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Tin tưởng vào tương lai tươi sáng, chiến thắng vẻ vang của dân tộc.
- Tinh thần bi tráng: Không tránh thực tại, tuy buồn thương, gian khổ nhưng
không bi lụy, ngược lại vô cùng hào hùng, mạnh mẽ.
2. Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
* Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến
- Nỗi nhớ da diết của Quang Dũng đối với đoàn quân Tây Tiến.
- Khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc đầy tươi đẹp, hùng vĩ, nét đẹp trong cuộc sống
sinh hoạt của người dân miền núi được nhìn qua con mắt lãng mạn của người nghệ
sĩ, người lính Tây Tiến.
Cảnh núi non hùng vĩ, nên thơ nhưng cũng không kém phần hiểm nguy, dữ
dội: “Sông Mã xa rồi... chơi vơi”, “Dốc lên... ngàn thước xuống”; “Đêm
đêm Mường Hịch cọp trêu người”...
Cảnh sinh hoạt của nhân dân miền núi: “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”,
“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, “Nhớ ôi... thơm nếp xôi”, “Doanh trại
bừng lên... xây hồn thơ”, “Người đi Châu Mộc... hoa đong đưa”...
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
=> Trong cái khó khăn, gian khổ, khắc nghiệt, những người lính Tây Tiến vẫn
hướng đến những điều tốt đẹp.
* Tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
- Viết về chiến tranh, Quang Dũng không hề nhắc đến súng đạn, khung cảnh chiến
trường nhưng ta cũng thể cảm nhận được sự khốc liệt của chiến tranh: “Tây
Tiến đoàn binh không mọc tóc…”, “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”... nhưng vượt
lên trên tất cả, họ vẫn “Quân xanh màu dữ oai hùm”, “Chiến trường đi chẳng
tiếc đời xanh”.
=> Hình tượng người chiến sĩ bất khuất, oai phong, lẫm liệt.
- Nhà thơ diễn tả sự hi sinh của những người đồng đội nhưng chúng không hề bi
lụy mà lại mang tinh thần bi tráng: “Áo bào thay chiếu... khúc độc hành”.
3. Giá trị của cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng
- Hai cảm hứng này hòa quyện, gắn kết với nhau làm nên linh hồn của nhà thơ, tạo
nên vẻ đẹp độc đáo của người lính Tây Tiến.
- Chúng góp phần đắc lực vào việc chuyển tải nội dung, tưởng của Quang
Dũng...
III. Kết bài
Khẳng định lại g trị của cảm hứng lãng mạn tinh thần bi tráng trong bài thơ
Tây Tiến.
Dàn ý số 2
1. Mở bài:
- Giới thiệu về Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến.
- Giới thiệu về cảm hứng lãng mạn như một nét cảm hứng chủ đạo của bài thơ.
2. Thân bài:
- Giải thích cảm hứng lãng mạn sự thể hiện cảm hứng lãng mạn trong tác
phẩm văn chương:
+ Cảm hứng lãng mạn trong văn học được hiểu xu thế vươn lên, vượt lên trên
thực tại khách quan bằng cảm xúc chủ quan của người nghệ sĩ, thể hiện những khát
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
vọng mạnh mẽ hướng về những vẻ đẹp khác lạ trong thế giới của ước, tưởng
tượng, ở tương lai hay quá khứ.
+ Cảm hứng lãng mạn thế thường khai thác những đề tài như thiên nhiên, tình
yêu, tôn giáo, hồi tưởng, kỉ niệm,... đồng thời đi tìm cái đẹp trong những cái khác
lạ, phi thường, độc đáo, vượt lên những cái tầm thường, quen thuộc của đời sống
hằng ngày. đề cao nguyên tắc chủ quan, phát huy cao độ sức mạnh của tưởng
tượng, liên tưởng, cảm hứng lãng mạn cũng thường tìm đến cách diễn đạt khoa
trương, phóng đại, thủ pháp tương phản, ngôn ngữ giàu tính biểu cảm và tạo được
ấn tượng mạnh mẽ.
- Sự thể hiện cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng: Cần
phân tích cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến trên hai phương diện: nội
dung cảm hứng (nỗi nhvề một thời chiến chinh gian khổ, nhiều mất mát hy sinh
nhưng cũng thật hào hùng; hình tượng thiên nhiên; hình tượng người lính Tây
Tiến); nghệ thuật thể hiện (bút pháp tương phản trong việc thể hiện hiện thực khắc
nghiệt của cuộc sống chất thơ từ chính cuộc sống đó, tính chất bi tráng của hình
tượng người lính, giọng điệu trữ tình và bi tráng của tác phẩm,...).
+ Vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống con người: địa hình gập ghềnh, hiểm trở với
núi cao, vực thẳm, sông sâu; thiên nhiên hoang sơ, ẩn nhưng cũng toát lên vẻ
đẹp hùng vĩ, thơ mộng, trữ tình với tất cả vẻ quyến rũ, làm say lòng người.
+ Vẻ đẹp của hình tượng người lính Tây Tiến: những khó khăn, thử thách không
ngăn được bước chân người lính vốn những chàng trai Thành hào hoa, tinh
tế; những nét bi thương "không mọc tóc,", "mồ viễn xứ",... là những âm trầm trong
bản hùng ca về những con người "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh".
- Nhận xét, bàn luận về ý nghĩa, giá trị của sự thể hiện cảm hứng lãng mạn trong
bài thơ Tây Tiến:
+ Cảm hứng lãng mạn và giá trị của bài thơ Tây Tiến: Cảm hứng lãng mạn giúp tác
giả khắc hoạ vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, sự hi sinh bi tráng của người lính Tây Tiến
cùng v đẹp hùng vĩ, thơ mộng của thiên nhiên miền Tây, tạo nên một tác phẩm
độc đáo trong thơ ca thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.
+ Cảm hứng lãng mạn và sự thể hiện phong cách của tác giả: nét hồn nhiên, tinh tế,
vẻ đẹp hào hoa, phóng khoáng, đậm chất lãng mạn của hồn thơ Quang Dũng.
3. Kết bài:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Cảm nhận, ấn tượng riêng của cá nhân về vẻ đẹp của cảm hứng lãng mạn trong bài
thơ (có thể so sánh với một số bài thơ ra đời trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp).
Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến -
Mẫu 1
Quang Dũng gia nhập binh đoàn Tây Tiến ngay từ những ngày đầu thành lập.
Chính những kỉ niệm gắn với nơi đây đã khiến nhà thơ xúc động viết lên
"Tây Tiến". Bài tđược coi thi phẩm toàn bích hiếm của thơ ca cách mạng,
rất tiêu biểu cho hồn thơ Quang Dũng. Tác phẩm đã giúp người đọc cảm nhận
được cảm hứng lãng mạn và tính chất bi tráng.
Cảm hứng lãng mạn một đặc điểm quan trọng của văn học cách mạng những
năm 1945 - 1975. Cảm hứng đó được thể hiện trong bài thơ "Tây Tiến" bằng việc
tác giả miêu tả bức tranh thiên nhiên nên thơ, trữ tình hình ảnh người lính lãng
mạn, hào hoa. Còn cảm hứng bi tráng thì gợi ra cho người đọc thực tế những khó
khăn thử thách trên con đường hành quân của người lính. Nhà thơ nói về cái bi
không hề sướt mướt, ủy mị. Mặc phải sống chiến đấu trong hoàn cảnh
khó khăn nhưng họ vẫn hiên ngang, dũng cảm bước tiếp. Cảm hứng lãng mạn và bi
tráng đồng hành với nhau trong suốt cả bài thơ để làm nên cái hay cho thi phẩm
"Tây Tiến".
Đầu tiên, cảm hứng lãng mạn được nhà thơ thể hiện rất qua bức tranh thiên
nhiên miền Tây nên thơ, trữ tình. Câu thơ "Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
mang vẻ đẹp lãng mạn, gợi ra một không gian huyền ảo, mông lung. "Hoa về"
hoa đuốc hay hoa rừng? Đó thể những đuốc đỏ rực rỡ soi bước đường
hành quân hay những bông hoa rừng hiện dần trong đêm để chào đón đoàn quân. Ý
thơ khiến người đọc không thể cắt nghĩa một cách ràng chỉ thể cảm nhận
bằng trực giác. Và cũng chính vẻ đẹp trữ tình của thiên nhiên miền Tây đã lại phần
nào lộ tâm hồn nhạy cảm, lãng mạn của người lính. Bức tranh thiên nhiên miền
Tây nên thơ còn được thể hiện qua câu thơ "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi". Hai
Tiếng "nhà ai" vang lên đầy xao xuyến, gợi nỗi niềm hoài thương. Câu thơ bảy
thanh bằng kết hợp với giọng thơ nhẹ nhàng, du dương giúp ta cảm nhận được sự
thanh thản, nhẹ nhõm trong tâm hồn người lính. Sau những ngày dài hành quân vất
vả, lẽ đây lúc họ được nghỉ ngơi, được ngắm nhìn vẻ đẹp của bức tranh thiên
nhiên. Không chỉ nhớ về thiên nhiên miền Tây, người lính còn nhớ về con người
nơi đây. Điều đó được thể hiện qua ý thơ "Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/Mai
Châu mùa em thơm nếp xôi". Đây nỗi nhớ về những gái miền Tây với sóng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
mắt nồng nàn, với đôi bàn tay thơm thảo làm rung động lòng người. Đặc biệt, h
còn nhớ về những gái Nội xinh đẹp. Cụm từ "dáng kiều thơm" đã thể hiện
rất khéo léo giấc mộng đời thường của những người chiến sĩ. Họ mang vào cuộc
chiến không chỉ ý chí chiến đấu còn sự lãng mạn, hào hoa của người lính
Thành. Vậy qua đây, người đọc thể cảm nhận được cảm hứng lãng mạn sâu
sắc được nhà thơ Quang Dũng gửi gắm.
Đọc bài thơ, độc giả không chỉ cảm nhận được chất lãng mạn còn cả tinh thần
bi tráng. Nhà thơ nói về cái bi nhưng không hề bi lụy, đau thương. Trên con đường
hành quân, người lính gặp phải vàn khó khăn, th thách, thậm chí đối diện
với cái chết. Câu thơ "Anh bạn dãi dầu không bước nữa" đã nhấn mạnh được cái
vất vả, khó khăn khiến cho bước chân người lính trở nên mệt mỏi. Trước những
gian truân đó, người lính đã phải "Gục lên súng bỏ quên đời". Đây kí ức
buồn của tác giả về người chiến binh trên nẻo đường hành quân. Ý thơ thể hiểu
theo hai nghĩa. Đầu tiên thể hiểu đó giấc ngủ chập chờn, vội của người
lính trên con đường ra trận. Nhưng cũng thể cắt nghĩa rằng chặng đường hành
quân gian khó đã vắt kiệt sức của người lính khiến các anh ngã xuống chìm vào
giấc ngủ ngàn thu. thế "gục lên súng mũ" đã làm nổi bật sự hiên ngang của
người anh hùng xứ sở. Tinh thần đó giống với bài thơ của Anh Sơn "Anh ngã
xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất/Nhưng anh gượng đứng lên súng trên xác
trực thăng/Và anh chết khi đang đứng bắn/Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng/
Từ dáng đứng của anh trên đường băng Tân Sơn Nhất/Tổ quốc bay lên bát ngát
mùa xuân".
Bước vào cuộc chiến, người lính phải đối mặt với vàn hiểm nguy bệnh tật.
Câu thơ "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc" như khắc sâu trong tâm trí người đọc
hình ảnh thật đặc biệt. Không phải họ không tóc do căn bệnh sốt rét rừng
khiến cho mái tóc không còn nữa. Tuy nhiên, Quang Dũng nói về hiện thực bằng
bút pháp lãng mạn. Vậy nên diện mạo khác thường thì người lính vẫn toát
lên sự can trường, mạnh mẽ. Hai chữ "đoàn binh" mang âm hưởng trầm hùng.
cách nói "không mọc tóc" ẩn chứa chất ngang tàng, chủ động, đầy thách thức của
người lính. Quang Dũng đã xây dựng sự đối lập giữa diện mạo bên ngoài và thần
thái bên trong của họ. Vẻ bề ngoài của người lính xanh xao, khắc khổ nhưng bên
trong lại "dữ oai hùm". Đó giống như một cái hất đầu đầy kiêu hãnh ngạo nghễ
thách thức mọi khó khăn.
Chất bi thương trong bài thơ được khắc họa rất qua câu thơ "Rải rác biên cương
mồ viễn xứ". Ý t đã trực tiếp nói về sự hi sinh của người lính trên đường hành
quân. Câu thơ được cất lên khiến ta hình dung đến những nấm mồ nhỏ bé, đơn côi,
hoang lạnh nằm rải rác khắp nẻo rừng hoang viễn xứ, không người hương khói, ít
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
kẻ qua lại, đang chìm dần vào quên lãng. Qua đây, người đọc không khỏi xót xa,
ngậm ngùi với những hi sinh trong cuộc đời người lính. Bước vào cuộc chiến
hiểu những mất mát mình sẽ gặp phải những người lính chưa bao giờ chùn
bước, sợ hãi. Họ vẫn hiên ngang đương đầu với khó khăn, thử thách. Chi tiết
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh" đã khắc họa tuyệt đẹp thế lên đường của
người lính. Hai chữ "chẳng tiếc" đặt giữa dòng thơ vang lên như một lời thề vĩnh
quyết chứa đựng tưởng sống cao cả của những người lính sẵn sàng hi sinh Tổ
quốc.
Bằng hình ảnh thơ gợi hình, xây dựng sự đối lập tương phản, Quang Dũng đã
mang đến cho độc giả một bài thơ hay với cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng
đặc sắc. qua đây, người đọc hiểu được rằng những người lính ra đi nhưng các
anh vẫn sẽmầm để cho sự sống mới được nảy nở như một người cựu chiến binh
đã từng viết "Người hi sinh đất hồi sinh/Tim người hóa ngọc lung linh giữa đời".
Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây
Tiến - Mẫu 2
Quang Dũng nhà thơ đa tài khả năng cảm nhận diễn tả vẻ đẹp của thiên
nhiên của con người một cách tài hoa tinh tế nhưng cũng rất mực bình dị chân
thành. Bài thơ Tây Tiến tiêu biểu cho hồn thơ ấy. Không lẩn tránh đề cập đến cái
bi nhưng nhà thơ đã đem đến cho một cảm hứng lãng mạn, âm hưởng tráng lệ,
hào hùng. Tinh thần bi tráng, cảm hứng lãng mạn đã được triển khai trên nền cảm
xúc kí ức một thời Tây Tiến.
Cuối năm 1947 Quang Dũng ra nhập đoàn quân Tây tiến, tham gia phối hợp với bộ
đội Lào để bảo vệ biên giới Lào Việt. Địa bàn hoạt động của Đoàn quân khá
rộng: Mai Châu, Mộc Châu,Sầm Nứa rồi vòng về miền tây Thanh Hoá. Phần đông
họ những thanh niên trí thức Nội, sinh hoạt của họ cùng thiếu thốn gian
khổ, đánh trận thương vong ít, sốt rét t vong nhiều. Nhưng họ vẫn chiến đấu rất
dũng cảm, vẫn lạc quan yêu đời. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị
khác, xa đơn vị ít lâu, ngồi Phù Lưu Chanh (Hà Đông cũ), ông viết bài thơ “Nhớ
Tây Tiến”, sau in lại năm 1975, ông bỏ chữ “Nhớ”. Bởi cả bài thơ đã ngập tràn nỗi
nhớ niềm tự hào của tác giả về đoàn binh Tây Tiến.
Nếu như các ntcùng viết về người lính bằng cảm hứng hiện thực với vẻ đẹp
hồn nhiên, chân chất giản dị. Thì Quang Dũng lại tạc vào thời gian, vào lịch sử dân
tộc hình tượng người lính một không hai bằng cảm hứng lãng mạn tinh thần
bi tráng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
một thời, nhắc đến khái niệm “lãng mạn” người ta thường đồng nhất với
những xa rời thực tế, nhân, tiêu cực, mềm yếu… người ta phản đối, phê
phán, thậm chí tẩy chay nó. Nhưng nếu xét đến tận cùng, phần lãng mạn ấy không
thể thiếu trong đời sống tinh thần, trong tâm hồn con người cái gọi “lãng
mạn” ấy cũng thật nhiều vẻ, nhiều hình. thể làm con người ta nhỏ lại, yếu
hèn đi nhưng cũng thể đem đến cho con người sức mạnh phi thường để làm
nên những điều phi thường.
Cuộc sống tinh thần của mỗi con người hay cả một cộng đồng dân tộc sẽ nghèo
nàn, cằn cỗi nhàm chán biết bao nếu thiếu đi những ước bay bổng, thiếu đi
trí tưởng tượng phong phú, diệu kì… Lãng mạn hiểu theo nghĩa đúng đắn, chắp
cánh cho những ước mơ, thúc giục con người hướng tới cái đẹp, cái cao cả sự
hoàn thiện hiện thực cuộc sống còn chưa đạt tới.Vì đề cao nguyên tắc chủ
quan, phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng tượng liên tưởng. Nên cảm hứng
lãng mạn thường tìm đến cách diễn đạt khoa trương, phóng đại, đối lập, ngôn ngữ
giàu tính biểu cảm tạo được ấn tượng mạnh mẽ. Trong văn học Việt Nam từ
1945 đến 1975 chủ yếu được thể hiện trong việc khẳng định phương diện
tưởng của cuộc sống mới, vẻ đẹp con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách
mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
Cảm hứng lãng mạn của bài thơ trước hết nỗi nhớ tha thiết khắc khoải của tác
giả. Một thời của Tây Tiến tưởng như đã lùi vào kỷ niệm. Nhưng rồi khi ngồi
Phù Lưu Chanh, trong phút chốc, những kỷ niệm đó lại trở v trong nỗi nhớ
thương cồn cào tha thiết đến mức tác giả không thể kìm nén được đã phải thốt ra
lời.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Con sông cuồn cuộn chảy giữa những ngày gian truân vất vả của người chiến
Tây Tiến. Nay đã “xa rồi”, đã q khứ rồi, nhưng nỗi nhớ thì không thể nào
nguôi được, dường như da diết đến quặn lòng: “Nhớ chơi vơi”. Đó nỗi
nhớ không định hình, khó nắm bắt, khó diễn tả bằng lời. Nhưng nó cũng thật bao la
bát ngát lại vừa có chiều sâu như xoáy vào lòng người.
Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” vang lên thân thiết như tiếng gọi người thân. Từ cảm “ơi”
bắt vần với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng tha thiết sâu lắng bồi hồi ngân dài
trong lòng người vọng vào thời gian, lan rộng trong không gian. Hai tiếng “Xa rồi”
như một tiếng thở dài đầy thương nhớ ứng với điệp từ “nhớ”ở câu thơ thứ hai
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
thể hiện một tâm tình đẹp của người chiến binh Tây Tiến với dòng sông Mã và núi
rừng miền Tây.
Sau tiếng gọi tha thiết ấy biết bao hòai niệm về một thời gian khổ của chiến trường
Tây Bắc xưa hiện về trong tâm tưởng của người lính Quang Dũng. Cứ như thế, nỗi
nhớ trải dài theo hình sông thế núi, qua những tên bản tên mường với những chặng
đường hành quân vất vả:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Để rồi vượt lên trên những gian khổ hy sinh, hành trang của người lính đầy ắp
những kỷ niệm đẹp về tình quân dân.
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Cạnh núi rừng hiểm trở với độ cao rợn người mái nhà thấp thoáng ẩn hiện trong
làn mưa mỏng nơi lưng chừng núi; bên cạnh vùng đất hoang dại chứa đầy mật
ghê gớm của rừng thiêng với thác gầm thét, cọp trêu người là một bản làng có cơm
lên khói, mùi thơm của cơm nếp xôi những gái xinh đẹp như những bông
hoa rừng. Đây khung cảnh thực của chiến trường Tây Tiến đã được khúc xạ qua
tâm hồn lãng mạn, hào hoa của những anh lính người thành. “Nhớ ôi”, “cơm
lên khói”, đó tiếng lòng dạt dào của các anh khi nhớ tới cảnh tượng đầm ấm của
tình quân dân
Không chỉ có nỗi nhớ, chất lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến còn chính là cảm hứng
bay bổng của nhà thơ hướng tới vẻ đẹp hào hùng và hào hoa của thiên nhiên và con
người Tây Bắc. Trong hòai niệm của nhà thơ, thiên nhiên Tây Bắc trở thành một
hình tượng lớn, nhằm tô đậm cái ý chí dấn thân của người lính Tây Tiến
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Đó chính là sự gian khổ mà người lính phải vượt qua. Còn đỉnh núi: sương cao
vút, núi cao tưởng chừng như chạm tới mây: Cồn mây Súng ngửi trời. Mây
sương mù tụ lại thành cồn heo hút, người lính đi trên những ngọn núi cao ấy như đi
trên những cồn mây, mũi súng như chạm tới đỉnh trời. Mũi súng của người chiến sĩ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
đã được nhân cách hoá đầy chất lính nhưng cũng thật ngộ nghĩnh hồn nhiên yêu
đời “súng ngửi trời”,
Hình ảnh đó khiến ta liên tưởng tới hình ảnh “Đầu súng trăng treo” của Chính
Hữu.Tại đây , cái đẹp của thiên nhiên con người đã gặp chỗ tương đồng. Thiên
nhiên con người đã trở nên thân thiết đến mức khó tin: Súng(người chiến sĩ)
ngửi trời (thiên nhiên).
Các anh đi trong sương lấp, đêm hơi, vượt dốc cao, vực thẳm lên đến tận cồn mây
heo hút trong lam sơn chướng khí, gió núi mưa ngàn. Bao quanh các anh mọi
hiểm nguy như đe doạ, án ngữ bước chân các anh, như chực bóp nát đoàn quân mệt
mỏi. Ngoại cảnh sẽ làm các anh chùn bước chăng ? Không! Qua giây phút rợn
ngợp ban đầu, các anh lại tiến lên dũng mãnh hơn. Để rồi khi chiếm lĩnh được mọi
tầm cao, dừng chân trên một đỉnh đèo nào đó, phóng tầm mắt ra xa, qua không
gian mịt của sương rừng mưa núi, các anh chợt vỡ niềm vui sướng hạnh
phúc trước cảnh làng quê êm đềm tuyệt đẹp như trải ra trước mắt:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Câu thơ toàn thanh bằng êm mềm mại, nhẹ nhàng như một làn gió mát làm khô
đi những giọt mồ hôi mệt nhọc của các anh, trải rộng trước mắt các anh hình
ảnh thôn xóm xanh tươi thanh bình hòa lẫn trong làn mưa bụi bay gợi nỗi nhớ quê
nhà. Dưới con mắt hào hoa lãng mạn của người lính Tây Tiến thành, núi
rừng sâu thẳm bỗng đẹp lạ kỳ, vẻ đẹp nên thơ và hết sức hào hùng
Vẻ đẹp ấy được cảm nhận từ một hiện thực gian khổ đầy khốc liệt, khó khăn.
Chính thế, chất lãng mạn của bài thơ càng đáng trân trọng, nâng niu. Nói đúng
hơn, chính nhờ chất lãng mạn ấy mà người lính Tây Tiến có thể vượt qua được mọi
vất vả gian lao, mọi khó khăn thử thách. Chất lãng mạn trong Tây Tiến xuất hiện
dường như để lại ”thăng bằng” cho cảnh vật tâm hồn của con người. thế bên
cạnh một thiên nhiên hiểm trở, d dằn, những núi đá cheo leo, những cảnh rừng
thiêng nước độc… ta lại thấy một thiên nhiên t mộng đến say người, một Tây
Bắc đẹp như tranh thuỷ mạc:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Một dòng sông trong một buổi chiều sương giăng mắc, đôi b lặng tờ, hoang dại
như thời tiền sử. nổi bật trên dòng sông huyền thoại ấy Hình dáng mềm mại
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
uyển chuyển của người cầm lái trên chiếc thuyền độc mộc cùng hồn lau hoa
đong đưa làm duyên bên dòng nước lũ. Tất cả, người cảnh đều hài hòa duyên
dáng thơ mộng.
Ngòi bút của Quang Dũng không tả chỉ gợi. Ông không tả cây lau chỉ gọi
hồn lau. Ông không nhớ con người Châu Mộc nhớ dáng vóc mềm mại của họ
in bóng trên sông nước. Không nhớ những bông hoa tác giả chỉ nhớ cái ngả
nghiêng đong đưa tình tứ của những bông hoa rừng.
Qua vài nét loáng thoáng, cảnh vật trong thơ Quang Dũng như hồn. Nhà thơ
không chỉ làm hiển hiện lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên còn
gợi ra được cái phần thiêng liêng của cảnh vật. Cách tự hỏi “có nhớ”, “có thấy” của
tác giả đã tạo cho âm hưởng của khổ thơ man mác bâng khuâng như đang ru hồn ta
vào cõi mộng. Chất nhạc, chất hoạ, chất thơ cũng toát ra từ đó.cũng qua đây ta
càng hiểu thêm vẻ đẹp trong tâm hồn của các chiến sĩ Tây Tiến: Trong gian khổ và
thử thách, trong gian truân và chết chóc, họ vẫn lạc quan yêu đời, hồn nhiên và thơ
mộng.
không chỉ Thiên nhiên Tây Bắc cứ “chơi vơi” trong nỗi nhớ của nhà thơ giữa
hai gam màu vừa hùng vĩ, dữ dội, vừa tươi tắn, thơ mộng. chất lãng mạn bay
bổng này còn thể hiện rõ khi tác giả khắc họa chân dung người lính Tây Tiến.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Thơ ca kháng chiến khi viết về người lính thường hay đề cập đến căn bệnh sốt rét
hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí” đã trực tiếp miêu tả căn bệnh
này: “Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh. Rét run người vầng trán ướt mồ hôi”. Còn
Tố Hữu trong bài “Cá nước”, cũng không quên căn bệnh quái ác đó: “Giọt giọt mồ
hôi rơi. Trên anh vàng nghệ”. Quang Dũng trong “Tây Tiến” cũng không hề
che dấu những gian khổ k khăn, những căn bệnh hiểm nghèo sự hy sinh lớn
lao của người lính. Chỉ điều tất cả những cái đó không hiện ra một cách trần
trụi, mà nó được nhà thơ phản ánh qua cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn.
Đoàn binh không mọc tóc: hình ảnh thơ muốn nói đến những người lính đầu trọc
lốc. Phải chăng đây hình ảnh ly kỳ giật gân, sản phẩm của trí tượng bịa đặt của
nhà thơ? Không! Chứa đựng trong đó sự thật nghiệt ngã: các chiến Tây Tiến
người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi đánh giáp với địch, người thì bị sốt
rét đến rụng cả tóc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Còn hình ảnh “quân xanh màu lá” thì sao? Màu xanh ấy của ngụy trang hay
của màu áo ? lẽ cả hai, nhưng cái quan trọng hơn nthơ muốn nói đến căn
bệnh sốt rét rừng. Những ngày đói ăn, thiếu mặc cùng căn bệnh sốt rét đã làm các
anh tóc rụng da xanh tiều tụy
như thế hình ảnh “không mọc tóc” và “quân xanh màu lá”đã phản ánh cái khốc
liệt, cái ddội của chiến tranh, của một dân tộc quật khởi đứng lên dùng ngọn tầm
vông chống lại sắt thép quân thù. Nhưng ẩn dưới cái vẻ ngoài tiều tụy ấy, các chiến
Tây Tiến những người ốm nhưng không yếu. họ toát lên sức mạnh tinh thần
phi thường “Không mọc tóc”, “quân xanh màu lá” nhưng “dữ oai hùm”,dữ dằn oai
phong như hổ. Hình ảnh ẩn dụ “dữ oai hùm” đã nói lên chí khí hiên ngang tinh
thần quả cảm. Hình tượng thơ được đặt trong thế tương phản. Quang Dũng đã lấy
cái thô, cái mộc để tô đậm cái oai phong cái dữ dằn của người lính Tây Tiến.Và sự
dữ dằn ấy còn được thể hiện qua ánh mắt: “Mắt trừng”è Đóánh mắt giận dữ, d
dội, nảy lửa đầy áp đảo đối với kẻ thù.
Như vậy chỉ với mấy câu thơ, tác giả đã chạm khắc vào lịch sử hình ảnh đoàn quân
phi thường độc đáo có một không hai trong cuộc đời cũng như trong thơ ca. Không
chỉ có sức mạnh phi thường các anh còn có đời sống nội tâm phong phú , có những
nét hào hoa mơ mộng gửi về hai phía chân trời: Mộng qua biên giới: mộng tiêu diệt
kẻ thù bảo vệ biên cương, mộng lập nên chiến công nêu cao truyền thống anh
hùng. Còn mơ, những tâm hồn, những trái tim rạo rực yêu đương ấy lại
Mơ về Hà Nội dáng kiều thơm.
Nếu người nông dân mặc áo lính của Chính Hữu mang theo nỗi nhớ giếng nước
gốc đa, nhớ mái nhà gianh, nh ruộng nương, người vệ quốc trong thơ Hồng
Nguyên nhớ người v trẻ mòn chân bên cối gạo canh khuya, thì người lính trong
thơ Quang Dũng, nỗi nhớ ấy gắn với mơ: dáng kiều thơm. tới những áo
trắng những thiếu nữ thân quen nơi trường xưa phố cũ. Họ vốn là các sinh viên
thành xếp bút nghiên theo việc cung kiếm, giàu lòng yêu nước nhưng cũng rất độ
hào hoa “Từ thuở mang gươm đi mở nước, Nghìn năm thương nhớ đất Thăng
Long”. Nên sống giữa núi rừng miền Tây ác liệt, cái chết bủa vây, lửa đạn mịt
mùng nhưng các anh vẫn mơ về Hà Nội thân yêu. Trong trái tim mỗi người ra trận,
làm sao thể quên được những hàng me hàng sấu. Quên sao được những áo
trắng, những thiếu nữ thân quen.
Đó vầng những sáng lung linh của người lính. chính vầng sáng lung linh ấy
đã tạo nên sự cân bằng thư thái trong tâm hồn người chiến sĩ sau mỗi chặng đường
hành binh vất vả. Nó không làm thối chí nản lòng các anh mà ngược lại nó như làm
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
tăng thêm sức mạnh, tăng thêm nhiệt tình cách mạng. Bởi các anh người hiểu
hơn ai hết mình chiến đấu ai, cái gì. các anh cũng hiểu hơn ai hết giá trị
của tình yêu, của độc lập tự do của một dân tộc được đo bằng chính xương máu
của hàng ngàn hàng vạn con người Việt Nam .
Để giúp cho trí tưởng tượng bay cao, bay xa tình cảm, cảm xúc được diễn tả
một cách đầy đủ, trọn vẹn nhất, nhà thơ đã vận dụng rộng rãi thủ pháp nghệ thuật
đối lập giữa cái hùng vĩ, dữ dội với cái tuyệt mĩ, thơ mộng, giữa gian khổ, vất vả
với anh hùng, bất khuất, giữa cái bi và cái hùng… tô đậm cái phi thường, đồng thời
cũng để tạo sự”cân bằng” giữa hai màu sắc hiện thực lãng. Sự đối chọi này
được thể hiện trong từng câu thơ, từng đoạn thơ cũng như toàn bài thơ
Tính chất lãng mạn của bài thơ còn thể hiện ở một phương diện khác. Đó là chất bi
tráng. Nhà thơ đề cập đến những mất mát đau khổ, hi sinh nhưng không gợi cho
người đọc cảm giác bi quan, chán nản. Cảm xúc, hình tượng trong tác phẩm khỏe
khoắn, mạnh mẽ, khơi gợi cho người đọc đến niềm tin, khát vọng về cuộc sống
Sự phi thường nét hào hoa của người lính Tây Tiến không chỉ được thể hiện trong
tính cách của h lúc sống chiến đấu còn được thể hiện một cách tập trung sâu
đậm qua cái chết bất tử.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Mới đọc qua, ta tưởng như chỉ làm nhiệm vụ thông báo bình thường nhưng lại
có sức gợi tả thật lớn lao. Từ “rải rác” không những không gợi được sự thưa thớt ít
ỏi vốn của lại gợi cho người đọc cảm giác nhiều, nhiều kể.( rải rác
biên cương mồ viễn xứ à gợi ra cảm giác dài xa xôi hoang vắng). “Mồ viễn
xứ”: những ngôi mộ xa xứ. Đồng nghĩa với những ngôi mộ vô chủ không ai hương
khói. Cụm từ ấy như xoáy sâu vào lòng người một sự nhức nhối xót xa đến trào
nước mắt.
Những ngôi mộ xa xứ kia rồi sẽ ra sao ? Ai người thắp cho họ nén nhang cho
hương hồn họ siêu thoát. Những nấm mồ không tên, những cái chết danh vĩnh
viễn nằm lại nơi biên cương xa xôi hoang vắng đến ghê người. Không một giọt
nước mắt mẹ già, người thân. Không một lời vĩnh biệt. Thời gian sẽ qua đi, tất cả
sẽ xoá nhòa vào lòng đất. Các anh sẽ mãi mãi những chiến danh, không
còn ai nh đến chăng? Câu thơ mang âm điệu trầm hùng bi tráng phơi bày hiện
thực phũ phàng, đưa người ta đến vực thẳm của sự bi quan.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Nhưng mỗi lần như thế, Quang Dũng lại được nâng đ bởi đôi cánh của tưởng
của tinh thần lãng mạn. Chính thế hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác
nơi rừng hoang biên giới xa xôi kia như bị mờ đi trước tưởng quên mình tổ
quốc của người lính Tây Tiến.
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Đời xanh đời trai trẻ, là tuổi thanh xuân của những chàng trai chưa trắng nợ anh
hùng. Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh: Họ lên đường đầu quân nghĩa lớn .
Dường như cái chết đã được đặt ra từ trước, họ đâu có băn khoăn trước sự mất còn.
Cái chết với họ nhẹ tựa lông hồng.
Câu thơ không bi quan uỷ mị vang lên như một lời thề thiêng liêng cao cả.
Các anh quyết đem xương máu để bảo vệ độc lập tự do cho Tổ quốc theo tinh thần
thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô
lệ. Chính thế họ bất chấp tất cả gian khổ hi sinh đra đi chiến đấu một cách
kiêu hùng.
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Các tráng giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây niềm kiêu hãnh. Còn các
chiến Tây Tiến chỉ chiếc áo rách vai các anh gọi áo bào: Thực ra đó
cũng chỉ cách nói sang trọng, một cái cười gượng gạo trên môi nhà thơ trước
một thực tế quá trần trụi đau buốt tâm can: Họ hy sinh không một manh chiếu
che thân. Anh về đất è các anh đã chết, đã hy sinh. Chiến đấu giết giặc quê
hương đất nước, các anh ngã xuốngcác anh về đất, nằm trong lòng đất mẹ Tổ
quốc thân yêu. Anh về đất các anh đã thực hiện xong nghĩa v quang vinh của
mình, các anh hóa thân cho dáng hình xứ sở. Anh về đất nghĩa hồn các anh đã
hòa vào cây cỏ, sông núi để trở thành hồn thiêng đất nước.
Diễn tvề sự mất mát lớn lao Quang Dũng nói thật nhẹ nhàng, thật thanh thản.
Nhà thơ không dùng từ chết hay hy sinh “về đất” để ca ngợi, để làm bình
thường h vấn đề tạo nên vẻ đẹp lãng mạn mang tính chất bi hùng. người
lính Tây Tiến ra đi cũng không cần một lời điếu văn, một giọt nước mắt. Mà chỉ có
trời đất chứng giám, thu nhận thể xác linh hồn họ vào lòng. Sông Mã gầm lên khúc
độc hành. Động từ “gầm” dội xuống mạnh mẽ tạo nên âm trầm vang như tiếng đạn
đại bác tiễn đưa linh hồn người đã khuất về cõi vĩnh hằng, như tiếng kèn đồng
trong bài chiêu hồn tử sĩ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Sông gầm lên như một nghi lễ trang trọng tiễn biệt các anh. Các anh vĩnh viễn
nằm lại nơi đây. Nhưng dòng sông còn mãi cuồn cuộn chảy về xuôi mang theo
truyền thuyết về những người con đất Việt anh hùng.
Vẫn thủ pháp nghệ thuật tương phản đối chọi nhau. Bi không lụy, buồn đau
hùng tráng, mất mát hi sinh vẫn lạc quan. như thế chính chất lãng mạn
của bài thơ đã nâng được người đọc lên, vực dậy những người lính mệt mỏi đang
“dãi dầu không bước nữa”, xoá tan đi bao nhọc nhằn đau khổ, lãng quên đi bao nỗi
hiểm nguy lấy lại cân bằng trong tâm hồn người lính, giúp họ vững bước đi
lên… Chất lãng mạn ấy là sức mạnh và vẻ đẹp của người lính Tây Tiến.
Với bút pháp lãng mạn cốt cách tài hoa, phong độ hào hùng của nhà thơ chiến sĩ,
Với cái nhìn nhiều chiều, bằng sự chọn lọc ngôn từ, tình chọn những nét tiêu biểu
nhất của người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài tập thể bất tử
về người lính danh. Cái bi cái hùng hai chất liệu chủ yếu của bức tượng
đài đó, chúng hòa quyện vào nhau, nương tựa nâng đỡ cho nhau tạo nên vẻ đẹp bi
tráng, thần thái chung của bức tượng đài
Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 3
Quang Dũng nhà một trong số những nhà thơ nhiều sáng tác xuất sắc trong
kháng chiến chống thực dân Pháp với hồn thơ đặc biệt lãng mạn, phóng khoáng và
hào hoa. Ông đã để lại rất nhiều tác phẩm tiêu biểu, nổi bật trong đó có bài thơ Tây
Tiến. Một trong số những yếu tố làm nên nét nổi bật trong bài thơ Tây Tiến của
Quang Dũng chính cảm hứng lãng mạn tinh thần bi tráng . Nhờ hai nguồn
cảm hứng như vậy Quang Dũng thành công trong việc xây dựng hình ảnh
người lính lãng mạn mạn mà vẫn đậm chất bi tráng.
Đoàn quân Tây Tiến thành lập năm 1947 với nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào
để bảo vệ biên giới Việt-Lào bao gồm phần lớn thanh niên Nội. Làm đại đội
trưởng ở đó đến cuối năm 1948 thì Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Nhà thơ
nhớ về đơn vị nên viết bài thơ này Phù Lưu chanh. lẽ chính vì vậy nỗi
nhớ về đoàn quân Tây Tiến, về những tháng ngày làm việc cùng với biết bao anh
em khiến cho nhà thơ nuôi dưỡng cho mình trạng thái cảm xúc mãnh liệt trong
những vần thơ và hình ảnh thơ trong bài.
Cảm hứng sợi chỉ đỏ xuyên suốt một tác phẩm thể hiện đồng thời suy nghĩ, tình
cảm mãnh liệt của người viết từ đó nó trở thành một vũ khí vô hình tác động không
nhẹ đến người đọc. Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến được thể hiện trong
việc hướng tới những cái đẹp, những cái lạ, những cái khác thường trong cuộc
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
sống hàng ngày hay đậm cái phi thường ấn tượng mạnh mẽ về những cái phi
thường. Còn cảm hứng bi tráng giúp người viết tái hiện những hình ảnh trong thực
tế với những khó khăn thách thức nhưng mọi thứ hiện lên vẫn không hề tầm
thường, nhỏ bé. Cảm hứng lãng mạn bi tráng luôn luôn song hành với nhau
trong suốt bài thơ đan xen hòa quyện với nhau trong từng phần phần làm nên
những nét đặc sắc rất riêng của Tây Tiến.
Cảm hứng lãng mạn trước hết được thể hiện qua những câu thơ miêu tả về thiên
nhiên vùng núi Tây Bắc. Cảnh vật thiên nhiên trong nỗi nhớ của Quang Dũng
hiện thực cuộc sống đó sự khắc nghiệt hoang sơ, dữ dội. Nhưng qua cách viết
của tác giả thì trước thực tế như vậy, người lính vẫn luôn cảm nhận được sự thơ
mộng của cảnh vật trong trạng thái lạc quan, yêu đời. Từ nỗi nhớ mở đầu về dòng
sông Mã, nhà thơ nhớ về chặng đường hành quân. Trước tiên đó hình ảnh màn
sương dày đặc lạnh buốt che lấp mỗi bước đi của đoàn quân khiến cho họ trở nên
mệt mỏi “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”. Hay đó hình ảnh dốc núi quanh
co, hiểm trở:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Bên cạnh việc sự thực khắc nghiệt của cuộc sống được đậm thì nhà thơ Quang
Dũng cũng tái hiện lại những chi tiết hình ảnh mượt nhẹ nhàng đầy màu sắc
của trí tưởng tượng bay bổng. Đó hình ảnh “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Đi qua địa danh Mường Lát vào ban đêm họ như thấy mùi hương hoa theo về, đi
trong màn sương dày đặc lạnh buốt tưởng như trong một đêm hơi bồng bềnh,
huyền ảo. lẽ chính sự tưởng tượng và cảm hứng lãng mạn đã tạo nên một chi
tiết vô cùng thi vị và nên thơ dành cho người lính Tây Tiến. Không chỉ vậy nét thơ
mộng của cảnh vật tiếp tục được tái hiện câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa xa
khơi” câu thơ chỉ toàn thanh bằng khiến cho chúng ta cảm nhận được một cảm giác
bình yên nhẹ nhàng và thoải mái. Chúng ta có thể hình dung ra một khung cảnh thơ
mộng khi người lính sau một chặng đường vất vả vượt dốc cao thể dừng chân
bên trên dốc núi phóng tầm mắt nhìn ra xa để để ngắm nhìn một không gian mịt
mù sương núi. Không dừng lại ở đó, vẫn dưới cái nhìn của một tâm hồn nhạy cảm,
thiên nhiên Tây Bắc tiếp tục được tái hiện trong những vần thơ miêu tả cảnh sông
nước:
“Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Đây là cảnh thiên nhiên vào một buổi chiều ở Châu Mộc có sương giăng mắc bảng
lảng, hồ với dòng sông thi vị nên thơ bến bờ hoang dại với cả những hồn
lau. Trên nền thiên thiên này nổi bật lên hình ảnh con người, dáng đứng trên độc
mộc. Đó dáng đứng đẹp, khỏe khoắn, hùng dũng hiên ngang của con người
Tây Bắc. Những câu thơ trên cũng cho thấy sự đối lập giữa cái dữ dội của thiên
nhiên (dòng nước lũ) với sự mềm mại tươi mát của hoa đong đưa. Những cánh hoa
như có cảm xúc biết làm duyên làm dáng bên dòng nước… Chỉ bằng vài nét gợi tả
Quang Dũng đã khắc họa được một bức tranh phong cảnh với vẻ đẹp huyền ảo, xa
xăm và thơ mộng cho thiên nhiên Tây Bắc.
Không chỉ thiên nhiên, cảm hứng lãng mạn còn được thể hiện hình ảnh người
lính Tây Tiến – những thanh niên của tuổi trẻ Hà thành đầy phong lưu, nhiệt huyết.
Điều này thể hiện cách nhìn của người lính đối với thiên nhiên. Họ nhìn màn
sương với cảm giác bồng bềnh: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Họ tếu táo
vui, đùa trước độ cao của dốc núi qua hình ảnh “súng ngùi trời”. Họ phóng tầm
mắt mình ra xa để cảm nhận hơi ấm từ những ngôi nhà mịt trong sương: “Nhà
ai Pha Luông mưa xa khơi”. Đặc biệt họ hòa mình vào đêm liên hoan nhộn nhịp,
sống động với: “Khèn lên man điệu nàng e ấp /Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.
lẽ cảm hứng lãng mạn được thể hiện đậm nét nhất khi Quang Dũng tái hiện
chân dung người lính Tây Tiến bằng những nét vẽ gân guốc, lạ hóa, phi thường
“không mọc tóc”, “xanh màu lá”, “dữ oai hùm”, “mắt trừng gửi mộng”. Qua những
chi tiết miêu tả ngoại hình kỳ lạ chúng ta thấy được vẻ kiêu hùng oai phong, lẫm
liệt của những chiến can trường. Chính vẻ đẹp lãng mạn như vậy đã nâng đỡ
người chiến vượt qua những khó khăn của thực tế nghiệt ngã. Qua đó chúng ta
cũng cảm nhận được về tinh thần lạc quan của thế hthanh niên trong cuộc kháng
chiến đến mà sự trở về là là một điều mong manh.
Song song với cảm hứng lãng mạn, cảm hứng bi tráng cũng làm nên vẻ đẹp của
người lính Tây Tiến sự thành công của bài thơ. Người lính Tây Tiến phải đối
diện với rất nhiều khó khăn trong thực tế. Đó có thể là hình ảnh sương dày đặc trên
đường hành quân, cũngthể là những lần vượt dốc lội suối với những hiểm nguy
và tất nhiên cái chết cũng luôn cận kề. Những cơn sốt rét rừng hành hạ rồi nơi rừng
thiêng nước độc không thuốc đầy đủ khiến cho người lính “không mọc tóc”,
“xanh màu lá”. Chính vì như vậy những nấm mồ vô danh nằm rải rác khắp mọi nơi
lạnh lẽo:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Sự hi sinh của những người lính Tây Tiến chính nỗi đau, sự mất mát lớn đối với
không chỉ tác giả với toàn dân tộc Việt Nam mọi thế hệ. Thế nhưng, qua ngòi
bút của Quang Dũng, sự hi sinh ấy, cái bi ấy đã vơi bớt đau thương, không còn
bi lụy nữa mà trở thành hình tượng bi tráng – hình tượng những người con đất Việt
dũng cảm, anh hùng. Sáng lên đoàn quân Tây Tiến tinh thần quyết tâm vượt
qua khó khăn, gian khổ, ở tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh ” Chiến trường
đi chẳng tiếc tuổi xanh”. Quang dũng đã thật tài tình khi miêu tả cái chết của người
lính trong chiếc áo bào “Áo bào thay chiếu anh về đất” để thể hiện cái tráng. Thật
là một hình ảnh xúc động! Tấm áo người lính được gọi một cách trang trọng là “áo
bào” tấm chiến bào rực rỡ của các danh tướng ngày xưa ra trận. Cách nói trang
trọng ấy đã giảm phần thê lương của cái chết. “Anh về đất” Họ không chết
chỉ đi tiếp con đường của tổ tiên để giữ vững non sông đất nước. Anh đang trở về
với đất mẹ, với Tổ tiên khi đã hoàn thành nhiệm vụ với Tổ quốc. Âm thanh miêu tả
âm thanh của dòng sông cũng một cách để thể hiện cái trắng đây: “Sông
gầm lên khúc độc hành”. Không giọt l rơi, không lời ai điếu, không loạt đạn
tiễn đưa mà chỉ một tiếng gầm đã diễn tả đầy đủ nỗi đau dữ dằn thấm thía. Cái chết
của người lính hoàn toàn không còn thê thảm, đau thương mà ngược lại, nó tráng lệ
và cao đẹp vô cùng!
thể thấy, cảm hứng lãng mạn bi tráng luôn đi liền với nhau trong suốt tác
phẩm. Nhờ có hai nguồn cảm hứng như vậy mà Quang Dũng đã có thể tạc nên bức
tượng đài bất tử về người lính trên nền thiên nhiên với nhiều màu sắc đẹp đẽ. Cả
nội dung và nghệ thuật của bài thơ một lần nữa lại được in đậm.
Tóm lại, cảm hứng lãng mạn bi tráng hai cảm ứng độc đáo trong bài thơ Tây
Tiến của nhà thơ Quang Dũng. Chính nhờ hai nguồn cảm hứng như vậyQuang
Dũng đã tạo nên một kiệt tác khiến cho người đọc thể hình dung được về bức
tượng đài mang tên người lính trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp yêu
đời lạc quan nhưng cũng đầy kiên cường trước những khó khăn thử thách của thực
tế.
Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 4
“Tây Tiến” một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm sún,
bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp.
Với bút pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa và phong độ hào hùng của một nhà thơ
chiến sĩ, Quang Dũng đã chạm khắc vào thời gian, vào thơ ca, lòng người hình
ảnh chiến danh của Thăng Long - Nội, của dân tộc Việt Nam anh hùng.
một thi phẩm xuất sắc đạt gần đến độ toàn bích, bài t Tây Tiến đoạn nào
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
cũng những câu đặc sắc, những hình ảnh thơ độc đáo. Nhưng sức hấp dẫn của
bài thơ chính vẻ đẹp của chủ nghĩa lãng mạn tinh thần bi tráng khi khắc họa
hình ảnh người lính Tây Tiến - người lính cách mạng xuất thân t thành thị tham
gia vào cuộc kháng chiến gian khổ mà hào hùng của dân tộc.
Cảm hứng lãng mạn trong văn học cảm hứng khẳng định cái tôi tràn đầy cảm
xúc, hướng về tưởng. đi tìm cái đẹp trong những cái khác lạ, phi thường độc
đáo, vượt lên những cái tầm thường, quen thuộc của đời sống hàng ngày, nó đề cao
nguyên tắc chủ quan, phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng tượng liên tưởng.
Cảm hứng lãng mạn cũng thường tìm đến cách diễn đạt khoa trương, phóng đại,
đối lập, ngôn ngữ giàu tính biểu cảm tạo được ấn tượng mạnh mẽ. Cảm hứng
lãng mạn trong văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975 chủ yếu được thể hiện trong
việc khẳng định phương diện tưởng của cuộc sống mới, vẻ đẹp con người mới,
ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng tin tưởng vào tương lai tươi sáng của
dân tộc. Cảm hứng lãng mạn đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong sáng tác, nó
nâng đỡ con người thể vượt lên mọi thử thách trong máu lửa của chiến tranh
gian khổ để hướng đến ngày chiến thắng.
Cảm hứng lãng mạn thể hiện đậm nét trước hết cái tôi của Quang Dũng. trào
ra từ đầu bài thơ đầy ắp mãnh liệt một nỗi nhớ - nhchơi vơi, một nỗi nhớ rất
lạ, hình như nhẹ tênh nặng trĩu cùng, để rồi sau đó tuôn chảy ào ạt nmột
dòng suối trong suốt bài thơ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Nỗi nhớ trải dài theo dòng sông trùng điệp theo hình non thế núi. Nhớ đến hụt
hẫng, trống vắng trong lòng người. Tây Tiến một đoàn quân, nhưng tiếng gọi
“ơi” lại trìu mến như tiếng gọi với một người thân. Ba vần “ơi” như da diết vang
vọng vào vách núi. Đó nỗi nhớ của tác giả với Tây Bắc đoàn quân Tây Tiến.
Nỗi nhớ da diết, lan tỏa thấm đượm trong từng câu thơ, hình ảnh thơ. Cái tôi
Quang Dũng mặt khắp nơi, lắng đọng từng chỗ, từ cảnh chiến trường hiểm trở,
hoang sơ đến cảnh sông nước thanh bình thơ mộng đến đêm hội đuốc hoa đầy màu
sắc xứ lạ phương xa, từ nỗi nhớ bản làng “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” đến
“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” thật hào hoa, lãng mạn.
Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến còn thể hiện đậm nét trong bút pháp
lãng mạn. Những thủ pháp cường điệu, đối lập được sử dụng rộng rãi, sáng tạo đã
đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hào hùng, hùng cái
tuyệt của con người và thiên nhiên. Thiên nhiên miền Tây Bắc qua ngòi bút
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
lãng mạn của Quang Dũng được cảm nhận với vẻ đẹp đa dạng, vừa độc đáo, vừa
hùng dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình, vừa hoang ấm áp, làm say đắm lòng
người. Trí tưởng tượng bay bổng khiến thi nhân hình dung ra một “đêm hơi’,
không chỉ sương rừng ướt lạnh còn cái lãng đãng, huyền ảo, cảm được
cái oai linh của thần núi, thấy được cái “hồn lau nẻo bến bờ” và nghe thấu được cả
tiếng “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Nhà thơ nhớ những cuộc hành quân gian khổ qua những chặng đường núi non
hiểm trở, thử thách ghê gớm với các chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên đất
thành lần đầu tiên đến Miền Tây. Các tên bản, tên mường như Sài Khao,
Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch... được nhắc đến không chỉ gợi bao nỗi nhớ
vơi đầy còn đ lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang sơ. vừa gợi
ra sự gian nan, ẩn, thách thức, vừa gợi sự mò, háo hức của những chàng trai
thành thị. Tất cả khung cảnh thiên nhiên đều được khắc họa với ấn tượng mạnh
nhất. Đoàn binh hành quân trong sương ẩm ướt dày đặc đến mức che lấp cả
đoàn quân. Nhưng ngay trong cảnh khắc nghiệt, người chiến sĩ Tây Tiến vẫn phát
hiện ra vẻ đẹp của “hoa về trong đêm hơi”. Những bông hoa núi với hương thơm
ngan ngát hiện ra dần dần mờ ảo qua đêm sương, qua cái nhìn say lãng mạn,
khiến cái mệt mỏi của đoàn quân dường như tan biến. Bao đèo cao, dốc thẳm dựng
thành phía trước mà người chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Dốc lên thì khúc khuỷu, gập ghềnh, ngoằn ngoèo; dốc xuống thì thăm thẳm, dựng
đứng. Câu thơ giàu chất tạo hình như họa lại một chặng đường hành quân hiểm trở.
Dốc núi ngoằn ngoèo, dốc vút lên ngàn thước, rồi lại đổ xuống thẳng đứng ngàn
thước. Câu thơ cũng gập ghềnh với nhiều thanh trắc cách ngắt nhịp 4/3 bẻ gập
câu thơ tạo thế núi hoang dại, khủng khiếp. Độ cao của dốc như được đo bằng hơi
thở dồn dập của người lính vượt đèo, nên càng ấn tượng. Những đỉnh núi cao
sương, cao vút như chạm mây, mây nổi thành cồn heo hút lưng trời. Mũi súng
trên vai của của người chiến binh được nhân hóa tạo thành hình ảnh “súng ngửi
trời” vừa diễn tả được độ cao nhất, hoang sơ, lạ lẫm vừa hàm chứa vẻ đẹp tâm hồn
người lính. Đó chất tinh nghịch, hồn nhiên rất lính của người chiến binh Tây
Tiến. Thiên nhiên hoành tráng, hùng nhưng người lính không hề bị chìm đi
vẫn nổi lên đầy thách thức. khẳng định ý chí quyết tâm của người chiến
chiếm lĩnh mọi tầm cao để đi tới. Thiên nhiên núi đèo xuất hiện n để thử thách
lòng người, người lính trèo lên đỉnh núi như đi trong mây quả cảm và lãng mạn
cùng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” thật dữ dội
nên thơ. Mưa mịt khiến những ngôi nhà sàn Pha Luông lưng chừng núi thấp
thoáng trong mưa như bồng bềnh trên biển khơi. Câu thơ toàn thanh bằng gợi
không gian mênh mông, ngập chìm trong mưa qua cái nhìn từ trên cao trải xuống.
Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người lính Tây Tiến vẫn hướng về những bản
mường, những mái nhà dân hiền lành, yêu thương, nơi các anh đã và đang đem
máu xương lòng dũng cảm để bảo vệ. Gian khổ với các chiến còn “thác
gầm thét” dữ dội hòa với tiếng man dại, ghê gớm của thú rừng. “Cọp trêu
người” như mang theo cái oai linh, bí ẩn của rừng đại ngàn. Vẻ hoang dại ấy không
chỉ mở ra không gian cụ thể còn được khám phá thời gian “đêm đêm”,
“chiều chiều”. Tác giả miêu tả thời gian, nhưng lại gợi được không gian núi rừng,
lúc nào cũng âm u, hoang vu như trong bóng tối. luôn mối đe dọa sẵn sàng
nuốt chửng con người. Đặc biệt họ toàn là những người lính trẻ thủ đô mới lần đầu
rời thành phố đến rừng đại ngàn. thế ấn tượng về Tây Bắc với những địa danh
xa ngái, càng xa lạ, dữ dội, ác liệt, không kém cuộc đọ sức với quân thù. Nhưng
cảnh ấy cũng càng kích thích chiến không ngại ngần xông pha với tinh thần hào
hứng hăng say.
Đối lập với sự khắc nghiệt là vẻ đẹp tuyệt mỹ của thiên nhiên Tây Bắc. Vẻ đẹp thơ
mộng của thiên nhiên Tây Bắc như được kết bằng hoa rừng: “Mường Lát hoa về
trong đêm hơi”; “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Đặc biệt đoạn thơ:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Tất cả gợi nh cảnh Châu Mộc trong một buổi chiều sương phủ trên dòng nước
mênh mông, hoang dại thật huyền ảo. Cảnh vật như nhòe đi, n mềm mại
hồn hơn. Chữ “ấy” câu trên chữ “thấy” câu dưới bắt thành một vần lưng
giàu âm điệu. Hoa lau nở trắng sáng, lau lay động xào xạc trong gió vốn
những thi liệu cổ điển quen thuộc nhưng khi đi vào thơ của Quang Dũng như mang
hồn lưu luyến của cảnh chia ly. Nổi bật trên dòng nước dáng uyển chuyển thanh
trên thuyền độc mộc của các gái Tây Bắc. Hình ảnh “hoa đong đưa” vừa
hình ảnh tả thực: những bông hoa khẽ lay động đong đưa làng duyên trên dòng
nước lũ vừa như ẩn dụ, gợi tả vẻ đẹp của các gái Tây Bắc như những bông hoa
rừng đong đưa trên sông nước. Đó là những vần thơ thi trung hữu họa, khiến người
đọc như lạc vào cái đẹp của cõi mơ. nhưng rất thực, làm say lòng người, nhất
là các chiến sĩ Tây Tiến lãng mạn, trẻ trung, nó ẩn chứa tình yêu sâu nặng với thiên
nhiên đất nước của Quang Dũng của các chiến Tây Tiến. Hình ảnh những
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
gái Tây Bắc, những con người Tây Bắc được gợi nhớ trong bài thơ càng đậm
thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Sau bao ngày đêm hành quân gian
khổ, băng rừng vượt núi, trèo đèo lội suối, những người lính tạm dừng chân bên
bản làng quây quần bên những nồi xôi bốc khói. Mùi thơm hương nếp mới ấm
tình quân dân đã xua tan bao nhọc nhằn gian khổ:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Gói xôi ấm tình cô gái Mai Châu, những cô gái miền sơn cước xinh đẹp làm nhiệm
vụ nuôi quân không quản ngại vất vả, hiểm nguy đã để lại trong lòng người lính trẻ
một nỗi nhớ không nguôi. Nỗi nhớ cất lên thành lời tha thiết “Nhớ ôi Tây Tiến
cơm lên khói”. Hai chữ “mùa em” kết tinh cả hương nếp ngày mùa lẫn tình em ấm
áp. Làng bản Mai Châu, bóng hình sơn nữ, hương nếp xôi quyện lại trong hình ảnh
thơ thành nỗi nhớ ngọt ngào, bâng khuâng, lãng mạn trong tâm hồn của người lính
trẻ.
Những đêm liên hoan văn nghệ doanh trại bừng lên sôi nổi, vui tươi trong ánh
lửa đuốc lung linh, trong âm thanh của tiếng kèn réo rắt, trong tâm hồn say sưa
đắm đuối của người lính trẻ:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Ngọn đuốc rừng thắp sáng đêm liên hoan văn nghệ truyền thống đã thành “hội
đuốc hoa” khiến khung cảnh tuy thiếu thốn rực rỡ lung linh bao ước mơ, hạnh
phúc. Hai chữ “kìa em” diễn tả cái nhìn ngỡ ngàng đến say mê, rạo rực của người
lính trẻ. Hình ảnh các cô gái Tây Bắc bất ngờ hiện ra lộng lẫy trong bộ áo xiêm rực
rỡ dưới ánh đuốc lung linh nhưng vẫn giữ nguyên vẻ e ấp, tình tứ trong điệu múa lạ
như múa sạp, múa xòe... trong tiếng khèn mang linh hồn của núi rừng càng trở nên
lôi cuốn. Tâm hồn các chiến mộng mơ, lãng mạn. Nét đẹp những đêm liên hoan
văn nghệ trên biên cương xa xôi như đã “xây hồn thơ” cho thấy tâm hồn trong
sáng, giàu mộng mơ, giàu lí tưởng trong kí ức của chiến sĩ trẻ. Giọng thơ hân hoan,
say hòai niệm nhung nhớ một thời gian khổ hào hùng, lãng mạn đầy ắp
nghĩa tình. Qua đó càng cho thấy đời sống tinh thần vô cùng trong sáng, phong
phú, lãng mạn của đoàn quân Tây Tiến ở nơi chiến trường gian khổ ác liệt xưa.
Đặc biệt bức chân dung người lính Tây Tiến được vẽ những nét vẽ phi thường,
khác lạ:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Cả đoàn binh không mọc tóc sốt rét rừng khắc nghiệt, hoặc chủ trương cạo
trọc tóc để tiện cho việc đánh giáp lá cà với địch. Quang Dũng không né tránh hiện
thực của cuộc kháng chiến gian khổ này. Thơ ca kháng chiến chống Pháp cũng
thường nói về căn bệnh sốt rét rừng: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh. Sốt run
người vầng trán ướt mồ hôi” trong Đồng chí của Chính Hữu.
Nhưng Quang Dũng cảm nhận sự thật này trong cảm hứng lãng mạn, anh hùng nên
khắc họa được vẻ đẹp kiêu dũng của người lính vượt lên xem thường mọi gian khổ
thiếu thốn. Từ ngữ mạnh bạo mang âm hưởng mạnh mẽ. Chữ “đoàn binh” âm
vang mạnh hơn chữ “đoàn quân”; còn “không mọc tóc” thì gợi nét ngang tàng,
chủ động, hiên ngang lẫm liệt của đoàn quân Tây Tiến trước hoàn cảnh. “Quân
xanh màu dữ oai hùm” màu da xanh xao do sốt rét rừng, nhưng qua nét bút
lãng mạn cảm hứng anh hùng của Quang Dũng thì màu xanh ấy lại mang vẻ
tươi xanh đầy sức sống của núi rừng. Hình ảnh “mắt trừng gửi mộng qua biên giới”
gợi ánh mắt quyết liệt, hướng đến quân thù, khao khát giết giặc lập công cho tổ
quốc. Nhưng bên ngoài dáng vẻ oai phong đó là tâm hồn trẻ trung, trong sáng, giàu
mộng mơ. “Đêm Nội dáng kiều thơm” lối diễn đạt này vẻ cầu kỳ
nhưng phù hợp với tâm hồn những người lính trẻ thu đô xa người yêu đi kháng
chiến. Nhớ về các gái thành, bóng dáng những thiếu nữ Nội yêu kiều thơ
mộng không hề phai nhạt trong tâm hồn những người lính ngay cả trong khói lửa
chiến tranh. Lãng mạn đó vẻ đẹp lạc quan, yêu đời của những người lính xuất
thân từ thành thị đi kháng chiến.
Còn bi tráng trong tác phẩm văn học được thể hiện ở việc miêu tả hiện thực, không
tránh cái bi, tức cái gian khổ, đau thương. Cái bi nhưng không phải bi lụy
bi tráng, hào hùng. cái chết nhưng không bi lụy là cái chết hào hùng lẫm
liệt, cái chết đi vào cõi bất tử. Cái bi thường được biểu hiện giọng điệu, âm
hưởng, màu sắc tráng lệ hào hùng.
Tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến thể hiện chỗ lời thơ không tránh cái
bi, thường đề cập đến cái chết, nhưng đó không phải cái chết bi lụy cái
chết hào hùng, mãnh liệt, cái chết của người chiến sĩ đi vào cõi bất tử.
Trên nền thiên nhiên Tây Bắc dữ dội huyền ảo, nhà thơ đậm hình ảnh đoàn
quân Tây Tiến hào hùng hào hoa bằng bút pháp lãng mạn, nhưng không thoát li
hiện thực cảm hứng bi tráng. Bài thơ viết về chiến tranh, nhưng Quang Dũng
không hề nói đến trận đánh, tiếng súng. Nhưng người đọc vẫn hình dung được sự
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
khốc liệt của chiến tranh. Bởi bài thơ viết nhiều về sự hi sinh của người lính.
Nhưng bằng ngòi bút tài hoa lãng mạn và cảm hứng bi tráng, Quang Dũng đã miêu
tả điều đó một cách thấm thía, xúc động, hào hùng. Cái chết, sự hi sinh bao giờ
cũng gợi cảm xúc đau thương. Hình ảnh những nấm mồ “rải rác biên cương mồ
viễn xứ” càng nhân lên cảm xúc bi thương đó, nhưng cách Quang Dũng dùng từ
Hán Việt trang trọng đã khiến cái bi thương lạnh lẽo mờ đi. Hơn nữa câu thơ tiếp
theo:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Đã khẳng định mạnh mẽ khí phách của tuổi trẻ một thời không chỉ tự nguyện chấp
nhận mà còn vượt lên cái chết, sẵn sàng dâng hiến cả sự sống, cả tuổi trẻ cho nghĩa
lớn của dân tộc. Họ đã ra đi với tất cả lòng say mê của người thanh niên yêu nước,
yêu lý tưởng, dâng hiến cả đời xanh, đời trai trẻ đầy hi vọng của mình cho tổ quốc.
Đây không phải chỉ cách nói của thơ ca thực sự đây dũng khí tinh thần
hành động của nhiều thế hệ trong những năm kháng chiến. Với tưởng đánh giặc
thanh thản đến lạ lùng như thế thì cái chết có nghĩa lý gì với họ.
Các tráng xưa chốn sa trường từng lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh
thì đây các chiến Tây Tiến với chiếc chiếu đơn của đồng bào tặng hay chỉ
bằng tấm áo đẫm máu và mồ hôi của các anh cũng tạc nên sự hi sinh bất tử. Sự kết
hợp một từ Hán Việt và một t thuần Việt: “áo bào” khiến tấm áo liệm thân của
liệt trở nên trang trọng. Sự hi sinh của các anh “về đất”, về lòng đất mẹ thân
yêu. Một sự hy sinh thầm lặng, thanh thản như một chiến đã hoàn thành nhiệm
vụ. Giây phút vĩnh biệt đồng đội vang lên không phải bằng lời ngợi ca hay những
giọt nước mắt, mà trong tiếng gầm của dòng Sông Mã như một “khúc độc hành” bi
tráng. Dòng sông được nhân hóa như linh hồn, tâm trạng, cất lên tiếng khóc
xót xa, thương tiếc, uất hận căm thù trong âm hưởng dữ dội, hào hùng của Sông
Mã. Sự hi sinh của người lính Tây Tiến thấm đẫm tinh thần bi tráng và đậm đà chất
sử thi. từ đây các anh đã hòa quyện vào cỏ cây, sông núi, trở thành hồn thiêng
của đất nước. Bài thơ 3 lần nói đến cái chết, cái chết nào cũng đẹp, nhưng đẹp nhất
là cái chết trang trọng này:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Sang trọng được bao bọc trong tấm chiến bào, được về tụ nghĩa với đất mẹ quê
hương và nhất là được thiên nhiên tấu lên khúc nhạc dữ dội và oai hùng để tiễn đưa
hương hồn các chiến sĩ. đây thủ pháp nhân hóa cường điệu đã đẩy chất bi
tráng lên đến đỉnh cao, kì diệu của nó.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Chất bi tráng làm nên sắc diện bài thơ có mặt trong cả tác phẩm, nhưng nổi rõ và in
dấu đậm nét nhất chính đoạn Quang Dũng miêu t chân dung người lính Tây
Tiến. Những cặp hình ảnh đối lập giữa ngoại hình tiều tụy với phong thái “dữ oai
hùm”; giữa “mắt trừng” và “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”; và nhất là sự đối lập
giữa gian khổ, hy sinh với tưởng nước quên thân khiến sự hi sinh của người
lính Tây Tiến trở nên cao đẹp bi hùng. Chiến trường Tây Tiến ác liệt hoang vu,
nhiều thú dữ, bệnh sốt rét rừng gây nhiều tử vong... Nhiều chiến sĩ ngã xuống trên
con đường hành quân cái bi, hiện thực khốc liệt của chiến trường, Quang
Dũng đã khôngtránh cái bi nhưng cái bi mang màu sắc, âm hưởng tráng lệ, hào
hùng. Cái tráng này của Quang Dũng của cả một lớp trai trẻ sống với bầu
máu nóng: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Cái tráng ấy lại gặp luồng gió yêu
nước của thời đại anh hùng rực lửa nên càng hào hùng, rực rỡ. Đúng bài thơ đã
lột tả được cái khí phách của một thời đại chắp cánh cho cái bi tráng bay lên
như một nét đẹp hiếm có của một thời đại thơ.
Cảm hứng lãng mạn tinh thần bi tráng bao trùm bài thơ làm nên vẻ đẹp riêng
của Tây Tiến, nhưng điều đó do đâu? đây sự gặp gỡ giữa hồn thơ lãng
mạn, hào hùng của thi nhân cùng nhân vật trữ tình những người lính Tây Tiến
cũng hào hoa, lãng mạn, với cái thời anh hùng rực lửa của buổi đầu của cuộc
kháng chiến chống Pháp, và chiến trường Tây Tiến ác liệt, dữ dội nhưng lại rất thơ
mộng, trữ tình. Bốn yếu tố khách quan chủ quan này nđã hội tụ mãnh liệt
da diết trong nỗi nhớ của Quang Dũng để trào ra cảm hứng lãng mạn bật thành
tinh thần bi tráng trong phút xuất thần của hồn thơ để sinh ra đứa con đầu lòng hào
hoa tráng kiện - Tây Tiến. Như vậy, cảm hứng lãng mạn tinh thần bi tráng luôn
gắn bó với nhau, nâng đỡ nhau, cộng hưởng với nhau làm nên linh hồn bất diệt của
bài thơ tạo nên vẻ đẹp độc đáo của chân dung người lính Tây Tiến vẻ đẹp
đặc sắc của thi phẩm. những bài thơ đã sống cuộc đời thăng trầm cũng quá
nhiều truân chuyên, nhưng cuối cùng cũng định hình trong lòng độc giả khẳng
định giá trị đích thực của mình trong thi ca. Tây Tiến của Quang Dũng một tác
phẩm như thế. Bài thơ nhớ lại như một kỉ niệm đẹp của thời kháng chiến, bởi đó là
tiếng thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn tinh thần bi tráng của một thời đại anh
hùng rực lửa, không thể nào quên.
Cảm hứng lãng mạn tinh thần bi tráng đã làm nên vẻ đẹp riêng giá trị bền
vững của bài thơ Tây Tiến. Đó là v đẹp của một thời hoa lửa hào hùng một đi
không trở lại. Những tiếng thơ bi tráng hồn thơ lãng mạn hào hoa của Quang
Dũng đã kịp ghi lại và giữ cho đời một khung cảnh chiến trường đã đi vào lịch sử -
một tượng đài bất tử bằng thơ về người lính danh ưu của dân tộc người
đọc muôn đời yêu quý, tự hào.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 5
Nhắc đến nhà thơ Quang Dũng không ai không thể ko nhớ đến Tây Tiến. Bởi lẽ
đã gắn một thời sâu sắc với n thơ, một kiệt tác văn học. Quang Dũng nhà
thơ tiêu biểu của chùm thơ chiến sĩ. Với lời thơ hào hùng, lãng mạn những sáng tác
của ông đều để lại âm vang trong lòng người đọc cho đến tận ngày nay. "Tây
Tiến" là một trong những tác phẩm như thế.
Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó
một đơn vị thành lập vào đầu năm 1947, nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào
để bảo vệ biên giới Việt - Lào, đánh tiêu hao địch ở Thượng lào để hỗ trợ cho cuộc
kháng chiến những vùng khác trên đất Lào. Địa bàn hoạt động của đoàn quân
Tây Tiến khá rộng, bao gồm vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam Thượng Lào: t
Châu Mai, Châu Mộc sang tận Sầm Nứa rồi vòng về qua miền tây Thanh Hoá.
những nơi này lúc đó còn rất hoang vu hiểm trở, núi cao, sông sâu, rừng dày,
nhiều thú dữ.
Những người lính Tây Tiến phần đông thanh niên Nội, thuộc nhiều tầng lớp
khác nhau, trong đó cả những học sinh, sinh viên (Quang Dũng thuộc số này).
Sinh hoạt của những người lính Tây Tiến hết sức gian khổ, ốm đau không có thuốc
men, tử vong vì sốt rét nhiều hơn là vì đánh trận. Tuy vậy, họ vẫn sống rất lạc quan
và chiến đấu dũng cảm. Vượt lên trên mọi thử thách khắc nghiệt của chiến tranh
hoàn cảnh sống cực kỳ gian khổ, họ vẫn giđược cái cốt cách hào hoa, thanh lịch,
rất yêu đời và cũng rất lãng mạn.
Bài thơ “Tây Tiến” hai đặc điểm nổi bật: cảm hứng lãng mạn tinh thần bi
tráng.
Cảm hứng lãng mạn thể hiện "cái tôi" đầy tình cảm, cảm xúc của nhà thơ.
phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yếu tố cường điệu
phóng đại, những thủ pháp đối lập để đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng
mạnh mẽ về cái hùng vĩ và cái tuyệt mĩ.
Thiên nhiên Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với
vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vừa thơ mộng, hoang ấm áp.
Hình ảnh những cô gái, những con người Tây Bắc càng tô đậm thêm chất huyền bí,
thơ mộng của núi rừng. Chất lãng mạn được thể hiện chủ yếu cảm hứng hướng
tới cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hy sinh tất cả cho tưởng chung của cộng đồng,
của toàn dân tộc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
“Tây Tiến” không hề che giấu cái bi. Nhưng bi không bi lụy. Cái bi được thể
hiện bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng. Chất lãng mạn
hòa hợp với chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ. Cảm xúc chủ đạo
xuyên suốt bài thơ là một nỗi nhớ da diết, bao trùm lên cả không gian và thời gian:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Nỗi nhớ đơn vị trào dâng, không kìm nén nổi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng
gọi. Hai chữ “chơi vơi” như vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình tượng hoá nỗi
nhớ, khơi nguồn cho cảnh núi cao, sông sâu, vực thẳm, rừng dày… liên tiếp xuất
hiện ở những câu thơ sau:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Khổ thơ này là một bằng chứng “thi trung hữu họa” (trong thơ họa). Chỉ bằng
bốn câu thơ, Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh hoành tráng diễn tả rất đạt sự
hiểm trở dữ dội, hoang vu heo hút của núi rừng Tây Bắc, địa bàn hoạt động
của đoàn quân Tây Tiến. Hai câu thơ đầu, những từ đầy giá trị tạo hình “khúc
khuỷu”, “thăm thẳm”, “cồn mây”, “súng ngửi trời” đã diễn tả thật đắc địa shiểm
trở, trùng điệp độ cao ngất trời của núi đèo Tây Bắc. Hai ch “ngửi trời” được
dùng rất hồn nhiên cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa chất tinh nghịch
của người lính. Núi cao tưởng chừng chạm mây, mây nổi thành cồn “heo hút”.
Người lính trèo lên những ngọn núi cao dường n đang đi trên mây, mũi súng
chạm tới đỉnh trời. Câu thứ ba như bẻ đôi, diễn tả dốc núi vút lên, đ xuống gần
như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm.
Nếu như câu thứ ba nhìn lên nhìn xuống thì câu thứ nhìn ngang. thể
hình dung cảnh những người lính tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt
ngang ra xa qua một không gian mịt mùng sương rừng mưa núi thấp thoáng những
ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi. Bốn câu thơ này phối hợp với
nhau, tạo nên một âm hưởng đặc biệt. Sau ba câu thơ được vẽ bằng những nét gân
guốc, câu thứ được vẽ bằng một nét vẽ rất mềm mại (câu thứ toàn thanh
bằng). Quy luật này cũng giống như cách sử dụng những gam màu trong hội hoạ:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
giữa những gam màu nóng, tác giả sử dụng một gam màu lạnh làm dịu lại, như xoa
mát cả khổ thơ.
Cái vẻ hoang dại dữ dội, chứa đầy mật ghê gớm của núi rừng Tây Bắc được nhà
thơ tiếp tục khai thác. không chỉ được mở ra theo chiều không gian còn
được khám phá cả chiều thời gian, luôn luôn mối đe dọa khủng khiếp đối với
con người:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Vậy cảnh núi rừng Tây Bắc hoang hiểm trở, qua ngòi bút Quang Dũng,
hiện lên với đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi, thác gầm, cọp
dữ… những tên đất lạ Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, những hình
ảnh đầy giá trị tạo hình, những câu thơ nhiều vần trắc đọc lên nghe vất vả nhọc
nhằn được xoa dịu bằng những câu thơ nhiều vần bằng cuối mỗi khổ thơ, đã
phối hợp với nhau thật ăn ý, làm hiện hình lên thế giới khác thường vừa đa dạng,
vưà độc đáo của núi rừng Tây Bắc. Đoạn thơ kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt suối, lội đèo,
những người lính tạm dừng chân, được nghỉ ngơi một bản làng nào đó, quây
quần bên những nồi cơm đang bốc khói. Khói cơm nghi ngút hương thơm lúa
nếp ngày mùa xua tan vẻ mệt mỏi trên gương mặt những người lính, khiến họ tươi
tỉnh hẳn lên. Hai câu thơ này tạo nên một cảm giác êm dịu, ấm áo, chuẩn bị tâm thế
cho người đọc bước sang đoạn thơ thứ hai.
Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của Tây Bắc. Cảnh núi rừng hoang vu,
hiểm trở, dữ dội lùi dần rồi khuất hẳn để bất ngờ hiện ra vẻ mỹ lệ, thơ mộng, duyên
dáng của miền đất này. Những nét vẽ táo bạo, khoẻ, gân guốc đoạn thơ đầu, đến
đoạn thơ này được thay bằng những nét mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. ngòi
bút tài hoa của Quang Dũng cũng được bộc lộnhất trong đoạn thơ này. Hồn thơ
lãng mạn của Quang Dũng bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của
con người và cảnh vật nơi xứ lạ, phương xa.
Cảnh ấy, người ấy được thể hiện lên trong một thời gian làm nổi nhất vẻ lung
linh, huyền ảo của nó: cảnh một đêm liên hoan lửa đuốc bập bùng cảnh một
buổi chiều sương phủ trên sông nước mênh mang. Cảnh một đêm liên hoan văn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
nghệ của những người lính Tây Tiến đồng bào địa phương đến góp vui được
miêu tả bằng những chi tiết rất thực mà cũng rất mộng, rất ảo:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu buồn e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Cả doanh trại “bừng sáng” gợi sự tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt
đầu. Trong ánh sáng lung linh của ngọn lửa đuốc trong âm thanh réo rắt của tiếng
khèn, cả cảnh vật, cả con người đều như ngả nghiêng, bốc men say, ngất ngây, rạo
rực. Hai chữ “kìa em” thể hiện một cái nhìn vừa ng ngàng, ngạc nhiên, vừa
say, vui sướng. Nhân vật trung tâm, linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái nơi
núi rừng tây bắc bất ngờ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy vừa e thẹn, vừa
tình tứ trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ đã thu hút cả hồn viá những chàng trai
Tây Tiến. Nếu cảnh một đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí say,
ngây ngất thì cảnh sông nước Tây Bắc lại gợi lên được cái cảm giác mênh mang,
mờ ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Không gian dòng sông trong một buổi chiều giăng mắc một màu sương. Sông
nước, bến blặng tờ, hoang dại như thời tiền sử. Trên dòng sông đậm màu sắc cổ
tích, huyền thoại ấy, nổi bật lên dáng hình mềm mại, uyển chuyển của một gái
Thái trên chiếc thuyền độc mộc. như hòa hợp với con người, những bông hoa
rừng cũng "đong đưa" làm duyên trên dòng nước lũ. Ngòi bút tài hoa của Quang
Dũng không tả mà chỉ gợi, vậy mà cảnh vật thiên nhiên xứ sở qua ngòi bút của ông
như có hồn phảng phất trong gió, trong cây. Ông không chỉ làm hiện lên trước mắt
người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên còn gợi lên cái phần thiêng liêng của cảnh
vật. Đọc đến đoạn thơ này ta như lạc vào thế giới của cái đẹp, thế giới của cõi mơ,
của âm nhạc. Bốn câu thơ đầu ngân nga như tiếng hát, như nhạc điệu cất lên tự tâm
hồn ngây ngất, say của những người lính Tây Tiến. Hơn đâu hết, trong đoạn
thơ này, chất thơ và chất nhạc hòa quyện với nhau đến mức khó mà tách biệt. Trên
cái nền hùng vĩ, hiểm trở của núi rừng duyên dáng, thơ mộng, l của Tây
Bắc, đến đoạn thơ thứ ba, hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến xuất hiện
với một vẻ đẹp đầy tính chất bi tráng:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Quang Dũng đã chọn lọc, đã tinh lọc những nét tiêu biểu nhất của những người
lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể đặng khái quát được cái gương mặt
chung của cả đoàn quân. Cái bi cái hùng hai chất liệu chủ yếu của bức tượng
đài, chúng hòa quyện, xâm nhập vào nhau, nương tựa, nâng đ nhau, tạo nên v
đẹp bi tráng - cái thần thái chung của cả bức tượng đài. Thơ ca thời kháng chiến
chỉ viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu
trong bài “Đồng chí” đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Còn Tố Hữu, khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài “Cá nước” với những
hình ảnh thật cụ thể:
Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Cũng không quên ảnh hưởng của thứ bệnh quái ác đó. Quang Dũng trong Tây Tiến
không hề che giấu gian khổ, khó khăn, những căn bệnh hiểm nghèo sự hy sinh
lớn lao của người lính. Chỉ điều, tất cả những cái đó, qua ngòi bút của ông,
không được miêu tả một cách trần trụi mà qua một cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn.
Những cái đầu không mọc tóc của người lính Tây Tiến đâu phải hình ảnh ly kỳ,
giật gân, sản phẩm của trí tưởng tượng bịa đặt của nhà thơ chứa đựng một s
thật nghiệt ngã. Những người lính Tây Tiến người t cạo trọc đầu để thuận tiện
khi đánh nhau giáp lá cà với địch, người thì bị sốt rét đến rụng tóc trọc đầu.
Cái vẻ xanh xao đói khát, sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của
Quang Dũng vẫn toát lên cái oai phong dữ dằn của những con hổ nơi rừng thiêng.
Cái vẻ oai phong, lẫm liệt ấy còn được thể hiện qua ánh mắt giận dữ “mắt trừng
gửi mộng” của họ. Những người lính Tây Tiến, qua ngòi bút của Quang Dũng,
không phải những người khổng lồ không tim. Cái nhìn nhiều chiều của Quang
Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái voai hùng dữ dằn bề ngoài của họ,
những tâm hồn, những trái tim rạo rực, khao khát yêu đương (Đêm Nội
dáng kiều thơm).
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Như vậy, trong khổ thơ này, Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài tập thể những
người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vbên ngoài
mà còn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ. Ngòi bút
của Quang Dũng khi dựng lên hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến
không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi
khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đ bằng đôi cánh của tưởng, của tinh
thần lãng mạn. Chính vậy cái bi thương được gọi lên qua hình ảnh của
những nấm mồ chiến rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, xa xôi, một mặt
đã được giảm nhẹ đi nhiều nhờ những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: “Rải rác
biên cương mồ viễn xứ” mặt khác, chính cái bi thương ấy cũng lại bị mờ đi trước
tưởng quên mình, xả thân vì tổ quốc của những người lính Tây Tiến (Chiến trường
đi chẳng tiếc đời xanh).
Những người lính tây Tiến tiều tụy, tàn t trong hình hài nhưng vẫn chói ngời vẻ
đẹp tưởng, mang dáng dấp của những người tráng thuở xưa, coi nhẹ cái chết
tựa lông hồng. Cái sự thật bi thương: những người lính Tây Tiến gục ngã bên
đường không cả đến manh chiếu để che thân, qua cái nhìn của Quang Dũng, lại
được bọc trong những tấm áo bào sang trọng. Cái bi thương ấy vợi đi nhờ cách nói
giảm “anh về đất” rồi b át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông
Mã:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Trong cái âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên ấy, cái chết, sự hy
sinh của những người lính Tây Tiến không bi lụy thấm đẫm tinh thần bi tráng.
Giọng điệu chủ đạo của đoạn thơ thứ ba này sang trọng, thể hiện tình cảm đau
thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội.
Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ, một lần nữa, đậm thêm không khí chung của
cái thời Tây Tiến, tinh thần chung của những người lính Tây Tiến. Nhịp thơ chậm,
giọng thơ buồn, nhưng cái linh hồn của đoạn thơ thì vẫn toát lên vẻ hào hùng:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi
Cái tinh thần “nhất khứ bất phục hoàn” thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm của
cả đoàn quân Tây Tiến. Tâm hồn, tình cảm của những người lính Tây Tiến vẫn gắn
máu thịt với những ngày Tây Tiến, những nơi Tây Tiến đã qua. “Tây Tiến
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
mùa xuân ấy” đã thành một thời điểm một đi không trở lại. Lịch sử dân tộc không
bao giờ lặp lại cái thời thơ mộng, lãng mạn, hào hùng đến nhường ấy trong một
hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.
Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 6
Quang Dũng nhà thơ tài hoa với cái tôi lãng mạn, trữ tình, bay bổng. Thơ ông
luôn đậm chất trữ tình, đậm tình người, gieo vào lòng người nhiều vị riêng. Bài
thơ “Tây Tiến” rút trong tập “Mây đầu ô” bản anh hùng ca bi tráng lãng mạn
của quân và dân ta trong cuộc chiến chống quân xâm lược.
Cảm hứng lãng mạn thể hiện “cái tôi” đầy tình cảm, cảm xúc của nhà thơ.
phát huy cao độ trí tưởng tượng, những thủ pháp đối lập để đậm cái phi thường,
tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hùng cái tuyệt mĩ. Đó cái tài hoa của
Quang Dũng. thể nói đây dòng cảm hứng xuyên suốt bài thơ, đọng lại trong
lòng người nghe những thanh vang về nét đẹp con người, thiên nhiên Tây Bắc.
Thiên nhiên nơi đây hiện lên thật nên thơ, trữ tình:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Là tiếng nói, là tiếng lòng, là nỗi nhớ “chơi vơi” của tác giả khi trong lòng cứ canh
cánh tình yêu đối với mảnh đất này. Một chữ “ơi” nặng tựa nghìn non, một chữ
“ơi” khiến cho câu thơ chùng xuống. Hình ảnh vừa hùng vĩ, vừa nên thơ của núi
rừng Tây Bắc lần lượt hiện về qua từng câu chữ. Dường như thiên nhiên đất trời đã
hòa quyện trong nỗi nhớ da diết của tác giả. Một nỗi nhớ chẳng thể gọi thành tên
Từ cảm hứng lãng mạn chủ đạo đó Quang Dũng đã vẽ nên một bức tranh hùng
tráng của mảnh đất này:
Dốc lên khúc khủyu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Chỉ bằng vài nét bút nhưng Quang Dũng đã đủ sức vẽ lên một bức tranh hùng
trang, đầy hiểm trở, khúc khuỷu của núi rừng Tây Bắc. Tác giả đã đặt hai từ láy
“khúc khuỷu” “thăm thẳm” cạnh nhau như một dụng ý nghệ thuật nhằm tôn
lên vẻ đẹp hùng tráng không nơi nào được của Tây Bắc. Đặc biệt hình ảnh
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
“súng ngửi trời” rất sức nặng trong đoạn thơ. khiến người đọc liên tưởng
đến bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu với hình ảnh “Đầu súng trăng treo”.
Thực ra hình ảnh “súng ngửi trời” vừa mang ý nghĩa lãng mạng vừa gợi lên chiều
cao, sự hùng của thiên nhiên. Một sự kết hợp rất hoàn hảo. Trong không khí
chiến tranh đang diễn ra ác liệt như vậy nhưng dường như tinh thần lãng mạn đối
với những người lính vẫn luôn tràn đầy.
Hình ảnh trùng điệp, tuyệt đẹp của dòng thác chảy mạnh nơi sườn núi khiến người
đọc như lạc vào một thế giới khác. Câu thơ như bị bẻ đôi thành hai mảnh. Câu thơ
cuối đoạn lắng lại trong lòng người đọc một chút bình yên, lãng mạn, dịu êm nhất.
Sự mệt mỏi của người lính tiêu tan đi khi nhìn thấy màn mưa trắng xóa ở nơi xa.
Sự hùng hồn, bi tráng trong thơ Quang Dũng còn được thể hiện nhiều tầng lớp
khác nữa:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Hai tláy chỉ thời gian “chiều chiều” “đêm đêm’ đã gợi mở ra một không gian
vừa có chiều dài vừa có chiều sâu với thanh âm dữ tợn nơi núi rừng.
bỗng nhiên hai câu thơ tiếp, giọng thơ bỗng nhiên đột ngột chuyển đổi với
cuộc sống bình dị, ấm êm nơi xứ người:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Thật trữ tìnhnên thơ, một bức tranh về cuộc sống sinh hoạt của người dân vùng
cao tuyệt đẹp.
Đến đoạn thơ thứ hai, dường như khung cảnh hùng trang đã dần nhường chỗ cho
không gian tráng lệ, tuyệt đẹp nơi đây:
Đêm trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Không gian nơi đây bỗng nhiên sáng hẳn lên với từ “bừng” như lan tỏa sự dịu mát
ngọt lành. Cuộc sống bộn bề nhưng cái tâm, cái tình của người dân nơi đây
dành cho những người lính thật chân thật, mộc mạc.
Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng đã phác họa thành công bức tranh hùng tráng,
lãng mạn, trữ tình của mảnh đất Tây Tiến. Chặng đường chiến đấu của người lính
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
còn rất gian nan, nhưng trong trái tim họ vẫn luôn giữ được sự lạc quan, tin tưởng
và yêu đời:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm
Chỉ bốn câu thơ thôi nhưng đã lột tả được rất nhiều điều về tinh thần, lòng dũng
cảm, lòng tin yêu hơn hết tinh thần quyết tâm cống hiến cho đất nước.
gian khổ nhưng bên trong những chàng trai thành này vẫn luôn tràn đầy mộng
mơ, trữ tình. Chiến tranh luôn gắn liền với chết chóc nhưng trong thơ của Quang
Dũng không h bi lụy, không hề nước mắt. Đó chính tinh thần đáng quý của
anh bộ đội cụ hồ.
Thật vậy, chạy dọc theo bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng người đọc nhận ra
cảm hứng lãng mạn tinh thần bi tráng dường như điểm sáng cho cả bài thơ.
Một bài thơ đẹp, một bài thơ hay đủ sức nặng neo giữ vào lòng người.
Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 7
Quang Dũng một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến
chống thực dân Pháp. Xuất thân t một người trí thức trẻ sống trong thời chiến,
Quang Dũng cũng là một người chiến ch mạng. Tây Tiến một bài thơ đặc
sắc của Quang Dũng viết v nỗi nhớ của ông với đoàn quân Tây Tiến ông đã gắn
một thời gian dài cùng hình ảnh người lính trải qua bao khó khăn trên con
đường hành quân gian khổ vẫn yêu đời, lãng mạn và quả cảm. Cảm hứng lãng mạn
và tinh thần bi tráng tạo nên đặc sắc và thành công cho bài thơ.
Bao trùm bài thơ Tây Tiến trước tiên cảm hứng lãng mạn đã đi vào trái tim
người đọc. Cảm hứng lãng mạn này đến từ cái tôi trữ tình của nhà thơ Quang
Dũng. Nếu tìm hiểu về nhà thơ Quang Dũng, chúng ta sẽ hiểu thêm về tâm hồn
con người ông ảnh hưởng đến thơ ca như thế nào. Quang Dũng vốn rất đa tài, ông
không ch làm thơ còn vẽ tranh, soạn nhạc. Ông cũng như những người lính
Tây Tiến cùng xuất thân t những người trí thức trẻ, họ học sinh, sinh viên Hà
Nội gác bút nghiên lên đường chiến đấu. Bởi thế họ vốn tâm hồn trẻ trung, hào
hoa và lãng mạn.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Ngay t những câu đầu của bài thơ, cảm hứng lãng mạn đã bao trùm bởi nỗi nhớ
da diết về đoàn binh Tây Tiến cùng hình nh nước non hùng vĩ, nên thơ của trên
con đường hành quân:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Nỗi nhớ của nhà thơ hiện lên trong bài thơ dạt dào, chơi vơi. Nhà thơ gọi “Tây
Tiến ơi” như tiếng gọi thân thương tới những người đồng chí, đồng đội. Đó cũng là
tiếng gọi về những miền ức xa xôi, thẳm sâu trong trái tim người lính Quang
Dũng. Hai từ “chơi vơi” khiến cho tiếng gọi như kéo dài hơn, thổn thức hơn. Cùng
với nỗi nhớ đầy ắp, mãnh liệt, hình ảnh của nước non hùng vĩ, nên thơ dần hiện lên
qua cái nhìn bay bổng, lãng mạn của tâm hồn Quang Dũng. Những cơn mưa “nhà
ai Pha Luông mưa xa khơi” vẽ lên bức tranh núi cao bên dưới là những ngôi nhà
thấp thoáng trong mưa ớc vào trang thơ Quang Dũng thật đẹp. Miên man trong
nỗi nhớ, với tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, nhà thơ phải thốt lên “Ôi Tây Tiến với
những kỷ niệm về “cơm lên khói” cùng mùa em với hương “thơm nếp xôi”.
cuộc hành quân khó khăn gian khổ đến đâu, thì nhà thơ cũng như những người
lính Tây Tiến vẫn cảm nhận được vẻ đẹp rất đỗi bình dị, thân thương trên con
đường anh bước. Vẻ đẹp bình dị áy đến từ những cái rất đỗi nhỏ như những
“chiều sương” bảng lảng, vấn vương lên áo, lênc các anh, những “hồn lau” phất
phơ bến bờ hay những bông hoa ban, hoa rừng “hoa đong đưa” bên “dòng nước
lũ”. Phải là một người có tâm hồn lãng mạn, hào hoa lắm mới có thể nhận ra những
vẻ đẹp tuyệt vời ấy. Đó đều những hình ảnh thơ giàu sức gợi gây n tượng
đối với người đọc.
Cảm hứng lãng mạn xuyên suốt còn thể hiện ở sự trẻ trung, tâm hồn nhạy cảm, tinh
tế, lãng mạn của người lính xuất thân từ mái trường Nội. Chính s trẻ trung,
yêu đời của người lính đã mang đến những liênởng, von hết sức độc đáo như
hình ảnh “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” hay cách nói “súng ngửi trời” rất
đáng yêu. Sự lãng mạn, trẻ trung còn thể hiện sự vui vẻ, cùng hòa mình vào
không gian đêm liên hoan văn ngh ấm tình quân dân, những ngọn lửa cháy bập
bùng trên cây đuốc kia chẳng khác nào những bông hoa lửa đang đua nhau phát
sáng. Phải một người tâm hồn lãng mạn mới những cách von liên
tưởng thú vị đến thế. Trong cái ánh sáng bừng lên cùng không khí ấm áp đêm lửa
trại, hình ảnh những gái miền sơn cước hiện lên thật lộng lẫy với “xiêm áo”
nhiều màu sắc sặc sỡ. Vẻ đẹp ấy hiện lên trước sự ngỡ ngàng của những chàng trai
Thành với tâm hồn tinh tế. Bức tranh đêm lửa trại thật ấm áp, vui v với đủ
màu sắc, ánh sáng và âm thanh. Với tâm hồn tinh tế, những khúc nhạc rộn ràng
giúp người lính “xây hồn thơ”. Không ch thế, các anh còn về Nội với
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
những “dáng kiều thơm”. Hình ảnh giấc mơ của người lính hiện lên thật lãng mạn,
đậm chất của những người thanh niên học sinh, sinh viên trẻ bước đi theo tiếng gọi
của tổ quốc thiêng liêng.
Bên cạnh cảm hứng lãng mạn, thì tinh thần bi tráng cũng là nét đặc sắc tạo nên
thành công cho bài tTây Tiến. Bi tráng trong cái buồn đau nhưng vẫn rất hào
hùng, mạnh mẽ chứ không hề đau thương, bi lụy. Bài thơ đã nói lên những khó
khăn, gian khổ những người chiến phải vuọt qua. Đó những dốc núi thăm
thẳm, cao chót vót “”dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”, sự heo hút và đe dọa bởi
thú dữ trong rừng sâu “cọp trêu người và cả những dịch bệnh sốt rét nơi rừng
hoang sương muối khiến tóc không mọc, da xanh xao như lá. Thậm chí, các anh
còn phải đối mặt với cái chết.
Nhà t không hề tránh cái chết từ đó khẳng định sự quả cảm hi sinh của
những người lính Tây Tiến. Những người lính vẫn oai phong “gioai hùm”. Đứng
trước cái chết, những người lính Tây Tiến vẫn “chẳng tiếc đời xanh”.Đó tinh
thần “quyết t cho tổ quốc quyết sinh” một thời bom đạn. Đặc biệt màu sắc tráng
lệ, hào hùng được thể hiện cái chết hào hùng, bất t của đoàn quân Tây Tiến.
Những nấm mồ nơi biên cương qua cách miêu t của nhà thơ không hề bi lụy mà
rất oai hùng. Nơi biên cương xa xôi, các anh hi sinh được khoác trên mình chiếc áo
bào oanh liệt như một vị tướng thời xưa được trở v với đất mẹ thiêng liêng.
Bằng cách sử dụng từ ngữ hán việt, hình ảnh sự hi sinh của người lính mang hơi
hướng cổ kính, tạo nên một âm hưởng bi tráng, hào hùng rực rỡ. Chất bi tráng, chất
sử thi đặc sắc lên đỉnh cao khi đất nước tiễn đưa các anh bằng khúc tráng ca oai
phong, lẫm liệt trong hình ảnh “sông gầm lên khúc độc hành”. Tinh thần bi
tráng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp một thời rực lửa của những con người trẻ tuổi mang
đầy nhiệt huyết, quả cảm, vì tổ quốc không tiếc thân mình.
“Tây Tiến” một bài thơ đặc sắc thể hiện chân dung người lính Tây Tiến lãng
mạn, hào hoa vẫn hiên ngang, quả cảm quyết hi sinh thân nh cho tổ quốc tự
do. Cảm hững lãng mạn tinh thần bi tráng bao trùm bài thơ đã làm nên thành
công của tác phẩm, khẳng định giá trị trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam để
lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong trái tim người đọc về một thời khói lửa, can qua.
Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 8
Quang Dũng là nhà thơ quân đội và tài hoa về nhiều lĩnh vực, nhưng nổi bật hơn cả
khả năng thơ ca. Thơ ông luôn thể hiện một cái tôi hào hoa thanh lịch, giàu chất
lãng mạn, khả năng diễn tả cảm nhận tinh tế vẻ đẹp của thiên nhiên tình
người, đồng thời lại rất mực hồn nhiên, chân thật.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Bài “Tây Tiến” tiêu biểu cho hồn thơ ấy của Quang Dũng. Bài thơ được rút trong
tập thơ Mây đầu ô, được ông viết vào năm 1948 Phù Lưu Chanh, sau khi ông đã
chuyển sang đơn vị khác và nhớ về đoàn quân Tây Tiến ngày nào.
Bài thơ thành công về nhiều phương diện, nhưng đặc sắc tổng thể của nó cảm
hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng:
Bức chân dung kiêu hùng của người lính Tây Tiến được viết nên bởi cảm hứng
lãng mạn qua cái nền hùng và thơ mộng của núi rừng hoang vu, bạt ngàn phía
Tây của Tổ quốc. Người lính vượt qua đèo núi cao, suối sâu với thế đẹp, hùng
dũng với nỗi nhớ "chơi vơi","heo hút cồn mây súng ngửi trời", với "Mường Lát
hoa về trong đêm hơi", "mưa xa khơi".
Bút pháp lãng mạn còn thể hiện qua âm thanh ghê rợn của "thác gầm thét", "cọp
trêu người" nhằm đậm vẻ hoang dại, hiểm của rừng thiêng nước độc, rồi đột
ngột mở ra một nỗi nhớ ấm áp.
Thực ảo đan xen trong đêm liên hoan "bừng lên hội đuốc hoa" với cái nhìn ngơ
ngác "kìa em xiêm áo tự bao giờ". Từ cảnh liên hoan chuyển sang cảnh sông nước
đầy chất thơ bằng bút pháp chấm phá tinh tế, cảnh như được phủ lên màn sương
huyền thoại, da diết hồn của ngàn lau... giống như một bức cổ họa.
Hùng gắn với thơ mộng cái nhìn riêng của chất lãng mạn Quang Dũng. Qua
cảnh để nói v hòai niệm, tạo nên một tình yêu bâng khuâng của tác giả đối với
vùng đất một thời gắn bó sâu sắc.
Trên cái nền thiên nhiên hùng diễm lệ, người lính xuất hiện với cái tầm vóc
bi tráng khác thường "không mọc tóc", "xanh màu dữ oai hùm", "mắt trừng gửi
mộng qua biên giới".
Bốn câu t tiếp theo nói về cái chết cũng khác thường "rải rác biên cương mồ
viễn xứ/ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh/ Áo bào thay chiếu anh về đất...". Hai
khổ thơ tạo hình dữ dội nói lên cái tột cùng cực, lẫn cái lẫm liệt kiêu hùng. Đến
cái chết cũng được tác giả bao bọc trong không khí hoành tráng, hiệp sĩ. Từ Hán
Việt được sử dụng tạo âm hưởng bi hùng. Chính nhờ cảm hứng lãng mạn đã tạo
nên ở Quang Dũng cái nhìn có tính anh hùng cổ điển trước cái chết của người lính.
Tác giả nhìn thẳng vào sự thật.
Cảm hứng lãng mạn sắc thái bi tráng tạo nên tính sử thi đặc biệt của bài thơ.
Bức chân dung người lính hào hoa, dũng cảm trên cái nền hùng vĩ, lệ được tác
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
giả hướng hồn thơ ngưng đọng cả một thế hệ anh hùng - những người lính "quyết
tử cho tổ quốc quyết sinh".
Tây Tiến là bài thơ hay viết về người lính gốc Hà Nội thời kháng chiến chống thực
dân Pháp. Bài thơ góp tiếng nói độc đáo cũng như kháng chiến viết về người lính
của Hồng Nguyên, Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi làm thành mảng riêng đặc sắc
trong nền thơ chung.
Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 9
trong thơ Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về
người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm
lược nước ta. Đó bức tượng đài đã làm cho những người chiến yêu nước từng
ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian
"Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc - Quân xanh màu dữ oai hùm - Mắt trừng
gửi mộng qua biên giới - Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm - Rải rác biên cương mồ
viễn xứ - Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh - áo bào thay chiếu anh về đất - Sông
Mã gầm lên khúc độc hành"
"Tây Tiến" của Quang Dũng dòng hồi ức cùng thương nhớ về những đồng
đội của nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng người
đã hy sinh, những người đã trở về với đất mẹ yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng
những người mãi mãi nằm lại nơi biên cương hay miền viễn xứ. Chính thế
Quang Dũng không chỉ dựng lại cả một hình ảnh của đoàn binh Tây Tiến trên
những chặng đường hành quân gian khổ hy sinh "đời vẫn cứ tươi" như 14
dòng thơ đầu tiên. Quang Dũng cũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của những
người lính với một đời sống tình cảm hết sức phong phú, những tình cảm lớn lao là
tình quân dân. Quang Dũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người
lính Tây Tiến trong tác phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ
giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp n tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý
nghĩa để tạo ấn tượng mạnh đ khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc
hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dân tộc. Đó là bức tượng đài
sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không gian hùng như chúng ta đã
thấy trong các câu thơ:
Tây Tiến đoàn quân… khúc độc hành
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc hoạ lên từ những đường
nét nhằm đậm cuộc sống gian khổ của họ. Nếu như những đoạn thơ trước đó
người lính mới chỉ hiện ra trong đoàn quân mỏi trong câu:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Hay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm
tình nước thì đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh n rừng.
Cảm hứng chân thực của Quang Dũng đã không tránh việc tả cuộc sống
gian khổ người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không
thể mọc được (chứ không phải họ cố tình cạo trọc để đánh giáp cho dễ như
nhiều người từng nói). Cũng sốt rét rừng da họ xanh như cây (ch không
phải họ xanh màu ngụy trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tụy. Nhưng thế giới
tinh thần của người lính lại cho thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng,
họ còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh như hổ báo,
hùm beo. Cái giỏi của Quang Dũng t người lính với những nét khắc khổ
tiều tụy nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi câu thơ
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc" với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu
của câu thơ như "tiến", "mọc tóc". Nhờ những thanh trắc ấy âm hưởng của câu
thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. Hai chữ "đoàn binh" âm
Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. đặc biệt hai
chữ "Tây Tiến" mở đầu câu thơ không chỉ còn là tên gọi của đoàn binh nữa, nó gợi
ra hình ảnh một đoàn binh đầu không mọc tóc vẫn đang quả cảm tiến bước về
phía Tây. Thủ pháp tương phản Quang Dũng sử dụng câu thơ "Quân xanh
màu lá dữ oai hùm" không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính
còn thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. đây, nhà thơ không chỉ muốn nói
rằng những người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm, không phải muốn "động vật
hoá" người lính Tây Tiến muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng
một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi người
anh hùng vệ quốc trong câu thơ:
hoành sóc giang san cáp kỷ thu
Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu
Và ngay cả Hồ Chí Minh trong "Đăng sơn" cũng viết:
Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu
Thể diện sài long xâm lược quân
thể nói Quang Dũng đã sử dụng một típ mang đậm màu sắc phương Đông
để câu thơ mang âm vang của lịch sử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
với sức mạnh truyền thống của dân tộc. Đọc câu thơ: "Quân xanh màu d oai
hùm" ta như nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông á.
Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng nhiên trở nên rất đẹp khi Quang Dũng bổ
sung vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Trước hết đó một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về Tổ quốc, hướng về Thủ đô.
Người lính dẫu nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi lòng lúc nào cũng hướng
về Hà Nội. Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:
Từ thuở mang gươm đi mở nước
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long
Người lính Tây Tiến dẫu "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" niềm thương nỗi
nhớ vẫn hướng về một "dáng kiều thơm". Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta
phê phán thói tiểu sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn người lính sức
mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của
con người Việt Nam. Quang Dũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc -
những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính con người
có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng
cầm gươm theo tiếng gọi của non sông còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian
khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều
thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng Long xưa.
Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng
tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật
và tạo được những ấn tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng của thơ Quang Dũng.
Nếu như bốn câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn
binh với những bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng một thế giới tâm
hồn hết sức lãng mạn thì đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc
bằng những đường nét nổi bật về sự hy sinh của họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ
phân tích từng hình ảnh riêng rẽ độc lập, người ta dcảm nhận một cách bi luỵ về
cái chết của người lính mà thơ ca kháng chiến thuở ấy rất ít khi nói đến. Bởi thơ ca
kháng chiến phần lớn chỉ quan tâm đến cái hùng không quan tâm đến cái bi.
Nhưng nếu đặt các hình ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu
Quang Dũng đã t một cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức
bay bổng.
thể thấy câu thơ: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" nếu tách riêng ra rất dễ gây
cảm giác nặng nề bởi đó câu thơ nói về cái chết, vnấm mồ của người lính Tây
Tiến nơi "viễn xứ". Từng chữ từng chữ dường như mỗi lúc một nhấn thêm nốt
nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ. Chẳng phải thế sao? Nói về những nấm mồ, lại
những nấm mồ "rải rác" dễ gợi sự hoang lạnh, lại "rải rác" nơi "viễn xứ",
những nấm mồ ấy càng gợi sự đơn côi cút. Quang Dũng muốn nói tới nơi yên
nghỉ của những người đồng đội:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Trong Chinh phụ ngâm:
Hồn tử sĩ gió về ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn
Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên
cương đã trở về với sự ấm cúng của niềm biết ơn của nhân dân, của đất nước. Bởi
đó chính là nấm mồ của những người con anh dũng:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Đồng thời cũng chính câu thơ thứ hai đã làm cho những nấm mồ rải rác kia được
nâng lên những tầng cao của đài tưởng niệm, của Tổ quốc đối với người lính đã
tiếng gọi của chiến trường hiến dâng tuổi xanh của mình. Trong t Quang
Dũng luôn là một sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh như vậy.
Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Bao nhiêu thương yêu của Quang Dũng trong một câu thơ như vậy về một đồng
đội của mình. Ai bảo Quang Dũng không xót thương những người đồng đội của
mình ra đi trong cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó khăn, cái
thuở những người lính Tây Tiến chết sốt rét nhiều hơn chết chiến trận. Lại
trong cảnh kháng chiến còn rất khó khăn nên tiễn đưa người chết không cả một
chiếc quan tài. hoàng Lộc trong "Viếng bạn" cũng đã viết về cảnh tiễn đưa như thế:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Ở đây không manh ván
Chôn anh bằng tấm chăn
Của đồng bào Cứa Ngàn
Tặng tôi ngày sơ tán
Chỉ điều câu thơ của Quang Dũng không dừng lại mức tả thực đẩy lên
thành cảm hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm,
cổ kính. Cũng người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có, chỉ chính tấm áo
của người lính. hiểu theo cách nào thì cũng phải thấy Quang Dũng đã tráng lệ
hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc áo bào s hy sinh của người
lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông. Cụm từ "anh về đất" nói về
cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình
ảnh tráng lệ. Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca:
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Từ sự kết hợp một cách hài hòa giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn,
Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung , một bức tượng đài người lính cách mạng
vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong
thời đại mới, thời đại của dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ
chống thực dân Pháp. Đó bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của
cuộc kháng chiến ấy. Đó bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của
Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. thế từ
bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về
những người con anh hùng ấy.
Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 10
“Tây Tiến” một đơn vị quân đội được thành lập vào năm 1947 với nhiệm vụ
chính phối hợp với bộ đội Lào chống lại thực dân Pháp. Đa phần những người
lính trong binh đoàn Tây Tiến đều là học sinh sinh viên, trong đó có nhà thơ Quang
Dũng. Năm 1948, sau khi chuyển sang đơn vị khác, n t đã nhớ về binh đoàn
Tây Tiến sáng tác ra “Tây Tiến”. Bài thơ sự kết hợp bởi cảm hứng lãng mạn
cũng như tinh thần bi tráng.
Trước hết, cảm hứng lãng mạn một khái niệm được dùng trong văn học, hướng
đến cái tôi tràn đầy cảm xúc tưởng. Cảm hứng lãng mạn hướng ngòi bút của
tác giả tìm đến những cái độc đáo, khác thường vượt lên trên những cái quen
thuộc trong cuộc sống hằng ngày. Ngôn ngữ trong cảm hứng lãng mạn giàu tính
biểu cảm, tạo được ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Trong văn học Việt Nam
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
giai đoạn 1945 - 1975, các tác giả chủ yếu hướng đến thể hiện trong việc khẳng
định phương diện tưởng của cuộc sống mới, vẻ đẹp con người mới, ca ngợi chủ
nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Đây là
một trong những cảm hứng chủ đạo trong sáng tác văn học không chỉ Việt Nam,
mà còn trên thế giới.
Trong bài thơ “Tây Tiến”, cảm hứng lãng mạn trước hết thể hiện qua cái tôi của
Quang Dũng. Tây Tiến được sáng tác khi nhà thơ không còn hoạt động trong binh
đoàn Tây Tiến, nhớ về đơn cũ nên đã sáng tác ra bài thơ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Nỗi nhớ của tác giả dường n đã trải dài khắp con sông Mã. Nỗi nhớ đến trống
vắng, hụt hẫng. “Tây Tiến” cụm từ để chỉ một đoàn quân nhưng tiếng gọi “ơi”
lại vang lên thật trìu mến. Đó là tiếng gọi hết sức thân thương của tác giả với quân
đội của mình. Tuy đã xa cách nhưng kỉ niệm, tình cảm vẫn còn đó. Nỗi nhớ v
những đêm hành quân đến hội đuốc hoa, từ đêm v “Hà Nội dáng kiều thơm”
đến bản làng vùng cao “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”. Đâu đâu cũng chứa
đựng một tình cảm sâu sắc, chân thành.
Cảm hứng lãng mạn còn được thể hiện qua bút pháp miêu tả thiên nhiên. Thiên
nhiên qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng được cảm nhận với vẻ đẹp vừa hùng
dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình. Nhà thơ nhớ đến những cuộc hành quân gian khổ
nhưng cũng thật hào hùng:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Những người lính Tây Tiến họ phải vượt qua những chặng đường gian khổ. Họ
vốn những thanh niên đất thành lần đầu tiên đến Miền Tây. Các tên bản, tên
mường như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch... được nhắc đến
không chỉ gợi bao nỗi nhớ vơi đầy còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi
heo hút. Những con dốc cứ dựng đứng giữa trời đầy nguy hiểm để rồi họ vẫn phải
cố gắng vượt qua. Những đỉnh núi cao cao vút như chạm tới mây để rồi một
hình ảnh thật đặc sắc “súng ngửi trời”. Mũi súng trên vai của của người chiến binh
được nhân hóa tạo thành hình ảnh “súng ngửi trời” vừa diễn tả được đ cao nhất,
hoang sơ, lạ lẫm vừa hàm chứa vẻ đẹp tâm hồn người lính. Đó chất tinh nghịch,
hồn nhiên rất lính của người chiến binh Tây Tiến. Thiên nhiên hùng tráng như
vậy, nhưng người lính vẫn hiên ngang đứng vững.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Hình ảnh đoàn binh hành quân trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” thật
dữ dội nên thơ. Mưa rơi mịt khiến những ngôi nhà sàn Pha Luông lưng
chừng núi thấp thoáng không . Câu thơ toàn thanh bằng gợi không gian mênh
mông. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người lính Tây Tiến vẫn hướng về
những bản mường - nơi có những mái nhà dân hiền hòa, yêu thương ấm áp tình
quân dân.
Không chỉ vậy, gian khổ còn là những “thác gầm thét” dữ dội hòa với tiếng hú man
dại, ghê gớm của thú rừng. “Cọp trêu người” như mang theo cái oai linh, bí ẩn của
rừng đại ngàn. Vẻ hoang vu của nơi rừng núi được khám phá thời gian “đêm
đêm”, “chiều chiều”. Việc miêu tả cả không gian, thời gian. luôn mối đe
dọa sẵn sàng nuốt chửng con người. Đặc biệt họ toàn những người lính trẻ thủ
đô mới lần đầu rời thành phố đến rừng đại ngàn. thế ấn tượng về Tây Bắc với
những địa danh xa ngái, càng xa lạ, dữ dội, ác liệt, không kém cuộc đọ sức với
quân thù.
Nhưng thiên nhiên Tây Bắc cũng đầy thơ mộng: “Mường Lát hoa về trong đêm
hơi”; “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Và đặc biệt nhất là đoạn thơ:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Khung cảnh Châu Mộc trong một buổi chiều sương phủ trên dòng nước mênh
mông, đầy hoang dại, huyền ảo. Cảnh vật dường như trở nên có hồn hơn. Hình ảnh
những bông hoa lau nở trắng sáng, lau lay động xào xạc trong gió vốn những
thi liệu cổ điển quen thuộc nhưng khi đi vào t của Quang Dũng như mang hồn
lưu luyến của cảnh chia ly. Trên dòng nước đó xuất hiện dáng người trên thuyền
độc mộc. “Hoa đong đưa” vừa hình ảnh tả thực: những bông hoa khẽ lay động
đong đưa làng duyên trên dòng nước lũ; vừa hình ảnh ẩn dụ, gợi tả vẻ đẹp của
các cô gái Tây Bắc. Các cô như những bông hoa rừng đong đưa trên sông nước. Vẻ
đẹp của những gái Tây Bắc, những con người Tây Bắc được gợi nhớ trong bài
thơ càng đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Sau bao ngày đêm
hành quân gian khổ, băng rừng vượt núi, trèo đèo lội suối, những người lính tạm
dừng chân bên bản làng quây quần bên những nồi xôi bốc khói. Mùi thơm hương
nếp mới và ấm tình quân dân đã xua tan bao nhọc nhằn gian khổ:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Gói xôi chứa chan tình cảm của gái Mai Châu. Những gái miền sơn cước
xinh đẹp làm nhiệm v nuôi quân không quản ngại vất vả, hiểm nguy đã để lại
trong lòng người lính trẻ một nỗi nhớ. Hai chữ “mùa em” kết tinh cả hương nếp
ngày mùa lẫn tình em ấm áp.
Hay những đêm liên hoan văn nghệ ở doanh trại bừng lên sôi nổi, vui tươi:
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Ngọn đuốc rừng thắp sáng đêm liên hoan văn nghệ truyền thống đã thành “hội
đuốc hoa” khiến khung cảnh tuy thiếu thốn rực rỡ lung linh bao ước mơ, hạnh
phúc. Hai chữ “kìa em” thể hiện sự ngạc nhiên đến ngỡ ngàng của người lính.
Những gái Tây Bắc trong bộ xiêm áo đang múa điệu múa truyền thống trong.
Tiếng khèn mang linh hồn của núi rừng càng trở nên lôi cuốn. Tâm hồn các chiến
sĩ mộng mơ, lãng mạn.
Còn tinh thần bi tráng được thể hiện qua hình ảnh người lính Tây Tiến. Trước hết,
bi tráng trong tác phẩm văn học được thể hiện việc miêu tả hiện thực, không
tránh cái bi, tức cái gian khổ, đau thương. Cái bi nhưng không phải bi lụy
bi tráng, hào hùng. cái chết nhưng không bi lụy cái chết hào hùng lẫm
liệt, cái chết đi vào cõi bất tử. Cái bi thường được biểu hiện giọng điệu, âm
hưởng, màu sắc tráng lệ hào hùng.
Tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến thể hiện chỗ lời thơ không tránh cái
bi, thường đề cập đến cái chết, nhưng đó không phải cái chết bi lụy cái
chết hào hùng, mãnh liệt, cái chết của người chiến sĩ đi vào cõi bất tử.
Hai câu thơ đầu là hình ảnh thật chân thực về binh đoàn Tây Tiến:
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Trong những năm tháng chiến đấu đầy gian khổ khó khăn, bom đạn hóa chất của
kẻ thù đã làm cho mái tóc của người lính không còn đẹp đẽ nữa. Nhưng ở đây lại là
“không mọc tóc” nghĩa người lính Tây Tiến đã chủ động lựa chọn cạo trọc
đầu để thuận tiện cho sinh hoạt kháng chiến. Kế tiếp hình ảnh “quân xanh màu
dữ oai hùm” gợi ra hai cách hiểu. Đó thể màu xanh của lớp ngụy trang.
Trên đường hành quân nơi chiến trường, người lính phải ngụy trang để tránh khỏi
tai mắt của kẻ thù. đây, màu xanh của lớp áo ngụy trang lẫn với màu xanh của
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
cây rừng. Cách hiểu thứ hai chính là khuôn mặt xanh xao của những người lính bởi
những cơn sốt rét rừng. Dù hiểu theo cách nào, người đọc cũng sẽ thấy được những
khó khăn gian khổ người lính phải trải qua. Nhưng không những k khăn
ấy mà họ mất đi tinh thần lạc quan của. Họ luôn sẵn sàng đối mặt với mọi khốc liệt
nơi chiến trường bom đạn.
Mạnh mẽ là thế, nhưng cũng có đôi lúc người lính cũng đầy thơ mộng:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Những người lính tuổi đời chỉ mới mười tám đôi mươi. Họ lên đường chiến đấu
khi vẫn còn mang trong mình nhiều khát khao của tuổi trẻ. Hình ảnh “mắt trừng”
gợi đến một đôi mắt đang theo dõi kẻ thù với sự căm giận quyết tâm. Đôi mắt
ấy “gửi mộng qua biên giới” với khát vọng về một hòa bình cho tổ quốc, cho nhân
dân. Để rồi khi đêm đến họ về “Hà Nội dáng kiều thơm”. Đó thể những
cô gái Nội với vẻ đẹp thướt tha thanh lịch. Trên con đường hành quân gian khó
ấy, họ nhớ đến hình ảnh Nội - thủ đô của đất nước với một niềm mong ước
chiến thắng được trở về thăm lại quê hương.
Và rồi có trận chiến nào mà không phải trải qua những mất mát, hy sinh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Hai câu thơ này hình ảnh tả thực về cái chết của những người lính. Từ láy “rải
rác” kết hợp với cụm từ Hán Việt “biên cương mồ viễn xứ” làm cho câu thơ trở
nên trang trọng hơn. Đó không phải là một cái chết rất nhiều cái chết. Cho
có vậy, các anh vẫn ra đi chẳng tiếc tuổi trẻ, chẳng tiếc đời mình:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Hình ảnh “áo bào” chính chiếc áo lính các anh đang mặc. Điều kiện chiến tranh
khắc nghiệt, thiếu thốn đến không cả chiếu đbọc thi thể người lính đã hi sinh.
Những người đồng đội của các anh phải lấy chiếc áo mà các anh đang mặc để chôn
cất. Cách nói “về đất” nói giảm, nói tránh để giảm bớt đau thương cũng là sự
ngợi ca, trân trọng dành cho người anh hùng của quê hương đất nước. Hình ảnh
cuối cùng “sông Mã gầm lên khúc độc hành” là sự thành kính đưa tiễn các anh.
Với giọng thơ trang trọng, Quang Dũng đã khắc họa hình ảnh người lính mang vẻ
đẹp bi tráng. Họ dường như được bất tử hóa - trở thành tượng đài trong lòng mỗi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
người đọc. Qua phân tích trên, thể thấy được Tây Tiến đã được xây dựng dựa
trên cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.
Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 11
Một trong những nét nổi bật trong nội dung tưởng cũng n nghệ thuật của tác
phẩm chính là cảm hứng lãng mạn và bị tráng trong Tây Tiến.
Cảm hứng lãng mạn chính là sự khẳng định về cái tôi cá nhân tràn đầy hào hứng về
lý tưởng. Nó chính là cái đẹp trong những cái khác lạ, phi thường và độc đáo, vươn
lên trên mọi cái tầm thường và quen thuộc của cuộc sống hàng ngày.
Một tác phẩm cảm hứng lãng mạn bay bổng tác phẩm đó những cảm
xúc của nhân vật trữ tình được thể hiện với cường độ mạnh, trí tưởng tượng được
phát huy hết mức, những cái phi thường tuyệt được tô đậm thủ pháp đối lập
được sử dụng một cách rộng rãi, thường xuyên.
Tây Tiến quả là một tác phẩm hết sức lãng mạn. Điều dễ nhận thấy trước tiên là độ
sâu, độ mạnh trong cảm xúc của nó. Cả bài được bao bọc trong một nỗi nhớ ăm ắp,
nồng nàn, vừa xoáy sâu, vừa lan tỏa. Không nỗi nhớ đó thì chắc chắn không
cả bản thân bài thơ, bởi tất cả những điều được nói tới trong bài đều thuộc về quá
khứ, giờ đây qua ký ức, nhờ nỗi nhớ mà sống dậy. Không phải tình cờ mà từ “nhớ”
xuất hiện nhiều lần trong bài cũng chẳng phải ngẫu nhiên thoạt đầu tên của
tác phẩm gồm ba chữ: Nhớ Tây Tiến. Mở đầu bài thơ, tác giả đã viết
“Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi “
Hai câu này đã nói lên rất rõ niềm thôi thúc bên trong khiến tác giả đã viết nên Tâỵ
Tiến. Chính nỗi “nhớ chơi vơi” chứ không phải cáikhác đã dẫn ngòi bút của tác
giả đi miên man trong thế giới thơ. “Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là nỗi nhớ vừa có vẻ
xa xôi, vời vợi lại vừa vẻ gần gũi, lửng lơ, ám ảnh hòai không cho người ta
được yên, buộc người ta phải đắm chìm trong hòai niệm.
Như mọi bài thơ thấm đẫm cảm hứng lãng mạn khác; bài thơ Tây Tiến chứa đựng
nhiều hình ảnh gây ấn tượng mạnh cho độc giả. Đối tượng miêu tả đây thật
nhiều nét phi thường. Hãy đọc một đoạn tả dốc trong bài:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi “
Dốc cứ cao lên, cao mãi hút mắt nhìn để rồi đổ gập xuống, sâu dường như vô cùng
tận. Ta tưởng như gặp lại mảnh núi non hiểm trở, hùng vĩ, đầy thách thức từng
được thi hào Bạch nói tới trong bài Thục đạo nan (Đường Thục khó): “Thục
đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên (Đường Thục khó đi, khó hơn cả lên trời
xanh). Dốc đã thế, mưa cũng mịt mùng bủa vây tứ phía khiến cho trong mắt của
các chiến đang hành quân, những ngôi nhà sàn như đang trôi bồng bềnh trong
biển nước. Cái dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc còn được đậm trong hai câu
âm điệu hết sức mạnh mẽ:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Thật một cuộc “diễu dương oai” đầy ngoạn mục của núi rừng, khiến cho
những kẻ yếu bóng vía thể run lên vì sợ hãi. Địa bàn hoạt động của đoàn quân
Tây Tiến không phải chỉ thuần những cảnh ghê gớm như thế. Đã bao lần nó phô ra
vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng, say đắm của mình trước con mắt háo hức quan sật của
người lính chiến:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Đúng một vẻ đẹp quá đỗi nguyên sơ, thanh khiết, gợi cảm đến nao lòng. Những
bông lau xám bạc phất phơ bên bờ suối, những cánh hoa rừng chòng chành, “đong
đưa” trên dòng nước lũ nhự giấu trong mình cả một câu chuyện cổ tích về núi rừng
miền Tây mà ta chưa có điều kiện khám phá hết được.
Việc miêu tả những nét độc đáo khác thường của thiên nhiên một trong những
điều kiện quan trọng tạo nên cảm hứng lãng mạn cho bài thơ. Cảm hứng lãng mạn
đó còn được đẩy lên một mức nữa khi tác giả đi sâu khám phá bản tính lãng mạn,
mộng của những người lính Tây Tiến. Thật ra thì tất cả những câu nói về vẻ
đẹp của thiên nhiên Tây Bắc đã dẫn ra trên kia đều đã bao hàm ý khẳng định chất
thi nhân của các anh “bộ đội Cụ Hồ”.
Trên đường hành quân, họ chưa một lần bỏ l hội ngắm nhìn những vẻ đẹp
hiếm thấy trong đời. Mắt nhìn dốc cao, dầu gội trong mưa lớn, tai nghe tiếng thác
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
thét gầm, cả sinh mạng đối diện cùng thú dữ, chừng ấy trải nghiệm đã khiến cho
máu phiêu lưu trong họ bị kích thích mạnh.
Còn khi được sống với cảnh “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, với cảnh chiều
sương” nơi Châu Mộc, chắc chắn họ cảm thấy nỗi niềm thơ thức dậy dạt dào.
Chẳng thế mà giữa những ngày gian khổ, họ vẫn hào hứng tổ chức các đêm lửa trại
tưng bừng náo nhiệt. Trong cái đêm vui đó, những “dáng hồng” sơn cước đã làm
họ ngất ngây say:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Làng mạn đến mức ấy, quả khó ai hơn được!”
Trong các tác phẩm được viết theo cảm hứng lãng mạn, thủ pháp đối lập thường rất
được chú ý khai thác. Bài Tây Tiến cũng nằm trong thông lệ đó. Cảm hứng lãng
mạn bi tráng trong Tây Tiến còn được thể hiện qua sự đối lập nhiều cấp độ,
trước hết đối lập về hình ảnh. Ta thế thấy điều này qua các đoạn của bài
thơ. Ở đoạn một, ngòi bút tác giả nghiêng về miêu ta sự hào hùng, dữ dội của thiên
nhiên, còn đoạn hai, nét thơ mộng của được ưu tiên nhấn mạnh. Cũng khi,
sự đối lập đó được thể hiện trong hai câu liền kề nhau:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”
Câu trên nhấn mạnh sự khắc nghiệt, đe dọa, còn câu dưới lại diễn tả một cảnh
tượng làm ấm lòng người; Cũng qua hai câu này, đặc biệt là câu sau, ta còn nhận ra
sự đối lập về thanh điệu đã được Quang Dũng sử dụng rất tài tình trong cả bài thơ:
những câu thơ “khổ độc” (khó đọc) dày đặc thanh trắc đi kèm những câu toàn
thanh bằng gợi cảm giác nhẹ nhõm, lâng lâng. Thử so sánh câu “Dốc lên khúc
khuỷu dốc thăm thẳm” với câu “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, ta sẽ thấy rất
điều đó.
Tất nhiên không phải sự đối lập nào cũng bao gồm những nét tương phản loại trừ
nhau. Trên thực tế, các mặt đối lập, tương phản thể gắn với nhau trong một thể
thống nhất, như phẩm chất can trường gắn với phẩm chất lãng mạn trong bản thân
mỗi người lính Tây Tiến vậy.
cảm hứng lãng mạn bi tráng trong Tây Tiến, Quang Dũng thường s dụng
những cách ví von độc đáo, táo bạo làm nổi bật tính chất khác thường của s vật.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Chẳng hạn theo góc nhìn từ dưới lên, nhà thơ thấy mũi súng trên vai người lính đi
trên đỉnh dốc đang “ngửi trời”. một câu khác, tác giả diễn tả sự rình rập của cọp
dữ bằng hai chữ “trêu người” rất ấn tượng… Tất cả những điều này đều góp phần
nhất định làm nên phong vị lãng mạn đậm đà của tác phẩm.
Có một thời kỳ dài bài thơ Tây Tiến bị ngại nhắc đến. Những người không thích nó
chắc lẽ dị ứng với âm hưởng bi tráng vốn thấm đẫm trong từng ch từng câu
của bài thơ. Giờ đây, đọc lại Tây Tiến, lẽ không còn ai cảm thấy cấn cái với
nữa, và chất bi tráng cũng đã được nhìn nhận khác đi. Khi nói đến chất bi tráng của
một tác phẩm văn học nào đó, người ta thường nói sự tổn tại song song, hòa quyện
giữa hai yếu t “bi” “tráng”. “Bi” đau buồn, bi ai “tráng” khỏe khoắn,
mạnh mẽ. Tác phẩm giọng bi tráng thường không tránh những chuyện xót
xa, đau lòng nhưng bao giờ cũng đưa đến được cho độc giả những xúc cảm mạnh
và rắn rỏi.
Đọc suốt bài thơ, người ta dễ nhận ra một điều: cảm hứng lãng mạn bi tráng
trong Tây Tiến đã được Quang Dũng không ít lần viết về cái chết chưa bao giờ
nói cho nhẹ đi những gian khổ chất chồng các chiến phải đương đầu. Lắng
nghe âm điệu của những câu tả dốc, ta thấy dội lên tiếng thở nặng nhọc của các anh
lính Tây Tiến. Hành quân đường dài qua núi cao, vực sâu, trong “đoàn quân mỏi”
có người đã ngã xuống:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
đã cố dùng lối diễn tả khô, gọn, nt vẫn không giấu nổi lòng mình. Trong
hai chữ “dãi dầu” ta đọc thấy biết bao niềm xót xa thương cảm bờ bến.
người đã từng trải qua những ngày Tây Tiến, Quang Dũng nhìn hơn ai hết
khuôn mặt hung tợn của tử thần tên gọi “sốt rét”. Chính căn bệnh quái ác nơi
núi rừng âm u này đã tàn phá thể chất các chiến sĩ một cách phũ phàng.
Tóc họ không mọc nổi, da xanh mét như tàu lá, con người luôn đứng chân nơi biên
giới mong manh giữa cái chết và sự sống. Đã bao lần nhiều người trong họ đành
phải ôm hận lìa đời. Các anh ai trong số những nấm “mồ viễn xứ” nằm “rải rác
biên cương’ dài vô tận? Đọc thơ Quang Dũng, lẽ tất cả chúng ta đều cảm thấy
đau nhói trong lòng. Chi tiết “Áo bào thay chiếu anh về đất” đã cực tả những thiếu
thốn khó tưởng tượng nổi của đoàn quân Tây Tiến. Một chiến hi sinh, nhiều khi
đồng đội không tìm nổi một mảnh chiếu để liệm xác.
Tinh thần bi tráng gì? Tinh thần bi tráng trong văn học được thể hiện việc
không tránh hiện thực, miêu tả cái gian khổ đau thương hiện tại không
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
hề tránh. Cái bi đây không phải cái lụy, chính cái bi tráng hào
hùng. Là cái chết nhưng mà là cái chết vĩnh hằng đi vào cõi bất tử. Cái bi hùng này
còn được thể hiện ở âm hưởng, màu sắc và giọng điệu tráng lệ.
Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến còn được thể hiện ở sự hy sinh của
người lính còn được tráng l hoá trong câu thơ: “Áo bào thay chiếu anh về đất”.
Bao nhiêu thương yêu của nhà thơ trong một câu thơ như vậy vmột đồng đội của
mình. Ai bảo nhà thơ không xót thương những người đồng đội của mình ra đi trong
cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao nhiêu thiếu thốn, khó khăn, cái thuở những
người lính Tây Tiến chết sốt rét nhiều hơn chết chiến trận. Lại trong cảnh
kháng chiến còn rất khó khăn nên tiễn đưa người chết không cả một chiếc quan
tài. hoàng Lộc trong “Viếng bạn” cũng đã viết về cảnh tiễn đưa như thế
Chỉ điều câu thơ của Quang Dũng không dừng lại mức tả thực đẩy lên
thành cảm hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm,
cổ kính. Cũng người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có, chỉ chính tấm áo
của người lính. hiểu theo cách nào thì cũng phải thấy Quang Dũng đã tráng lệ
hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc áo bào s hy sinh của người
lính đã được coi sự trở về với đất nước, với núi sông. Cụm từ “anh về đất” nói
về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng
hình ảnh tráng lệ. Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca.
thể thấy, cảm hứng lãng mạn bi tráng trong Tây Tiến luôn cộng hưởng, gắn
cũng như nâng đỡ nhau trong suốt chiều dài của tác phẩm. Chính điều này đã
làm nên sự bất diệt về chân dung của người lính cũng như giá trị to lớn cho nội
dung của bài thơ. Đã không ít những tác phẩm trải qua cuộc đời thăng trầm
cũng quá nhiều truân chuyên, nhưng cuối cùng vẫn định hình được trong lòng bạn
đọc. Và bài thơ Tây Tiến chính là ví dụ điển hình cho điều đó.
Cảm hứng lãng mạn bi tráng trong Tây Tiến của Quang Dũng đã giúp làm sáng
ngời lêntưởng nội dung cũng như nghệ thuật của bài thơ. Tác phẩm như một kỷ
niệm đẹp sống mãi trong lòng nhà thơ Quang Dũng bởi đó chính tiếng thơ tràn
đầy cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến.
Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến -
Mẫu 12
Trong thời đấu tranh chống giặc cứu nước, người lính trở thành một hình tượng
trung tâm được nhiều người nghệ đi vào khai thác, thể hiện. "Tây Tiến" của
Quang Dũng cũng một trong số' những sáng tác như thế. Tác phẩm đã thực sự
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
thành công khi đi vào khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến trong thời kháng
chiến chống Pháp trong đó vẻ đẹp bi tráng vẻ đẹp nổi bật để lại trong người đọc
nhiều xúc cảm.
"Tây Tiến" là bài thơ viết về binh đoàn Tây Tiến nơi nhà thơ đã từng sống và chiến
đấu. Những người lính trong binh đoàn phần đông thanh niên Nội, chiến đấu
trong hoàn cảnh gian khổ, vô cùng thiếu thốn về mọi mặt nhưng vẫn phơi phới tinh
thần lãng mạn anh hùng. Ở họ có vẻ đẹp tinh nghịch hào hoa của chàng trai đất
thành nhưng cũng thật kiêu hùng, can đảm trong cuộc chiến đấu. Miêu tả về họ,
Quang Dũng sử dụng bút pháp lãng mạn cảm hứng ngợi ca khiến cho trải
qua đau thương, gian khổ thì người lính vẫn hiện lên mang vẻ đẹp thật đặc biệt: bi
tráng mà không hề bi lụy.
Chất bi tráng đây trước hết được do được đặt trên nền của bức tranh thiên
nhiên hùng diễm lệ, thơ mộng đầy hoang sơ, ẩn. Mảnh đất Tây Bắc
vừa môi trường sống chiến đấu của người lính nhưng cũng vừa mang trong
mình vẻ đẹp riêng. Con người đặt trong đó vừa chan hòa, giao cảm với thiên nhiên
lại vừa đối lập bị thiên nhiên thử thách. Trước cái heo hút của cồn mây, cái gập
ghềnh của "dốc thăm thẳm", của "ngàn thước lên cao ngàn thước xuống", người
lính vẫn vượt lên trên, giành về mình thế chủ động. Chinh phục đỉnh cao để nhìn
lên và phát hiện ra một hình ảnh đầy dí dỏm: "súng ngửi trời". Vượt qua núi đá gập
ghềnh để được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mờ ảo đầy màu sắc của "nhà ai Pha Luông
mưa xa khơi". Vượt qua ái mệt mỏi của chặng đường hành quân, mở rộng lòng
mình ra đón nhận vẻ đẹp bất ngờ của thiên nhiên, của một cánh hoa về trong đêm
hơi... Bằng cách đặt nhân vật vào bức tranh thiên nhiên như vậy, Quang Dũng đã
khẳng định vẻ đẹp dũng cảm kiên cường nhưng cũng đầu tinh nghịch, lãng mạn
của người lính Tây Tiến.
Cũng trong thiên nhiên đó, người lính Tây Tiến xuất hiện với tầm vóc bi tráng,
khác thường:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Gian khổ của chiến tranh đã làm cho hình hài người lính trở nên tiều tụy thế nhưng
dưới con mắt lạc quan, đầy sức mạnh niềm vui sống lại trở thành nét rất
riêng, thành cái "uy" của họ. Cụm từ miêu tả "dữ oai hùm" vừa thể hiện sức mạnh
oai phong lẫm liệt của những người đang cầm súng bảo vệ quê hương, lại vừa ẩn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
chứa sau đó nét lạc quan, hài hước của họ. Bài thơ xuất hiện một hình ảnh đối lập
độc đáo:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm"
Người lính được khắc họa trong sự hài hòa giữa một chàng trai thành tâm hồn
lãng mạn một người lính dũng cảm kiên cường, sẵn sàng hi sinh Tổ quốc.
Chúng không hề đối lập mà bổ sung cho nhau, tôn vẻ đẹp của nhau lên.
Những khó khăn người lính phải đối mặt cùng, nhiều khi cả cái chết.
Ấy vậy khi nói về cái chết, Quang Dũng đã nói đến họ trong những hình ảnh
thật đặc biệt:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
thế "gục lên súng bỏ quên đời" bi tráng, thanh thản, dung dị đầy tính
truyền cảm. phảng phất chất nghệ sĩ, tài tử, kiêu hùng khi từ giã cuộc sống của
người chiến sĩ. Đã ngã xuống vãn như thế cùng đồng đội tiếp bước hành
quân. Đến mảng hồi ức này, ta cảm thấy trong lời thơ của Quang Dũng sự trầm
lắng, xót xa nhưng tuyệt đối không hề bi lụy. Nó làm ta nhớ đến tư thế của anh giải
phóng quân thời chống Mĩ hi sinh trên đường bay Tân Sơn Nhất.
"Anh giải phóng quân Trên đường bay Tân Sơn Nhất
Tì súng trên xác trực thăng Và anh chết khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng"
Ngợi ca người lính Tây Tiến, Quang Dũng không hề ngần ngại khi nói đến cái chết
của họ. Bởi chính trong cái chết, người chiến sĩ hiện lên càng đẹp đẽ:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành".
Cõi chết trong cách nhìn của Quang Dũng tức cũng cái nhìn của tất cả những
người lính Tây Tiến cũng khác thường tạo hình dữ dội. nói lên cái tột cùng
cực lẫn cái lẫm liệt kiêu hùng. Trong cuộc chiến đấu một mất một còn, "rải rác
biên cương mồ viễn xứ" điều người lính luôn thấu hiểu. Nhưng không thế
nó làm nhụt đi ý chí chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Mỗi người lính Tây Tiến điều
tâm niệm: "chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh", nghĩa là họ tình nguyện cống hiến
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
tuổi thanh xuân của mình cho đất nước, cống hiến thanh thản và trọn vẹn mà không
đòi hỏi nhận lại một điều gì cả.
Cái chết thiếu thốn không thế làm giảm đi vẻ đẹp của người lính. Người
chiến sĩ ra đi như một vị anh hùng thần thoại:
"Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Tấm áo trước nay người lính vẫn thường hay mặc trở thành "áo bào" đưa anh về
với đất mẹ. Và sự ra đi có chứng kiến, tiễn đưa của núi sông, trời đất. Khúc gầm dữ
dội của dòng sông khiến cho cái chết trở nên hào hùng. khúc bi ca tiễn đưa
những con người gần gũi nhưng cũng thật vĩ đại.
Người lính hiện lên mang vẻ đẹp bi trángkhông hề bi lụy. Cái bi tráng thể hiện
trong những gian khổ mất mát, đau thương to lớn, nhưng tinh thần lại hiên ngang,
bất khuất, coi thường gian khổ, coi thường cái chết; thể hiện trong cái khổ vẫn
đẹp, chết mà vẫn hùng của người chiến sĩ.
Làm nên vẻ đẹp bi tráng này, điều đầu tiên phải kể đến cảm hứng bút pháp
lãng mạn của Quang Dũng khi xây dựng hình tượng nhân vật. Cảm hứng lãng mạn
hướng tới những cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hi sinh tất cả cho tưởng của cộng
đồng, của dân tộc. Chính đã tạo ra nhà thơ cái nhìn tính anh hùng cổ điển
trong hình ảnh người lính, đặc biệt trước cái chết của họ. Bút pháp lãng mạn khắc
họa người lính Tây Tiến những nét phi thường, kết hợp với sắc thái bi tráng
trong hình tượng tạo nên tính sử thi đặc biệt của bài thơ, đúc kết lại trong lòng
người đọc những tình cảm tốt đẹp.
Góp phần tạo nên vđẹp bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến còn giọng
điệu thơ hào sảng với hình ảnh chi tiết ấn tượng mạnh mẽ. Thiên nhiên con
người vừa đối lập lại vừa đồng điệu. Sự đối lập trong hệ thống hình ảnh, giữa thực
tế chiến đấu đời sống tinh thần phong phú, tinh tế, nhạy cảm; giữa những k
khăn gian khổ với niềm lạc quan tin tưởng vào cuộc sống. Tất cả làm nên hình
tượng về người lính Tây Tiến còn lại mãi với thời gian.
"Tây Tiến" bài thơ ngợi ca hình tượng người lính trong thời kháng chiến
chống giặc ngoại xâm, khi "những ngày vui sao cả nước lên đường" đi chiến đấu:
"Lớp cha trước lớp con sau / Đã thành chiến chung câu quân hành". Vẻ đẹp bi
tráng của người lính Tây Tiến đã trở thành một biểu tượng đẹp cho tinh thần yêu
nước và chiến đấu kiên cường của dân tộc Việt Nam, thêm một "dáng đứng Việt
Nam tạc vào thế kỉ..."
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
| 1/54

Preview text:

Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Dàn ý phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng Dàn ý số 1 I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến.
- Nêu vấn đề cần phân tích: Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến. II. Thân bài 1. Khái niệm
- Cảm hứng lãng mạn: Cảm hứng sáng tác dựa trên cái tôi chủ quan của tác giả,
vượt lên trên thực tế, thoát li hiện thực và đề cao cái tôi.
- Cảm hứng lãng mạn trong văn học giai đoạn 1945 - 1975:
● Ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
● Tin tưởng vào tương lai tươi sáng, chiến thắng vẻ vang của dân tộc.
- Tinh thần bi tráng: Không né tránh thực tại, tuy buồn thương, gian khổ nhưng
không bi lụy, ngược lại vô cùng hào hùng, mạnh mẽ.
2. Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
* Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến
- Nỗi nhớ da diết của Quang Dũng đối với đoàn quân Tây Tiến.
- Khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc đầy tươi đẹp, hùng vĩ, nét đẹp trong cuộc sống
sinh hoạt của người dân miền núi được nhìn qua con mắt lãng mạn của người nghệ
sĩ, người lính Tây Tiến.
● Cảnh núi non hùng vĩ, nên thơ nhưng cũng không kém phần hiểm nguy, dữ
dội: “Sông Mã xa rồi... chơi vơi”, “Dốc lên... ngàn thước xuống”; “Đêm
đêm Mường Hịch cọp trêu người”...
● Cảnh sinh hoạt của nhân dân miền núi: “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”,
“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, “Nhớ ôi... thơm nếp xôi”, “Doanh trại
bừng lên... xây hồn thơ”, “Người đi Châu Mộc... hoa đong đưa”...
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
=> Trong cái khó khăn, gian khổ, khắc nghiệt, những người lính Tây Tiến vẫn
hướng đến những điều tốt đẹp.
* Tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
- Viết về chiến tranh, Quang Dũng không hề nhắc đến súng đạn, khung cảnh chiến
trường nhưng ta cũng có thể cảm nhận được sự khốc liệt của chiến tranh: “Tây
Tiến đoàn binh không mọc tóc…”, “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”... nhưng vượt
lên trên tất cả, họ vẫn “Quân xanh màu lá dữ oai hùm”, “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
=> Hình tượng người chiến sĩ bất khuất, oai phong, lẫm liệt.
- Nhà thơ diễn tả sự hi sinh của những người đồng đội nhưng chúng không hề bi
lụy mà lại mang tinh thần bi tráng: “Áo bào thay chiếu... khúc độc hành”.
3. Giá trị của cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng
- Hai cảm hứng này hòa quyện, gắn kết với nhau làm nên linh hồn của nhà thơ, tạo
nên vẻ đẹp độc đáo của người lính Tây Tiến.
- Chúng góp phần đắc lực vào việc chuyển tải nội dung, tư tưởng của Quang Dũng... III. Kết bài
Khẳng định lại giá trị của cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến. Dàn ý số 2 1. Mở bài:
- Giới thiệu về Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến.
- Giới thiệu về cảm hứng lãng mạn như một nét cảm hứng chủ đạo của bài thơ. 2. Thân bài:
- Giải thích cảm hứng lãng mạn là gì và sự thể hiện cảm hứng lãng mạn trong tác phẩm văn chương:
+ Cảm hứng lãng mạn trong văn học được hiểu là xu thế vươn lên, vượt lên trên
thực tại khách quan bằng cảm xúc chủ quan của người nghệ sĩ, thể hiện những khát
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
vọng mạnh mẽ hướng về những vẻ đẹp khác lạ trong thế giới của mơ ước, tưởng
tượng, ở tương lai hay quá khứ.
+ Cảm hứng lãng mạn vì thế thường khai thác những đề tài như thiên nhiên, tình
yêu, tôn giáo, hồi tưởng, kỉ niệm,... đồng thời đi tìm cái đẹp trong những cái khác
lạ, phi thường, độc đáo, vượt lên những cái tầm thường, quen thuộc của đời sống
hằng ngày. Nó đề cao nguyên tắc chủ quan, phát huy cao độ sức mạnh của tưởng
tượng, liên tưởng, cảm hứng lãng mạn cũng thường tìm đến cách diễn đạt khoa
trương, phóng đại, thủ pháp tương phản, ngôn ngữ giàu tính biểu cảm và tạo được ấn tượng mạnh mẽ.
- Sự thể hiện cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng: Cần
phân tích cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến trên hai phương diện: nội
dung cảm hứng (nỗi nhớ về một thời chiến chinh gian khổ, nhiều mất mát hy sinh
nhưng cũng thật hào hùng; hình tượng thiên nhiên; hình tượng người lính Tây
Tiến); nghệ thuật thể hiện (bút pháp tương phản trong việc thể hiện hiện thực khắc
nghiệt của cuộc sống và chất thơ từ chính cuộc sống đó, tính chất bi tráng của hình
tượng người lính, giọng điệu trữ tình và bi tráng của tác phẩm,...).
+ Vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống con người: địa hình gập ghềnh, hiểm trở với
núi cao, vực thẳm, sông sâu; thiên nhiên hoang sơ, bí ẩn nhưng cũng toát lên vẻ
đẹp hùng vĩ, thơ mộng, trữ tình với tất cả vẻ quyến rũ, làm say lòng người.
+ Vẻ đẹp của hình tượng người lính Tây Tiến: những khó khăn, thử thách không
ngăn được bước chân người lính vốn là những chàng trai Hà Thành hào hoa, tinh
tế; những nét bi thương "không mọc tóc,", "mồ viễn xứ",... là những âm trầm trong
bản hùng ca về những con người "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh".
- Nhận xét, bàn luận về ý nghĩa, giá trị của sự thể hiện cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến:
+ Cảm hứng lãng mạn và giá trị của bài thơ Tây Tiến: Cảm hứng lãng mạn giúp tác
giả khắc hoạ vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, sự hi sinh bi tráng của người lính Tây Tiến
cùng vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của thiên nhiên miền Tây, tạo nên một tác phẩm
độc đáo trong thơ ca thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.
+ Cảm hứng lãng mạn và sự thể hiện phong cách của tác giả: nét hồn nhiên, tinh tế,
vẻ đẹp hào hoa, phóng khoáng, đậm chất lãng mạn của hồn thơ Quang Dũng. 3. Kết bài:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Cảm nhận, ấn tượng riêng của cá nhân về vẻ đẹp của cảm hứng lãng mạn trong bài
thơ (có thể so sánh với một số bài thơ ra đời trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp).
Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 1
Quang Dũng gia nhập binh đoàn Tây Tiến ngay từ những ngày đầu thành lập.
Chính những kỉ niệm gắn bó với nơi đây đã khiến nhà thơ xúc động mà viết lên
"Tây Tiến". Bài thơ được coi là thi phẩm toàn bích hiếm có của thơ ca cách mạng,
rất tiêu biểu cho hồn thơ Quang Dũng. Tác phẩm đã giúp người đọc cảm nhận
được cảm hứng lãng mạn và tính chất bi tráng.
Cảm hứng lãng mạn là một đặc điểm quan trọng của văn học cách mạng những
năm 1945 - 1975. Cảm hứng đó được thể hiện trong bài thơ "Tây Tiến" bằng việc
tác giả miêu tả bức tranh thiên nhiên nên thơ, trữ tình và hình ảnh người lính lãng
mạn, hào hoa. Còn cảm hứng bi tráng thì gợi ra cho người đọc thực tế những khó
khăn và thử thách trên con đường hành quân của người lính. Nhà thơ nói về cái bi
mà không hề sướt mướt, ủy mị. Mặc dù phải sống và chiến đấu trong hoàn cảnh
khó khăn nhưng họ vẫn hiên ngang, dũng cảm bước tiếp. Cảm hứng lãng mạn và bi
tráng đồng hành với nhau trong suốt cả bài thơ để làm nên cái hay cho thi phẩm "Tây Tiến".
Đầu tiên, cảm hứng lãng mạn được nhà thơ thể hiện rất rõ qua bức tranh thiên
nhiên miền Tây nên thơ, trữ tình. Câu thơ "Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
mang vẻ đẹp lãng mạn, gợi ra một không gian huyền ảo, mông lung. "Hoa về" là
hoa đuốc hay hoa rừng? Đó có thể là những bó đuốc đỏ rực rỡ soi rõ bước đường
hành quân hay những bông hoa rừng hiện dần trong đêm để chào đón đoàn quân. Ý
thơ khiến người đọc không thể cắt nghĩa một cách rõ ràng mà chỉ có thể cảm nhận
bằng trực giác. Và cũng chính vẻ đẹp trữ tình của thiên nhiên miền Tây đã lại phần
nào hé lộ tâm hồn nhạy cảm, lãng mạn của người lính. Bức tranh thiên nhiên miền
Tây nên thơ còn được thể hiện qua câu thơ "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi". Hai
Tiếng "nhà ai" vang lên đầy xao xuyến, gợi nỗi niềm hoài thương. Câu thơ có bảy
thanh bằng kết hợp với giọng thơ nhẹ nhàng, du dương giúp ta cảm nhận được sự
thanh thản, nhẹ nhõm trong tâm hồn người lính. Sau những ngày dài hành quân vất
vả, có lẽ đây là lúc họ được nghỉ ngơi, được ngắm nhìn vẻ đẹp của bức tranh thiên
nhiên. Không chỉ nhớ về thiên nhiên miền Tây, người lính còn nhớ về con người
nơi đây. Điều đó được thể hiện qua ý thơ "Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/Mai
Châu mùa em thơm nếp xôi". Đây là nỗi nhớ về những cô gái miền Tây với sóng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
mắt nồng nàn, với đôi bàn tay thơm thảo làm rung động lòng người. Đặc biệt, họ
còn nhớ về những cô gái Hà Nội xinh đẹp. Cụm từ "dáng kiều thơm" đã thể hiện
rất khéo léo giấc mộng đời thường của những người chiến sĩ. Họ mang vào cuộc
chiến không chỉ là ý chí chiến đấu mà còn là sự lãng mạn, hào hoa của người lính
Hà Thành. Vậy qua đây, người đọc có thể cảm nhận được cảm hứng lãng mạn sâu
sắc được nhà thơ Quang Dũng gửi gắm.
Đọc bài thơ, độc giả không chỉ cảm nhận được chất lãng mạn mà còn cả tinh thần
bi tráng. Nhà thơ nói về cái bi nhưng không hề bi lụy, đau thương. Trên con đường
hành quân, người lính gặp phải vô vàn khó khăn, thử thách, thậm chí là đối diện
với cái chết. Câu thơ "Anh bạn dãi dầu không bước nữa" đã nhấn mạnh được cái
vất vả, khó khăn khiến cho bước chân người lính trở nên mệt mỏi. Trước những
gian truân đó, người lính đã phải "Gục lên súng mũ bỏ quên đời". Đây là kí ức
buồn của tác giả về người chiến binh trên nẻo đường hành quân. Ý thơ có thể hiểu
theo hai nghĩa. Đầu tiên có thể hiểu đó là giấc ngủ chập chờn, vội vã của người
lính trên con đường ra trận. Nhưng cũng có thể cắt nghĩa rằng chặng đường hành
quân gian khó đã vắt kiệt sức của người lính khiến các anh ngã xuống và chìm vào
giấc ngủ ngàn thu. Tư thế "gục lên súng mũ" đã làm nổi bật sự hiên ngang của
người anh hùng xứ sở. Tinh thần đó giống với bài thơ của Lê Anh Sơn "Anh ngã
xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất/Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác
trực thăng/Và anh chết khi đang đứng bắn/Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng/
Từ dáng đứng của anh trên đường băng Tân Sơn Nhất/Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân".
Bước vào cuộc chiến, người lính phải đối mặt với vô vàn hiểm nguy và bệnh tật.
Câu thơ "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc" như khắc sâu trong tâm trí người đọc
hình ảnh thật đặc biệt. Không phải họ không có tóc mà do căn bệnh sốt rét rừng
khiến cho mái tóc không còn nữa. Tuy nhiên, Quang Dũng nói về hiện thực bằng
bút pháp lãng mạn. Vậy nên dù diện mạo có khác thường thì người lính vẫn toát
lên sự can trường, mạnh mẽ. Hai chữ "đoàn binh" mang âm hưởng trầm hùng. Và
cách nói "không mọc tóc" ẩn chứa chất ngang tàng, chủ động, đầy thách thức của
người lính. Quang Dũng đã xây dựng sự đối lập giữa diện mạo bên ngoài và thần
thái bên trong của họ. Vẻ bề ngoài của người lính xanh xao, khắc khổ nhưng bên
trong lại "dữ oai hùm". Đó giống như một cái hất đầu đầy kiêu hãnh và ngạo nghễ
thách thức mọi khó khăn.
Chất bi thương trong bài thơ được khắc họa rất rõ qua câu thơ "Rải rác biên cương
mồ viễn xứ". Ý thơ đã trực tiếp nói về sự hi sinh của người lính trên đường hành
quân. Câu thơ được cất lên khiến ta hình dung đến những nấm mồ nhỏ bé, đơn côi,
hoang lạnh nằm rải rác khắp nẻo rừng hoang viễn xứ, không người hương khói, ít
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
kẻ qua lại, đang chìm dần vào quên lãng. Qua đây, người đọc không khỏi xót xa,
ngậm ngùi với những hi sinh trong cuộc đời người lính. Bước vào cuộc chiến và
hiểu rõ những mất mát mình sẽ gặp phải những người lính chưa bao giờ chùn
bước, sợ hãi. Họ vẫn hiên ngang đương đầu với khó khăn, thử thách. Chi tiết
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh" đã khắc họa tuyệt đẹp tư thế lên đường của
người lính. Hai chữ "chẳng tiếc" đặt giữa dòng thơ vang lên như một lời thề vĩnh
quyết chứa đựng lí tưởng sống cao cả của những người lính sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc.
Bằng hình ảnh thơ gợi hình, xây dựng sự đối lập tương phản, Quang Dũng đã
mang đến cho độc giả một bài thơ hay với cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng
đặc sắc. Và qua đây, người đọc hiểu được rằng những người lính ra đi nhưng các
anh vẫn sẽ là mầm để cho sự sống mới được nảy nở như một người cựu chiến binh
đã từng viết "Người hi sinh đất hồi sinh/Tim người hóa ngọc lung linh giữa đời".
Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến - Mẫu 2
Quang Dũng là nhà thơ đa tài có khả năng cảm nhận và diễn tả vẻ đẹp của thiên
nhiên của con người một cách tài hoa tinh tế nhưng cũng rất mực bình dị chân
thành. Bài thơ Tây Tiến tiêu biểu cho hồn thơ ấy. Không lẩn tránh đề cập đến cái
bi nhưng nhà thơ đã đem đến cho nó một cảm hứng lãng mạn, âm hưởng tráng lệ,
hào hùng. Tinh thần bi tráng, cảm hứng lãng mạn đã được triển khai trên nền cảm
xúc kí ức một thời Tây Tiến.
Cuối năm 1947 Quang Dũng ra nhập đoàn quân Tây tiến, tham gia phối hợp với bộ
đội Lào để bảo vệ biên giới Lào – Việt. Địa bàn hoạt động của Đoàn quân khá
rộng: Mai Châu, Mộc Châu,Sầm Nứa rồi vòng về miền tây Thanh Hoá. Phần đông
họ là những thanh niên trí thức Hà Nội, sinh hoạt của họ vô cùng thiếu thốn gian
khổ, đánh trận thương vong ít, sốt rét tử vong nhiều. Nhưng họ vẫn chiến đấu rất
dũng cảm, vẫn lạc quan yêu đời. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị
khác, xa đơn vị ít lâu, ngồi ở Phù Lưu Chanh (Hà Đông cũ), ông viết bài thơ “Nhớ
Tây Tiến”, sau in lại năm 1975, ông bỏ chữ “Nhớ”. Bởi cả bài thơ đã ngập tràn nỗi
nhớ niềm tự hào của tác giả về đoàn binh Tây Tiến.
Nếu như các nhà thơ cùng viết về người lính bằng cảm hứng hiện thực với vẻ đẹp
hồn nhiên, chân chất giản dị. Thì Quang Dũng lại tạc vào thời gian, vào lịch sử dân
tộc hình tượng người lính có một không hai bằng cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Có một thời, nhắc đến khái niệm “lãng mạn” người ta thường đồng nhất nó với
những gì xa rời thực tế, cá nhân, tiêu cực, mềm yếu… và người ta phản đối, phê
phán, thậm chí tẩy chay nó. Nhưng nếu xét đến tận cùng, phần lãng mạn ấy không
thể thiếu trong đời sống tinh thần, trong tâm hồn con người và cái gọi là “lãng
mạn” ấy cũng thật nhiều vẻ, nhiều hình. Nó có thể làm con người ta nhỏ lại, yếu
hèn đi nhưng cũng có thể đem đến cho con người có sức mạnh phi thường để làm
nên những điều phi thường.
Cuộc sống tinh thần của mỗi con người hay cả một cộng đồng dân tộc sẽ nghèo
nàn, cằn cỗi và nhàm chán biết bao nếu thiếu đi những ước mơ bay bổng, thiếu đi
trí tưởng tượng phong phú, diệu kì… Lãng mạn hiểu theo nghĩa đúng đắn, chắp
cánh cho những ước mơ, thúc giục con người hướng tới cái đẹp, cái cao cả và sự
hoàn thiện mà hiện thực cuộc sống còn chưa đạt tới.Vì nó đề cao nguyên tắc chủ
quan, phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng tượng liên tưởng. Nên cảm hứng
lãng mạn thường tìm đến cách diễn đạt khoa trương, phóng đại, đối lập, ngôn ngữ
giàu tính biểu cảm và tạo được ấn tượng mạnh mẽ. Trong văn học Việt Nam từ
1945 đến 1975 nó chủ yếu được thể hiện trong việc khẳng định phương diện lí
tưởng của cuộc sống mới, vẻ đẹp con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách
mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
Cảm hứng lãng mạn của bài thơ trước hết là nỗi nhớ tha thiết khắc khoải của tác
giả. Một thời của Tây Tiến tưởng như đã lùi vào kỷ niệm. Nhưng rồi khi ngồi ở
Phù Lưu Chanh, trong phút chốc, những kỷ niệm đó lại trở về trong nỗi nhớ
thương cồn cào tha thiết đến mức tác giả không thể kìm nén được đã phải thốt ra lời.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Con sông cuồn cuộn chảy giữa những ngày gian truân vất vả của người chiến sĩ
Tây Tiến. Nay đã “xa rồi”, đã là quá khứ rồi, nhưng nỗi nhớ thì không thể nào
nguôi được, mà dường như nó da diết đến quặn lòng: “Nhớ chơi vơi”. Đó là nỗi
nhớ không định hình, khó nắm bắt, khó diễn tả bằng lời. Nhưng nó cũng thật bao la
bát ngát lại vừa có chiều sâu như xoáy vào lòng người.
Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” vang lên thân thiết như tiếng gọi người thân. Từ cảm “ơi”
bắt vần với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng tha thiết sâu lắng bồi hồi ngân dài
trong lòng người vọng vào thời gian, lan rộng trong không gian. Hai tiếng “Xa rồi”
như một tiếng thở dài đầy thương nhớ hô ứng với điệp từ “nhớ”ở câu thơ thứ hai
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
thể hiện một tâm tình đẹp của người chiến binh Tây Tiến với dòng sông Mã và núi rừng miền Tây.
Sau tiếng gọi tha thiết ấy biết bao hòai niệm về một thời gian khổ của chiến trường
Tây Bắc xưa hiện về trong tâm tưởng của người lính Quang Dũng. Cứ như thế, nỗi
nhớ trải dài theo hình sông thế núi, qua những tên bản tên mường với những chặng
đường hành quân vất vả:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Để rồi vượt lên trên những gian khổ hy sinh, hành trang của người lính đầy ắp
những kỷ niệm đẹp về tình quân dân.
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Cạnh núi rừng hiểm trở với độ cao rợn người là mái nhà thấp thoáng ẩn hiện trong
làn mưa mỏng nơi lưng chừng núi; bên cạnh vùng đất hoang dại chứa đầy bí mật
ghê gớm của rừng thiêng với thác gầm thét, cọp trêu người là một bản làng có cơm
lên khói, có mùi thơm của cơm nếp xôi và những cô gái xinh đẹp như những bông
hoa rừng. Đây là khung cảnh thực của chiến trường Tây Tiến đã được khúc xạ qua
tâm hồn lãng mạn, hào hoa của những anh lính người Hà thành. “Nhớ ôi”, “cơm
lên khói”, đó là tiếng lòng dạt dào của các anh khi nhớ tới cảnh tượng đầm ấm của tình quân dân
Không chỉ có nỗi nhớ, chất lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến còn chính là cảm hứng
bay bổng của nhà thơ hướng tới vẻ đẹp hào hùng và hào hoa của thiên nhiên và con
người Tây Bắc. Trong hòai niệm của nhà thơ, thiên nhiên Tây Bắc trở thành một
hình tượng lớn, nhằm tô đậm cái ý chí dấn thân của người lính Tây Tiến
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Đó chính là sự gian khổ mà người lính phải vượt qua. Còn đỉnh núi: mù sương cao
vút, núi cao tưởng chừng như chạm tới mây: Cồn mây – Súng ngửi trời. Mây và
sương mù tụ lại thành cồn heo hút, người lính đi trên những ngọn núi cao ấy như đi
trên những cồn mây, mũi súng như chạm tới đỉnh trời. Mũi súng của người chiến sĩ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
đã được nhân cách hoá đầy chất lính nhưng cũng thật ngộ nghĩnh hồn nhiên yêu
đời “súng ngửi trời”,
Hình ảnh đó khiến ta liên tưởng tới hình ảnh “Đầu súng trăng treo” của Chính
Hữu.Tại đây , cái đẹp của thiên nhiên và con người đã gặp chỗ tương đồng. Thiên
nhiên và con người đã trở nên thân thiết đến mức khó tin: Súng(người chiến sĩ) ngửi trời (thiên nhiên).
Các anh đi trong sương lấp, đêm hơi, vượt dốc cao, vực thẳm lên đến tận cồn mây
heo hút trong lam sơn chướng khí, gió núi mưa ngàn. Bao quanh các anh là mọi
hiểm nguy như đe doạ, án ngữ bước chân các anh, như chực bóp nát đoàn quân mệt
mỏi. Ngoại cảnh sẽ làm các anh chùn bước chăng ? Không! Qua giây phút rợn
ngợp ban đầu, các anh lại tiến lên dũng mãnh hơn. Để rồi khi chiếm lĩnh được mọi
tầm cao, dừng chân trên một đỉnh đèo nào đó, phóng tầm mắt ra xa, qua không
gian mù mịt của sương rừng mưa núi, các anh chợt vỡ oà niềm vui sướng hạnh
phúc trước cảnh làng quê êm đềm tuyệt đẹp như trải ra trước mắt:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Câu thơ toàn thanh bằng êm ả mềm mại, nhẹ nhàng như một làn gió mát làm khô
đi những giọt mồ hôi mệt nhọc của các anh, và trải rộng trước mắt các anh hình
ảnh thôn xóm xanh tươi thanh bình hòa lẫn trong làn mưa bụi bay gợi nỗi nhớ quê
nhà. Dưới con mắt hào hoa và lãng mạn của người lính Tây Tiến Hà thành, núi
rừng sâu thẳm bỗng đẹp lạ kỳ, vẻ đẹp nên thơ và hết sức hào hùng
Vẻ đẹp ấy được cảm nhận từ một hiện thực gian khổ và đầy khốc liệt, khó khăn.
Chính vì thế, chất lãng mạn của bài thơ càng đáng trân trọng, nâng niu. Nói đúng
hơn, chính nhờ chất lãng mạn ấy mà người lính Tây Tiến có thể vượt qua được mọi
vất vả gian lao, mọi khó khăn thử thách. Chất lãng mạn trong Tây Tiến xuất hiện
dường như để lại ”thăng bằng” cho cảnh vật và tâm hồn của con người. Vì thế bên
cạnh một thiên nhiên hiểm trở, dữ dằn, những núi đá cheo leo, những cảnh rừng
thiêng nước độc… ta lại thấy một thiên nhiên thơ mộng đến say người, một Tây
Bắc đẹp như tranh thuỷ mạc:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Một dòng sông trong một buổi chiều sương giăng mắc, đôi bờ lặng tờ, hoang dại
như thời tiền sử. Và nổi bật trên dòng sông huyền thoại ấy là Hình dáng mềm mại
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
uyển chuyển của người cầm lái trên chiếc thuyền độc mộc cùng hồn lau và hoa
đong đưa làm duyên bên dòng nước lũ. Tất cả, người và cảnh đều hài hòa duyên dáng thơ mộng.
Ngòi bút của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi. Ông không tả cây lau mà chỉ gọi
hồn lau. Ông không nhớ con người Châu Mộc mà nhớ dáng vóc mềm mại của họ
in bóng trên sông nước. Không nhớ những bông hoa mà tác giả chỉ nhớ cái ngả
nghiêng đong đưa tình tứ của những bông hoa rừng.
Qua vài nét loáng thoáng, cảnh vật trong thơ Quang Dũng như có hồn. Nhà thơ
không chỉ làm hiển hiện lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn
gợi ra được cái phần thiêng liêng của cảnh vật. Cách tự hỏi “có nhớ”, “có thấy” của
tác giả đã tạo cho âm hưởng của khổ thơ man mác bâng khuâng như đang ru hồn ta
vào cõi mộng. Chất nhạc, chất hoạ, chất thơ cũng toát ra từ đó. Và cũng qua đây ta
càng hiểu thêm vẻ đẹp trong tâm hồn của các chiến sĩ Tây Tiến: Trong gian khổ và
thử thách, trong gian truân và chết chóc, họ vẫn lạc quan yêu đời, hồn nhiên và thơ mộng.
Và không chỉ Thiên nhiên Tây Bắc cứ “chơi vơi” trong nỗi nhớ của nhà thơ giữa
hai gam màu vừa hùng vĩ, dữ dội, vừa tươi tắn, thơ mộng. Mà chất lãng mạn bay
bổng này còn thể hiện rõ khi tác giả khắc họa chân dung người lính Tây Tiến.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Thơ ca kháng chiến khi viết về người lính thường hay đề cập đến căn bệnh sốt rét
hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí” đã trực tiếp miêu tả căn bệnh
này: “Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh. Rét run người vầng trán ướt mồ hôi”. Còn
Tố Hữu trong bài “Cá nước”, cũng không quên căn bệnh quái ác đó: “Giọt giọt mồ
hôi rơi. Trên má anh vàng nghệ”. Quang Dũng trong “Tây Tiến” cũng không hề
che dấu những gian khổ khó khăn, những căn bệnh hiểm nghèo và sự hy sinh lớn
lao của người lính. Chỉ có điều tất cả những cái đó không hiện ra một cách trần
trụi, mà nó được nhà thơ phản ánh qua cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn.
Đoàn binh không mọc tóc: hình ảnh thơ muốn nói đến những người lính đầu trọc
lốc. Phải chăng đây là hình ảnh ly kỳ giật gân, sản phẩm của trí tượng bịa đặt của
nhà thơ? Không! Chứa đựng trong đó là sự thật nghiệt ngã: các chiến sĩ Tây Tiến
người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi đánh giáp lá cà với địch, người thì bị sốt rét đến rụng cả tóc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Còn hình ảnh “quân xanh màu lá” thì sao? Màu xanh ấy là của lá ngụy trang hay
của màu áo ? Có lẽ cả hai, nhưng cái quan trọng hơn là nhà thơ muốn nói đến căn
bệnh sốt rét rừng. Những ngày đói ăn, thiếu mặc cùng căn bệnh sốt rét đã làm các
anh tóc rụng da xanh tiều tụy
Và như thế hình ảnh “không mọc tóc” và “quân xanh màu lá”đã phản ánh cái khốc
liệt, cái dữ dội của chiến tranh, của một dân tộc quật khởi đứng lên dùng ngọn tầm
vông chống lại sắt thép quân thù. Nhưng ẩn dưới cái vẻ ngoài tiều tụy ấy, các chiến
sĩ Tây Tiến là những người ốm nhưng không yếu. ở họ toát lên sức mạnh tinh thần
phi thường “Không mọc tóc”, “quân xanh màu lá” nhưng “dữ oai hùm”,dữ dằn oai
phong như hổ. Hình ảnh ẩn dụ “dữ oai hùm” đã nói lên chí khí hiên ngang tinh
thần quả cảm. Hình tượng thơ được đặt trong thế tương phản. Quang Dũng đã lấy
cái thô, cái mộc để tô đậm cái oai phong cái dữ dằn của người lính Tây Tiến.Và sự
dữ dằn ấy còn được thể hiện qua ánh mắt: “Mắt trừng”è Đó là ánh mắt giận dữ, dữ
dội, nảy lửa đầy áp đảo đối với kẻ thù.
Như vậy chỉ với mấy câu thơ, tác giả đã chạm khắc vào lịch sử hình ảnh đoàn quân
phi thường độc đáo có một không hai trong cuộc đời cũng như trong thơ ca. Không
chỉ có sức mạnh phi thường các anh còn có đời sống nội tâm phong phú , có những
nét hào hoa mơ mộng gửi về hai phía chân trời: Mộng qua biên giới: mộng tiêu diệt
kẻ thù bảo vệ biên cương, mộng lập nên chiến công nêu cao truyền thống anh
hùng. Còn mơ, những tâm hồn, những trái tim rạo rực yêu đương ấy lại
Mơ về Hà Nội dáng kiều thơm.
Nếu người nông dân mặc áo lính của Chính Hữu mang theo nỗi nhớ giếng nước
gốc đa, nhớ mái nhà gianh, nhớ ruộng nương, người vệ quốc trong thơ Hồng
Nguyên nhớ người vợ trẻ mòn chân bên cối gạo canh khuya, thì người lính trong
thơ Quang Dũng, nỗi nhớ ấy gắn với mơ: Mơ dáng kiều thơm. Mơ tới những tà áo
trắng những thiếu nữ thân quen nơi trường xưa phố cũ. Họ vốn là các sinh viên Hà
thành xếp bút nghiên theo việc cung kiếm, giàu lòng yêu nước nhưng cũng rất độ
hào hoa “Từ thuở mang gươm đi mở nước, Nghìn năm thương nhớ đất Thăng
Long”. Nên sống giữa núi rừng miền Tây ác liệt, cái chết bủa vây, lửa đạn mịt
mùng nhưng các anh vẫn mơ về Hà Nội thân yêu. Trong trái tim mỗi người ra trận,
làm sao có thể quên được những hàng me hàng sấu. Quên sao được những tà áo
trắng, những thiếu nữ thân quen.
Đó là vầng những sáng lung linh của người lính. Và chính vầng sáng lung linh ấy
đã tạo nên sự cân bằng thư thái trong tâm hồn người chiến sĩ sau mỗi chặng đường
hành binh vất vả. Nó không làm thối chí nản lòng các anh mà ngược lại nó như làm
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
tăng thêm sức mạnh, tăng thêm nhiệt tình cách mạng. Bởi các anh là người hiểu
hơn ai hết mình chiến đấu vì ai, vì cái gì. Và các anh cũng hiểu hơn ai hết giá trị
của tình yêu, của độc lập tự do của một dân tộc được đo bằng chính xương máu
của hàng ngàn hàng vạn con người Việt Nam .
Để giúp cho trí tưởng tượng bay cao, bay xa và tình cảm, cảm xúc được diễn tả
một cách đầy đủ, trọn vẹn nhất, nhà thơ đã vận dụng rộng rãi thủ pháp nghệ thuật
đối lập giữa cái hùng vĩ, dữ dội với cái tuyệt mĩ, thơ mộng, giữa gian khổ, vất vả
với anh hùng, bất khuất, giữa cái bi và cái hùng… tô đậm cái phi thường, đồng thời
cũng để tạo sự”cân bằng” giữa hai màu sắc – hiện thực và lãng. Sự đối chọi này
được thể hiện trong từng câu thơ, từng đoạn thơ cũng như toàn bài thơ
Tính chất lãng mạn của bài thơ còn thể hiện ở một phương diện khác. Đó là chất bi
tráng. Nhà thơ đề cập đến những mất mát đau khổ, hi sinh nhưng không gợi cho
người đọc cảm giác bi quan, chán nản. Cảm xúc, hình tượng trong tác phẩm khỏe
khoắn, mạnh mẽ, khơi gợi cho người đọc đến niềm tin, khát vọng về cuộc sống
Sự phi thường nét hào hoa của người lính Tây Tiến không chỉ được thể hiện trong
tính cách của họ lúc sống chiến đấu mà còn được thể hiện một cách tập trung sâu
đậm qua cái chết bất tử.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Mới đọc qua, ta tưởng như nó chỉ làm nhiệm vụ thông báo bình thường nhưng lại
có sức gợi tả thật lớn lao. Từ “rải rác” không những không gợi được sự thưa thớt ít
ỏi vốn có của nó mà lại gợi cho người đọc cảm giác nhiều, nhiều vô kể.( rải rác –
biên cương – mồ – viễn xứ à gợi ra cảm giác dài xa xôi hoang vắng). “Mồ viễn
xứ”: những ngôi mộ xa xứ. Đồng nghĩa với những ngôi mộ vô chủ không ai hương
khói. Cụm từ ấy như xoáy sâu vào lòng người một sự nhức nhối xót xa đến trào nước mắt.
Những ngôi mộ xa xứ kia rồi sẽ ra sao ? Ai là người thắp cho họ nén nhang cho
hương hồn họ siêu thoát. Những nấm mồ không tên, những cái chết vô danh vĩnh
viễn nằm lại nơi biên cương xa xôi hoang vắng đến ghê người. Không một giọt
nước mắt mẹ già, người thân. Không một lời vĩnh biệt. Thời gian sẽ qua đi, tất cả
sẽ xoá nhòa vào lòng đất. Các anh sẽ mãi mãi là những chiến sĩ vô danh, không
còn ai nhớ đến chăng? Câu thơ mang âm điệu trầm hùng bi tráng phơi bày hiện
thực phũ phàng, đưa người ta đến vực thẳm của sự bi quan.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Nhưng mỗi lần như thế, Quang Dũng lại được nâng đỡ bởi đôi cánh của lý tưởng
của tinh thần lãng mạn. Chính vì thế mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác
nơi rừng hoang biên giới xa xôi kia như bị mờ đi trước lý tưởng quên mình vì tổ
quốc của người lính Tây Tiến.
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Đời xanh là đời trai trẻ, là tuổi thanh xuân của những chàng trai chưa trắng nợ anh
hùng. Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh: Họ lên đường đầu quân vì nghĩa lớn .
Dường như cái chết đã được đặt ra từ trước, họ đâu có băn khoăn trước sự mất còn.
Cái chết với họ nhẹ tựa lông hồng.
Câu thơ không bi quan uỷ mị mà nó vang lên như một lời thề thiêng liêng cao cả.
Các anh quyết đem xương máu để bảo vệ độc lập tự do cho Tổ quốc theo tinh thần
thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô
lệ. Chính vì thế mà họ bất chấp tất cả gian khổ hi sinh để ra đi chiến đấu một cách kiêu hùng.
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Các tráng sĩ giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây là niềm kiêu hãnh. Còn các
chiến sĩ Tây Tiến chỉ có chiếc áo rách vai mà các anh gọi lá áo bào: Thực ra đó
cũng chỉ là cách nói sang trọng, một cái cười gượng gạo trên môi nhà thơ trước
một thực tế quá trần trụi đau buốt tâm can: Họ hy sinh mà không một manh chiếu
che thân. Anh về đất là è các anh đã chết, đã hy sinh. Chiến đấu giết giặc vì quê
hương đất nước, các anh ngã xuống là các anh về đất, là nằm trong lòng đất mẹ Tổ
quốc thân yêu. Anh về đất là các anh đã thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của
mình, các anh hóa thân cho dáng hình xứ sở. Anh về đất nghĩa là hồn các anh đã
hòa vào cây cỏ, sông núi để trở thành hồn thiêng đất nước.
Diễn tả về sự mất mát lớn lao mà Quang Dũng nói thật nhẹ nhàng, thật thanh thản.
Nhà thơ không dùng từ chết hay hy sinh mà là “về đất” để ca ngợi, để làm bình
thường hoá vấn đề và tạo nên vẻ đẹp lãng mạn mang tính chất bi hùng. Và người
lính Tây Tiến ra đi cũng không cần một lời điếu văn, một giọt nước mắt. Mà chỉ có
trời đất chứng giám, thu nhận thể xác linh hồn họ vào lòng. Sông Mã gầm lên khúc
độc hành. Động từ “gầm” dội xuống mạnh mẽ tạo nên âm trầm vang như tiếng đạn
đại bác tiễn đưa linh hồn người đã khuất về cõi vĩnh hằng, như tiếng kèn đồng
trong bài chiêu hồn tử sĩ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Sông Mã gầm lên như một nghi lễ trang trọng tiễn biệt các anh. Các anh vĩnh viễn
nằm lại nơi đây. Nhưng dòng sông Mã còn mãi cuồn cuộn chảy về xuôi mang theo
truyền thuyết về những người con đất Việt anh hùng.
Vẫn là thủ pháp nghệ thuật tương phản đối chọi nhau. Bi mà không lụy, buồn đau
mà hùng tráng, mất mát hi sinh mà vẫn lạc quan. Và như thế chính chất lãng mạn
của bài thơ đã nâng được người đọc lên, vực dậy những người lính mệt mỏi đang
“dãi dầu không bước nữa”, xoá tan đi bao nhọc nhằn đau khổ, lãng quên đi bao nỗi
hiểm nguy và lấy lại cân bằng trong tâm hồn người lính, giúp họ vững bước đi
lên… Chất lãng mạn ấy là sức mạnh và vẻ đẹp của người lính Tây Tiến.
Với bút pháp lãng mạn cốt cách tài hoa, phong độ hào hùng của nhà thơ chiến sĩ,
Với cái nhìn nhiều chiều, bằng sự chọn lọc ngôn từ, tình chọn những nét tiêu biểu
nhất của người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài tập thể bất tử
về người lính vô danh. Cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yếu của bức tượng
đài đó, chúng hòa quyện vào nhau, nương tựa nâng đỡ cho nhau tạo nên vẻ đẹp bi
tráng, thần thái chung của bức tượng đài
Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 3
Quang Dũng là nhà một trong số những nhà thơ có nhiều sáng tác xuất sắc trong
kháng chiến chống thực dân Pháp với hồn thơ đặc biệt lãng mạn, phóng khoáng và
hào hoa. Ông đã để lại rất nhiều tác phẩm tiêu biểu, nổi bật trong đó có bài thơ Tây
Tiến. Một trong số những yếu tố làm nên nét nổi bật trong bài thơ Tây Tiến của
Quang Dũng chính là cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng . Nhờ hai nguồn
cảm hứng như vậy mà Quang Dũng thành công trong việc xây dựng hình ảnh
người lính lãng mạn mạn mà vẫn đậm chất bi tráng.
Đoàn quân Tây Tiến thành lập năm 1947 với nhiệm vụ là phối hợp với bộ đội Lào
để bảo vệ biên giới Việt-Lào bao gồm phần lớn là thanh niên Hà Nội. Làm đại đội
trưởng ở đó đến cuối năm 1948 thì Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Nhà thơ
nhớ về đơn vị cũ nên viết bài thơ này ở Phù Lưu chanh. Có lẽ chính vì vậy mà nỗi
nhớ về đoàn quân Tây Tiến, về những tháng ngày làm việc cùng với biết bao anh
em khiến cho nhà thơ nuôi dưỡng cho mình trạng thái cảm xúc mãnh liệt trong
những vần thơ và hình ảnh thơ trong bài.
Cảm hứng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt một tác phẩm thể hiện đồng thời suy nghĩ, tình
cảm mãnh liệt của người viết từ đó nó trở thành một vũ khí vô hình tác động không
nhẹ đến người đọc. Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến được thể hiện trong
việc hướng tới những cái đẹp, những cái lạ, những cái khác thường trong cuộc
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
sống hàng ngày hay tô đậm cái phi thường và ấn tượng mạnh mẽ về những cái phi
thường. Còn cảm hứng bi tráng giúp người viết tái hiện những hình ảnh trong thực
tế với những khó khăn và thách thức nhưng mọi thứ hiện lên vẫn không hề tầm
thường, nhỏ bé. Cảm hứng lãng mạn và bi tráng luôn luôn song hành với nhau
trong suốt bài thơ đan xen hòa quyện với nhau trong từng phần phần làm nên
những nét đặc sắc rất riêng của Tây Tiến.
Cảm hứng lãng mạn trước hết được thể hiện qua những câu thơ miêu tả về thiên
nhiên vùng núi Tây Bắc. Cảnh vật thiên nhiên trong nỗi nhớ của Quang Dũng là
hiện thực cuộc sống đó là sự khắc nghiệt hoang sơ, dữ dội. Nhưng qua cách viết
của tác giả thì trước thực tế như vậy, người lính vẫn luôn cảm nhận được sự thơ
mộng của cảnh vật trong trạng thái lạc quan, yêu đời. Từ nỗi nhớ mở đầu về dòng
sông Mã, nhà thơ nhớ về chặng đường hành quân. Trước tiên đó là hình ảnh màn
sương dày đặc lạnh buốt che lấp mỗi bước đi của đoàn quân khiến cho họ trở nên
mệt mỏi “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”. Hay đó là hình ảnh dốc núi quanh co, hiểm trở:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Bên cạnh việc sự thực khắc nghiệt của cuộc sống được tô đậm thì nhà thơ Quang
Dũng cũng tái hiện lại những chi tiết hình ảnh mượt mà nhẹ nhàng và đầy màu sắc
của trí tưởng tượng bay bổng. Đó là hình ảnh “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Đi qua địa danh Mường Lát vào ban đêm họ như thấy mùi hương hoa theo về, đi
trong màn sương dày đặc lạnh buốt mà tưởng như trong một đêm hơi bồng bềnh,
huyền ảo. Có lẽ chính sự tưởng tượng và cảm hứng lãng mạn đã tạo nên một chi
tiết vô cùng thi vị và nên thơ dành cho người lính Tây Tiến. Không chỉ vậy nét thơ
mộng của cảnh vật tiếp tục được tái hiện ở câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa xa
khơi” câu thơ chỉ toàn thanh bằng khiến cho chúng ta cảm nhận được một cảm giác
bình yên nhẹ nhàng và thoải mái. Chúng ta có thể hình dung ra một khung cảnh thơ
mộng khi người lính sau một chặng đường vất vả vượt dốc cao có thể dừng chân
bên trên dốc núi phóng tầm mắt nhìn ra xa để để ngắm nhìn một không gian mịt
mù sương núi. Không dừng lại ở đó, vẫn dưới cái nhìn của một tâm hồn nhạy cảm,
thiên nhiên Tây Bắc tiếp tục được tái hiện trong những vần thơ miêu tả cảnh sông nước:
“Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Đây là cảnh thiên nhiên vào một buổi chiều ở Châu Mộc có sương giăng mắc bảng
lảng, mơ hồ với dòng sông thi vị nên thơ và bến bờ hoang dại với cả những hồn
lau. Trên nền thiên thiên này nổi bật lên hình ảnh con người, dáng đứng trên độc
mộc. Đó là dáng đứng đẹp, khỏe khoắn, hùng dũng và hiên ngang của con người
Tây Bắc. Những câu thơ trên cũng cho thấy sự đối lập giữa cái dữ dội của thiên
nhiên (dòng nước lũ) với sự mềm mại tươi mát của hoa đong đưa. Những cánh hoa
như có cảm xúc biết làm duyên làm dáng bên dòng nước… Chỉ bằng vài nét gợi tả
Quang Dũng đã khắc họa được một bức tranh phong cảnh với vẻ đẹp huyền ảo, xa
xăm và thơ mộng cho thiên nhiên Tây Bắc.
Không chỉ thiên nhiên, cảm hứng lãng mạn còn được thể hiện ở hình ảnh người
lính Tây Tiến – những thanh niên của tuổi trẻ Hà thành đầy phong lưu, nhiệt huyết.
Điều này thể hiện ở cách nhìn của người lính đối với thiên nhiên. Họ nhìn màn
sương với cảm giác bồng bềnh: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Họ tếu táo
vui, đùa trước độ cao của dốc núi qua hình ảnh “súng ngùi trời”. Họ phóng tầm
mắt mình ra xa để cảm nhận hơi ấm từ những ngôi nhà mịt mù trong sương: “Nhà
ai Pha Luông mưa xa khơi”. Đặc biệt họ hòa mình vào đêm liên hoan nhộn nhịp,
sống động với: “Khèn lên man điệu nàng e ấp /Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.
Có lẽ cảm hứng lãng mạn được thể hiện đậm nét nhất khi Quang Dũng tái hiện
chân dung người lính Tây Tiến bằng những nét vẽ gân guốc, lạ hóa, phi thường
“không mọc tóc”, “xanh màu lá”, “dữ oai hùm”, “mắt trừng gửi mộng”. Qua những
chi tiết miêu tả ngoại hình kỳ lạ chúng ta thấy được vẻ kiêu hùng oai phong, lẫm
liệt của những chiến sĩ can trường. Chính vẻ đẹp lãng mạn như vậy đã nâng đỡ
người chiến sĩ vượt qua những khó khăn của thực tế nghiệt ngã. Qua đó chúng ta
cũng cảm nhận được về tinh thần lạc quan của thế hệ thanh niên trong cuộc kháng
chiến đến mà sự trở về là là một điều mong manh.
Song song với cảm hứng lãng mạn, cảm hứng bi tráng cũng làm nên vẻ đẹp của
người lính Tây Tiến và sự thành công của bài thơ. Người lính Tây Tiến phải đối
diện với rất nhiều khó khăn trong thực tế. Đó có thể là hình ảnh sương dày đặc trên
đường hành quân, cũng có thể là những lần vượt dốc lội suối với những hiểm nguy
và tất nhiên cái chết cũng luôn cận kề. Những cơn sốt rét rừng hành hạ rồi nơi rừng
thiêng nước độc không có thuốc đầy đủ khiến cho người lính “không mọc tóc”,
“xanh màu lá”. Chính vì như vậy những nấm mồ vô danh nằm rải rác khắp mọi nơi lạnh lẽo:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Sự hi sinh của những người lính Tây Tiến chính là nỗi đau, sự mất mát lớn đối với
không chỉ tác giả mà với toàn dân tộc Việt Nam mọi thế hệ. Thế nhưng, qua ngòi
bút của Quang Dũng, sự hi sinh ấy, cái bi ấy đã vơi bớt đau thương, không còn là
bi lụy nữa mà trở thành hình tượng bi tráng – hình tượng những người con đất Việt
dũng cảm, anh hùng. Sáng lên ở đoàn quân Tây Tiến là tinh thần quyết tâm vượt
qua khó khăn, gian khổ, ở tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh ” Chiến trường
đi chẳng tiếc tuổi xanh”. Quang dũng đã thật tài tình khi miêu tả cái chết của người
lính trong chiếc áo bào “Áo bào thay chiếu anh về đất” để thể hiện cái tráng. Thật
là một hình ảnh xúc động! Tấm áo người lính được gọi một cách trang trọng là “áo
bào” – tấm chiến bào rực rỡ của các danh tướng ngày xưa ra trận. Cách nói trang
trọng ấy đã giảm phần thê lương của cái chết. “Anh về đất” – Họ không chết mà
chỉ đi tiếp con đường của tổ tiên để giữ vững non sông đất nước. Anh đang trở về
với đất mẹ, với Tổ tiên khi đã hoàn thành nhiệm vụ với Tổ quốc. Âm thanh miêu tả
âm thanh của dòng sông Mã cũng là một cách để thể hiện cái trắng ở đây: “Sông
Mã gầm lên khúc độc hành”. Không giọt lệ rơi, không lời ai điếu, không loạt đạn
tiễn đưa mà chỉ một tiếng gầm đã diễn tả đầy đủ nỗi đau dữ dằn thấm thía. Cái chết
của người lính hoàn toàn không còn thê thảm, đau thương mà ngược lại, nó tráng lệ và cao đẹp vô cùng!
Có thể thấy, cảm hứng lãng mạn và bi tráng luôn đi liền với nhau trong suốt tác
phẩm. Nhờ có hai nguồn cảm hứng như vậy mà Quang Dũng đã có thể tạc nên bức
tượng đài bất tử về người lính trên nền thiên nhiên với nhiều màu sắc đẹp đẽ. Cả
nội dung và nghệ thuật của bài thơ một lần nữa lại được in đậm.
Tóm lại, cảm hứng lãng mạn và bi tráng là hai cảm ứng độc đáo trong bài thơ Tây
Tiến của nhà thơ Quang Dũng. Chính nhờ hai nguồn cảm hứng như vậy mà Quang
Dũng đã tạo nên một kiệt tác khiến cho người đọc có thể hình dung được về bức
tượng đài mang tên người lính trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp yêu
đời lạc quan nhưng cũng đầy kiên cường trước những khó khăn thử thách của thực tế.
Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 4
“Tây Tiến” là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm sún,
bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.
Với bút pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa và phong độ hào hùng của một nhà thơ
chiến sĩ, Quang Dũng đã chạm khắc vào thời gian, vào thơ ca, và lòng người hình
ảnh chiến sĩ vô danh của Thăng Long - Hà Nội, của dân tộc Việt Nam anh hùng.
Là một thi phẩm xuất sắc đạt gần đến độ toàn bích, bài thơ Tây Tiến ở đoạn nào
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
cũng có những câu đặc sắc, những hình ảnh thơ độc đáo. Nhưng sức hấp dẫn của
bài thơ chính là vẻ đẹp của chủ nghĩa lãng mạn và tinh thần bi tráng khi khắc họa
hình ảnh người lính Tây Tiến - người lính cách mạng xuất thân từ thành thị tham
gia vào cuộc kháng chiến gian khổ mà hào hùng của dân tộc.
Cảm hứng lãng mạn trong văn học là cảm hứng khẳng định cái tôi tràn đầy cảm
xúc, hướng về lí tưởng. Nó đi tìm cái đẹp trong những cái khác lạ, phi thường độc
đáo, vượt lên những cái tầm thường, quen thuộc của đời sống hàng ngày, nó đề cao
nguyên tắc chủ quan, phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng tượng liên tưởng.
Cảm hứng lãng mạn cũng thường tìm đến cách diễn đạt khoa trương, phóng đại,
đối lập, ngôn ngữ giàu tính biểu cảm và tạo được ấn tượng mạnh mẽ. Cảm hứng
lãng mạn trong văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975 chủ yếu được thể hiện trong
việc khẳng định phương diện lý tưởng của cuộc sống mới, vẻ đẹp con người mới,
ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của
dân tộc. Cảm hứng lãng mạn đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong sáng tác, nó
nâng đỡ con người có thể vượt lên mọi thử thách trong máu lửa của chiến tranh
gian khổ để hướng đến ngày chiến thắng.
Cảm hứng lãng mạn thể hiện đậm nét trước hết ở cái tôi của Quang Dũng. Nó trào
ra từ đầu bài thơ đầy ắp và mãnh liệt một nỗi nhớ - nhớ chơi vơi, một nỗi nhớ rất
lạ, hình như nhẹ tênh mà nặng trĩu vô cùng, để rồi sau đó tuôn chảy ào ạt như một
dòng suối trong suốt bài thơ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Nỗi nhớ trải dài theo dòng sông Mã trùng điệp theo hình non thế núi. Nhớ đến hụt
hẫng, trống vắng trong lòng người. Tây Tiến là một đoàn quân, nhưng tiếng gọi
“ơi” lại trìu mến như tiếng gọi với một người thân. Ba vần “ơi” như da diết vang
vọng vào vách núi. Đó là nỗi nhớ của tác giả với Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến.
Nỗi nhớ da diết, lan tỏa thấm đượm trong từng câu thơ, hình ảnh thơ. Cái tôi
Quang Dũng có mặt khắp nơi, lắng đọng từng chỗ, từ cảnh chiến trường hiểm trở,
hoang sơ đến cảnh sông nước thanh bình thơ mộng đến đêm hội đuốc hoa đầy màu
sắc xứ lạ phương xa, từ nỗi nhớ bản làng “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” đến
“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” thật hào hoa, lãng mạn.
Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến còn thể hiện đậm nét trong bút pháp
lãng mạn. Những thủ pháp cường điệu, đối lập được sử dụng rộng rãi, sáng tạo đã
tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hào hùng, hùng vĩ và cái
tuyệt mĩ của con người và thiên nhiên. Thiên nhiên miền Tây Bắc qua ngòi bút
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
lãng mạn của Quang Dũng được cảm nhận với vẻ đẹp đa dạng, vừa độc đáo, vừa
hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình, vừa hoang sơ mà ấm áp, làm say đắm lòng
người. Trí tưởng tượng bay bổng khiến thi nhân hình dung ra một “đêm hơi’,
không chỉ có sương rừng ướt lạnh mà còn có cái lãng đãng, huyền ảo, cảm được
cái oai linh của thần núi, thấy được cái “hồn lau nẻo bến bờ” và nghe thấu được cả
tiếng “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Nhà thơ nhớ những cuộc hành quân gian khổ qua những chặng đường núi non
hiểm trở, thử thách ghê gớm với các chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên đất
Hà thành lần đầu tiên đến Miền Tây. Các tên bản, tên mường như Sài Khao,
Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch... được nhắc đến không chỉ gợi bao nỗi nhớ
vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang sơ. Nó vừa gợi
ra sự gian nan, bí ẩn, thách thức, vừa gợi sự tò mò, háo hức của những chàng trai
thành thị. Tất cả khung cảnh thiên nhiên đều được khắc họa với ấn tượng mạnh
nhất. Đoàn binh hành quân trong sương mù ẩm ướt dày đặc đến mức che lấp cả
đoàn quân. Nhưng ngay trong cảnh khắc nghiệt, người chiến sĩ Tây Tiến vẫn phát
hiện ra vẻ đẹp của “hoa về trong đêm hơi”. Những bông hoa núi với hương thơm
ngan ngát hiện ra dần dần mờ ảo qua đêm sương, qua cái nhìn say mê lãng mạn,
khiến cái mệt mỏi của đoàn quân dường như tan biến. Bao đèo cao, dốc thẳm dựng
thành phía trước mà người chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Dốc lên thì khúc khuỷu, gập ghềnh, ngoằn ngoèo; dốc xuống thì thăm thẳm, dựng
đứng. Câu thơ giàu chất tạo hình như họa lại một chặng đường hành quân hiểm trở.
Dốc núi ngoằn ngoèo, dốc vút lên ngàn thước, rồi lại đổ xuống thẳng đứng ngàn
thước. Câu thơ cũng gập ghềnh với nhiều thanh trắc và cách ngắt nhịp 4/3 bẻ gập
câu thơ tạo thế núi hoang dại, khủng khiếp. Độ cao của dốc như được đo bằng hơi
thở dồn dập của người lính vượt đèo, nên càng ấn tượng. Những đỉnh núi cao mù
sương, cao vút như chạm mây, mây nổi thành cồn heo hút ở lưng trời. Mũi súng
trên vai của của người chiến binh được nhân hóa tạo thành hình ảnh “súng ngửi
trời” vừa diễn tả được độ cao nhất, hoang sơ, lạ lẫm vừa hàm chứa vẻ đẹp tâm hồn
người lính. Đó là chất tinh nghịch, hồn nhiên rất lính của người chiến binh Tây
Tiến. Thiên nhiên hoành tráng, hùng vĩ nhưng người lính không hề bị chìm đi mà
vẫn nổi lên đầy thách thức. Nó khẳng định ý chí và quyết tâm của người chiến sĩ
chiếm lĩnh mọi tầm cao để đi tới. Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách
lòng người, người lính trèo lên đỉnh núi như đi trong mây quả cảm và lãng mạn vô cùng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” thật dữ dội mà
nên thơ. Mưa mịt mù khiến những ngôi nhà sàn Pha Luông ở lưng chừng núi thấp
thoáng trong mưa như bồng bềnh trên biển khơi. Câu thơ toàn thanh bằng gợi
không gian mênh mông, ngập chìm trong mưa qua cái nhìn từ trên cao trải xuống.
Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người lính Tây Tiến vẫn hướng về những bản
mường, những mái nhà dân hiền lành, yêu thương, nơi các anh đã và đang đem
máu xương và lòng dũng cảm để bảo vệ. Gian khổ với các chiến sĩ còn là “thác
gầm thét” dữ dội hòa với tiếng hú man dại, ghê gớm của thú rừng. “Cọp trêu
người” như mang theo cái oai linh, bí ẩn của rừng đại ngàn. Vẻ hoang dại ấy không
chỉ mở ra ở không gian cụ thể mà còn được khám phá ở thời gian “đêm đêm”,
“chiều chiều”. Tác giả miêu tả thời gian, nhưng lại gợi được không gian núi rừng,
lúc nào cũng âm u, hoang vu như trong bóng tối. Nó luôn là mối đe dọa sẵn sàng
nuốt chửng con người. Đặc biệt họ toàn là những người lính trẻ thủ đô mới lần đầu
rời thành phố đến rừng đại ngàn. Vì thế ấn tượng về Tây Bắc với những địa danh
xa ngái, càng xa lạ, dữ dội, ác liệt, không kém cuộc đọ sức với quân thù. Nhưng
cảnh ấy cũng càng kích thích chiến sĩ không ngại ngần xông pha với tinh thần hào hứng hăng say.
Đối lập với sự khắc nghiệt là vẻ đẹp tuyệt mỹ của thiên nhiên Tây Bắc. Vẻ đẹp thơ
mộng của thiên nhiên Tây Bắc như được kết bằng hoa rừng: “Mường Lát hoa về
trong đêm hơi”; “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Đặc biệt đoạn thơ:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Tất cả gợi nhớ cảnh Châu Mộc trong một buổi chiều sương phủ trên dòng nước
mênh mông, hoang dại thật huyền ảo. Cảnh vật như nhòe đi, như mềm mại và có
hồn hơn. Chữ “ấy” ở câu trên và chữ “thấy” ở câu dưới bắt thành một vần lưng
giàu âm điệu. Hoa lau nở trắng sáng, lá lau lay động xào xạc trong gió vốn là
những thi liệu cổ điển quen thuộc nhưng khi đi vào thơ của Quang Dũng như mang
hồn lưu luyến của cảnh chia ly. Nổi bật trên dòng nước là dáng uyển chuyển thanh
tú trên thuyền độc mộc của các cô gái Tây Bắc. Hình ảnh “hoa đong đưa” vừa là
hình ảnh tả thực: những bông hoa khẽ lay động đong đưa làng duyên trên dòng
nước lũ vừa như ẩn dụ, gợi tả vẻ đẹp của các cô gái Tây Bắc như những bông hoa
rừng đong đưa trên sông nước. Đó là những vần thơ thi trung hữu họa, khiến người
đọc như lạc vào cái đẹp của cõi mơ. Mơ nhưng rất thực, làm say lòng người, nhất
là các chiến sĩ Tây Tiến lãng mạn, trẻ trung, nó ẩn chứa tình yêu sâu nặng với thiên
nhiên đất nước của Quang Dũng và của các chiến sĩ Tây Tiến. Hình ảnh những cô
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
gái Tây Bắc, những con người Tây Bắc được gợi nhớ trong bài thơ càng tô đậm
thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Sau bao ngày đêm hành quân gian
khổ, băng rừng vượt núi, trèo đèo lội suối, những người lính tạm dừng chân bên
bản làng quây quần bên những nồi xôi bốc khói. Mùi thơm hương nếp mới và ấm
tình quân dân đã xua tan bao nhọc nhằn gian khổ:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Gói xôi ấm tình cô gái Mai Châu, những cô gái miền sơn cước xinh đẹp làm nhiệm
vụ nuôi quân không quản ngại vất vả, hiểm nguy đã để lại trong lòng người lính trẻ
một nỗi nhớ không nguôi. Nỗi nhớ cất lên thành lời tha thiết “Nhớ ôi Tây Tiến
cơm lên khói”. Hai chữ “mùa em” kết tinh cả hương nếp ngày mùa lẫn tình em ấm
áp. Làng bản Mai Châu, bóng hình sơn nữ, hương nếp xôi quyện lại trong hình ảnh
thơ thành nỗi nhớ ngọt ngào, bâng khuâng, lãng mạn trong tâm hồn của người lính trẻ.
Những đêm liên hoan văn nghệ ở doanh trại bừng lên sôi nổi, vui tươi trong ánh
lửa đuốc lung linh, trong âm thanh của tiếng kèn réo rắt, trong tâm hồn say sưa
đắm đuối của người lính trẻ:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Ngọn đuốc rừng thắp sáng đêm liên hoan văn nghệ truyền thống đã thành “hội
đuốc hoa” khiến khung cảnh tuy thiếu thốn mà rực rỡ lung linh bao ước mơ, hạnh
phúc. Hai chữ “kìa em” diễn tả cái nhìn ngỡ ngàng đến say mê, rạo rực của người
lính trẻ. Hình ảnh các cô gái Tây Bắc bất ngờ hiện ra lộng lẫy trong bộ áo xiêm rực
rỡ dưới ánh đuốc lung linh nhưng vẫn giữ nguyên vẻ e ấp, tình tứ trong điệu múa lạ
như múa sạp, múa xòe... trong tiếng khèn mang linh hồn của núi rừng càng trở nên
lôi cuốn. Tâm hồn các chiến sĩ mộng mơ, lãng mạn. Nét đẹp những đêm liên hoan
văn nghệ trên biên cương xa xôi như đã “xây hồn thơ” cho thấy tâm hồn trong
sáng, giàu mộng mơ, giàu lí tưởng trong kí ức của chiến sĩ trẻ. Giọng thơ hân hoan,
say mê hòai niệm nhung nhớ một thời gian khổ mà hào hùng, lãng mạn đầy ắp
nghĩa tình. Qua đó càng cho thấy đời sống tinh thần vô cùng trong sáng, phong
phú, lãng mạn của đoàn quân Tây Tiến ở nơi chiến trường gian khổ ác liệt xưa.
Đặc biệt bức chân dung người lính Tây Tiến được vẽ những nét vẽ phi thường, khác lạ:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Cả đoàn binh không mọc tóc vì sốt rét rừng khắc nghiệt, hoặc vì chủ trương cạo
trọc tóc để tiện cho việc đánh giáp lá cà với địch. Quang Dũng không né tránh hiện
thực của cuộc kháng chiến gian khổ này. Thơ ca kháng chiến chống Pháp cũng
thường nói về căn bệnh sốt rét rừng: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh. Sốt run
người vầng trán ướt mồ hôi” trong Đồng chí của Chính Hữu.
Nhưng Quang Dũng cảm nhận sự thật này trong cảm hứng lãng mạn, anh hùng nên
khắc họa được vẻ đẹp kiêu dũng của người lính vượt lên xem thường mọi gian khổ
thiếu thốn. Từ ngữ mạnh bạo mang âm hưởng mạnh mẽ. Chữ “đoàn binh” có âm
vang và mạnh hơn chữ “đoàn quân”; còn “không mọc tóc” thì gợi nét ngang tàng,
chủ động, hiên ngang lẫm liệt của đoàn quân Tây Tiến trước hoàn cảnh. “Quân
xanh màu lá dữ oai hùm” là màu da xanh xao do sốt rét rừng, nhưng qua nét bút
lãng mạn và cảm hứng anh hùng của Quang Dũng thì màu xanh ấy lại mang vẻ
tươi xanh đầy sức sống của núi rừng. Hình ảnh “mắt trừng gửi mộng qua biên giới”
gợi ánh mắt quyết liệt, hướng đến quân thù, khao khát giết giặc lập công cho tổ
quốc. Nhưng bên ngoài dáng vẻ oai phong đó là tâm hồn trẻ trung, trong sáng, giàu
mộng mơ. “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” – lối diễn đạt này có vẻ cầu kỳ
nhưng phù hợp với tâm hồn những người lính trẻ thu đô xa người yêu đi kháng
chiến. Nhớ về các cô gái hà thành, bóng dáng những thiếu nữ Hà Nội yêu kiều thơ
mộng không hề phai nhạt trong tâm hồn những người lính ngay cả trong khói lửa
chiến tranh. Lãng mạn đó là vẻ đẹp lạc quan, yêu đời của những người lính xuất
thân từ thành thị đi kháng chiến.
Còn bi tráng trong tác phẩm văn học được thể hiện ở việc miêu tả hiện thực, không
né tránh cái bi, tức cái gian khổ, đau thương. Cái bi nhưng không phải là bi lụy mà
là bi tráng, hào hùng. Là cái chết nhưng không bi lụy mà là cái chết hào hùng lẫm
liệt, cái chết đi vào cõi bất tử. Cái bi thường được biểu hiện ở giọng điệu, âm
hưởng, màu sắc tráng lệ hào hùng.
Tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến thể hiện ở chỗ lời thơ không né tránh cái
bi, thường đề cập đến cái chết, nhưng đó không phải là cái chết bi lụy mà là cái
chết hào hùng, mãnh liệt, cái chết của người chiến sĩ đi vào cõi bất tử.
Trên nền thiên nhiên Tây Bắc dữ dội và huyền ảo, nhà thơ tô đậm hình ảnh đoàn
quân Tây Tiến hào hùng và hào hoa bằng bút pháp lãng mạn, nhưng không thoát li
hiện thực và cảm hứng bi tráng. Bài thơ viết về chiến tranh, nhưng Quang Dũng
không hề nói đến trận đánh, tiếng súng. Nhưng người đọc vẫn hình dung được sự
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
khốc liệt của chiến tranh. Bởi bài thơ viết nhiều về sự hi sinh của người lính.
Nhưng bằng ngòi bút tài hoa lãng mạn và cảm hứng bi tráng, Quang Dũng đã miêu
tả điều đó một cách thấm thía, xúc động, hào hùng. Cái chết, sự hi sinh bao giờ
cũng gợi cảm xúc đau thương. Hình ảnh những nấm mồ “rải rác biên cương mồ
viễn xứ” càng nhân lên cảm xúc bi thương đó, nhưng cách Quang Dũng dùng từ
Hán Việt trang trọng đã khiến cái bi thương lạnh lẽo mờ đi. Hơn nữa câu thơ tiếp theo:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Đã khẳng định mạnh mẽ khí phách của tuổi trẻ một thời không chỉ tự nguyện chấp
nhận mà còn vượt lên cái chết, sẵn sàng dâng hiến cả sự sống, cả tuổi trẻ cho nghĩa
lớn của dân tộc. Họ đã ra đi với tất cả lòng say mê của người thanh niên yêu nước,
yêu lý tưởng, dâng hiến cả đời xanh, đời trai trẻ đầy hi vọng của mình cho tổ quốc.
Đây không phải chỉ là cách nói của thơ ca mà thực sự đây là dũng khí tinh thần và
hành động của nhiều thế hệ trong những năm kháng chiến. Với lí tưởng đánh giặc
thanh thản đến lạ lùng như thế thì cái chết có nghĩa lý gì với họ.
Các tráng sĩ xưa ở chốn sa trường từng lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh
thì ở đây các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ của đồng bào tặng hay chỉ
bằng tấm áo đẫm máu và mồ hôi của các anh cũng tạc nên sự hi sinh bất tử. Sự kết
hợp một từ Hán Việt và một từ thuần Việt: “áo bào” khiến tấm áo liệm thân của
liệt sĩ trở nên trang trọng. Sự hi sinh của các anh là “về đất”, về lòng đất mẹ thân
yêu. Một sự hy sinh thầm lặng, thanh thản như một chiến sĩ đã hoàn thành nhiệm
vụ. Giây phút vĩnh biệt đồng đội vang lên không phải bằng lời ngợi ca hay những
giọt nước mắt, mà trong tiếng gầm của dòng Sông Mã như một “khúc độc hành” bi
tráng. Dòng sông được nhân hóa như có linh hồn, có tâm trạng, cất lên tiếng khóc
xót xa, thương tiếc, uất hận căm thù trong âm hưởng dữ dội, hào hùng của Sông
Mã. Sự hi sinh của người lính Tây Tiến thấm đẫm tinh thần bi tráng và đậm đà chất
sử thi. Và từ đây các anh đã hòa quyện vào cỏ cây, sông núi, trở thành hồn thiêng
của đất nước. Bài thơ 3 lần nói đến cái chết, cái chết nào cũng đẹp, nhưng đẹp nhất
là cái chết trang trọng này:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Sang trọng vì được bao bọc trong tấm chiến bào, được về tụ nghĩa với đất mẹ quê
hương và nhất là được thiên nhiên tấu lên khúc nhạc dữ dội và oai hùng để tiễn đưa
hương hồn các chiến sĩ. Ở đây thủ pháp nhân hóa và cường điệu đã đẩy chất bi
tráng lên đến đỉnh cao, kì diệu của nó.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Chất bi tráng làm nên sắc diện bài thơ có mặt trong cả tác phẩm, nhưng nổi rõ và in
dấu đậm nét nhất chính là đoạn Quang Dũng miêu tả chân dung người lính Tây
Tiến. Những cặp hình ảnh đối lập giữa ngoại hình tiều tụy với phong thái “dữ oai
hùm”; giữa “mắt trừng” và “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”; và nhất là sự đối lập
giữa gian khổ, hy sinh với lý tưởng vì nước quên thân khiến sự hi sinh của người
lính Tây Tiến trở nên cao đẹp bi hùng. Chiến trường Tây Tiến ác liệt hoang vu,
nhiều thú dữ, bệnh sốt rét rừng gây nhiều tử vong... Nhiều chiến sĩ ngã xuống trên
con đường hành quân là cái bi, là hiện thực khốc liệt của chiến trường, Quang
Dũng đã không né tránh cái bi nhưng cái bi mang màu sắc, âm hưởng tráng lệ, hào
hùng. Cái tráng này là của Quang Dũng và của cả một lớp trai trẻ sống với bầu
máu nóng: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Cái tráng ấy lại gặp luồng gió yêu
nước của thời đại anh hùng rực lửa nên càng hào hùng, rực rỡ. Đúng là bài thơ đã
lột tả được cái khí phách của một thời đại và chắp cánh cho cái bi tráng bay lên
như một nét đẹp hiếm có của một thời đại thơ.
Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng bao trùm bài thơ làm nên vẻ đẹp riêng
của Tây Tiến, nhưng điều đó do đâu mà có? Ở đây có sự gặp gỡ giữa hồn thơ lãng
mạn, hào hùng của thi nhân cùng nhân vật trữ tình là những người lính Tây Tiến
cũng hào hoa, lãng mạn, với cái thời anh hùng rực lửa của buổi đầu của cuộc
kháng chiến chống Pháp, và chiến trường Tây Tiến ác liệt, dữ dội nhưng lại rất thơ
mộng, trữ tình. Bốn yếu tố khách quan và chủ quan này như đã hội tụ mãnh liệt và
da diết trong nỗi nhớ của Quang Dũng để trào ra cảm hứng lãng mạn và bật thành
tinh thần bi tráng trong phút xuất thần của hồn thơ để sinh ra đứa con đầu lòng hào
hoa tráng kiện - Tây Tiến. Như vậy, cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng luôn
gắn bó với nhau, nâng đỡ nhau, cộng hưởng với nhau làm nên linh hồn bất diệt của
bài thơ và tạo nên vẻ đẹp độc đáo của chân dung người lính Tây Tiến và vẻ đẹp
đặc sắc của thi phẩm. Có những bài thơ đã sống cuộc đời thăng trầm và cũng quá
nhiều truân chuyên, nhưng cuối cùng cũng định hình trong lòng độc giả và khẳng
định giá trị đích thực của mình trong thi ca. Tây Tiến của Quang Dũng là một tác
phẩm như thế. Bài thơ nhớ lại như một kỉ niệm đẹp của thời kháng chiến, bởi đó là
tiếng thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng của một thời đại anh
hùng rực lửa, không thể nào quên.
Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng đã làm nên vẻ đẹp riêng và giá trị bền
vững của bài thơ Tây Tiến. Đó là vẻ đẹp của một thời hoa lửa hào hùng một đi
không trở lại. Những tiếng thơ bi tráng và hồn thơ lãng mạn hào hoa của Quang
Dũng đã kịp ghi lại và giữ cho đời một khung cảnh chiến trường đã đi vào lịch sử -
một tượng đài bất tử bằng thơ về người lính vô danh ưu tú của dân tộc mà người
đọc muôn đời yêu quý, tự hào.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 5
Nhắc đến nhà thơ Quang Dũng không ai không thể ko nhớ đến Tây Tiến. Bởi lẽ nó
đã gắn bó một thời sâu sắc với nhà thơ, một kiệt tác văn học. Quang Dũng là nhà
thơ tiêu biểu của chùm thơ chiến sĩ. Với lời thơ hào hùng, lãng mạn những sáng tác
của ông đều để lại âm vang trong lòng người đọc cho đến tận ngày nay. Và "Tây
Tiến" là một trong những tác phẩm như thế.
Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó
là một đơn vị thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào
để bảo vệ biên giới Việt - Lào, đánh tiêu hao địch ở Thượng lào để hỗ trợ cho cuộc
kháng chiến ở những vùng khác trên đất Lào. Địa bàn hoạt động của đoàn quân
Tây Tiến khá rộng, bao gồm vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam và Thượng Lào: từ
Châu Mai, Châu Mộc sang tận Sầm Nứa rồi vòng về qua miền tây Thanh Hoá.
những nơi này lúc đó còn rất hoang vu và hiểm trở, núi cao, sông sâu, rừng dày, nhiều thú dữ.
Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, thuộc nhiều tầng lớp
khác nhau, trong đó có cả những học sinh, sinh viên (Quang Dũng thuộc số này).
Sinh hoạt của những người lính Tây Tiến hết sức gian khổ, ốm đau không có thuốc
men, tử vong vì sốt rét nhiều hơn là vì đánh trận. Tuy vậy, họ vẫn sống rất lạc quan
và chiến đấu dũng cảm. Vượt lên trên mọi thử thách khắc nghiệt của chiến tranh và
hoàn cảnh sống cực kỳ gian khổ, họ vẫn giữ được cái cốt cách hào hoa, thanh lịch,
rất yêu đời và cũng rất lãng mạn.
Bài thơ “Tây Tiến” có hai đặc điểm nổi bật: cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.
Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở "cái tôi" đầy tình cảm, cảm xúc của nhà thơ. Nó
phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yếu tố cường điệu và
phóng đại, những thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng
mạnh mẽ về cái hùng vĩ và cái tuyệt mĩ.
Thiên nhiên Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với
vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp.
Hình ảnh những cô gái, những con người Tây Bắc càng tô đậm thêm chất huyền bí,
thơ mộng của núi rừng. Chất lãng mạn được thể hiện chủ yếu ở cảm hứng hướng
tới cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hy sinh tất cả cho lí tưởng chung của cộng đồng, của toàn dân tộc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
“Tây Tiến” không hề che giấu cái bi. Nhưng bi mà không bi lụy. Cái bi được thể
hiện bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng. Chất lãng mạn
hòa hợp với chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ. Cảm xúc chủ đạo
xuyên suốt bài thơ là một nỗi nhớ da diết, bao trùm lên cả không gian và thời gian:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, không kìm nén nổi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng
gọi. Hai chữ “chơi vơi” như vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình tượng hoá nỗi
nhớ, khơi nguồn cho cảnh núi cao, sông sâu, vực thẳm, rừng dày… liên tiếp xuất
hiện ở những câu thơ sau:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Khổ thơ này là một bằng chứng “thi trung hữu họa” (trong thơ có họa). Chỉ bằng
bốn câu thơ, Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh hoành tráng diễn tả rất đạt sự
hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng Tây Bắc, địa bàn hoạt động
của đoàn quân Tây Tiến. Hai câu thơ đầu, những từ đầy giá trị tạo hình “khúc
khuỷu”, “thăm thẳm”, “cồn mây”, “súng ngửi trời” đã diễn tả thật đắc địa sự hiểm
trở, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đèo Tây Bắc. Hai chữ “ngửi trời” được
dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh nghịch
của người lính. Núi cao tưởng chừng chạm mây, mây nổi thành cồn “heo hút”.
Người lính trèo lên những ngọn núi cao dường như đang đi trên mây, mũi súng
chạm tới đỉnh trời. Câu thứ ba như bẻ đôi, diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần
như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm.
Nếu như câu thứ ba nhìn lên và nhìn xuống thì câu thứ tư là nhìn ngang. Có thể
hình dung cảnh những người lính tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt
ngang ra xa qua một không gian mịt mùng sương rừng mưa núi thấp thoáng những
ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi. Bốn câu thơ này phối hợp với
nhau, tạo nên một âm hưởng đặc biệt. Sau ba câu thơ được vẽ bằng những nét gân
guốc, câu thứ tư được vẽ bằng một nét vẽ rất mềm mại (câu thứ tư toàn thanh
bằng). Quy luật này cũng giống như cách sử dụng những gam màu trong hội hoạ:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
giữa những gam màu nóng, tác giả sử dụng một gam màu lạnh làm dịu lại, như xoa mát cả khổ thơ.
Cái vẻ hoang dại dữ dội, chứa đầy bí mật ghê gớm của núi rừng Tây Bắc được nhà
thơ tiếp tục khai thác. Nó không chỉ được mở ra theo chiều không gian mà còn
được khám phá ở cả chiều thời gian, luôn luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với con người:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Vậy là cảnh núi rừng Tây Bắc hoang sơ và hiểm trở, qua ngòi bút Quang Dũng,
hiện lên với đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi, thác gầm, cọp
dữ… những tên đất lạ Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, những hình
ảnh đầy giá trị tạo hình, những câu thơ nhiều vần trắc đọc lên nghe vất vả và nhọc
nhằn được xoa dịu bằng những câu thơ có nhiều vần bằng ở cuối mỗi khổ thơ, đã
phối hợp với nhau thật ăn ý, làm hiện hình lên thế giới khác thường vừa đa dạng,
vưà độc đáo của núi rừng Tây Bắc. Đoạn thơ kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt suối, lội đèo,
những người lính tạm dừng chân, được nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó, quây
quần bên những nồi cơm đang bốc khói. Khói cơm nghi ngút và hương thơm lúa
nếp ngày mùa xua tan vẻ mệt mỏi trên gương mặt những người lính, khiến họ tươi
tỉnh hẳn lên. Hai câu thơ này tạo nên một cảm giác êm dịu, ấm áo, chuẩn bị tâm thế
cho người đọc bước sang đoạn thơ thứ hai.
Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của Tây Bắc. Cảnh núi rừng hoang vu,
hiểm trở, dữ dội lùi dần rồi khuất hẳn để bất ngờ hiện ra vẻ mỹ lệ, thơ mộng, duyên
dáng của miền đất này. Những nét vẽ táo bạo, khoẻ, gân guốc ở đoạn thơ đầu, đến
đoạn thơ này được thay bằng những nét mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. Và ngòi
bút tài hoa của Quang Dũng cũng được bộc lộ rõ nhất trong đoạn thơ này. Hồn thơ
lãng mạn của Quang Dũng bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của
con người và cảnh vật nơi xứ lạ, phương xa.
Cảnh ấy, người ấy được thể hiện lên trong một thời gian làm nổi rõ nhất vẻ lung
linh, huyền ảo của nó: cảnh một đêm liên hoan lửa đuốc bập bùng và cảnh một
buổi chiều sương phủ trên sông nước mênh mang. Cảnh một đêm liên hoan văn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
nghệ của những người lính Tây Tiến có đồng bào địa phương đến góp vui được
miêu tả bằng những chi tiết rất thực mà cũng rất mộng, rất ảo:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu buồn e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Cả doanh trại “bừng sáng” gợi sự tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt
đầu. Trong ánh sáng lung linh của ngọn lửa đuốc trong âm thanh réo rắt của tiếng
khèn, cả cảnh vật, cả con người đều như ngả nghiêng, bốc men say, ngất ngây, rạo
rực. Hai chữ “kìa em” thể hiện một cái nhìn vừa ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vừa mê
say, vui sướng. Nhân vật trung tâm, linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái nơi
núi rừng tây bắc bất ngờ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy vừa e thẹn, vừa
tình tứ trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ đã thu hút cả hồn viá những chàng trai
Tây Tiến. Nếu cảnh một đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí mê say,
ngây ngất thì cảnh sông nước Tây Bắc lại gợi lên được cái cảm giác mênh mang, mờ ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Không gian dòng sông trong một buổi chiều giăng mắc một màu sương. Sông
nước, bến bờ lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử. Trên dòng sông đậm màu sắc cổ
tích, huyền thoại ấy, nổi bật lên dáng hình mềm mại, uyển chuyển của một cô gái
Thái trên chiếc thuyền độc mộc. Và như hòa hợp với con người, những bông hoa
rừng cũng "đong đưa" làm duyên trên dòng nước lũ. Ngòi bút tài hoa của Quang
Dũng không tả mà chỉ gợi, vậy mà cảnh vật thiên nhiên xứ sở qua ngòi bút của ông
như có hồn phảng phất trong gió, trong cây. Ông không chỉ làm hiện lên trước mắt
người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn gợi lên cái phần thiêng liêng của cảnh
vật. Đọc đến đoạn thơ này ta như lạc vào thế giới của cái đẹp, thế giới của cõi mơ,
của âm nhạc. Bốn câu thơ đầu ngân nga như tiếng hát, như nhạc điệu cất lên tự tâm
hồn ngây ngất, say mê của những người lính Tây Tiến. Hơn ở đâu hết, trong đoạn
thơ này, chất thơ và chất nhạc hòa quyện với nhau đến mức khó mà tách biệt. Trên
cái nền hùng vĩ, hiểm trở của núi rừng và duyên dáng, thơ mộng, mĩ lệ của Tây
Bắc, đến đoạn thơ thứ ba, hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến xuất hiện
với một vẻ đẹp đầy tính chất bi tráng:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Quang Dũng đã chọn lọc, đã tinh lọc những nét tiêu biểu nhất của những người
lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể đặng khái quát được cái gương mặt
chung của cả đoàn quân. Cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yếu của bức tượng
đài, chúng hòa quyện, xâm nhập vào nhau, nương tựa, nâng đỡ nhau, tạo nên vẻ
đẹp bi tráng - cái thần thái chung của cả bức tượng đài. Thơ ca thời kháng chiến
chỉ viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu
trong bài “Đồng chí” đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Còn Tố Hữu, khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài “Cá nước” với những hình ảnh thật cụ thể:
Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Cũng không quên ảnh hưởng của thứ bệnh quái ác đó. Quang Dũng trong Tây Tiến
không hề che giấu gian khổ, khó khăn, những căn bệnh hiểm nghèo và sự hy sinh
lớn lao của người lính. Chỉ có điều, tất cả những cái đó, qua ngòi bút của ông,
không được miêu tả một cách trần trụi mà qua một cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn.
Những cái đầu không mọc tóc của người lính Tây Tiến đâu phải là hình ảnh ly kỳ,
giật gân, sản phẩm của trí tưởng tượng bịa đặt của nhà thơ mà chứa đựng một sự
thật nghiệt ngã. Những người lính Tây Tiến người thì cạo trọc đầu để thuận tiện
khi đánh nhau giáp lá cà với địch, người thì bị sốt rét đến rụng tóc trọc đầu.
Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của
Quang Dũng vẫn toát lên cái oai phong dữ dằn của những con hổ nơi rừng thiêng.
Cái vẻ oai phong, lẫm liệt ấy còn được thể hiện qua ánh mắt giận dữ “mắt trừng
gửi mộng” của họ. Những người lính Tây Tiến, qua ngòi bút của Quang Dũng,
không phải là những người khổng lồ không tim. Cái nhìn nhiều chiều của Quang
Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng dữ dằn bề ngoài của họ, là
những tâm hồn, những trái tim rạo rực, khao khát yêu đương (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm).
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Như vậy, trong khổ thơ này, Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài tập thể những
người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bên ngoài
mà còn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ. Ngòi bút
của Quang Dũng khi dựng lên hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến
không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi
khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh
thần lãng mạn. Chính vì vậy mà cái bi thương được gọi lên qua hình ảnh của
những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, xa xôi, một mặt
đã được giảm nhẹ đi nhiều nhờ những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: “Rải rác
biên cương mồ viễn xứ” mặt khác, chính cái bi thương ấy cũng lại bị mờ đi trước lí
tưởng quên mình, xả thân vì tổ quốc của những người lính Tây Tiến (Chiến trường
đi chẳng tiếc đời xanh).
Những người lính tây Tiến tiều tụy, tàn tạ trong hình hài nhưng vẫn chói ngời vẻ
đẹp lí tưởng, mang dáng dấp của những người tráng sĩ thuở xưa, coi nhẹ cái chết
tựa lông hồng. Cái sự thật bi thương: những người lính Tây Tiến gục ngã bên
đường không có cả đến manh chiếu để che thân, qua cái nhìn của Quang Dũng, lại
được bọc trong những tấm áo bào sang trọng. Cái bi thương ấy vợi đi nhờ cách nói
giảm “anh về đất” và rồi bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Trong cái âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên ấy, cái chết, sự hy
sinh của những người lính Tây Tiến không bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng.
Giọng điệu chủ đạo của đoạn thơ thứ ba này sang trọng, thể hiện tình cảm đau
thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội.
Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ, một lần nữa, tô đậm thêm không khí chung của
cái thời Tây Tiến, tinh thần chung của những người lính Tây Tiến. Nhịp thơ chậm,
giọng thơ buồn, nhưng cái linh hồn của đoạn thơ thì vẫn toát lên vẻ hào hùng:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi
Cái tinh thần “nhất khứ bất phục hoàn” thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm của
cả đoàn quân Tây Tiến. Tâm hồn, tình cảm của những người lính Tây Tiến vẫn gắn
bó máu thịt với những ngày Tây Tiến, những nơi mà Tây Tiến đã qua. “Tây Tiến
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
mùa xuân ấy” đã thành một thời điểm một đi không trở lại. Lịch sử dân tộc không
bao giờ lặp lại cái thời thơ mộng, lãng mạn, hào hùng đến nhường ấy trong một
hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.
Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 6
Quang Dũng là nhà thơ tài hoa với cái tôi lãng mạn, trữ tình, bay bổng. Thơ ông
luôn đậm chất trữ tình, đậm tình người, gieo vào lòng người nhiều dư vị riêng. Bài
thơ “Tây Tiến” rút trong tập “Mây đầu ô” là bản anh hùng ca bi tráng và lãng mạn
của quân và dân ta trong cuộc chiến chống quân xâm lược.
Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở “cái tôi” đầy tình cảm, cảm xúc của nhà thơ. Nó
phát huy cao độ trí tưởng tượng, những thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi thường,
tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hùng vĩ và cái tuyệt mĩ. Đó là cái tài hoa của
Quang Dũng. Có thể nói đây là dòng cảm hứng xuyên suốt bài thơ, đọng lại trong
lòng người nghe những thanh vang về nét đẹp con người, thiên nhiên Tây Bắc.
Thiên nhiên nơi đây hiện lên thật nên thơ, trữ tình:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Là tiếng nói, là tiếng lòng, là nỗi nhớ “chơi vơi” của tác giả khi trong lòng cứ canh
cánh tình yêu đối với mảnh đất này. Một chữ “ơi” nặng tựa nghìn non, một chữ
“ơi” khiến cho câu thơ chùng xuống. Hình ảnh vừa hùng vĩ, vừa nên thơ của núi
rừng Tây Bắc lần lượt hiện về qua từng câu chữ. Dường như thiên nhiên đất trời đã
hòa quyện trong nỗi nhớ da diết của tác giả. Một nỗi nhớ chẳng thể gọi thành tên
Từ cảm hứng lãng mạn chủ đạo đó Quang Dũng đã vẽ nên một bức tranh hùng
tráng của mảnh đất này:
Dốc lên khúc khủyu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Chỉ bằng vài nét bút nhưng Quang Dũng đã đủ sức vẽ lên một bức tranh hùng
trang, đầy hiểm trở, khúc khuỷu của núi rừng Tây Bắc. Tác giả đã đặt hai từ láy
“khúc khuỷu” và “thăm thẳm” ở cạnh nhau như một dụng ý nghệ thuật nhằm tôn
lên vẻ đẹp hùng tráng không nơi nào có được của Tây Bắc. Đặc biệt hình ảnh
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
“súng ngửi trời” rất có sức nặng trong đoạn thơ. Nó khiến người đọc liên tưởng
đến bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu với hình ảnh “Đầu súng trăng treo”.
Thực ra hình ảnh “súng ngửi trời” vừa mang ý nghĩa lãng mạng vừa gợi lên chiều
cao, sự hùng vĩ của thiên nhiên. Một sự kết hợp rất hoàn hảo. Trong không khí
chiến tranh đang diễn ra ác liệt như vậy nhưng dường như tinh thần lãng mạn đối
với những người lính vẫn luôn tràn đầy.
Hình ảnh trùng điệp, tuyệt đẹp của dòng thác chảy mạnh nơi sườn núi khiến người
đọc như lạc vào một thế giới khác. Câu thơ như bị bẻ đôi thành hai mảnh. Câu thơ
cuối đoạn lắng lại trong lòng người đọc một chút bình yên, lãng mạn, dịu êm nhất.
Sự mệt mỏi của người lính tiêu tan đi khi nhìn thấy màn mưa trắng xóa ở nơi xa.
Sự hùng hồn, bi tráng trong thơ Quang Dũng còn được thể hiện ở nhiều tầng lớp khác nữa:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Hai từ láy chỉ thời gian “chiều chiều” và “đêm đêm’ đã gợi mở ra một không gian
vừa có chiều dài vừa có chiều sâu với thanh âm dữ tợn nơi núi rừng.
Và bỗng nhiên ở hai câu thơ tiếp, giọng thơ bỗng nhiên đột ngột chuyển đổi với
cuộc sống bình dị, ấm êm nơi xứ người:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Thật trữ tình và nên thơ, một bức tranh về cuộc sống sinh hoạt của người dân vùng cao tuyệt đẹp.
Đến đoạn thơ thứ hai, dường như khung cảnh hùng trang đã dần nhường chỗ cho
không gian tráng lệ, tuyệt đẹp nơi đây:
Đêm trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Không gian nơi đây bỗng nhiên sáng hẳn lên với từ “bừng” như lan tỏa sự dịu mát
và ngọt lành. Cuộc sống bộn bề nhưng cái tâm, cái tình của người dân nơi đây
dành cho những người lính thật chân thật, mộc mạc.
Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng đã phác họa thành công bức tranh hùng tráng,
lãng mạn, trữ tình của mảnh đất Tây Tiến. Chặng đường chiến đấu của người lính
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
còn rất gian nan, nhưng trong trái tim họ vẫn luôn giữ được sự lạc quan, tin tưởng và yêu đời:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm
Chỉ bốn câu thơ thôi nhưng đã lột tả được rất nhiều điều về tinh thần, lòng dũng
cảm, lòng tin yêu và hơn hết là tinh thần quyết tâm cống hiến cho đất nước. Dù
gian khổ nhưng bên trong những chàng trai hà thành này vẫn luôn tràn đầy mộng
mơ, trữ tình. Chiến tranh luôn gắn liền với chết chóc nhưng trong thơ của Quang
Dũng không hề bi lụy, không hề có nước mắt. Đó chính là tinh thần đáng quý của anh bộ đội cụ hồ.
Thật vậy, chạy dọc theo bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng người đọc nhận ra
cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng dường như là điểm sáng cho cả bài thơ.
Một bài thơ đẹp, một bài thơ hay đủ sức nặng neo giữ vào lòng người.
Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 7
Quang Dũng là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến
chống thực dân Pháp. Xuất thân từ một người trí thức trẻ sống trong thời chiến,
Quang Dũng cũng là một người chiến sĩ cách mạng. Tây Tiến là một bài thơ đặc
sắc của Quang Dũng viết về nỗi nhớ của ông với đoàn quân Tây Tiến ông đã gắn
bó một thời gian dài cùng hình ảnh người lính trải qua bao khó khăn trên con
đường hành quân gian khổ vẫn yêu đời, lãng mạn và quả cảm. Cảm hứng lãng mạn
và tinh thần bi tráng tạo nên đặc sắc và thành công cho bài thơ.
Bao trùm bài thơ Tây Tiến trước tiên là cảm hứng lãng mạn đã đi vào trái tim
người đọc. Cảm hứng lãng mạn này đến từ cái tôi trữ tình của nhà thơ Quang
Dũng. Nếu tìm hiểu về nhà thơ Quang Dũng, chúng ta sẽ hiểu thêm về tâm hồn và
con người ông ảnh hưởng đến thơ ca như thế nào. Quang Dũng vốn rất đa tài, ông
không chỉ làm thơ mà còn vẽ tranh, soạn nhạc. Ông cũng như những người lính
Tây Tiến cùng xuất thân từ những người trí thức trẻ, họ là học sinh, sinh viên Hà
Nội gác bút nghiên lên đường chiến đấu. Bởi thế họ vốn có tâm hồn trẻ trung, hào hoa và lãng mạn.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Ngay từ những câu đầu của bài thơ, cảm hứng lãng mạn đã bao trùm bởi nỗi nhớ
da diết về đoàn binh Tây Tiến cùng hình ảnh nước non hùng vĩ, nên thơ của trên con đường hành quân:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Nỗi nhớ của nhà thơ hiện lên trong bài thơ dạt dào, chơi vơi. Nhà thơ gọi “Tây
Tiến ơi” như tiếng gọi thân thương tới những người đồng chí, đồng đội. Đó cũng là
tiếng gọi về những miền ký ức xa xôi, thẳm sâu trong trái tim người lính Quang
Dũng. Hai từ “chơi vơi” khiến cho tiếng gọi như kéo dài hơn, thổn thức hơn. Cùng
với nỗi nhớ đầy ắp, mãnh liệt, hình ảnh của nước non hùng vĩ, nên thơ dần hiện lên
qua cái nhìn bay bổng, lãng mạn của tâm hồn Quang Dũng. Những cơn mưa “nhà
ai Pha Luông mưa xa khơi” vẽ lên bức tranh núi cao bên dưới là những ngôi nhà
thấp thoáng trong mưa bước vào trang thơ Quang Dũng thật đẹp. Miên man trong
nỗi nhớ, với tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, nhà thơ phải thốt lên “Ôi Tây Tiến” với
những kỷ niệm về “cơm lên khói” cùng mùa em với hương “thơm nếp xôi”. Dù
cuộc hành quân có khó khăn gian khổ đến đâu, thì nhà thơ cũng như những người
lính Tây Tiến vẫn cảm nhận được vẻ đẹp rất đỗi bình dị, thân thương trên con
đường anh bước. Vẻ đẹp bình dị áy đến từ những cái rất đỗi nhỏ bé như những
“chiều sương” bảng lảng, vấn vương lên áo, lên tóc các anh, những “hồn lau” phất
phơ bến bờ hay những bông hoa ban, hoa rừng “hoa đong đưa” bên “dòng nước
lũ”. Phải là một người có tâm hồn lãng mạn, hào hoa lắm mới có thể nhận ra những
vẻ đẹp tuyệt vời ấy. Đó đều là những hình ảnh thơ giàu sức gợi và gây ấn tượng đối với người đọc.
Cảm hứng lãng mạn xuyên suốt còn thể hiện ở sự trẻ trung, tâm hồn nhạy cảm, tinh
tế, lãng mạn của người lính xuất thân từ mái trường Hà Nội. Chính sự trẻ trung,
yêu đời của người lính đã mang đến những liên tưởng, ví von hết sức độc đáo như
hình ảnh “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” hay cách nói “súng ngửi trời” rất
đáng yêu. Sự lãng mạn, trẻ trung còn thể hiện ở sự vui vẻ, cùng hòa mình vào
không gian đêm liên hoan văn nghệ ấm tình quân dân, những ngọn lửa cháy bập
bùng trên cây đuốc kia chẳng khác nào những bông hoa lửa đang đua nhau phát
sáng. Phải là một người có tâm hồn lãng mạn mới có những cách ví von và liên
tưởng thú vị đến thế. Trong cái ánh sáng bừng lên cùng không khí ấm áp đêm lửa
trại, hình ảnh những cô gái miền sơn cước hiện lên thật lộng lẫy với “xiêm áo”
nhiều màu sắc sặc sỡ. Vẻ đẹp ấy hiện lên trước sự ngỡ ngàng của những chàng trai
Hà Thành với tâm hồn tinh tế. Bức tranh đêm lửa trại thật ấm áp, vui vẻ với đủ
màu sắc, ánh sáng và âm thanh. Với tâm hồn tinh tế, những khúc nhạc rộn ràng
giúp người lính “xây hồn thơ”. Không chỉ có thế, các anh còn mơ về Hà Nội với
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
những “dáng kiều thơm”. Hình ảnh giấc mơ của người lính hiện lên thật lãng mạn,
đậm chất của những người thanh niên học sinh, sinh viên trẻ bước đi theo tiếng gọi
của tổ quốc thiêng liêng.
Bên cạnh cảm hứng lãng mạn, thì tinh thần bi tráng cũng là nét đặc sắc tạo nên
thành công cho bài thơ Tây Tiến. Bi tráng là trong cái buồn đau nhưng vẫn rất hào
hùng, mạnh mẽ chứ không hề đau thương, bi lụy. Bài thơ đã nói lên những khó
khăn, gian khổ mà những người chiến sĩ phải vuọt qua. Đó là những dốc núi thăm
thẳm, cao chót vót “”dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”, sự heo hút và đe dọa bởi
thú dữ trong rừng sâu “cọp trêu người” và cả những dịch bệnh sốt rét nơi rừng
hoang sương muối khiến tóc không mọc, da xanh xao như lá. Thậm chí, các anh
còn phải đối mặt với cái chết.
Nhà thơ không hề né tránh cái chết mà từ đó khẳng định sự quả cảm hi sinh của
những người lính Tây Tiến. Những người lính vẫn oai phong “giữ oai hùm”. Đứng
trước cái chết, những người lính Tây Tiến vẫn “chẳng tiếc đời xanh”.Đó là tinh
thần “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” một thời bom đạn. Đặc biệt màu sắc tráng
lệ, hào hùng được thể hiện ở cái chết hào hùng, bất tử của đoàn quân Tây Tiến.
Những nấm mồ nơi biên cương qua cách miêu tả của nhà thơ không hề bi lụy mà
rất oai hùng. Nơi biên cương xa xôi, các anh hi sinh được khoác trên mình chiếc áo
bào oanh liệt như một vị tướng thời xưa và được trở về với đất mẹ thiêng liêng.
Bằng cách sử dụng từ ngữ hán việt, hình ảnh sự hi sinh của người lính mang hơi
hướng cổ kính, tạo nên một âm hưởng bi tráng, hào hùng rực rỡ. Chất bi tráng, chất
sử thi đặc sắc lên đỉnh cao khi đất nước tiễn đưa các anh bằng khúc tráng ca oai
phong, lẫm liệt trong hình ảnh “sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Tinh thần bi
tráng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp một thời rực lửa của những con người trẻ tuổi mang
đầy nhiệt huyết, quả cảm, vì tổ quốc không tiếc thân mình.
“Tây Tiến” là một bài thơ đặc sắc thể hiện chân dung người lính Tây Tiến lãng
mạn, hào hoa mà vẫn hiên ngang, quả cảm quyết hi sinh thân mình cho tổ quốc tự
do. Cảm hững lãng mạn và tinh thần bi tráng bao trùm bài thơ đã làm nên thành
công của tác phẩm, khẳng định giá trị trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam và để
lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong trái tim người đọc về một thời khói lửa, can qua.
Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 8
Quang Dũng là nhà thơ quân đội và tài hoa về nhiều lĩnh vực, nhưng nổi bật hơn cả
là khả năng thơ ca. Thơ ông luôn thể hiện một cái tôi hào hoa thanh lịch, giàu chất
lãng mạn, có khả năng diễn tả và cảm nhận tinh tế vẻ đẹp của thiên nhiên và tình
người, đồng thời lại rất mực hồn nhiên, chân thật.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Bài “Tây Tiến” tiêu biểu cho hồn thơ ấy của Quang Dũng. Bài thơ được rút trong
tập thơ Mây đầu ô, được ông viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh, sau khi ông đã
chuyển sang đơn vị khác và nhớ về đoàn quân Tây Tiến ngày nào.
Bài thơ thành công về nhiều phương diện, nhưng đặc sắc tổng thể của nó là cảm
hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng:
Bức chân dung kiêu hùng của người lính Tây Tiến được viết nên bởi cảm hứng
lãng mạn qua cái nền hùng vĩ và thơ mộng của núi rừng hoang vu, bạt ngàn ở phía
Tây của Tổ quốc. Người lính vượt qua đèo núi cao, suối sâu với tư thế đẹp, hùng
dũng với nỗi nhớ "chơi vơi","heo hút cồn mây súng ngửi trời", với "Mường Lát
hoa về trong đêm hơi", "mưa xa khơi".
Bút pháp lãng mạn còn thể hiện qua âm thanh ghê rợn của "thác gầm thét", "cọp
trêu người" nhằm tô đậm vẻ hoang dại, bí hiểm của rừng thiêng nước độc, rồi đột
ngột mở ra một nỗi nhớ ấm áp.
Thực ảo đan xen trong đêm liên hoan "bừng lên hội đuốc hoa" với cái nhìn ngơ
ngác "kìa em xiêm áo tự bao giờ". Từ cảnh liên hoan chuyển sang cảnh sông nước
đầy chất thơ bằng bút pháp chấm phá tinh tế, cảnh như được phủ lên màn sương
huyền thoại, da diết hồn của ngàn lau... giống như một bức cổ họa.
Hùng vĩ gắn với thơ mộng là cái nhìn riêng của chất lãng mạn Quang Dũng. Qua
cảnh để nói về hòai niệm, tạo nên một tình yêu bâng khuâng của tác giả đối với
vùng đất một thời gắn bó sâu sắc.
Trên cái nền thiên nhiên hùng vĩ và diễm lệ, người lính xuất hiện với cái tầm vóc
bi tráng khác thường "không mọc tóc", "xanh màu lá dữ oai hùm", "mắt trừng gửi mộng qua biên giới".
Bốn câu thơ tiếp theo nói về cái chết cũng khác thường "rải rác biên cương mồ
viễn xứ/ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh/ Áo bào thay chiếu anh về đất...". Hai
khổ thơ tạo hình dữ dội nói lên cái tột cùng cơ cực, lẫn cái lẫm liệt kiêu hùng. Đến
cái chết cũng được tác giả bao bọc trong không khí hoành tráng, hiệp sĩ. Từ Hán
Việt được sử dụng tạo âm hưởng bi hùng. Chính nhờ cảm hứng lãng mạn đã tạo
nên ở Quang Dũng cái nhìn có tính anh hùng cổ điển trước cái chết của người lính.
Tác giả nhìn thẳng vào sự thật.
Cảm hứng lãng mạn và sắc thái bi tráng tạo nên tính sử thi đặc biệt của bài thơ.
Bức chân dung người lính hào hoa, dũng cảm trên cái nền hùng vĩ, mĩ lệ được tác
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
giả hướng hồn thơ ngưng đọng cả một thế hệ anh hùng - những người lính "quyết
tử cho tổ quốc quyết sinh".
Tây Tiến là bài thơ hay viết về người lính gốc Hà Nội thời kháng chiến chống thực
dân Pháp. Bài thơ góp tiếng nói độc đáo cũng như kháng chiến viết về người lính
của Hồng Nguyên, Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi làm thành mảng riêng đặc sắc trong nền thơ chung.
Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 9
Ở trong thơ Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về
người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm
lược nước ta. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng
ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian
"Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc - Quân xanh màu lá dữ oai hùm - Mắt trừng
gửi mộng qua biên giới - Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm - Rải rác biên cương mồ
viễn xứ - Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh - áo bào thay chiếu anh về đất - Sông
Mã gầm lên khúc độc hành"
"Tây Tiến" của Quang Dũng là dòng hồi ức vô cùng thương nhớ về những đồng
đội của nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng có người
đã hy sinh, những người đã trở về với đất mẹ yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng
là những người mãi mãi nằm lại nơi biên cương hay miền viễn xứ. Chính vì thế
Quang Dũng không chỉ dựng lại cả một hình ảnh của đoàn binh Tây Tiến trên
những chặng đường hành quân gian khổ hy sinh mà "đời vẫn cứ tươi" như ở 14
dòng thơ đầu tiên. Và Quang Dũng cũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của những
người lính với một đời sống tình cảm hết sức phong phú, những tình cảm lớn lao là
tình quân dân. Quang Dũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người
lính Tây Tiến trong tác phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ
giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý
nghĩa để tạo ấn tượng mạnh để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc
hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dân tộc. Đó là bức tượng đài
sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu thơ:
Tây Tiến đoàn quân… khúc độc hành
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc hoạ lên từ những đường
nét nhằm tô đậm cuộc sống gian khổ của họ. Nếu như ở những đoạn thơ trước đó
người lính mới chỉ hiện ra trong đoàn quân mỏi trong câu:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Hay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm
tình cá nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh như lá rừng.
Cảm hứng chân thực của Quang Dũng đã không né tránh việc mô tả cuộc sống
gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không
thể mọc được (chứ không phải họ cố tình cạo trọc để đánh giáp lá cà cho dễ như
nhiều người từng nói). Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây (chứ không
phải họ xanh màu lá ngụy trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tụy. Nhưng thế giới
tinh thần của người lính lại cho thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng,
họ còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh như hổ báo,
hùm beo. Cái giỏi của Quang Dũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ
tiều tụy nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc" với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu
của câu thơ như "tiến", "mọc tóc". Nhờ những thanh trắc ấy mà âm hưởng của câu
thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. Hai chữ "đoàn binh" âm
Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. Và đặc biệt hai
chữ "Tây Tiến" mở đầu câu thơ không chỉ còn là tên gọi của đoàn binh nữa, nó gợi
ra hình ảnh một đoàn binh dù đầu không mọc tóc vẫn đang quả cảm tiến bước về
phía Tây. Thủ pháp tương phản mà Quang Dũng sử dụng ở câu thơ "Quân xanh
màu lá dữ oai hùm" không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính
mà còn thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. ở đây, nhà thơ không chỉ muốn nói
rằng những người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm, không phải muốn "động vật
hoá" người lính Tây Tiến mà muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng
một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi người
anh hùng vệ quốc trong câu thơ:
hoành sóc giang san cáp kỷ thu
Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu
Và ngay cả Hồ Chí Minh trong "Đăng sơn" cũng viết:
Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu
Thể diện sài long xâm lược quân
Có thể nói Quang Dũng đã sử dụng một mô típ mang đậm màu sắc phương Đông
để câu thơ mang âm vang của lịch sử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
với sức mạnh truyền thống của dân tộc. Đọc câu thơ: "Quân xanh màu lá dữ oai
hùm" ta như nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông á.
Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng nhiên trở nên rất đẹp khi Quang Dũng bổ
sung vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về Tổ quốc, hướng về Thủ đô.
Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng
về Hà Nội. Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:
Từ thuở mang gươm đi mở nước
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long
Người lính Tây Tiến dẫu "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" mà niềm thương nỗi
nhớ vẫn hướng về một "dáng kiều thơm". Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta
phê phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức
mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của
con người Việt Nam. Quang Dũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc -
những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người
có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng
cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian
khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều
thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng Long xưa.
Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng
tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật
và tạo được những ấn tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng của thơ Quang Dũng.
Nếu như ở bốn câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn
binh với những bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm
hồn hết sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc
bằng những đường nét nổi bật về sự hy sinh của họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ
phân tích từng hình ảnh riêng rẽ độc lập, người ta dễ cảm nhận một cách bi luỵ về
cái chết của người lính mà thơ ca kháng chiến thuở ấy rất ít khi nói đến. Bởi thơ ca
kháng chiến phần lớn chỉ quan tâm đến cái hùng mà không quan tâm đến cái bi.
Nhưng nếu đặt các hình ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu
Quang Dũng đã mô tả một cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng.
Có thể thấy câu thơ: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" nếu tách riêng ra rất dễ gây
cảm giác nặng nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ của người lính Tây
Tiến ở nơi "viễn xứ". Từng chữ từng chữ dường như mỗi lúc một nhấn thêm nốt
nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ. Chẳng phải thế sao? Nói về những nấm mồ, lại
là những nấm mồ "rải rác" dễ gợi sự hoang lạnh, lại là "rải rác" nơi "viễn xứ",
những nấm mồ ấy càng gợi sự cô đơn côi cút. Quang Dũng muốn nói tới nơi yên
nghỉ của những người đồng đội:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời Trong Chinh phụ ngâm:
Hồn tử sĩ gió về ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn
Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên
cương đã trở về với sự ấm cúng của niềm biết ơn của nhân dân, của đất nước. Bởi
đó chính là nấm mồ của những người con anh dũng:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Đồng thời cũng chính câu thơ thứ hai đã làm cho những nấm mồ rải rác kia được
nâng lên những tầng cao của đài tưởng niệm, của Tổ quốc đối với người lính đã vì
tiếng gọi của chiến trường mà hiến dâng tuổi xanh của mình. Trong thơ Quang
Dũng luôn là một sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh như vậy.
Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Bao nhiêu thương yêu của Quang Dũng trong một câu thơ như vậy về một đồng
đội của mình. Ai bảo Quang Dũng không xót thương những người đồng đội của
mình ra đi trong cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó khăn, cái
thuở những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận. Lại
trong cảnh kháng chiến còn rất khó khăn nên tiễn đưa người chết không có cả một
chiếc quan tài. hoàng Lộc trong "Viếng bạn" cũng đã viết về cảnh tiễn đưa như thế:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Ở đây không manh ván
Chôn anh bằng tấm chăn
Của đồng bào Cứa Ngàn
Tặng tôi ngày sơ tán
Chỉ có điều câu thơ của Quang Dũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên
thành cảm hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm,
cổ kính. Cũng có người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có, chỉ có chính tấm áo
của người lính. Dù hiểu theo cách nào thì cũng phải thấy Quang Dũng đã tráng lệ
hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc áo bào và sự hy sinh của người
lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông. Cụm từ "anh về đất" nói về
cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình
ảnh tráng lệ. Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca:
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Từ sự kết hợp một cách hài hòa giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn,
Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung , một bức tượng đài người lính cách mạng
vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong
thời đại mới, thời đại của dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ
chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của
cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của
Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ
bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về
những người con anh hùng ấy.
Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 10
“Tây Tiến” là một đơn vị quân đội được thành lập vào năm 1947 với nhiệm vụ
chính là phối hợp với bộ đội Lào chống lại thực dân Pháp. Đa phần những người
lính trong binh đoàn Tây Tiến đều là học sinh sinh viên, trong đó có nhà thơ Quang
Dũng. Năm 1948, sau khi chuyển sang đơn vị khác, nhà thơ đã nhớ về binh đoàn
Tây Tiến và sáng tác ra “Tây Tiến”. Bài thơ là sự kết hợp bởi cảm hứng lãng mạn
cũng như tinh thần bi tráng.
Trước hết, cảm hứng lãng mạn là một khái niệm được dùng trong văn học, hướng
đến cái tôi tràn đầy cảm xúc và lý tưởng. Cảm hứng lãng mạn hướng ngòi bút của
tác giả tìm đến những cái độc đáo, khác thường và vượt lên trên những cái quen
thuộc trong cuộc sống hằng ngày. Ngôn ngữ trong cảm hứng lãng mạn giàu tính
biểu cảm, tạo được ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Trong văn học Việt Nam
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
giai đoạn 1945 - 1975, các tác giả chủ yếu hướng đến thể hiện trong việc khẳng
định phương diện lý tưởng của cuộc sống mới, vẻ đẹp con người mới, ca ngợi chủ
nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Đây là
một trong những cảm hứng chủ đạo trong sáng tác văn học không chỉ ở Việt Nam, mà còn trên thế giới.
Trong bài thơ “Tây Tiến”, cảm hứng lãng mạn trước hết thể hiện qua cái tôi của
Quang Dũng. Tây Tiến được sáng tác khi nhà thơ không còn hoạt động trong binh
đoàn Tây Tiến, nhớ về đơn cũ nên đã sáng tác ra bài thơ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Nỗi nhớ của tác giả dường như đã trải dài khắp con sông Mã. Nỗi nhớ đến trống
vắng, hụt hẫng. “Tây Tiến” là cụm từ để chỉ một đoàn quân nhưng tiếng gọi “ơi”
lại vang lên thật trìu mến. Đó là tiếng gọi hết sức thân thương của tác giả với quân
đội cũ của mình. Tuy đã xa cách nhưng kỉ niệm, tình cảm vẫn còn đó. Nỗi nhớ về
những đêm hành quân đến hội đuốc hoa, từ đêm mơ về “Hà Nội dáng kiều thơm”
đến bản làng vùng cao “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”. Đâu đâu cũng chứa
đựng một tình cảm sâu sắc, chân thành.
Cảm hứng lãng mạn còn được thể hiện qua bút pháp miêu tả thiên nhiên. Thiên
nhiên qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng được cảm nhận với vẻ đẹp vừa hùng
vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình. Nhà thơ nhớ đến những cuộc hành quân gian khổ
nhưng cũng thật hào hùng:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Những người lính Tây Tiến họ phải vượt qua những chặng đường gian khổ. Họ
vốn là những thanh niên đất Hà thành lần đầu tiên đến Miền Tây. Các tên bản, tên
mường như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch... được nhắc đến
không chỉ gợi bao nỗi nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi và
heo hút. Những con dốc cứ dựng đứng giữa trời đầy nguy hiểm để rồi họ vẫn phải
cố gắng vượt qua. Những đỉnh núi cao cao vút như chạm tới mây để rồi có một
hình ảnh thật đặc sắc “súng ngửi trời”. Mũi súng trên vai của của người chiến binh
được nhân hóa tạo thành hình ảnh “súng ngửi trời” vừa diễn tả được độ cao nhất,
hoang sơ, lạ lẫm vừa hàm chứa vẻ đẹp tâm hồn người lính. Đó là chất tinh nghịch,
hồn nhiên rất lính của người chiến binh Tây Tiến. Thiên nhiên hùng tráng là như
vậy, nhưng người lính vẫn hiên ngang đứng vững.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Hình ảnh đoàn binh hành quân trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” thật
dữ dội mà nên thơ. Mưa rơi mịt mù khiến những ngôi nhà sàn Pha Luông ở lưng
chừng núi thấp thoáng không rõ. Câu thơ toàn thanh bằng gợi không gian mênh
mông. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người lính Tây Tiến vẫn hướng về
những bản mường - nơi có những mái nhà dân hiền hòa, yêu thương và ấm áp tình quân dân.
Không chỉ vậy, gian khổ còn là những “thác gầm thét” dữ dội hòa với tiếng hú man
dại, ghê gớm của thú rừng. “Cọp trêu người” như mang theo cái oai linh, bí ẩn của
rừng đại ngàn. Vẻ hoang vu của nơi rừng núi được khám phá ở thời gian “đêm
đêm”, “chiều chiều”. Việc miêu tả ở cả không gian, thời gian. Nó luôn là mối đe
dọa sẵn sàng nuốt chửng con người. Đặc biệt họ toàn là những người lính trẻ thủ
đô mới lần đầu rời thành phố đến rừng đại ngàn. Vì thế ấn tượng về Tây Bắc với
những địa danh xa ngái, càng xa lạ, dữ dội, ác liệt, không kém cuộc đọ sức với quân thù.
Nhưng thiên nhiên Tây Bắc cũng đầy thơ mộng: “Mường Lát hoa về trong đêm
hơi”; “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Và đặc biệt nhất là đoạn thơ:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Khung cảnh Châu Mộc trong một buổi chiều sương phủ trên dòng nước mênh
mông, đầy hoang dại, huyền ảo. Cảnh vật dường như trở nên có hồn hơn. Hình ảnh
những bông hoa lau nở trắng sáng, lá lau lay động xào xạc trong gió vốn là những
thi liệu cổ điển quen thuộc nhưng khi đi vào thơ của Quang Dũng như mang hồn
lưu luyến của cảnh chia ly. Trên dòng nước đó xuất hiện dáng người trên thuyền
độc mộc. “Hoa đong đưa” vừa là hình ảnh tả thực: những bông hoa khẽ lay động
đong đưa làng duyên trên dòng nước lũ; vừa là hình ảnh ẩn dụ, gợi tả vẻ đẹp của
các cô gái Tây Bắc. Các cô như những bông hoa rừng đong đưa trên sông nước. Vẻ
đẹp của những cô gái Tây Bắc, những con người Tây Bắc được gợi nhớ trong bài
thơ càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Sau bao ngày đêm
hành quân gian khổ, băng rừng vượt núi, trèo đèo lội suối, những người lính tạm
dừng chân bên bản làng quây quần bên những nồi xôi bốc khói. Mùi thơm hương
nếp mới và ấm tình quân dân đã xua tan bao nhọc nhằn gian khổ:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Gói xôi chứa chan tình cảm của cô gái Mai Châu. Những cô gái miền sơn cước
xinh đẹp làm nhiệm vụ nuôi quân không quản ngại vất vả, hiểm nguy đã để lại
trong lòng người lính trẻ một nỗi nhớ. Hai chữ “mùa em” kết tinh cả hương nếp
ngày mùa lẫn tình em ấm áp.
Hay những đêm liên hoan văn nghệ ở doanh trại bừng lên sôi nổi, vui tươi:
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Ngọn đuốc rừng thắp sáng đêm liên hoan văn nghệ truyền thống đã thành “hội
đuốc hoa” khiến khung cảnh tuy thiếu thốn mà rực rỡ lung linh bao ước mơ, hạnh
phúc. Hai chữ “kìa em” thể hiện sự ngạc nhiên đến ngỡ ngàng của người lính.
Những cô gái Tây Bắc trong bộ xiêm áo đang múa điệu múa truyền thống trong.
Tiếng khèn mang linh hồn của núi rừng càng trở nên lôi cuốn. Tâm hồn các chiến sĩ mộng mơ, lãng mạn.
Còn tinh thần bi tráng được thể hiện qua hình ảnh người lính Tây Tiến. Trước hết,
bi tráng trong tác phẩm văn học được thể hiện ở việc miêu tả hiện thực, không né
tránh cái bi, tức cái gian khổ, đau thương. Cái bi nhưng không phải là bi lụy mà là
bi tráng, hào hùng. Là cái chết nhưng không bi lụy mà là cái chết hào hùng lẫm
liệt, cái chết đi vào cõi bất tử. Cái bi thường được biểu hiện ở giọng điệu, âm
hưởng, màu sắc tráng lệ hào hùng.
Tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến thể hiện ở chỗ lời thơ không né tránh cái
bi, thường đề cập đến cái chết, nhưng đó không phải là cái chết bi lụy mà là cái
chết hào hùng, mãnh liệt, cái chết của người chiến sĩ đi vào cõi bất tử.
Hai câu thơ đầu là hình ảnh thật chân thực về binh đoàn Tây Tiến:
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Trong những năm tháng chiến đấu đầy gian khổ khó khăn, bom đạn hóa chất của
kẻ thù đã làm cho mái tóc của người lính không còn đẹp đẽ nữa. Nhưng ở đây lại là
“không mọc tóc” có nghĩa là người lính Tây Tiến đã chủ động lựa chọn cạo trọc
đầu để thuận tiện cho sinh hoạt kháng chiến. Kế tiếp là hình ảnh “quân xanh màu
lá dữ oai hùm” gợi ra hai cách hiểu. Đó có thể là màu xanh của lớp lá ngụy trang.
Trên đường hành quân nơi chiến trường, người lính phải ngụy trang để tránh khỏi
tai mắt của kẻ thù. Ở đây, màu xanh của lớp áo ngụy trang lẫn với màu xanh của
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
cây rừng. Cách hiểu thứ hai chính là khuôn mặt xanh xao của những người lính bởi
những cơn sốt rét rừng. Dù hiểu theo cách nào, người đọc cũng sẽ thấy được những
khó khăn gian khổ mà người lính phải trải qua. Nhưng không vì những khó khăn
ấy mà họ mất đi tinh thần lạc quan của. Họ luôn sẵn sàng đối mặt với mọi khốc liệt
nơi chiến trường bom đạn.
Mạnh mẽ là thế, nhưng cũng có đôi lúc người lính cũng đầy thơ mộng:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Những người lính tuổi đời chỉ mới mười tám đôi mươi. Họ lên đường chiến đấu
khi vẫn còn mang trong mình nhiều khát khao của tuổi trẻ. Hình ảnh “mắt trừng”
gợi đến một đôi mắt đang theo dõi kẻ thù với sự căm giận và quyết tâm. Đôi mắt
ấy “gửi mộng qua biên giới” với khát vọng về một hòa bình cho tổ quốc, cho nhân
dân. Để rồi khi đêm đến họ mơ về “Hà Nội dáng kiều thơm”. Đó có thể là những
cô gái Hà Nội với vẻ đẹp thướt tha thanh lịch. Trên con đường hành quân gian khó
ấy, họ nhớ đến hình ảnh Hà Nội - thủ đô của đất nước với một niềm mong ước
chiến thắng được trở về thăm lại quê hương.
Và rồi có trận chiến nào mà không phải trải qua những mất mát, hy sinh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Hai câu thơ này là hình ảnh tả thực về cái chết của những người lính. Từ láy “rải
rác” kết hợp với cụm từ Hán Việt “biên cương mồ viễn xứ” làm cho câu thơ trở
nên trang trọng hơn. Đó không phải là một cái chết mà rất nhiều cái chết. Cho dù
có vậy, các anh vẫn ra đi chẳng tiếc tuổi trẻ, chẳng tiếc đời mình:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Hình ảnh “áo bào” chính là chiếc áo lính các anh đang mặc. Điều kiện chiến tranh
khắc nghiệt, thiếu thốn đến không có cả chiếu để bọc thi thể người lính đã hi sinh.
Những người đồng đội của các anh phải lấy chiếc áo mà các anh đang mặc để chôn
cất. Cách nói “về đất” là nói giảm, nói tránh để giảm bớt đau thương và cũng là sự
ngợi ca, trân trọng dành cho người anh hùng của quê hương đất nước. Hình ảnh
cuối cùng “sông Mã gầm lên khúc độc hành” là sự thành kính đưa tiễn các anh.
Với giọng thơ trang trọng, Quang Dũng đã khắc họa hình ảnh người lính mang vẻ
đẹp bi tráng. Họ dường như được bất tử hóa - trở thành tượng đài trong lòng mỗi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
người đọc. Qua phân tích trên, có thể thấy được Tây Tiến đã được xây dựng dựa
trên cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.
Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 11
Một trong những nét nổi bật trong nội dung tư tưởng cũng như nghệ thuật của tác
phẩm chính là cảm hứng lãng mạn và bị tráng trong Tây Tiến.
Cảm hứng lãng mạn chính là sự khẳng định về cái tôi cá nhân tràn đầy hào hứng về
lý tưởng. Nó chính là cái đẹp trong những cái khác lạ, phi thường và độc đáo, vươn
lên trên mọi cái tầm thường và quen thuộc của cuộc sống hàng ngày.
Một tác phẩm có cảm hứng lãng mạn bay bổng là tác phẩm mà ở đó những cảm
xúc của nhân vật trữ tình được thể hiện với cường độ mạnh, trí tưởng tượng được
phát huy hết mức, những cái phi thường tuyệt mĩ được tô đậm và thủ pháp đối lập
được sử dụng một cách rộng rãi, thường xuyên.
Tây Tiến quả là một tác phẩm hết sức lãng mạn. Điều dễ nhận thấy trước tiên là độ
sâu, độ mạnh trong cảm xúc của nó. Cả bài được bao bọc trong một nỗi nhớ ăm ắp,
nồng nàn, vừa xoáy sâu, vừa lan tỏa. Không có nỗi nhớ đó thì chắc chắn không có
cả bản thân bài thơ, bởi tất cả những điều được nói tới trong bài đều thuộc về quá
khứ, giờ đây qua ký ức, nhờ nỗi nhớ mà sống dậy. Không phải tình cờ mà từ “nhớ”
xuất hiện nhiều lần trong bài và cũng chẳng phải ngẫu nhiên mà thoạt đầu tên của
tác phẩm gồm ba chữ: Nhớ Tây Tiến. Mở đầu bài thơ, tác giả đã viết
“Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi “
Hai câu này đã nói lên rất rõ niềm thôi thúc bên trong khiến tác giả đã viết nên Tâỵ
Tiến. Chính nỗi “nhớ chơi vơi” chứ không phải cái gì khác đã dẫn ngòi bút của tác
giả đi miên man trong thế giới thơ. “Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là nỗi nhớ vừa có vẻ
xa xôi, vời vợi lại vừa có vẻ gần gũi, lửng lơ, ám ảnh hòai không cho người ta
được yên, buộc người ta phải đắm chìm trong hòai niệm.
Như mọi bài thơ thấm đẫm cảm hứng lãng mạn khác; bài thơ Tây Tiến chứa đựng
nhiều hình ảnh gây ấn tượng mạnh cho độc giả. Đối tượng miêu tả ở đây có thật
nhiều nét phi thường. Hãy đọc một đoạn tả dốc trong bài:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi “
Dốc cứ cao lên, cao mãi hút mắt nhìn để rồi đổ gập xuống, sâu dường như vô cùng
tận. Ta tưởng như gặp lại mảnh núi non hiểm trở, hùng vĩ, đầy thách thức từng
được thi hào Lý Bạch nói tới trong bài Thục đạo nan (Đường Thục khó): “Thục
đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên (Đường Thục khó đi, khó hơn cả lên trời
xanh). Dốc đã thế, mưa cũng mịt mùng bủa vây tứ phía khiến cho trong mắt của
các chiến sĩ đang hành quân, những ngôi nhà sàn như đang trôi bồng bềnh trong
biển nước. Cái dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc còn được tô đậm trong hai câu có
âm điệu hết sức mạnh mẽ:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Thật là một cuộc “diễu võ dương oai” đầy ngoạn mục của núi rừng, khiến cho
những kẻ yếu bóng vía có thể run lên vì sợ hãi. Địa bàn hoạt động của đoàn quân
Tây Tiến không phải chỉ thuần những cảnh ghê gớm như thế. Đã bao lần nó phô ra
vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng, say đắm của mình trước con mắt háo hức quan sật của người lính chiến:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Đúng là một vẻ đẹp quá đỗi nguyên sơ, thanh khiết, gợi cảm đến nao lòng. Những
bông lau xám bạc phất phơ bên bờ suối, những cánh hoa rừng chòng chành, “đong
đưa” trên dòng nước lũ nhự giấu trong mình cả một câu chuyện cổ tích về núi rừng
miền Tây mà ta chưa có điều kiện khám phá hết được.
Việc miêu tả những nét độc đáo khác thường của thiên nhiên là một trong những
điều kiện quan trọng tạo nên cảm hứng lãng mạn cho bài thơ. Cảm hứng lãng mạn
đó còn được đẩy lên một mức nữa khi tác giả đi sâu khám phá bản tính lãng mạn,
mộng mơ của những người lính Tây Tiến. Thật ra thì tất cả những câu nói về vẻ
đẹp của thiên nhiên Tây Bắc đã dẫn ra trên kia đều đã bao hàm ý khẳng định chất
thi nhân của các anh “bộ đội Cụ Hồ”.
Trên đường hành quân, họ chưa một lần bỏ lỡ cơ hội ngắm nhìn những vẻ đẹp
hiếm thấy trong đời. Mắt nhìn dốc cao, dầu gội trong mưa lớn, tai nghe tiếng thác
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
thét gầm, cả sinh mạng đối diện cùng thú dữ, chừng ấy trải nghiệm đã khiến cho
máu phiêu lưu trong họ bị kích thích mạnh.
Còn khi được sống với cảnh “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, với cảnh chiều
sương” nơi Châu Mộc, chắc chắn họ cảm thấy nỗi niềm thơ thức dậy dạt dào.
Chẳng thế mà giữa những ngày gian khổ, họ vẫn hào hứng tổ chức các đêm lửa trại
tưng bừng náo nhiệt. Trong cái đêm vui đó, những “dáng hồng” sơn cước đã làm họ ngất ngây say:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Làng mạn đến mức ấy, quả khó ai hơn được!”
Trong các tác phẩm được viết theo cảm hứng lãng mạn, thủ pháp đối lập thường rất
được chú ý khai thác. Bài Tây Tiến cũng nằm trong thông lệ đó. Cảm hứng lãng
mạn và bi tráng trong Tây Tiến còn được thể hiện qua sự đối lập có nhiều cấp độ,
trước hết là đối lập về hình ảnh. Ta có thế thấy rõ điều này qua các đoạn của bài
thơ. Ở đoạn một, ngòi bút tác giả nghiêng về miêu ta sự hào hùng, dữ dội của thiên
nhiên, còn ở đoạn hai, nét thơ mộng của nó được ưu tiên nhấn mạnh. Cũng có khi,
sự đối lập đó được thể hiện trong hai câu liền kề nhau:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”
Câu trên nhấn mạnh sự khắc nghiệt, đe dọa, còn câu dưới lại diễn tả một cảnh
tượng làm ấm lòng người; Cũng qua hai câu này, đặc biệt là câu sau, ta còn nhận ra
sự đối lập về thanh điệu đã được Quang Dũng sử dụng rất tài tình trong cả bài thơ:
có những câu thơ “khổ độc” (khó đọc) dày đặc thanh trắc đi kèm những câu toàn
thanh bằng gợi cảm giác nhẹ nhõm, lâng lâng. Thử so sánh câu “Dốc lên khúc
khuỷu dốc thăm thẳm” với câu “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, ta sẽ thấy rất rõ điều đó.
Tất nhiên không phải sự đối lập nào cũng bao gồm những nét tương phản loại trừ
nhau. Trên thực tế, các mặt đối lập, tương phản có thể gắn với nhau trong một thể
thống nhất, như phẩm chất can trường gắn với phẩm chất lãng mạn trong bản thân
mỗi người lính Tây Tiến vậy.
Ở cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến, Quang Dũng thường sử dụng
những cách ví von độc đáo, táo bạo làm nổi bật tính chất khác thường của sự vật.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Chẳng hạn theo góc nhìn từ dưới lên, nhà thơ thấy mũi súng trên vai người lính đi
trên đỉnh dốc đang “ngửi trời”. Ở một câu khác, tác giả diễn tả sự rình rập của cọp
dữ bằng hai chữ “trêu người” rất ấn tượng… Tất cả những điều này đều góp phần
nhất định làm nên phong vị lãng mạn đậm đà của tác phẩm.
Có một thời kỳ dài bài thơ Tây Tiến bị ngại nhắc đến. Những người không thích nó
chắc có lẽ dị ứng với âm hưởng bi tráng vốn thấm đẫm trong từng chữ từng câu
của bài thơ. Giờ đây, đọc lại Tây Tiến, có lẽ không còn ai cảm thấy cấn cái với nó
nữa, và chất bi tráng cũng đã được nhìn nhận khác đi. Khi nói đến chất bi tráng của
một tác phẩm văn học nào đó, người ta thường nói sự tổn tại song song, hòa quyện
giữa hai yếu tố “bi” và “tráng”. “Bi” là đau buồn, bi ai và “tráng” là khỏe khoắn,
mạnh mẽ. Tác phẩm có giọng bi tráng thường không tránh né những chuyện xót
xa, đau lòng nhưng bao giờ cũng đưa đến được cho độc giả những xúc cảm mạnh và rắn rỏi.
Đọc suốt bài thơ, người ta dễ nhận ra một điều: cảm hứng lãng mạn và bi tráng
trong Tây Tiến đã được Quang Dũng không ít lần viết về cái chết và chưa bao giờ
nói cho nhẹ đi những gian khổ chất chồng mà các chiến sĩ phải đương đầu. Lắng
nghe âm điệu của những câu tả dốc, ta thấy dội lên tiếng thở nặng nhọc của các anh
lính Tây Tiến. Hành quân đường dài qua núi cao, vực sâu, trong “đoàn quân mỏi”
có người đã ngã xuống:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Dù đã cố dùng lối diễn tả khô, gọn, nhà thơ vẫn không giấu nổi lòng mình. Trong
hai chữ “dãi dầu” ta đọc thấy có biết bao niềm xót xa thương cảm vô bờ bến. Là
người đã từng trải qua những ngày Tây Tiến, Quang Dũng nhìn rõ hơn ai hết
khuôn mặt hung tợn của tử thần có tên gọi là “sốt rét”. Chính căn bệnh quái ác nơi
núi rừng âm u này đã tàn phá thể chất các chiến sĩ một cách phũ phàng.
Tóc họ không mọc nổi, da xanh mét như tàu lá, con người luôn đứng chân nơi biên
giới mong manh giữa cái chết và sự sống. Đã bao lần nhiều người trong họ đành
phải ôm hận lìa đời. Các anh là ai trong số những nấm “mồ viễn xứ” nằm “rải rác
biên cương’ dài vô tận? Đọc thơ Quang Dũng, có lẽ tất cả chúng ta đều cảm thấy
đau nhói trong lòng. Chi tiết “Áo bào thay chiếu anh về đất” đã cực tả những thiếu
thốn khó tưởng tượng nổi của đoàn quân Tây Tiến. Một chiến sĩ hi sinh, nhiều khi
đồng đội không tìm nổi một mảnh chiếu để liệm xác.
Tinh thần bi tráng là gì? Tinh thần bi tráng trong văn học được thể hiện ở việc
không né tránh hiện thực, miêu tả cái gian khổ và đau thương ở hiện tại mà không
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
hề né tránh. Cái bi ở đây không phải là cái lụy, mà chính là cái bi tráng và hào
hùng. Là cái chết nhưng mà là cái chết vĩnh hằng đi vào cõi bất tử. Cái bi hùng này
còn được thể hiện ở âm hưởng, màu sắc và giọng điệu tráng lệ.
Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến còn được thể hiện ở sự hy sinh của
người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ: “Áo bào thay chiếu anh về đất”.
Bao nhiêu thương yêu của nhà thơ trong một câu thơ như vậy về một đồng đội của
mình. Ai bảo nhà thơ không xót thương những người đồng đội của mình ra đi trong
cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao nhiêu thiếu thốn, khó khăn, cái thuở những
người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận. Lại trong cảnh
kháng chiến còn rất khó khăn nên tiễn đưa người chết không có cả một chiếc quan
tài. hoàng Lộc trong “Viếng bạn” cũng đã viết về cảnh tiễn đưa như thế
Chỉ có điều câu thơ của Quang Dũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên
thành cảm hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm,
cổ kính. Cũng có người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có, chỉ có chính tấm áo
của người lính. Dù hiểu theo cách nào thì cũng phải thấy Quang Dũng đã tráng lệ
hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc áo bào và sự hy sinh của người
lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông. Cụm từ “anh về đất” nói
về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng
hình ảnh tráng lệ. Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca.
Có thể thấy, cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến luôn cộng hưởng, gắn
bó cũng như nâng đỡ nhau trong suốt chiều dài của tác phẩm. Chính điều này đã
làm nên sự bất diệt về chân dung của người lính cũng như giá trị to lớn cho nội
dung của bài thơ. Đã có không ít những tác phẩm trải qua cuộc đời thăng trầm và
cũng quá nhiều truân chuyên, nhưng cuối cùng vẫn định hình được trong lòng bạn
đọc. Và bài thơ Tây Tiến chính là ví dụ điển hình cho điều đó.
Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến của Quang Dũng đã giúp làm sáng
ngời lên tư tưởng nội dung cũng như nghệ thuật của bài thơ. Tác phẩm như một kỷ
niệm đẹp sống mãi trong lòng nhà thơ Quang Dũng bởi đó chính là tiếng thơ tràn
đầy cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến.
Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 12
Trong thời kì đấu tranh chống giặc cứu nước, người lính trở thành một hình tượng
trung tâm được nhiều người nghệ sĩ đi vào khai thác, thể hiện. "Tây Tiến" của
Quang Dũng cũng là một trong số' những sáng tác như thế. Tác phẩm đã thực sự
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
thành công khi đi vào khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến trong thời kì kháng
chiến chống Pháp trong đó vẻ đẹp bi tráng là vẻ đẹp nổi bật để lại trong người đọc nhiều xúc cảm.
"Tây Tiến" là bài thơ viết về binh đoàn Tây Tiến nơi nhà thơ đã từng sống và chiến
đấu. Những người lính trong binh đoàn phần đông là thanh niên Hà Nội, chiến đấu
trong hoàn cảnh gian khổ, vô cùng thiếu thốn về mọi mặt nhưng vẫn phơi phới tinh
thần lãng mạn anh hùng. Ở họ có vẻ đẹp tinh nghịch hào hoa của chàng trai đất Hà
thành nhưng cũng thật kiêu hùng, can đảm trong cuộc chiến đấu. Miêu tả về họ,
Quang Dũng sử dụng bút pháp lãng mạn và cảm hứng ngợi ca khiến cho dù trải
qua đau thương, gian khổ thì người lính vẫn hiện lên mang vẻ đẹp thật đặc biệt: bi
tráng mà không hề bi lụy.
Chất bi tráng ở đây trước hết có được là do được đặt trên nền của bức tranh thiên
nhiên hùng vĩ mà diễm lệ, thơ mộng mà đầy hoang sơ, bí ẩn. Mảnh đất Tây Bắc
vừa là môi trường sống và chiến đấu của người lính nhưng cũng vừa mang trong
mình vẻ đẹp riêng. Con người đặt trong đó vừa chan hòa, giao cảm với thiên nhiên
lại vừa đối lập và bị thiên nhiên thử thách. Trước cái heo hút của cồn mây, cái gập
ghềnh của "dốc thăm thẳm", của "ngàn thước lên cao ngàn thước xuống", người
lính vẫn vượt lên trên, giành về mình thế chủ động. Chinh phục đỉnh cao để nhìn
lên và phát hiện ra một hình ảnh đầy dí dỏm: "súng ngửi trời". Vượt qua núi đá gập
ghềnh để được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mờ ảo đầy màu sắc của "nhà ai Pha Luông
mưa xa khơi". Vượt qua ái mệt mỏi của chặng đường hành quân, mở rộng lòng
mình ra đón nhận vẻ đẹp bất ngờ của thiên nhiên, của một cánh hoa về trong đêm
hơi... Bằng cách đặt nhân vật vào bức tranh thiên nhiên như vậy, Quang Dũng đã
khẳng định vẻ đẹp dũng cảm kiên cường nhưng cũng đầu tinh nghịch, lãng mạn
của người lính Tây Tiến.
Cũng trong thiên nhiên đó, người lính Tây Tiến xuất hiện với tầm vóc bi tráng, khác thường:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Gian khổ của chiến tranh đã làm cho hình hài người lính trở nên tiều tụy thế nhưng
dưới con mắt lạc quan, đầy sức mạnh và niềm vui sống nó lại trở thành nét rất
riêng, thành cái "uy" của họ. Cụm từ miêu tả "dữ oai hùm" vừa thể hiện sức mạnh
oai phong lẫm liệt của những người đang cầm súng bảo vệ quê hương, lại vừa ẩn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
chứa sau đó nét lạc quan, hài hước của họ. Bài thơ xuất hiện một hình ảnh đối lập độc đáo:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm"
Người lính được khắc họa trong sự hài hòa giữa một chàng trai Hà thành tâm hồn
lãng mạn và một người lính dũng cảm kiên cường, sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc.
Chúng không hề đối lập mà bổ sung cho nhau, tôn vẻ đẹp của nhau lên.
Những khó khăn mà người lính phải đối mặt là vô cùng, nhiều khi là cả cái chết.
Ấy vậy mà khi nói về cái chết, Quang Dũng đã nói đến họ trong những hình ảnh thật đặc biệt:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
Tư thế "gục lên súng mũ bỏ quên đời" bi tráng, thanh thản, dung dị mà đầy tính
truyền cảm. Nó phảng phất chất nghệ sĩ, tài tử, kiêu hùng khi từ giã cuộc sống của
người chiến sĩ. Đã ngã xuống mà vãn như tư thế cùng đồng đội tiếp bước hành
quân. Đến mảng hồi ức này, ta cảm thấy trong lời thơ của Quang Dũng có sự trầm
lắng, xót xa nhưng tuyệt đối không hề bi lụy. Nó làm ta nhớ đến tư thế của anh giải
phóng quân thời chống Mĩ hi sinh trên đường bay Tân Sơn Nhất.
"Anh giải phóng quân Trên đường bay Tân Sơn Nhất
Tì súng trên xác trực thăng Và anh chết khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng"
Ngợi ca người lính Tây Tiến, Quang Dũng không hề ngần ngại khi nói đến cái chết
của họ. Bởi chính trong cái chết, người chiến sĩ hiện lên càng đẹp đẽ:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành".
Cõi chết trong cách nhìn của Quang Dũng tức cũng là cái nhìn của tất cả những
người lính Tây Tiến cũng khác thường và tạo hình dữ dội. Nó nói lên cái tột cùng
cơ cực lẫn cái lẫm liệt kiêu hùng. Trong cuộc chiến đấu một mất một còn, "rải rác
biên cương mồ viễn xứ" là điều người lính luôn thấu hiểu. Nhưng không vì thế mà
nó làm nhụt đi ý chí chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Mỗi người lính Tây Tiến điều
tâm niệm: "chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh", nghĩa là họ tình nguyện cống hiến
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
tuổi thanh xuân của mình cho đất nước, cống hiến thanh thản và trọn vẹn mà không
đòi hỏi nhận lại một điều gì cả.
Cái chết thiếu thốn không vì thế mà làm giảm đi vẻ đẹp của người lính. Người
chiến sĩ ra đi như một vị anh hùng thần thoại:
"Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Tấm áo trước nay người lính vẫn thường hay mặc trở thành "áo bào" đưa anh về
với đất mẹ. Và sự ra đi có chứng kiến, tiễn đưa của núi sông, trời đất. Khúc gầm dữ
dội của dòng sông khiến cho cái chết trở nên hào hùng. Nó là khúc bi ca tiễn đưa
những con người gần gũi nhưng cũng thật vĩ đại.
Người lính hiện lên mang vẻ đẹp bi tráng mà không hề bi lụy. Cái bi tráng thể hiện
trong những gian khổ mất mát, đau thương to lớn, nhưng tinh thần lại hiên ngang,
bất khuất, coi thường gian khổ, coi thường cái chết; thể hiện trong cái khổ mà vẫn
đẹp, chết mà vẫn hùng của người chiến sĩ.
Làm nên vẻ đẹp bi tráng này, điều đầu tiên phải kể đến là cảm hứng và bút pháp
lãng mạn của Quang Dũng khi xây dựng hình tượng nhân vật. Cảm hứng lãng mạn
hướng tới những cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hi sinh tất cả cho lí tưởng của cộng
đồng, của dân tộc. Chính nó đã tạo ra ở nhà thơ cái nhìn có tính anh hùng cổ điển
trong hình ảnh người lính, đặc biệt trước cái chết của họ. Bút pháp lãng mạn khắc
họa người lính Tây Tiến ở những nét phi thường, kết hợp với sắc thái bi tráng
trong hình tượng tạo nên tính sử thi đặc biệt của bài thơ, đúc kết lại trong lòng
người đọc những tình cảm tốt đẹp.
Góp phần tạo nên vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến còn ở giọng
điệu thơ hào sảng với hình ảnh chi tiết có ấn tượng mạnh mẽ. Thiên nhiên và con
người vừa đối lập lại vừa đồng điệu. Sự đối lập trong hệ thống hình ảnh, giữa thực
tế chiến đấu và đời sống tinh thần phong phú, tinh tế, nhạy cảm; giữa những khó
khăn gian khổ với niềm lạc quan tin tưởng vào cuộc sống. Tất cả làm nên hình
tượng về người lính Tây Tiến còn lại mãi với thời gian.
"Tây Tiến" là bài thơ ngợi ca hình tượng người lính trong thời kì kháng chiến
chống giặc ngoại xâm, khi "những ngày vui sao cả nước lên đường" đi chiến đấu:
"Lớp cha trước lớp con sau / Đã thành chiến sĩ chung câu quân hành". Vẻ đẹp bi
tráng của người lính Tây Tiến đã trở thành một biểu tượng đẹp cho tinh thần yêu
nước và chiến đấu kiên cường của dân tộc Việt Nam, thêm một "dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ..."
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Document Outline

  • Dàn ý phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng
    • Dàn ý số 1
    • Dàn ý số 2
  • Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 1
  • Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến - Mẫu 2
  • Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 3
  • Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 4
  • Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 5
  • Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 6
  • Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 7
  • Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 8
  • Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 9
  • Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 10
  • Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 11
  • Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 12