Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lính Tây Tiến (Dàn ý + 24 Mẫu)

Phân tích chân dung người lính Tây Tiến bao gồm gợi ý cách viết kèm theo 24 bài văn mẫu cực hay. Phân tích hình tượng người lính Tây Tiến là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết giúp các em trong quá trình học và đặc biệt là kì thi THPT Quốc gia 2024 sắp tới.

Dàn ý phân tích hình tượng người lính Tây Tiến - Mẫu 1
I. Mở bài
Giới thiệu về tác giả: Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài, hồn thơ ông
luôn phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, tài hoa.
Giới thiệu về tác phẩm: Bài thơ được in trong tập Mây đầu ô, được nhà thơ viết
khi đã rời đơn vị Tây Tiến.
Dẫn dắt để giới thiệu nội dung cần phân tích: Hình tượng nổi bật trong bài thơ
chính là hình tượng người lính Tây Tiến.
II. Thân bài
1. Khái quát chung
- Tây Tiến: tên một đoàn quân được thành lập năm 1947, nhiệm vụ kết hợp với
bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt - Lào, làm hao mòn lực lực giặc Pháp.
- Xuất thân lính Tây Tiến: phần đông người Nội, trong đó nhiều học sinh,
sinh viên.
- Cảm hứng sáng tác: Quang Dũng viết bài thơ để bày tỏ nỗi nhớ với đoàn quân Tây
Tiến sau khi chuyển sang công tác ở đơn vị khác.
2. Vẻ đẹp lạc quan, không ngại khó khăn
Chặng đường hành quân gian khổ những người lính vẫn kiên trì để hoàn thành nhiệm
vụ:
- Địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi sự hẻo lánh, xa xôi; các từ láy giàu tính tạo hình:
“khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, điệp từ “dốc” gợi địa hình hiểm trở, quanh co,
gập ghềnh. Nhịp thơ bẻ đôi “Ngàn thước lên cao/ngàn thước xuống” gợi tả sự nguy
hiểm tột cùng.
- Hình ảnh nhân hóa: “cọp trêu người”, “thác gầm thét” gợi sự hoang sơ, man dại; thời
gian “chiều chiều”, “đêm đêm” cho thấy những người lính phải thường xuyên đối mặt
với điều hiểm nguy chốn rừng thiêng nước độc. Sử dụng phần lớn các thanh trắc nhấn
mạnh sự trắc trở, gập ghềnh của địa hình.
- Hình ảnh “súng ngửi trời” thể hiện tầm cao của núi non mà người lính phải vượt qua
nhưng cũng có cái hóm hỉnh của người lính trong hoàn cảnh gian khổ.
- Khung cảnh thiên nhiên cũng lúc êm dịu, đậm hương vị cuộc sống: “nhà ai Pha
Luông ...”, “cơm lên khói”, “Mai Châu mùa em ...”, thanh bằng tạo cảm giác nhẹ
nhàng, yên bình. Là tiếng thở phào nhẹ nhõm sau chặng đường dài hành quân.
3. Vẻ đẹp bi tráng, hào hùng
- Hình ảnh thật chân thực về binh đoàn Tây Tiến:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”: hóa chất bom đạn của kẻ thù đã làm cho
mái tóc người lính không còn đẹp nữa, nhưng cũng có thể là người lính chủ
động cắt tóc để thuận tiện cho sinh hoạt.
“Quân xanh màu lá dữ oai hùm”: màu xanh của lớp áo ngụy trang lẫn với màu
xanh của lá cây, nhưng đó cũng được hiểu là khuôn mặt xanh xao của người
lính khi bị sốt rét rừng.
=> Sự khó khăn, gian khổ của người lính Tây Tiến trong hoàn cảnh chiến tranh. - Sự
mất mát hy sinh của người lính:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ”: đó không phải là một cái chết mà rất nhiều
cái chết.
“Áo bào thay chiếu anh về đất”: hình ảnh “áo bào” chính là chiếc áo lính các
anh đang mặc, “về đất” cách nói giảm nói tránh gợi sự hy sinh của người lính.
Hình ảnh cuối cùng “sông Mã gầm lên khúc độc hành” là sự thành kính đưa
tiễn các anh.
=> Tinh thần “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” của người lính Tây Tiến.
4. Vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa
- “Kìa em xiêm áo ... xây hồn thơ”: Cái nhìn đắm say, tình tứ của những người lính
Tây Tiến trước vẻ đẹp duyên dáng của con người Tây Bắc. Tâm hồn người lính bay
bổng, say mê trong không khí ấm áp tình người.
- “gửi mộng”, “đêm mơ”: lính Tây Tiến là những con người mơ mộng, là những người
trai xuất thân từ đất thành nên họ mang vào chiến trường cả nét thi vị, lãng mạn
trong tâm hồn.
- “Hà Nội” là khung trời thương nhớ, không gian khác hẳn đời sống gian khổ chiến
trường, đó là nỗi nhớ quê hương.
- “dáng Kiều thơm” gợi hình ảnh những thiếu nữ Nội yêu kiều, kiêu sa, hình bóng
người thương của lính Tây Tiến. Đó nguồn động lực để họ chiến đấu nơi chiến
trường gian khổ.
=> Trong hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt họ vẫn giữ được những nét hào hoa, lãng
mạn vốn có của những thanh niên trí thức Hà Nội.
III. Kết bài
Nêu cảm nhận về hình tượng người lính Tây Tiến.
Khái quát một số giá trị nội dung và nghệ thuật tiêu biểu.
Dàn ý phân tích hình tượng người lính Tây Tiến - Mẫu 2
I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về nhà thơ Quang Dũng, bài thơ Tây Tiến.
- Dẫn dắt để giới thiệu nội dung cần phân tích: hình tượng người lính Tây Tiến.
II. Thân bài
1. Vẻ đẹp của người lính trải qua khó khăn, gian khổ những vẫn lạc quan, kiên
cường
- Trên chặng đường hành quân, họ đối mặt với biết bao nguy hiểm của thiên nhiên
Tây Bắc:
Các địa danh “Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông”: gợi nhớ về những cuộc hành
quân kéo dài, để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi và heo hút.
Địa hình hiểm trở, quanh co: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” - Những
con dốc cứ dựng đứng giữa trời đầy nguy hiểm nhưng người lính vẫn phải cố
gắng vượt qua.
“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”: Mũi súng trên vai của của người chiến binh
được nhân hóa tạo thành hình ảnh “súng ngửi trời” vừa diễn tả được độ cao
nhất, hoang sơ, lạ lẫm vừa hàm chứa vẻ đẹp tâm hồn người lính.
Hình ảnh đoàn binh hành quân trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
thật dữ dội mà nên thơ.
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét/Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”:
Tiếng thác nước dữ dội hòa với tiếng hú man dại, ghê gớm của thú rừng mang
âm hưởng của đại ngàn.
- Họ sống trong hoàn cảnh thiếu thốn:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”: hóa chất bom đạn của kẻ thù đã làm cho
mái tóc người lính không còn đẹp nữa, nhưng cũng có thể là người lính chủ
động cắt tóc để thuận tiện cho sinh hoạt.
“Quân xanh màu lá dữ oai hùm”: màu xanh của lớp áo ngụy trang lẫn với màu
xanh của lá cây, nhưng đó cũng được hiểu là khuôn mặt xanh xao của người
lính khi bị sốt rét rừng.
2. Vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, hào hoa
- Nỗi nhớ về binh đoàn Tây Tiến: Mở đầu bài thơ, Quang Dũng nhắc đến con sông
này cho thấy nỗi nhớ của tác giả dường như đã trải dài khắp con sông Mã. Kết hợp với
cụm từ “Tây Tiến” chỉ một đoàn quân cùng với từ ơi” lại vang lên thật trìu mến.
“Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”: cảm xúc chủ đạo của bài thơ, diễn tả nỗi nhớ đến
trống vắng, hụt hẫng.
- Say mê trước vẻ đẹp trong đêm trại đuốc hoa:
Hai chữ “kìa em” thể hiện sự ngạc nhiên đến ngỡ ngàng của người lính. Những
cô gái Tây Bắc trong bộ xiêm áo đang múa điệu múa truyền thống trong.
Tiếng khèn mang linh hồn của núi rừng càng trở nên lôi cuốn. Tâm hồn các
chiến sĩ mộng mơ, lãng mạn.
- Tâm hồn lãng mạn, trái tim biết yêu thương:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”: đôi mắt đang theo dõi kẻ thù với sự căm
giận và quyết tâm.
“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”: Nỗi nhớ đến những cô gái Hà Nội với vẻ
đẹp thướt tha thanh lịch, hay chính là nỗi nhớ về gia đình, quê hương.
3. Vẻ đẹp hào hùng, bi tráng
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ”: đó không phải là một cái chết mà rất nhiều
cái chết.
“Áo bào thay chiếu anh về đất”: hình ảnh “áo bào” chính là chiếc áo lính các
anh đang mặc, “về đất” cách nói giảm nói tránh gợi sự hy sinh của người lính.
Đoàn quân Tây Tiến vẫn quyết tâm ra đi vì sự nghiệp cách mạng.
=> Tinh thần bất khuất, kiên cường của người lính Tây Tiến.
III. Kết bài
Khái quát lại hình ảnh người lính Tây Tiến.
Cảm nhận về hình ảnh người lính Tây Tiến.
Dàn ý phân tích hình tượng người lính Tây Tiến - Mẫu 3
I. Mở bài
- Đôi nét về nhà thơ Quang Dũng, phong cách sáng tác thơ ca của ông.
- Giới thiệu về bài thơ Tây Tiến - một trong những tác phẩm tiêu biểu của Quang
Dũng.
- Dẫn dắt để giới thiệu về hình tượng người lính Tây Tiến.
II. Thân bài
1. Tinh thần lạc quan, kiên cường
- Chặng đường hành quân gian khổ:
Các địa danh “Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông” cho thấy chặng đường hành
quân xa xôi, hẻo lánh của người lính.
Địa hình hiểm trở, quanh co: nhưng người lính vẫn phải cố gắng vượt qua.
“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”: Mũi súng trên vai của của người chiến binh
được nhân hóa tạo thành hình ảnh “súng ngửi trời” vừa diễn tả được độ cao
nhất, hoang sơ, lạ lẫm vừa hàm chứa vẻ đẹp tâm hồn người lính.
Hình ảnh đoàn binh hành quân trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
thật dữ dội mà nên thơ.
- Hoàn cảnh sống thiếu thốn:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”: hóa chất bom đạn của kẻ thù đã làm cho
mái tóc người lính không còn đẹp nữa, nhưng cũng có thể là người lính chủ
động cắt tóc để thuận tiện cho sinh hoạt.
“Quân xanh màu lá dữ oai hùm”: màu xanh của lớp áo ngụy trang lẫn với màu
xanh của lá cây, nhưng đó cũng được hiểu là khuôn mặt xanh xao của người
lính khi bị sốt rét rừng.
=> Tâm hồn lạc quan, vui vẻ của người lính trước khó khăn.
2. Tâm hồn lãng mạn, hào hoa
- Trong đêm liên hoan văn nghệ:
Hai chữ “kìa em” thể hiện sự ngạc nhiên đến ngỡ ngàng của người lính khi
nhìn thấy những cô gái Tây Bắc trong bộ xiêm áo đang múa điệu múa truyền
thống trong.
Tiếng khèn mang linh hồn của núi rừng càng trở nên lôi cuốn. Tâm hồn các
chiến sĩ mộng mơ, lãng mạn.
- Tâm hồn lãng mạn, trái tim biết yêu thương:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”: đôi mắt đang theo dõi kẻ thù với sự căm
giận và quyết tâm.
“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”: Nỗi nhớ đến những cô gái Hà Nội với vẻ
đẹp thướt tha thanh lịch, hay chính là nỗi nhớ về gia đình, quê hương.
3. Tinh thần bi tráng mà vẫn hào hùng
- Sự hy sinh của người lính:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ”: đó không phải là một cái chết mà rất nhiều
cái chết.
“Áo bào thay chiếu anh về đất”: hình ảnh “áo bào” chính là chiếc áo lính các
anh đang mặc, “về đất” cách nói giảm nói tránh gợi sự hy sinh của người lính.
- Ý chí kiên cường: Đoàn quân Tây Tiến vẫn quyết tâm ra đi vì sự nghiệp cách mạng.
=> Tinh thần bất khuất, kiên cường của người lính Tây Tiến.
III. Kết bài
Cảm nhận chung về hình tượng người lính Tây Tiến.
Chân dung người lính Tây Tiến
Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ một trong những tượng đài đẹp nhất, đáng tự hào nhất
của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Họ những người sống lí tưởng swn sàng lấy
máu mình để tô thắm lá cờ cho Tổ quốc, đồng thời đó cũng tràn đầy tâm hồn lãng mạn
hào hoa. Qua việc tìm hiểu hình ảnh anh bộ đội trongi thơ "Tây Tiến", một bài thơ
tiêu biểu nhất của Quang Dũng nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói
chung, chúng ta có thể thấy rõ.
Bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng viết về những người lính chiến đấu nơi biên
cương miền Tây Tổ quốc. Bài thơ được viết theo bút pháp lãng mạn. Bút pháp này sử
dụng rộng rãi th pháp đối lập khuynh hướng đậm những cái khác thường,
phi thường để tác động mạnh vào cảm xúc của người đọc.
Bài thơ ra đời năm 1948, hai năm sau cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Cái hào
khí của cả một dân tộc vừa giành được độc lập đã phải vùng lên cầm gươm, súng để
bảo vệ nền độc lập tự do non trẻ, thiêng liêng của mình đã truyền vào người lính, tạo
cho họ một vẻ đẹp lãng mạn hào hùng. Tâm hồn lãng mạn ấy luôn hướng vềi khác
thường, phi thường.
Người lính Tây Tiến, qua cảm hứng ng mạn của Quang Dũng được xuất hiện trên
cái bối cảnh hoang sơ, kì vĩ, dữ dội, hiểm trở mà cũng rất khỏe đep và thi vị với đủ núi
cao, vực thẳm, dốc đứng, thác gầm… cùng với những cồn mây heo hút, sương lấp,
mưa xa khơi, cọp trêu người:


 !"# !$
"%"&' "$"(
Những chi tiết, hình ảnh thơ của tác gi đầy ấn tượng. Sương dày như lấp cả đoàn
quân, mưa nhiều đến nỗi làm cho những ngôi nhà như trôi bồng bềnh giữa biển
khơi… Nhiều câu thơ s dụng hàng loạt thanh trắc: "dốc", "khúc khuỷu", "thăm
thẳm"… làm hiện lên cái gập ghềnh, thăm thẳm, khúc khuỷu, cheo leo của con đường
hành quân. Tiếp đó là những chữ dùng rất bạo, nhất là ba chữ "súng ngửi trời" gợi lên
độ cao chóng mặt. Hai câu sau có sự phối thanh rất độc đáo. Câu trên nhiều thanh trắc,
đổ xuống gần như thẳng đừng: "Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống", câu thơ
sau thì toàn thanh bằng: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi", dòng thơ mở ra một
khoảng không gian bát ngát, câu thơ như bay ngang trời. Ta như hình dung được
người lính đang leo lên những cồn mây, một hôm nào đó, dừng chân bên dốc núi
phóng tầm mắt nhìn ngang ra xa, thấy nhà ai đó thấp thoáng ẩn hiện qua một không
gian mịt sương mù, mây núi. Những địa danh như i Khao, Mườngt, Mường
Hịch, Pha Luông… rất xa lạ, làm tăng thêm ấn tượng về sự hoang sơ, kì vĩ, bí mật của
rừng thiêng. Chúng cho biết không chỉ miền đất người lính đã đi qua khi "vừa
mới đọc lên thôi đã thấy mòn chân mỏi gối" (Trần Lê Văn).
Phi thường sự gian khổ cùng cực: ăn đói, mặc rách, bệnh tật, sốt rét đến xanh da,
trọc tóc. Hình ảnh người lính được tác giả khắc họa thật độc đáo phần lạ. Sốt
rét làm cho thân thể của họ tiều tụy. Tuy nhiên, họ vẫn giữ được vẻ hào hùng. Với bút
pháp lãng mạn, tác giả đã nhấn mạnh sự tương phản giữa ngoại hình nội tâm, giữa
hình thức có phần xanh xao tiều tụy với sức mạnh tinh thần mãnh liệt bên trong.
Đó những con người phi thường: tràn đầy khí phách anh hùng chẳng những dám
đương đầu với mọi thử thách gian truân: đói rét, bệnh tật, rừng thiêng nước độc, thú
dữ… mà còn có thái độ, tư thế, khí phách hiên ngang trước cái chết:
)*+, (-.$/
01 212$"
Câu thơ "Rải rác… viễn xứ" còn gợi lên một cái đó hơi bi thảm. Những câu thơ
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh" đã nâng } thức lên thành bi tráng bởi cái
phương châm sống, triết lí sống rất đẹp của tuổi trẻ thời ấy. Người lính Tây Tiến mang
dáng vẻ của những người anh hùng kiểu Kinh Kha sang Tần, người chinh phu thời
xưa một đi không trở về, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng:
3456 !'78
9+:"2#';-5
Chủ nghĩa lãng mạn cũng thường hay nói về nỗi buồn, cái chết với } nghĩa biểu hiện
cái đẹp với chất bi hùng. Do phải chiến đấu trong hoàn cảnh vô cùng ác liệt, cực khổ,
các chiến chết sốt rét rừng nhiều hơn là chiến trận, khi chôn cất, đến ngay
manh chiếu che thân cũng không nhưng vậy, hình tượng người lính trong thơ
vẫn phải đẹp, phải sang, phải hào hùng. Người lính ngã xuống trong tiếng nhạc bi
tráng của núi sông:
<,"1"-52=
>'?@A2B
Tiếng gầm của sông Mã như một khúc độc hành tiễn đưa người chiến đi về trong
lòng đất mẹ vĩnh hằng, gợi lên biết bao tiếc thương ngậm ngùi. Điều đó làm cho cái
chết của người lính bi không có lụy, vẫn đẹp o hùng. Bài thơ "Tây Tiến"
có một màu sắc bi tráng rất độc đáo.
Người lính Tây tiến không chỉ vẻ đẹp lãng mạn hào hùng, còn có một vẻ đẹp
đáng yêu khác. Đó là chất hào hoa, thanh lịch, chất mơ mộng rất lãng mạn. Đoàn quân
Tây Tiến gồm hầu hết những người thanh niên Hà thành i hoa, trong đó tác giả
Quang Dũng là một trong những con người tài hoa nhất.
Chất i hoa ấy bắt rất nhạy với những hình ảnh đẹp đ~, nên thơ, cái nét tinh tế của
cảnh và người, đặc biệt những cái đẹp mang màu sắc xứ lạ phương xa. Từ một làn
sương chiều mờ ảo đến một dáng hoa lau núi phất phơ, đơn sơ, gợi cảm; từ một đêm
hội đuốc hoa như trong truyện cổ tích đến những bông hoa "đong đưa" rất tình tứ bên
dòng nước lũ, tất cả đều in rất đậm trong tâm hồn người lính để tạo nên những bức
tranh vừa thực, vừa mộng:
"8,CB2"
D9'E !F"22 "
Những con người ấy sống vô cùng gian khổ nơi rừng núi, thường xuyên phải tiếp xúc
với thần chết, nhưng đêm đêm hồn mộng của họ vẫn bay về với những cô gái Hà Nội
đẹp một cách thanh lịch, dịu dàng:
"?GCBH",!
I(B+5(
Quang Dũng đã khắc họa một cách khá đầy đủ chân dung tập thể của người lính Tây
Tiến từ diện mạo đến tâm hồn, khí phách anh hùng, thái độ trước cái chết cũng như vẻ
hào hoa rất Hà Nội của họ. Bài thơ xứng đáng là một tượng đài bằng ngôn ngữ đã bất
tử hóa phẩm chất anh hùng của anh bộ đội cụ Hồ trong cuộc kháng chiến chống Pháp
rất đỗi gian khổ và vui tươi, hào hùng:
"991, (4"
J2!K!K2BC
L =#,(=
LM'2N'
O3""P
Phân tích hình ảnh người lính Tây Tiến đạt điểm cao
Vào những đêm cuối năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, cái làng nhỏ nằm ven bờ con
sông Đáy, Quang Dũng đã bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm còn tươi nguyên. Năm ấy
Quang Dũng đội trưởng của đoàn quân Tây Tiến làm nhiệm vụ phối hợp với quân
đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, đánh địch trên những tuyến đường rừng núi Tây
Bắc từ Lai Châu đến phía bắc Thanh Hóa. Những người lính trẻ của trung đoàn Tây
Tiến sống vô cùng thiếu thốn và khổ cực, vì rừng thiêng nước độc, sốt rét hoành hành,
thuốc men ít ỏi dưới hành quân trập trùng núi rừng hoang vu, lạnh l~o, hiểm
trở .
Những người lính Tây Tiến hầu hết là những anh thanh niên Hà Nội, phần đông là học
sinh, tiểu sản trí thức, tuy phải chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ vẫn phơi phới
tinh thần lãng mạn anh hùng lớn. Tác giả Quang Dũng viết bài thơ Tây Tiến năm 1918
trước đây đã lấy tên “Nhớ Tây Tiến” để thể hiện nỗi nhớ niềm yêu thương về
một thời chiến đấu gian khổ mà hào hùng, dữ dội mà mê say quên mình.
Để khắc họa lên chân dung người lính, Quang Dũng đã sử dụng những chi tiết và hình
ảnh thực của đoàn quân Tây Tiến nhưng những hình ảnh lại được diễn tả bằng bút
pháp lãng mạn để đậm cái phi thường cái tài hoa, đem đến cho người đọc một vẻ
đẹp rất độc đáo hiếm của người lính trong một thời lịch sử oai hùng. Bài thơ đã
được viết theo mạch cảm xúc nhớ thương nên có mở đầu bằng câu thơ biểu hiện
nỗi nhớ ngày ấy.
>'?@$"991(
!-5C!(-(
Hình ảnh con sông anh hùng mở đầu bài thơ như mở cho người đọc những
câu chuyện oai hùng về binh đoàn Tây Tiến. Trên bước con đường ra trận, những
người lính Tây Tiến có sông Mã đi cùng bởi vì vậy cũng thật tự nhiênngay từ đầu
bài thơ Quang Dũng gọi tên “sông Mã”. Câu thơ cũng giống như một tiếng gọi tha
thiết ám ảnh, về khoảng cách địa l} thì xa xôi vời vợi nỗi nhớ lại nơi luôn thường
trực. Trong lòng câu thơ thứ hai này dùng hai chữ “nhớ”, lại được ngắt nhịp 4/3 để
diễn tả tinh tế những thổn thức, mong mỏi khao khát nhung nhớ của c giả. Cái
đặc sắc chính ba chữ “nhớ chơi vơi”, chữ “chơi vơi” làm cho người đọc thể cảm
nhận như lan tỏa vào không gian thấm sâu o lòng mỗi người, một chút chống
chếnh, một chút hụt hẫng một chút nao lòng. Nỗi nhớ Tây Tiến tưởng như xa
nhưng lại hóa gần, tưởng dịu nhẹ mơn man nhưng lại có sức ám ảnh khôn xiết. Không
những thế, người đọc còn như nghe đã được trong những chữ “nhớ chơi vơi” ấy âm
hưởng sâu đậm của núi rừng, của sông suối Tây Tiến. Câu thơ reo vần “ơi” đã tạo ra
được độ dịu nhẹ lâng lâng trong cảm xúc, đây cảm xúc nhớ thương giống như sợi
tình bện chặt lòng người. ngay sau đó nhà thơ đã cụ thể hóa nỗi nhớ của chính
mình.
>Q" (=K2HR
? &+"-52(
Các địa danh Sài Khao Mường Lát trong nỗi nhớ của Quang Dũng đã trở nên thân
gần kỳ lạ, viết về hình ảnh đoàn quân mỏi khi “Quang Dũng lại điểm thêm vào đó
những hình ảnh “sương lấp”, “hoa về”, “đêm hơi”. Rõ ràng đây chất hiện thực đã đi
liền với chất lãng mạn tạo nên những nét v~ độc đáo về Tây Tiến.
Trong cảm xúc nhớ thương của nhà thơ bức tranh Tây Tiến như được khoác sắc
một màu huyền ảo, thơ mộng, giàu sắc thái lãng mạn khung cảnh rừng núi đoàn
quân Tây Tiến đã bước chân qua vừa thơ mộng vừa hùng vĩ. Trong nỗi nhớ, những kỷ
niệm còn tươi nguyên như thể sống dậy, nhà thơ nhớ đến hình ảnh thời gian khổ:
S

Hai câu thơ trên đã mang giá trị tạo hình cao diễn tả một cách cụ thể và sinh động nhất
những gian khổ của những người lính Tây Tiến trên đường ra trận. Câu thơ thứ nhất
dùng ngắt nhịp 4/3 và chủ yếu được gieo thanh trắc và đã gợi cho người đọc cảm nhận
được về một sự trúc trắc gập ghềnh đầy hiểm nguy. Những cái hay của câu thơ
chính hai từ láy “khúc khuỷu, “thăm thẳm”, đã gợi cho người đọc những cảm
nhận về một không gian được đã mở ra nhiều chiều; cao, rộng, sâu, xa người đọc
như sẻ chia được cùng với những người lính những vất vả, gian khó. Câu thơ thứ hai
chữ “heo hút” đã được dùng rất đặc sắc, khác với hun hút nếu “hun hút” gợi
được độ sâu thì heo hút bản không giới hạn, từ heo hút không chỉ đã gợi ra độ sâu
còn thêm cả một cảm giác hoang vắng, lạnh l~o hiu quạnh. Địa hình chiến đấu của
những người lính Tây Tiến quả thực đầy gian khó nguy hiểm. Hơn thế nữa ba chữ
“súng ngửi trời” đã được sử dụng thật độc đáo, nó cũng giống như hình ảnh “đầu súng
trăng treo” của tác giả Chính Hữu bao trùm lên hình ảnh một không gian tưởng
tượng chừng lãng mạn, nhưng được bắt nguồn từ một cuộc sống hiện thực, từ con
mắt tinh tế với ngòi bút đa tài của nhà thơ. Nhờ hình ảnh “súng ngửi trời”, câu thơ đã
nói về những gian khổ vất vả nhưng lại làm ra sáng ngời lên khí phách ngạo nghễ
thế hiên rất ngang của con người, ngoài ra còn thể hiện được một chút dỏm
tinh nghịch, một chút phong cách lính trẻ trung lãng mạn. Giữa thiên nhiên hoang
vắng lạnh hình ảnh con người không cảm thấy nhỏ đơn lại khẳng
định thế làm chủ, khẳng định bản lĩnh của chiến anh hùng tinh thần lạc quan
của nhiều con người. Không những thế, hình ảnh còn một thời gian khổ còn được biểu
hiện qua những câu thơ:
055"+AT
I2? 7UK 
Với hình ảnh “oai linh thác gầm thét”, “Mường Hịch cọp trêu người” những người
dẫn chứng sống động nhất về những gian khổ hiểm nguy người lính Tây Tiến đã
đang phải trải qua khoảng thời gian “chiều chiều”, “đêm đêm” trở thành khoảng thời
gian ước lệ, giống như một ám ảnh về Tây Tiến thời gian in sâu trong tiềm thức
của chính tác giả ấy. Viết về những gian khổ của người lính quân đội, ngòi bút của
Quang Dũng cũng ghi lại được những hình ảnh hết sức chân thực:
V,8@A', !W"
3XF,RH2
Bao nhiêu vất vả nhọc nhằn của những người lính được thể hiện qua hai chữ đó là “dãi
dầu”. Tuy nhiên từ “dãi dầu” vẫn thể giúp cho người đọc cảm nhận được chút
phong trần của người lính trên con đường hành quân, phải chăng cũng thế hình ảnh
của họ thấp thoáng bóng dáng của người chiến sĩ, chinh phu thuở nào. Qua chữ “bỏ
quên đời” ta thấy khí phách bản lĩnh của người lính được ngời sáng từ chính những
chuyển hiện thực tưởng chừng như gian khổ khốc liệt một chút bất cần phó mặc
nhưng cũngn hết một trang trí nơi anh hùng, dẫu mỏi mệt hay dầu hy sinh
thì họ vẫn s~ coi những biểu hiện ấy rất đỗi nhẹ nhàng. Những người lính Tây Tiến
khi chiến đấu hết mình thật anh dũng quả cảm nhưng những giây phút nghỉ ngơi của
họ cũng đầy lãng mạn và mê say:
"8,CB2"
QY"$+Z,"
Q["2\=K
8-5L0S$(
Họ đã bỏ lại sau lưng mình những hòn đạn, gạt bỏ những lo lắng vất vả của cuộc
chiến, giữa đời thường, người lính Tây Tiến đã hiện n thật bình dị, gần gũi. Một
buổi liên hoan bỗng chốc lại biến thành một ngày hội tưng bừng náo nhiệt qua những
lăng kính lãng mạn của người chiến không gian của đêm hội đuốc hoa thật lãng
mạn, rực rỡ, lung linh, câu thơ tràn đầy ánh sáng màu sắc, trong thơ như họa.
Chữ “bừng” được dùng cũng rất hay, không chỉ sự bùng lên của ánh sáng, của
đuốc đêm hội chính sự bùng lên của niềm vui niềm say kiêu hãnh.
Trong sự náo nức của đêm hội ấy những hình ảnh người em gái là hình ảnh trung tâm,
bao nhiêu con mắt như đã đổ dồn về phía người em gái để kìa em xiêm áo đã tự
bao giờ” — một cảm xúc ngạc nhiên đến sững sờ nhưng đã đi liền ngay sau đó là cảm
xúc ngây ngất đắm đuối say mê. Từ Hán việt “xiêm áo” tạo ra một nét trang trọng,
đây hình ảnh người em gái như đã được mỹ lệ hóa. Những chữ “tự bao giờ” như
không giấu nổi được cảm xúc ngây ngất của những người lính Tây Tiến, họ ngỡ như
hình ảnh của đêm hội với người em i ấy đã từ rất u lắm để rồi bất chợt lại
thấy được sự ngỡ ngàng. Bức tranh đêm hội đã được lung linh hóa, mỹ lệ hóa để rồi
người đọc tưởng tượng ra người em gái ấy tựa như một nàng tiên bước ra từ cổ tích
giữa hiện thực khốc liệt dữ dội người ta bắt gặp hình ảnh như những huyền thoại,
đây chính là sắc thái lãng mạn của bài thơ. Điểm thêm vào bức tranh đóđêm hội ấy
hình nh của nhạc, của khèn nhịp thơ đồng thời nhịp của tiếng lòng náo nức
say với tiếng nhạc của tâm hồn như lan đã tỏa ra từng câu chữ. Một thời say,
lãng mạn của người lính Tây Tiến còn như được gọi nhắc qua hình ảnh rất đẹp đ~:
!'991(4
?"0N"(1K$'
Hình ảnh của những bữa cơm lên khói, hương vị của nếp xôi đã nồng nàn mà tha thiết
như quyện chặt tâm hồn của người đi xa. Câu thơ đã chủ yếu gieo thanh bằng, tạo cảm
xúc lâng lâng chơi vơi, một chút bâng khuâng và nhung nhớ, một chút da diết khắc
khoải cũng làm nao lòng người khi nhớ về Tây Tiến. Viết về thời mê say ấy, tác giả
Quang Dũng có những câu thơ rất đỗi tài hoa.
 !"# !$
"%"&' "$"(
Câu thơ thứ nhất được bẻ gãy làm đôi, gợi ra cái trập trùng hiểm trở của núi rừng
Tây Tiến. Còn câu thơ thứ hai giống một tiếng buông i thật dịu nhẹ chơi vơi. Câu
thơ như đẩy tư duy người đọc về một hoài niệm nào đó đã quá xa vắng trong nỗi niềm
của tác giả: tưởng hồ không xác định, tưởng vu bất chợt nhưng lại cứ
ám ảnh khắc khoải trong tâm trí tác giả, không những thế câu thơ còn tiết tấu
giai điệu rất thể hiện tính nhạc rất cao. Như vậy người chiến cũng chính một
người nghệ sĩ. Cuộc sống của thời kháng chiến không chỉ có gian khổ mất mát mà còn
đẹp lung linh trong tâm hồn người lính. Chính cuộc sống này, cuộc sống đầy chất
thơ mộng này, đã xua tan đi những mỏi mệt gian lao trong đời sống chiến đấu của
những người lính. Tiếp đó, mạch cảm xúc ấy đã sự chuyển đổi: đang giọng náo
nức giục giã say chuyển sang giọng điệu trầm lắng, bâng khuâng pha một chút
ít hoài niệm ngậm ngùi:
 20?B5 (=
04="],1,
04=+ 2BB
9'E !F"22 "
Hoài niệm đây của tác giả bắt đầu từ hình ảnh “chiều sương ấy”, không gian như
thoáng phủ một nỗi buồn thật sự mênh mang. Chữ “ấy” } nghĩa định vị về mặt
không gian như thể muốn đẩy những kỉ niệm lùi về một i rất xa, để giúp cho
người đọc cảm nhận được khoảng cách vời vợi của nhớ và thương. Những câu thơ gợi
đã nhiều hơn tả, các hình ảnh được gợi ra không phải là hình ảnh cụ thể chi tiết mà chi
dáng hình, rất khó định hình, khó nắm bắt. Nhà thơ ấy dường như không miêu tả
cảnh còn chỉ gợi lại cái linh hồn của nó, hay nói đúng hơn cảnh vật được nhìn
qua lăng kính trong nhớ thương, không nét, mờ ảo, thực thực. Không phải
miêu tả lâu những “hồn lau”, không phải miêu tả người cũng “dáng
người”, người đọc cảm nhận được một không gian hoang sơ vắng lặng đượm một nỗi
buồn mênh mang. Đặc sắc nhất khổ thơ việc sử dụng cấu trúc câu “có thấy”
“có nhớ”, Đây không chỉ câu hỏi còn giống như một lời gợi nhắc, một lời nhắn
nhủ cùng tha thiết ân tình. Phải chăng hồn lau, dáng người ấy đã trở thành những
hình ảnh ám ảnh tâm hồn của tác giả, để rồi khi gợi nhắc về giống như một điểm
nhấn xúc cảm. Đặc biệt, những sbiến đổi trong cách sử dụng các cụm từ “có thấy”,
”có nhớ” còn là sự thay đổi khác về giác quan, không chi là cái nhìn còn những
tâm hồn, trái tim được đánh thức. Câu thơ thứ tư khá độc đáo vì nó xuất hiện hình ảnh
“nước lũ” đối lập với những hình ảnh “hoa đong đưa”: một bên mạnh m~ dữ dội,
một bên nhẹ nhàng thật kh~ thật êm. l~ hình ảnh “hoa đong đưa” không còn
những hình ảnh tả thực đã trở thành hình ảnh diễn tả m trạng nỗi niềm tác giả.
Từ láy “đong đưa” khác với “đu đưa”, không chỉ miêu tả dáng hình sự chuyển
động như từ “đu đưa” đó còn đầy tình }, còn sự đong đưa của ánh mắt
hoài niệm mê say, đầy sắc thái lãng mạn và phong cách sáng tạo ra nghệ thuật độc đáo
của Quang Dũng. Đọc Tây Tiến ta như sống lại một thời lửa cháy cùng đoàn quân
lừng tiếng đã đi vào lịch sử. Để khắc họa chân dung người lính nhà thơ ấy cũng đã sử
dụng những chi tiết, hình ảnh thực của đoàn quân Tây Tiến những hình ảnh đó lại
được diễn tả bằng bút pháp lãng mạn để đậm thêm cái phi thường,i hoa, đem
đến cho người đọc một vẻ đẹp độc đáo hiếm có của người lính trong thời kỳ lịch sử:
9912,'U4
J$"+W"N
Nhà thơ Quang Dũng đã gọi tên binh đoàn của mình bằng tên đó gọi khá thú vị “đoàn
binh không mọc tóc”. Thật thú vị khi những con người ấy đã lấy chính hiện thực gian
khổ khốc liệt để biến thành niềm kiêu hãnh, niềm tự tôn cho chính mình. Nhà thơ
Phạm Tiến Duật cũng từng gọi tiểu đội của mình bằngi tên bắt nguồn từ hiện thực
cách thiếu thốn khắc nghiệt “tiểu đội xe không kính”, qua đó chúng ta thấy được tinh
thần lạc quan với chất lính dỏm hài hước. Câu thơ thứ hai đã tạo ra hai vế đối lập:
“quân xanh màu lá” và “dữ oai hùm”, một bên là cái thiếu thốn khó khăn gian khổ còn
một bên là khí phách anh hùng của người lính Tây Tiến. Ba tiếng “dữ oai hùm” đã tạo
nên một âm hưởng mạnh m~ hùng tráng cho câu thơ, người đọc đã cảm nhận được khí
thế của đoàn quân bước ra trận, câu thơ ngắt nhịp mạnh đã đậm nét hùng dũng.
Những người lính Tây Tiến ấy cũng những người lắm mộng nhiều những
người giàu khát vọng hoài bão. Đến đây nhà thơ cũng đã tạo ra nét v~ chân thực về
hình ảnh của người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp:
?GCBH",!
I(B+5(
Hai câu thơ trên đã nhấn mạnh chữ “mộng”, “mơ”. Từ “trừng“được dùng khá đặc sắc,
cho thấy biết bao nhiêu tâm nguyện, bao nhiêu khát vọng hoài bão tự đáy lòng đều
đã dâng cả lên trên ánh mắt. “Mắt trừng” chỉ một hành động mạnh nhưng không
phải trừng trị, dọa nạt cái nhìn đau đáu khôn nguôi thể hiện những nhung
nhớ, ước ao khắc khoải. Chữ “mộng” đã khiến cho câu thơ như bị trùng xuống, ẩn
chứa cảm xúc bâng khuâng. Câu thơ của tác giả Quang Dũng gợi nhắc người đọc tới
một câu thơ của nhà thơ Nguyễn Đình Thi: “Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu. Nỗi nhớ người yêu nhớ “dáng kiều thơm” nào
đó thật đời thường bình dị nhưng cũng thật cao qu}. đã khiến cho hình ảnh
người lính đã trở nên chân thực gần gũi hơn. Nỗi nhớ ấy trong hành trang của họ như
được tiếp thêm sức mạnh nghị lực để chiến đấu chiến thắng, như một điểm
tựa vững chắc cho những thanh niên học sinh chốn Hà Nội rời ghế nhà trường để tham
gia chiến trận – những con người “lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”.
Những người lính Tây Tiến đã sống anh hùng mà chết cùng anh hùng:
)*+, (-.$/
01 212$"
<,"1"-52=
>'?@A2B
Cái độc đáo đây nhà thơ viết về sự một sự ra đi của họ nhưng không đậm sự
sầu thương bị lụy sự ai oán não nùng đã nhấn mạnh dũng khí hùng tráng, khí
phách anh hùng. Sau những câu thơ rắn rỏi ấy, đẹp đ~ đến đây âm điệu câu thơ cũng
chợt trầm và trùng xuống, nó cũng giống như một thước phim quay chậm.
Còn thiêng liêng hơn cao cả hơn s hi sinh, sự chấp nhận gian khổ của những
người lính. Trên con đường hành quân người chiến Tây Tiến gặp biết bao mồ viễn
xứ của một trong những kẻ chết xa quê. Những người chiến của chúng ta nhìn với
ánh mắt bình thản bởi họ đã chấp nhận điều đó. Nếu câu thứ nhất tô đậm nên cái “Bi”
thì câu thứ hai đậm nét “Tráng” “Hùng”. Câu thơ thứ hai cũng giống như một
cái hất đầu ngạo nghễ của anh lính trẻ Tây Tiến: bất chấp khó khăn, bỏ mặc chết chóc
hiểm nguy cận kề, những người lính Tây Tiến vẫn kiên định trong } chí, cùng
dũng cảm trong hành động, ngạo nghễ trong khí phách người anh hùng dân tộc. Tác
giả đã mượn hình ảnh “áo bào” để gợi tả cái sự ra đi của những người lính. Đặc biệt
nó còn gắn với hình ảnh thiêng liêng và tạo ra sắc thái trang trọng, và giảm bớt nỗi
buồn thương bị lụy. cũng tạo ra một hình ảnh hết sức cảm động, giống như sự sẻ
chia đồng cảm của tác giả đối với những con người lính Tây Tiến. Câu thơ tiếp đã để
lại xuất hiện hình ảnh sông chứng nhân lịch sử. Sông tấu lên “khúc độc
hành” khúc ca đã đơn độc buồn thương. Chữ “gầm” biện pháp nhân hóa, nồi nhớ
thương của những lòng người như hóa thân vào một nỗi nhớ thương của dòng sông
hay dòng sông ấy vẫn đang chở đi những khúc ca đã đau đớn của con người. “Anh về
đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở và thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của chính
mình. Tiếng gầm của dòng sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt người
con yêu dấu của giống nòi. Cuối cùng, sau khi hồi tưởng lại bình nh đoàn binh Tây
Tiến một đã thời say lãng mạn, tác giả Quang Dũng đã bộc lộ nỗi niềm mong ước
gặp lại Tây Tiến:
991 2'^ !
I SB"K'
V991N"$=
-5>A/"-5$'
Câu thơ trên đã trở về với mạch cảm xúc chung của bài thơ, cảm xúc thương nhớ
nhưng vẫn mang trong âm hưởng tráng trí vang ngất ngời. Câu thơ nói đã về biệt
ly, về xa cách, ngậm ngùi nuối tiếc nhưng vần đầy những dũng khí, quyết tâm.
Khoảng cách càng xa thăm thẳm thì nỗi nhớ trở nên vời vợi bởi xa Tây Tiến không
biết bao giờ mới được gặp lại. Người đọc đã cảm thấy nồi nhớ thương như là đang đầy
cả câu thơ trên. Hai câu cuối, với giọng điệu mạch cảm xúc schuyển hướng:
câu thơ cũng giống như một lời mời gọi, một lời nhắn nhủ và ước hẹn tha thiết ân tình.
Phải chăng đây lời hẹn gặp Tây Tiến vào mùa xuân mùa xuân của hội ngộ,
của chiến thắng oanh liệt. Điều đó chứng tỏ tác giả đã mong ngày gặp lại Tây Tiến
trở về Tây Tiến chính ngày chiến thắng. Câu thơ kết vang lên kiêu hãnh như
một lời thề, với lời hứa quyết tâm. Từ nồi nhớ về một đoàn binh, rồi về những con
người cụ thể đã hóa thân thành một nỗi nhớ về một mảnh đất, một quê hương, Tây
Tiến cũng đã trở thành nỗi nhớ, với niềm yêu tha thiết của Quang Dũng.
Nhà phê bình Phong Lan đã nhận định: “Tây Tiến một tượng đài bất tử về người
lính danh” bất tử bởi chính vẻ đẹp hào hoa hào hùng bi tráng. vậy, người
lính Tây Tiến Cũng qua bài thơ cùng tên của tác giả Quang Dũng s~ sống mãi trong
cõi vĩnh hằng, trong thế giới nhân sinh.
Phân tích hình tượng người lính hay nhất
Quang Dũng được biết đến là một nhà thơ có tâm hồn phóng khoáng, hồn hậu và lãng
mạn. Ông đã mang cái chất hào hoa của người Nội cả của xứ Đoài để làm nên
chất men say lãng mạn nhiều tác phẩm của mình bài thơ thể hiện thành công
phong cách lãng mạn, phóng khoáng của ông chính Tây Tiến. Tác phẩm đặc thể
hiện thành công vẻ đẹp của hình tượng người lính Tây Tiến trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp.
Tây Tiến được Quang Dũng sáng tác vào năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh được
in trong tập Mây đầu ô. Hình ảnh người lính Tây Tiến được khắc họa dưới ngòi bút
của Quang Dũng mang một vẻ đẹp vừa bi tráng vừa lãng mạn tỏa sáng giữa núi rừng
thiên nhiên.
Hình tượng người lính người lính Tây Tiến được khắc họa rất lạ để tả màu da khi bị
sốt rét rừng:
9912,'U4#
J$"+W"N_
?GCBH",!#
I(B+5(_
Người lính giữ cho mình một thế oai phong, hùng dũng "dữ oai hùm”. Nhưng
thế đó được tả thực đến từng chi tiết. Người chiến không tóc do những trận sốt
rét rất khủng khiếp hầu như ai cũng phải trải qua. Đoàn quân Tây Tiến đã ra đi
không ít người những căn bệnh nguy hiểm như vậy, người hành quân phải đối mặt
với mọi khó khăn, gian nguy, thiếu thốn. Chính Hữu đã từng miêu tả:
V-!',1C(!8
> -A+ !'_
Đằng sau ngoại hình là một sức mạnh tâm hồn:
?GCBH",!#
I(B+5(_
Một nét đẹp lãng mạn giữa khung cảnh hiểm nguy của cuộc kháng chiến.một thời
giấc lãng mạn ấy được xem mộng tưởng thực của tiểu sản thể hiện tâm
hồn yếu đuối không nên người anh hùng ra trận. Tác giả đã đem đến cho ta sự
qu} giá của những câu thơ tả thực như thế. Giấc ấy thật bay bổng cũng sức
mạnh tinh thần của Tây Tiến. Những giấc mộng ấy đã biến thành động lực giúp người
chiến sĩ vượt qua bao gian khổ và thúc họ tiến về phía trước, vượt qua mọi kẻ thù.
tưởng khát vọng của người lính Tây Tiến được thể hiện một cách sâu sắc qua
câu thơ:
)*+, (-.$/#
01 212$"_
Tuổi trẻ khát vọng của những người lính trẻ tuổi vẫn còn đang phía trước nhưng Tổ
quốc thân yêu vẫn còn đang phía trước, không tình yêu cao hơn Tổ quốc.vậy
khát vọng của họ được ra đi, được dâng hiến, xả thân. Bao chiến anh dũng vung
gươm ra chiến trường. Những người ra đi không ngoảnh lại với tình cảm tươi đẹp đã
được thể hiện và trở thành lí tưởng của người chiến sĩ.
Quang Dũng không hề tránh hiện thực khắc nghiệt:
)*+, (-.$/#
01 212$"_
Trên chặng đường gian nan nhiều người lính không thể vượt qua đã vĩnh viễn gục
lên súng bỏ quên đời. Trên con đường hành quân rất nhiều phải hi sinh. Sự hi
sinh đầy bi tráng của họ được khắc họa vô cùng đẹp:
<,"1"-52=
>'?@A2B_
“Áo bào thay chiếu anh về đất” lại nói về sự ra đi của họ sang trọng hóa sự hi sinh
cao cả ấy. Người lính ngã xuống trên chiến trường chỉ duy nhất manh chiếu sài
thậm chí còn chẳng có chiếu. Sự hy sinh của người lính còn được thể hiện với giai
điệu của bản anh hùng ca: “Sông gầm lên khúc độc hành”. Con sông Mã gắn với
hành trình cùng chia sẻ mọi buồn vui mất mát. Chữ gầm là tiếng khóc của thiên nhiên,
thể hiện cái chết oai hùng của người lính và nâng cái chết lên tầm sử thi. Quang Dũng
đã sáng tạo thơ ca dân tộc với cái nhìn đầy lãng mạn. Hiện thực khốc liệt được nhìn
qua ng kính lãng mạn không đem đến nỗi bi lụy sự sang trọng, hào hùng
đẹp đ~.
Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến được khắc họa qua những câu thơ hào hùng lãng
mạn bằng bút pháp đa dạng, ngôn ngữ quen thuộc, độc đáo, kết hợp với các hình ảnh
ẩn dụ đầy } nghĩa.
Người lính Tây Tiến trong bài thơ vừa bi tráng vừa lãng mạn với tâm hồn lạc quan, tin
tưởng trước mọi gian khổ, khó khăn để đem đến độc lập, tự do cho đất nước.
Phân tích chân dung người lính Tây Tiến
Quang Dũng không hề che giấu những khó khăn, gian khổ và hiện thực nghiệt ngã
người lính phải chịu đựng. Tuy nhiên, sự thật ấy không được miêu tả trần trụi, khô
cứng mà thông qua cái nhìn lãng mạn, thi vị:
`9912,'U4
J$"+W"Na
Người lính Tây Tiến hiện lên với một vẻ đẹp ngoại hình dữ dội, lẫm liệt. Những chàng
trai với cái đầu “không mọc tóc”, với nước xả ngăn ngắt xanh đâu phải sản phẩm của
trí tưởng tượng để tạo nên sự li kì. Đó hiện thực của những năm tháng không thể
nào quên. thể, do người lính chủ động cạo trọc để thuận tiện khi đánh nhau với
giắc, có thể do ốm đau, tật bệnh khiến các anh rụng tóc, trụ đầu. Cách dùng từ độc đáo
đã đảo thế bị động thành chủ động như một nhà phê bình đã viết:Không phải các
anh không thể mọc tóc dường như không thèm mọc tóc”. Chất ngang tàng, kiêu
dũng, xem thường gian lao của người chiến binh đã được thể hiện từ những chi tiết
đời thường như thế. Nét v~ thứ hai về người lính Tây Tiến qua hình ảnh “Quân xanh
màu dữ oai hùm”. Đó màu xanh của bộ quân phục người chiến hay màu xanh
của những vòm lá ngụy trang hay màu xanh vì căn bệnh sốt rét rừng hằn in trên làn da
đoàn quân Tây Tiến.
`?GCBH",!
I(B+5(a
Ánh “mắt trừng” chứa đầy cảm xúc, đầy nội tâm. Phải chăng đó là ánh mắt căm phẫn,
uất nghẹn như muốn nuốt chửng kẻ thù xâmng, cũng thể ánh mắt đau đáu về
quê hương, ánh mắt bồn chồn, thao thức thăm thẳm suy nặng trĩu nỗi niềm. Đằng
sau ánh mắt ấy cả một niềm khao khát, mang theo giấc mộng chiến thắng, hứa hẹn
ngày trở về, đôi khi giữa ánh mắt xa xăm, rạo rực, khắc khoải xen lẫn giấc về
Nội, nhớ Hà Nội – dải đất thiêng ngàn năm văn hiến.
Trong bài thơ Tây Tiến, ngòi bút Quang Dũng không chỉ hướng về vẻ đẹp lãng mạn,
hào hoa mà còn tập trung thể hiện chất hào hùng, bi tráng:
`)*+, (-.$/
01 212$"
<,"1"-52=
>'?@A2Ba
Giọng thơ bỗng nhiên lắng xuống da diết hơn, đắm sâu o cõi lòng người đọc, dấy
lên nỗi mất mát tang tóc đau thương được dồn nén trong từ “rải rác”. Trên những
chặng đường hành quân bao đồng chí, đồng đội của Quang Dũng ngã xuống, gửi thân
xác mình nơi khe suối sườn đèo, cứ thế nỗi đau triền miên, nỗi đau này chưa vơi, nước
mắt này chưa ráo thì nỗi đau khác đã cọ cứa vào trái tim những người còn sống.
Hai câu thơ khép lại một lần nữa đậm đức hi sinh của những chàng trai đất
thành được Quang Dũng thể hiện qua âm hưởng thơ trầm hùng, bi tráng:
`<,"1"-52=
>'?@A2Ba
Quang Dũng có lần tâm sự: “lính Tây Tiến ngã xuống, manh chiếu không đủ che thân,
đồng chí, đồng đội vào những bản làng xa xôi để xin chiếu, khi hiểu mục đích của
việc sử dụng chiếu, già làng không cầm được nước mắt, họ cùng nhau đan những phên
nứa cho cho các anh bó gối thi hài đồng đội”.
Bốn câu thơ cuối một lần nữa nhấn mạnh lời thề thiêng liêng tinh thần swn sàng xả
thân cho Tổ quốc. khó khăn gian khổ nhưng không một người chiến sĩ nào thoái
thác nhiệm vụ:
`991 2'^ !
I SB"K'
V991N"$=
-5>A/"-5$'a_
“Tây Tiến” một bài thơ xuất sắc của Quang Dũng thơ ca kháng chiến chống
Pháp. Phân tích hình tượng người lính Tây Tiến được tái hiện đầy lãng mạn với một
tinh thần bi tráng. Với tác phẩm “Tây Tiến”, Quang Dũng đã góp vào viện bảo tàng
người chiến sĩ Việt Nam một bức chân dung đẹp và độc đáo.
Phân tích hình ảnh người lính Tây Tiến đầy đủ
Bài văn mẫu 1
Vào một đêm cuối năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, cái làng nhỏ nằm ven bờ con sông
Đáy, Quang Dũng bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm còn tươi nguyên. Năm ấy Quang
Dũng đội trưởng đoàn quân Tây Tiến làm nhiệm vụ phối hợp với bộ đội lào bảo vệ
biên giới Việt Lào, đánh địch trên tuyến đường rừng núi Tây Bắc từ Lai Châu đến
bắc Thanh Hóa. Những người lính của trung đoàn Tây Tiến sống cùng thiếu thốn
khổ cực, rừng thiêng nước độc, sốt rét hoành hành, thuốc men ít ỏi, dưới hành
quân là trập trùng núi rừng hoang vu, hiểm trở.
Những người lính Tây Tiến hầu hết thanh niên Nội, phần đông học sinh, tiểu
sản trí thức, tuy chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ vẫn phơi phới tinh thần lãng
mạn anh hùng. Quang Dũng viết bài thơ Tây Tiến năm 1918 (trước đây lấy tên
"Nhớ Tây Tiến”) để thể hiện nỗi nhớ niềm yêu về một thời chiến đấu gian khổ
hào hùng, dữ dội mà mê say.
Để khắc họa chân dung người lính, Quang Dũng đã sử dụng những chi tiết, hình ảnh
thực của đoàn quân Tây Tiến nhưng những hình ảnh đó lại được diễn tả bằng bút pháp
lãng mạn để đậm cái phi thường tài hoa, đem đến cho người đọc một vẻ đẹp độc
đáo hiếm có của người lính trong một thời kì lịch sử. Bài thơ được viết theo mạch cảm
xúc nhớ thương nên nó mở đầu bằng câu thơ biểu hiện nỗi nhớ ấy.
>'?@$"991(
!-5C!(-(
Hình ảnh sông anh hùng mở đầu bài thơ như mở cho người đọc những câu
chuyện oai hùng của binh đoàn Tây Tiến. Trên bước đường ra trận, những người lính
Tây Tiến sông đi cùng bởi vậy cũng thật tự nhiên ngay từ đầu bài thơ
Quang Dũng gọi tên "sông Mã". u thơ giống như một tiếng gọi tha thiết ám ảnh,
khoảng cách địa l} thì xa xôi vời vợi mà nỗi nhớ lại luôn thường trực. Trong lòng câu
thơ thứ hai dùng hai chữ "nhớ", lại được ngắt nhịp 4/3 đã diễn tả tinh tế những thổn
thức, mong mỏi, khao khát nhung nhớ của tác giả. Cái đặc sắc chính là ở ba chữ "nhớ
chơi vơi", chữ "chơi vơi” làm cho người đọc cảm nhận như lan tỏa vào không gian
thấm sâu vào lòng người, một chút chống chếnh, một chút hụt hẫng, một chút nao
lòng. Nỗi nhớ Tây Tiến tưởng như xa lại hóa gần, tưởng dịu nhẹ mơn man lại
sức ám ảnh khôn xiết. Không những thế, người đọc còn như nghe được trong
những chữ "nhớ chơi vơi" ấy âm hưởng của núi rừng, của sông suối Tây Tiến. Câu thơ
reo vần "ơi" tạo ra được độ dịu nhẹ lâng lâng trong cảm xúc, đây cảm xúc nhớ
thương giống như một sợi tình bện chặt lòng người. Ngay sau đó nhà thơ đã cụ thể
hóa nỗi nhớ của mình.
>Q" (=K2HR
? &+"-52(
Các địa danh Sài Khao, Mường Lát trong nỗi nhớ của Quang Dũng trở nên thân gần kì
lạ, viết về hình ảnh đoàn quân mỏi "Quang Dũng lại điểm thêm vào đó hình ảnh
"sương lấp", "hoa về", "đêmi". ràng đây chất hiện thực đã đi liền với chất
lãng mạn tạo nên nét v~ độc đáo về Tây Tiến.
Trong cảm xúc nhớ thương của nhà thơ, bức tranh Tây Tiến như được khoác sắc màu
huyền ảo, thơ mộng, giàu sắc thái lãng mạn khung cảnh rừng núi đoàn quân Tây
Tiến bước chân qua vừa thơ mộng vừa hùng vĩ. Trong nỗi nhớ, những kỷ niệm còn
tươi nguyên như sống dậy, nhà thơ nhớ đến hình ảnh một thời gian khổ:
S

Hai câu thơ mang giá trị tạo hình cao diễn tả một cách cụ thể và sinh động nhất những
gian khổ của người lính Tây Tiến trên đường ra trận. Câu thơ thứ nhất ngắt nhịp 4/3
chủ yếu được gieo thanh trắc đã gợi cho người đọc cảm nhận về một sự trúc trắc
gập ghềnh đầy hiểm nguy. Nhưng cái hay của câu thơ chính ở hai từ láy "khúc khuỷu,
"thăm thẳm", gợi cho người đọc những cảm nhận về một không gian được mở ra
nhiều chiều; cao, rộng, sâu, xa, người đọc như sẻ chia được cùng với người lính những
vất vả, gian khó. Câu thơ thứ hai chữ "heo hút" được dùng rất đặc sắc, khác với
hun hút, nếu “hun hút” gợi được độ sâu thì heo hút không giới hạn, từ heo hút không
chỉ gợi ra độ sâu còn thêm cả cảm giác hoang vắng, lạnh l~o, hiu quạnh. Địa hình
chiến đấu của người lính Tây Tiến quả thực đầy gian khó nguy hiểm. Hơn thế nữa
ba chữ "súng ngửi trời" được sử dụng thật độc đáo, cũng giống như hình ảnh "đầu
súng trăng treo" của Chính Hữu bao trùm lên hình ảnh là một không gian tưởng tượng
lãng mạn, nhưng nó được bắt nguồn từ cuộc sống hiện thực, từ con mắt tinh tế và ngòi
bút đa tài của nhà thơ. Nhờ hình ảnh "súng ngửi trời", câu thơ nói về những gian khổ
vất vả nhưng lại làm sáng ngời lên khí phách ngạo nghễ thế hiên ngang của con
người, ngoài ra còn thể hiện một chút dỏm tinh nghịch, một phong cách lính trẻ
trung lãng mạn. Giữa thiên nhiên hoang vắng lạnh, hình ảnh con người không
cảm thấy nhỏ đơn lại khẳng định thế làm chủ, khẳng định bản lĩnh của
một chiến anh hùng tinh thần lạc quan của con người. Không những thế, hình
ảnh một thời gian khổ còn được biểu hiện qua những câu thơ:
055"+AT
I2? 7UK 
Hình ảnh "oai linh thác gầm thét" "Mường Hịch cọp trêu người" những dẫn
chứng sống động nhất về những gian khổ hiểm nguy người lính Tây Tiến đã phải
trải qua khoảng thời gian "chiều chiều", "đêm đêm" trở thành một khoảng thời gian
ước lệ, giống như một ám ảnh về Tây Tiến thời gian in sâu trong tiềm thức của
chính tác giả. Viết về những gian khổ của người lính, ngòi bút của Quang Dũng cũng
ghi lại những hình ảnh hết sức chân thực:
V,8@A', !W"
3XF,RH2
Bao nhiêu vất vả nhọc nhằn của người lính được thể hiện qua hai chữ "dãi dầu". Tuy
nhiên từ "dãi dầu" vẫn giúp cho người đọc cảm nhận được chút phong trần của người
lính trên đường hành quân, phải chăng thế hình ảnh của họ thấp thoáng bóng dáng
của người tráng sĩ, chinh phu thuở nào. Qua những chữ "bỏ quên đời" ta thấy khí
phách bản lĩnh của người lính lại được ngời sáng từ chính những hiện thực tưởng
chừng như gian khổ khốc liệt một chút bất cần phó mặc nhưng hơn hết một tráng
trí anh hùng, dẫu mỏi mệt hay dầu hy sinh thì họ vẫn coi những biểu hiện ấy rất
đỗi nhẹ nhàng. Những người lính Tây Tiến khi chiến đấu thật anh dũng quả cảm
nhưng những giây phút nghỉ ngơi của họ cũng đầy lãng mạn, mê say:
"8,CB2"
QY"$+Z,"
Q["2\=K
8-5L0S$(
Họ bỏ lại sau lưng mình những hòn đạn, gạt bỏ những lo lắng vất vả của cuộc chiến,
giữa đời thường, người lính Tây Tiến hiện lên thật bình dị, gần gũi. Một buổi liên
hoan bỗng chốc biến thành một ngày hội tưng bừng náo nhiệt qua lăng kính lãng mạn
của người chiến sĩ không gian của đêm hội đuốc hoa thật rực rỡ lung linh, câu thơ tràn
đầy ánh sáng màu sắc, trong thơ như có họa. Chữ "bừng" được dùng rất hay,
không chỉ s bùng lên của ánh sáng, của đuốc đêm hội sự bùng lên của
niềm vui, niềm say kiêu hãnh. Trong sự náo nức của đêm hội ấy, hình ảnh người
em gái hình ảnh trung tâm, bao nhiêu con mắt như đổ dồn về phía người em gái để
kìa em xiêm áo tự bao giờ" — một cảm xúc ngạc nhiên đến sững sờ nhưng đi liền
ngay sau đó cảm xúc ngây ngất đắm đuối say mê. Từ Hán việt "xiêm áo" tạo ra
nét trang trọng, đây hình ảnh người em gái như được mỹ lệ hóa. Những chữ "tự bao
giờ" như không giấu nổi cảm xúc ngây ngất của những người lính Tây Tiến, họ ngỡ
như hình ảnh của đêm hội với người em gái ấy đã có từ lâu lắm để rồi bất chợt lại thấy
ngỡ ngàng. Bức tranh đêm hội được lung linh hóa, mỹ lệ hóa để rồi người đọc tưởng
người em gái ấy tựa như một nàng tiên bước ra từ cổ tích giữa hiện thực khốc liệt dữ
dội người ta bắt gặp hình ảnh như huyền thoại, đây chính sắc thái lãng mạn của
bài thơ. Điểm thêm vào bức tranh đêm hội ấy là hình ảnh của nhạc, của khèn, nhịp thơ
đồng thời nhịp của tiếng lòng náo nức say, tiếng nhạc của tâm hồn như lan tỏa
ra từng câu chữ. Một thời say lãng mạn của người lính Tây Tiến còn được gọi
nhắc qua hình ảnh rất đẹp đ~:
!'991(4
?"0N"(1K$'
Hình ảnh của cơm n khói, hương vị của nếp xôi nồng nàn tha thiết như quyện
chặt tâm hồn người đi xa. Câu thơ chủ yếu gieo thanh bằng, tạo ra một cảm xúc lâng
lâng chơi vơi, một chút bâng khuâng nhung nhớ, một chút da diết khắc khoải cũng đủ
làm nao lòng người khi nhớ về Tây Tiến. Viết về một thời mê say ấy, Quang Dũng
những câu thơ rất đỗi tài hoa.
 !"# !$
"%"&' "$"(
Câu thơ thứ nhất như được bẻ gãy làm đôi, gợi ra cái trập trùng hiểm trở của núi rừng
Tây Tiến. Còn u thơ thứ hai giống như một tiếng buông lơi thật dịu nhẹ chơi vơi.
Câu thơ như đẩy tư duy người đọc về một hoài niệm nào đó đã xa vắng trong nỗi niềm
của tác giả: tưởng hồ không xác định, tưởng vu bất chợt nhưng lại cứ ám
ảnh khắc khoải trong tâm trí tác giả, không những thế, câu thơ còn tiết tấu giai
điệu rất rõ thể hiện tính nhạc cao. Như vậy người chiến sĩ cũng chính là người nghệ sĩ.
Cuộc sống kháng chiến không chỉ có gian khổ mất mát còn đẹp lung linh trong
tâm hồn người lính. Chính cuộc sống này, cuộc sống đầy chất thơ mộng này, đã
xua tan đi những mỏi mệt gian lao trong đời sống chiến đấu của người lính. Tiếp đó,
mạch cảm xúc đã có sự chuyển đổi: đang giọng náo nức giục giã say chuyển
sang giọng điệu trầm lắng, bâng khuâng pha một chút hoài niệm ngậm ngùi:
 20?B5 (=
04="],1,
04=+ 2BB
9'E !F"22 "
Hoài niệm của tác giả bắt đầu từ hình ảnh "chiều sương y", không gian như thoáng
phủ một nỗi buồn mênh mang. Chữ "ấy" } nghĩa định vị về mặt không gian như
muốn đẩy những kỉ niệm lùi về một nơi rất xa, nó giúp cho người đọc cảm nhận được
khoảng cách vời vợi của nhớ thương. Những câu thơ gợi nhiều hơn tả, các hình ảnh
được gợi ra không phải những hình ảnh cụ thể chi tiết chi dáng, hình, rất
khó định hình, khó nắm bắt. Nhà thơ dường như không miêu tả cảnh mà chỉ gợi lại cái
linh hồn của nó, hay nói đúng hơn cảnh vật được nhìn qua lăng kính nhớ thương,
không rõ nét, mờ mờ ảo ảo, hưthực thực. Không phải miêu tả lâu mà"hồn lau”,
không phải miêu tả người “dáng người”, người đọc cảm nhận được một không
gian hoang sơ vắng lặng đượm một nỗi buồn mênh mang. Đặc sắc nhất của khổ thơ
việc sử dụng cấu trúc câu “có thấy”, "có nhớ", Đây không chỉ là câu hỏi má còn giống
như một lời gợi nhắc, một lời nhắn nhủ tha thiết ân tình. Phải chăng hồn lau ấy, dáng
người ấy đã trở thành những hình ảnh ám ảnh tâm hồn tác giả, để rồi khi gợi nhắc về
giống như một điểm nhấn của xúc cảm. Đặc biệt, sự biến đổi trong cách sử dụng
các cụm từ "có thấy", ”có nhớ” còn sthay đổi về giác quan, không chi cái nhìn
còn tâm hồn, trái tim được đánh thức. Câu thơ thứ khá độc đáo, xuất hiện
hình ảnh "nước lũ" đối lập với hình ảnh “hoa đong đưa": một bên cái mạnh m~ dữ
dội, một bên cái nhẹ nhàng thật kh~ thật êm. l~ hìnhnh "hoa đong đưa" không
còn hình ảnh tả thực đã trở thành hình ảnh diễn tả tâm trạng nỗi niềm của tác
giả. Từ láy "đong đưa" khác với từ láy "đu đưa", không chỉ miêu tả dáng hình
sự chuyển động như từ "đu đưa" còn đầy tình }, còn sự đong đưa của ánh
mắt đầy hoài niệm say, đầy sắc thái ng mạn phong cách sáng tạo nghệ thuật
độc đáo của Quang Dũng. Đọc Tây Tiến chúng ta như sống lại một thời lửa cháy cùng
đoàn quân lừng tiếng đã đi vào lịch sử. Để khắc họa chân dung người lính, nhà thơ đã
sử dụng những chi tiết, hình ảnh thực của đoàn quân Tây Tiến nhưng những hình ảnh
đó lại được diễn tả bằng bút pháp lãng mạn để tô đậm cái phi thường, tài hoa, đem đến
cho người đọc một vẻ đẹp độc đáo hiếm có của người lính trong thời kỳ lịch sử:
9912,'U4
J$"+W"N
Nhà thơ Quang Dũng gọi tên binh đoàn của mình bằng tên gọi khá thú vị "đoàn binh
không mọc tóc”. Thật thú vị khi những con ngườiy lại lấy chính hiện thực gian khổ
khốc liệt để biến thành niềm kiêu hãnh tự tôn cho chính mình. Nhà thơ Phạm Tiến
Duật cũng đã từng gọi tiểu đội của mình bằng cái tên bắt nguồn từ hiện thực thiếu
thốn khắc nghiệt "tiểu đội xe không kính", qua đó ta thấy được tinh thần lạc quan
chất lính dỏm hài hước. Câu thơ thứ hai tạo ra hai vế đối lập: "quân xanh màu lá"
với "dữ oai hùm", một bên cái thiếu thốn khó khăn gian khổ, một bên khí phách
anh hùng của những người lính Tây Tiến. Ba tiếng "dữ oai hùm" tạo nên một âm
hưởng mạnh m~ hùng tráng cho câu thơ, người đọc cảm nhận được khí thế của đoàn
quân ra trận, câu thơ ngắt nhịp mạnh đậm nét hùng dũng. Những người lính Tây
Tiến cũng là những người lắm mộng nhiều mơ, những người giàu khát vọng hoài bão.
Đến đây nhà thơ đã tạo ra nét v~ chân thực về hình ảnh người lính trong cuộc kháng
chiến chống Pháp:
?GCBH",!
I(B+5(
Hai câu thơ đã nhấn mạnh chữ "mộng" và "mơ”. Từ "trừng“được dùng khá đặc sắc, nó
cho thấy bao nhiêu tâm nguyện, bao nhiêu khát vọng hoài bão tự đáy lòng đêu dâng cả
lên trên ánh mắt. "Mắt trừng" chỉ một hành động mạnh, nhưng không phải là trừng trị,
dọa nạt mà cái nhìn đau đáu, khôn nguôi thể hiện những nhung nhớ, ước ao đến
khắc khoải. Chữ "mộng" khiến cho câu thơ như bị trùng xuống, ẩn chứa xúc cảm bâng
khuâng. Câu thơ của Quang Dũng gợi nhắc người đọc tới một câu thơ của Nguyễn
Đình Thi: “Những đêm dài hành quân nung nấu – Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Nỗi nhớ người yêu nhớ "dáng kiều thơm” nào đó thật đời thường, bình dị nhưng cũng
thật cao qu}. khiến cho hình nh người lính trở nên chân thực gần gũi hơn. Nỗi
nhớ ấy trong hành trang của họ như tiếp thêm sức mạnh nghị lực để chiến đấu
chiến thắng, như một điểm tựa vững chắc cho những thanh niên học sinh Nội
rời ghế nhà trường tham gia chiến trận những con người "lưng đeo gươm tay mềm
mại bút hoa”.
Những người lính Tây Tiến sống anh hùng mà chết cùng anh hùng:
)*+, (-.$/
01 2Y12$"
<,"1"-52=
>'?@A2B
Cái độc đáo nhà thơ viết về sự ra đi của họ nhưng không đậm sự sầu thương bị
lụy sự ai oán não nùng nhấn mạnh dũng khí hùng tráng, khí phách anh hùng. Sau
những câu thơ rắn rỏi, đẹp đ~ đến đây âm điệu câu thơ chợt trầm trùng xuống,
giống như một thước phim quay chậm.
Còn thiêng liêng cao cả hơn sự hi sinh, sự chấp nhận gian khổ của người lính.
Trên đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao mồ viễn xứ của những kẻ
chết xa quê. Nhưng những người chiến sĩ của chúng ta nhìn với ánh mắt bình thản bởi
họ chấp nhận điều đó. Nếu câu thứ nhất đậm cái "Bi" thì câu thứ hai đậm nét
"Tráng", "Hùng". Câu thơ thứ hai giống như một cái hất đầu ngạo nghễ của anh lính
Tây Tiến: bất chấp khó khăn, bỏ mặc chết chóc hiểm nguy cận kề, những người lính
Tây Tiến vẫn kiên định trong } chí, dũng cảm trong hành động, ngạo nghễ trong khí
phách người anh hùng. Tác giả mượn hình ảnh "áo bào" để gợi tả sự ra đi của những
người lính. Đặc biệt còn gắn với hình ảnh thiêng liêng tạo ra sắc thái trang
trọng, giảm bớt nỗi buồn thương bị lụy. tạo ra một hình ảnh hết sức cảm động,
giống như một sự sẻ chia đồng cảm của tác giả đối với những người lính Tây Tiến.
Câu thơ tiếp lại xuất hiện hình ảnh sông chứng nhân của lịch sử. Sông tấu
lên "khúc độc hành" khúc ca đơn độc buồn thương. Chữ "gầm" biện pháp nhân
hóa, nồi nhớ thương của lòng người như hóa thân vào nỗi nhớ thương của dòng sông
hay dòng sông ấy đang chở đi những khúc ca đau đớn của con người. “Anh về đất”
hóa thân cho dáng hình xứ sở, thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình. Tiếng
gầm của sông về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt người con yêu dấu của
giống nòi. Cuối cùng, sau khi đã hồi tưởng lại bình ảnh đoàn binh Tây Tiến một thời
mê say lãng mạn, Quang Dũng đã bộc lộ nỗi niềm mong ước gặp lại Tây Tiến:
991 2'^ !
I SB"K'
V991N"$=
-5>A/"-5$'
Câu thơ đã trở về với mạch cảm xúc chung của bài thơ, cảm xúc thương nhớ, nhưng
vẫn mang trong nó âm hưởng tráng trí ngất ngời. Câu thơ nói về biệt li, về xa cách,
ngậm ngùi nuối tiếc nhưng vần đầy dũng khí, quyết tâm. Khoảng cách càng xa thăm
thẳm thì nỗi nhớ càng trở nên vời vợi bởi xa Tây Tiến không biết bao giờ mới gặp lại.
Người đọc cảm thấy nồi nhớ thương như đang đầy cả câu thơ. Hai câu cuối, giọng
điệu mạch cảm xúc sự chuyển hướng: câu thơ giống như một lời mời gọi, một
lời nhắn nhủ, ước hẹn tha thiết ân tình. Phải chăng đây lời hẹn gặp Tây Tiến vào
mùa xuân mùa xuân của hội ngộ, của chiến thắng. Điều đó chứng tỏ tác giả mong
ngày gặp lại Tây Tiến, trở về Tây Tiến chính ngày chiến thắng. Câu thơ kết vang
lên đầy kiêu hãnh như một lời thề, lời hứa quyết tâm. Từ nồi nhớ về một đoàn binh, về
những con người cụ thể đã hóa thân thành nỗi nhớ về một mảnh đất, một quê hương,
Tây Tiến đã trở thành nỗi nhớ, niềm yêu tha thiết của Quang Dũng.
Nhà phê bình Phong Lan nhận định: “Tây Tiến một tượng đài bất tử về người lính
danh” bất tử bởi chính những vẻ đẹp hào hoa, hào hùng bi tráng. vậy, người
lính Tây Tiến qua bài thơ cùng tên của Quang Dũng s~ sống mãi trong cõi vĩnh hằng
và trong thế giới nhân sinh.
Bài văn mẫu 2
Trong nền văn học nước nhà, thơ ca Cách Mạng Việt Nam luôn được coi là tài sản
giá của dân tộc, bởi chúng phản ánh cả một giai đoạn lịch sử đấu tranh hào hùng của
đất nước con người Việt. Đặc biệt trong thời kháng chiến, với cảm hứng yêu
nước, thi ca đã thực sự hun đúc n tượng đại của những chiến anh hùng, những
“Thạch Sanh của thế kỉ XX”. Hình ảnh anh bộ đội cụ H trở thành hình tượng đẹp
nhất, đáng tự hào nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Họ là những người sống có
tưởng swn sàng lấy máu mình để thắm cờ cho Tổ quốc, đồng thời đó cũng tràn
đầy tâm hồn lãng mạn hào hoa. Qua việc tìm hiểu hình ảnh anh bộ đội trong bài thơ
“Tây Tiến”, một bài thơ tiêu biểu nhất của Quang Dũng nói riêng, của thơ ca kháng
chiến chống Pháp nói chung, chúng ta có thể thấy rõ.
"Tây Tiến" tên của một đơn vị bộ đội được thành lập năm 19471947, giữa những
ngày đầu vô cùng gian khổ của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Lính Tây Tiến
phần đông thanh niên Nội, trong đó nhiều học sinh, sinh viên, trí thức trẻ.
Đơn vị y hoạt động chủ yếu trên địa bàn núi rừng miền Tây Bắc sang tới Thượng
Lào, có nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt- Lào và phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao
lực lượng quân đội Pháp. Sinh hoạt cùng thiếu thốn gian khổ nhưng lính Tây
Tiến vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn anh hùng. Bài thơ được viết Phù Lưu Chanh
(Hà Tây) cuối năm 1948, lúc Quang Dũng rời xa đơn vị chưa lâu, Bài thơ ban đầu
tên Nhớ Tây Tiến, sau đổi lại Tây Tiến. Qua nỗi nhớ cảnh vật con người Tây
Tiến, bài thơ bày tỏ niềm ngưỡng mộ những người lính trong kháng chiến chống Pháp
ngợi ca một thời gian khổ anh hùng trong lịch sử dân tộc. Nỗi nhớ ấy xuyên
suốt cả ba đoạn và bốn câu kết thúc của bài thơ.
Trước hết khổ thơ đầu của bài, Quang Dũng thể hiện sự thể hiện nỗi nhớ của mình
về đoàn quân Tây Tiến thông qua nỗi nhớ ấy ta thấy được những hình ảnh bi tráng thể
hiện vẻ đẹp của những anh hùng Tây Tiến:
>'?@$"991(6
!-5C#!(-(
>Q" (=K2HR
? &+"-52(
Nỗi nhớ ấy bắt đầu bằng tiếng gọi Tây Tiến ơi. Tiếng gọi đó sao mà nghe tha thiết như
thế, như vọng vào không gian của con sông Mã, quay ngược lại với những kỉ niệm
thời xưa. Một thời đạn bom đó đã để lại nỗi ám ảnh cho những người trực tiếp tham
gia chiến đấu. Cách hiệp vần những chữ cuối mỗi câu khiến cho câu thơ càng vang
xa, ngân mãi trong đêm: “ơi,i, hơi”. giống như lúc những anh lính tây tiến trút
hơi thở mệt mỏi sau một ngày hành quân. Hai địa danh Sài Khao Mường Lát hiện
lên khắc sâuo nỗi nhớ của tác giả. Hai địa danh ấy gắn với những cuộc hành quân
của đoàn quân tây tiến. “Đêmi” khiến cho độc giả nghĩ tới nhiều sự vật vĩ, đêm
hơi có thể là đêm đầy sương và hơi sương, đêm hơi còn là đêm của không khí lạnh của
rừng sâu, nhưng cũng có thể sự di chuyển nhẹ nhàng của những chiến sĩ đoàn quân
tây tiến hay chính những hơi sương trong đêm hành quân ấy thể hiện những khó
khăn vất vả của đoàn quân. Những khó khăn của những người lính tây tiến lại trở nên
đẹp đ~ nên thơ trong những vần thơ của Quang Dũng. Đó những gian nan
những người lính phải trải qua, chính những gian nan đó lại càng đậm vẻ đẹp bi
tráng của họ… những triền dốc khiến người ta mới nhìn đã thấy ngại, hai từ thăm
thẳm trong câu thơ khiến độ hun hút của những con dốc lại ng trở nên nguy hiểm
biết bao nhiêu.chưa dừng lại đó,những hình ảnh hun hút, đầu súng của những người
lính đang đùa giỡn với mây trời.
S
#
 !"# !$
"%"&' "$"(
Những chi tiết, hình ảnh thơ của tác gi đầy ấn tượng. Sương dày như lấp cả đoàn
quân, mưa nhiều đến nỗi làm cho những ngôi nhà như trôi bồng bềnh giữa biển khơi.
Nhiều câu thơ s dụng ng loạt thanh trắc: “dốc”, “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” m
hiện n cái gập ghềnh, thăm thẳm, khúc khuỷu, cheo leo của con đường hành quân.
Những độ cao độ sâu ấy được tính bằng ngàn thước, nhấn mạnh vào những gian khổ
đoàn quân phải vượt qua. Tiếp đó là những chữ dùng rất bạo, nhất là ba chữ “súng
ngửi trời” gợi lên độ cao chóng mặt.
Hai câu sau có sự phối thanh rất độc đáo. Điệp ngữ "ngàn thước" một ước lệ nghệ
thuật có tính định lượng, khắc họa vẻ đẹp hùng vĩ, chênh vênh, thú của núi rừng
miền Tây. Yếu tố tương đồng của điệp ngữ "ngàn thước" tính chất tương phản của
các động từ "lên – xuống"trong hai vế câu đã tạo ra cảm giác về một nét gập đột ngột,
dữ dội cho câu thơ, cũng cách để nhà thơ gợi tả thật tài hoa độ của của dốc, độ sâu
của vực: bên này đường lên núi dựng đứng, vút cao; bên kia vực đổ xuống hun hút,
hiểm trở. Trong cả câu thơ đặc biệt giàu tính tạo hình biểu cảm, dốc núi miền Tây
được miêu tả hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng đều khắc họa được đồng thời cả s
hiểm trở lẫn vẻ đẹp hùng vĩ, thú. Thông qua bức tranh thiên nhiên, thể thấy vẻ
đẹp tâm hồn của những người lính Tây Tiến: họ lạc quan, mạnh m~, coi thường mọi
gian truân, vất vả; những thử thách của thiên nhiên chỉ càng làm hơn } chí, sức
mạnh, tâm hồn trẻ trung chất nghệ của họ. Sau những câu thơ hun hút, nhọc
nhằn miêu tả dốc núi, câu thơ tả mưa miên man trong bảy thanh bằng, cùng với rất
nhiều âm tiết mở; câu thơ đã gợi tả một không gian mênh mang, dàn trải, nhạt nhòa
trong mưa "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi". Dòng thơ mở ra một khoảng không gian
bát ngát, câu thơ như bay ngang trời. Ta như hình dung được người lính đang leo lên
những cồn mây, một hôm nào đó, dừng chân bên dốc núi phóng tầm mắt nhìn ngang
ra xa, Ánh mắt những người lính xa nhà bâng khuâng hướng tới những ngôi nhà bồng
bềnh, thấp thoáng, ẩn hiện trong màn mưa ảo… Sắc thái phiếm chỉ khiến cụm từ
"nhà ai" trở nên mơ hồ, xa xăm. Sắc thái nghi vấn lại gợi nỗi trăn trở trong lòng người.
Cảu thơ chỉ duy nhất tiếng "nhà" mang thanh huyền như một thoáng trầm lắng,
suy tư để rồi sau đó, tất cả những thanh không chơi vơi trong nỗi nhớ. Giữa mưa rừng
buốt lạnh, giữa núi rừng mênh mông, những địa danh như Sài Khao, Mường Lát,
Mường Hịch, Pha Luông rất xa lạ, làm tăng thêm ấn tượng về s hoang sơ, vĩ,
mật của rừng thiêng, hình ảnh ngôi nhà gợi cảm giác ấm áp, nhớ nhung dễ làm xao
xuyến lòng người xa quê. Chúng cho biết không chỉ miền đất người lính đã đi qua
mà khi “vừa mới đọc lên thôi đã thấy mòn chân mỏi gối” (Trần Lê Văn).
Núi rừng miền Tây tiếp tục được miêu tả trong những nét v~ đầy ấn tượng:
055"+AT
I2? 7UK 
"Thác gầm thét" "cọp trêu người" hai hình nh nhân hóa thể hiện sự dữ dội,
hoang đầy hiểm của núi rừng miền Tây. Bút pháp đối lập của cảm hứng lãng
mạn được sử dụng trong phép đối thanh rất tinh tế hai câu thơ này. Nếu câu trên
các tiếng "thác", "thét" mang thanh trắc ở âm vực cao thì câu dưới là các tiếng "Hịch",
"cọp" cũng mang thanh trắc nhưng lại thuộc âm vực thấp. thể thấy những dấu
sắc trong câu trên như gợi âm thanh của tiếng thác nước man dại vòm cao thăm
thẳm; những dấu nặng liên tiếp trong câu thơ dưới lại như một phỏng tiếng bước chân
nặng nề của thú dữ, gợi ra cái thâm u, ẩn đầy đe dọa vòm tối thấp của núi rừng.
"Chiều chiều" "đêm đêm" những trạng ngữ chỉ dòng thời gian tuần hoàn, miên
viễn, vĩnh hằng. Những sức mạnh thiên nhiên khủng khiếp đã ngự trị núi rừng miền
Tây không phải một chiều, một đêm mà là "chiều chiều – đêm đêm" – sự ngự trị muôn
đời! Nhưng cũng chính điều này lại càng khiến chân dung người chiến Tây Tiến
thêm hào hùng, mạnh m~: họ đã hành quân qua những vùng đất hoang sơ, dữ dội,
vắng bóng con người, những vùng đất tưởng như chỉ vương quốc riêng của heo hút
mây trời, của rừng thiêng nước độc; vùng đất ấy nay đã in dấu chân của những người
chiến sĩ kiên cường, dũng cảm trong đoàn quân Tây Tiến.
Sự vất vả, gian truân cũng như vẻ đẹp trong tâm hồn người lính Tây Tiến đã ít nhiều
thể hiện trong những câu thơ miêu tả cảnh thiên nhiên miền Tây hành trình qua
miền Tây, ngoài ra còn những u thơ trực tiếp miêu tả hình ảnh người lính cũng
như những kỉ niệm của họ trong chặng đường hành quân. Trước hết một ức sâu
đậm của Quang Dũng về hình ảnh một người chiến sĩ Tây Tiến trên đường hành quân:
V,8@A', !W"
3XF,RH26
!'991(4
?"0N"(1K$'
Từ láy "dãi dầu" đã thể hiện toàn bộ những vất vả, nhọc nhằn của các anh khi hành
quân qua miền Tây, khi vượt qua những núi cao, vực sâu, thác ghềnh dữ dội, vượt qua
những nắng mưa, sương gió miền Tây. Hai u thơ tựa như một bức họa đầy ấn
tượng về người lính Tây Tiến. Sự hồn nhiên của người lính được thể hiện qua những
giây phút mệt mỏi, gục lên ba ngủ,bỏ lại sau đó những khó khăn vất vả, những
hiểm nguy của kháng chiến. Hình ảnh người lính gục lên súng mũ dãi dầu không bước
nữa một hình ảnh đẹp. Câu thơ nhằm nói giảm đi cái chết, cái hi sinh của những
người chiến sĩ ấy. Đó là một vẻ đẹp bi tráng, cái hi sinh kia là bị nhưng trong cái bi ấy
ta lại thấy một cái tráng lệ cùng. Họ thể hi sinh nhưng trong một thế rất nhẹ
nhõm, “bỏ quên đời” những ức về những lúc dừng chân mệt mỏi, những kỉ niệm
với những buổi chiều ban đêm với những con thú dữ gầm lên, nhớ những đêm
mùa nếp xôi ở Mai Châu.
đoạn thơ tiếp theo người lính hiện ra với vẻ hồn nhiên, một đời sống tinh thần
cũng cùng vui vẻ lạc quan, những hình ảnh liên hoan đời thường, cùng với gái
Viêng Chăn xinh đẹp kiều diễm với tình dân quân thân thiết đẹp sao. Bỏ qua những
vất vả những người lính hiện ra với vẻ đẹp oai hùng mà cũng hồn.
"8,CB2"
QY"$+Z,"
Q["2\=K
8-5L0S$(
“Doanh trại”nơi đóng quân của Tây Tiến cũng là nơi diễn ra lễ hội văn hóa đậm đà
tình quân n. Đồng bào dân tộc đã tụ họp về đây để sinh hoạt góp vui tinh thần
với bộ đội Tây Tiến. Từ “Bừng” gợi cảm giácm áp, gợi niềm vui lan tỏa. Đêm rừng
núi thành đêm hội. Ngọn đuốc nứa, đuốc lau thành “đuốc hoa” (“Đuốc hoa” hoa
chúc cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn). đây, “đuốc hoa”} nghĩa
gợi không khí m cúng gợi niềm vui, niềm hạnh phúc trong lòng các chiến sĩ.
“Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng n; cũng còn nghĩa
tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười nói tưng bừng rộn rã. thể hình dung đêm hội
Quang Dũng viết trên đây như một đám cưới tập thể. Từ “Kìa em” trong câu thơ thứ
hai thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của lính Tây Tiến trước vẻ đẹp của cô gái vùng
cao trong trang phục “xiêm áo” lộng lẫy cùng ng vẻ “e ấp” rất thiếu nữ. Quang
Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục.
Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc
văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ. Quang Dũng
không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên trước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân
của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ
Thái, những gái Lào xinh đẹp, duyên dáng “e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực
rỡ. Cũng có thể hiểu người lính đang đóng giả con gái trong những trang phục dân tộc
rất độc đáo, tạo tiếng cười vui cho đêm văn nghệ.
Ngỡ ngàng nữa tiếng khèn “man điệu”. Khèn là một loại nhạc cụ của người dân tộc
miền núi Tây Bắc còn “man điệu” một điệu nhạc “lạ” đặc trưng văn hoá của những
con người nơi đây. hòa vào tiếng khèn ngất ngây ấy điệu múa vông quyến
của những cô gái Lào đã “xây hồn thơ” trong lòng các chàng lính trẻ. Chính cái lạ ấy
làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Nội hào hoa. Chính trong
không khí của âm nhạc, điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây
Tiến thăng hoa, mọi mỏi mệt như bị đẩy lùi, thêm vào đó lòng yêu đời, yêu miền
đất lạ. Chính thế mọi cảm giác mỏi mệt, mọi vất vả đều tan biến. Thay vào đó
niềm lạc quan, yêu đời nâng bước họ mạnh m~ hơn trên con đường hướng về “Viên
Chăn xây hồn thơ”. Từ đó, ta có thể thấy được rằng các chiến sĩ của chúng ta dù trong
những giờ phút vui vẻ, thoải mái nhất thì tâm hồn của họ vẫn luôn hướng về tưởng
cách mạng cao đẹp.
Bốn câu sau khung cảnh chia tay trên nền sông nước Tây Bắc vừa thực vừa mộng
hoang vắng, tĩnh lặng, buồn thi vị. Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh
mang, huyền ảo:
 20?B5 (=
04="],1,
04!+ 2BB
9'E !F"22 "
So với bốn câu thơ trên hình ảnh không khí đêm lễ hội tưng bừng hoà hợp với ánh
sáng lung linh tâm hồn trẻ trung, yêu đời của các chiến sĩ Tây Tiến thì bốn dòng
thơ tiếp theo, Quang Dũng đưa người đọc đến với hình ảnh của con người và núi rừng
Tây Bắc trong một buổi chiều sương. Một không gian bảng lảng khói sương như trong
cõi mộng cứ thế hiện ra. Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên theo chiều hướng. Cái dữ dội,
khốc liệt được đẩy lùi đi thay vào đó những hình ảnh nhẹ nhàng thơ mộng.
Hình ảnh đầu tiên hình ảnh chiều sương cho ta thấy nét đặc trưng vốn của núi
rừng nơi đây. Nhưng sương đây ko phải sương lấp, sương che hay sương phủ
''Người đi Châu Mộc chiều sương ấy''. gợi màu sắc bảng lảng, sương khói vừa
nỗi buồn man mác. Đại từ ''ấy'' làm rõ nghĩa hơn cho từ chiều sương để nhấn mạnh
rằng đây một buổi chiều sương rất đặc biệt, chiều sương trong nỗi nhớ đã thành kỷ
niệm nên tình người cũng man mác, bâng khuâng!
Không gian nên thơ y làm nền cho người thơ xuất hiện: Giữa hình ảnh thiên nhiên
Tây Bắc hiện lên đầy sức sống lãng mạn thì hình ảnh con người nơi đây hiện lên
mang một vẻ đẹp khỏe khoắn, bất khuất, kiên cường: ''Có nhớ ng người trên độc
mộc''. Điệp ngữ “có thấy nhớ” luyến láy như chạm khắc vào lòng người một nỗi
nhớ da diết, cháy bỏng khôn nguôi. Độc mộc một loại thuyền được làm từ thân cây
gỗ lớn, dài. Dáng người trên độc mộc ở đây có thể là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển
của những gái Thái, Mèo đang đưa các chiến vượt sông. Cũng thể hiểu
dáng hình kiêu dũng của các chiến Tây Tiến đang chèo chống con thuyền vượt
sông, vượt thác dữ tiến về phía trước. Tất cả những hình ảnh ấy đều đã để lại trong
lòng của Quang Dũng một hình ảnh khó phai nhòa. Thiên nhiên Tây Bắc vốn nổi tiếng
với con sông Mã, một dòng sông đã chứa trong nó biết bao dữ dội. Nhưng ở đây, dòng
sông đã hiện lên với sự nhẹ nhàng đến kỳ lạ. Những cánh hoa rừng không bị ''dồi
lên dập xuống'' “Trôi dòng nước hoa đong đưa''. Từ láy “đong đưa” được sử
dụng rất gợi: Cánh hoa rừng như cũng quyến luyến con người. Cánh hoa rừng như bàn
tay vẫy chào người lính, tiễn người lính vượt sông đi đánh giặc.
Với những nét kiên cường cho sự khắc nghiệt làm cho } chí lòng quyết tâm của
chiến sĩ không hề bị phôi phai, những đoàn binh phải chịu đựng hàng trăm những gian
nan nguy hiểm đó đã tác động xấu đến thân thể của người lính, nhưng không
làm phôi phai đi tinh thần của người chiến sĩ Tây Tiến.
`9912,'U4
J$"+W"N
?GCBH",!
I(B+5(a
Không chỉ khó khăn trên chiến trường chiến đấu, những câu chuyện về bệnh tật và nơi
khí hậu khắc nghiệt cũng được đưa vào trong thơ của Quang Dũng. Không một chút
giấu diễm, sự thiếu thốn hay những căn bệnh như sốt rét. Chính Hữu trong bài thơ
"Đồng chí" đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:
V-!',1C(!8
> -A+ !'
Căn bệnh đáng sợ khiến cả binh đoàn bị rụng hết tóc được Quang Dũng khai thác hết
sức chân thực của người lính Tây tiến, dù khó khăn khắc nghiệt nhưng tinh thần chiến
đấu chưa bao giờ kết thúc. Hình ảnh quân xanh màu những hình ảnh gầy ốm
nhưng không hề yếu vẫn dữ oai hùm. Mắt trừng gợi cho ta liên tưởng đến sự căm
thù giặc của những anh hùng tây tiến. Những ánh mắt hiện lên lửa hi vọng và tinh thần
chiến đấu oai hùng, không một chút phó mặc cho số phận, cũng thể đó chính sự
thức trắng không ngủ được lo cho biên giới hoặc mở mắt để nhớ những bóng kiều
thơm kia..Đó sự hi sinh của những người chiến sĩ ấy, họ phần lớn là những trí thức Hà
Thánh ngày đêm nghĩ đến quê nhà với những bóng hồng không bao giờ mờ nhạt
trong lòng họ. Đó chính cái bi của vẻ đẹp người lính. Nhưng lại rất tráng
người ta chết đi vì lí tưởng cao cả của mình thì đó chính là cái chết đẹp. Thay vì chiếu
đắp lên, sự ra đi của các anh được ví như sự ra đi của những người được những người
khác tôn trọng biết ơn. Áo bào thì thay bằng chiếu thể hiện sự giản dị của những
người lính. Chiến trường khắc nghiệt làm cho anh phải ra đi chỉ mảnh chiếu che
thân. Đất mẹ chính nơi các anh sinh ra cũng nơi các anh về, đất mẹ che chở
cho các anh mãi mãi yên bình với giấc ngủ ngàn thu của mình. Một lần nữa, hình ảnh
sông Mã hiện ra, gầm lên khúc hành ca, như kính cẩn tiễn đưa linh hồn các anh, không
phải là sự chơi vơi nữa mà là tiếng gầm, nó càng tạo nên chất tráng cho bài thơ.
“Tây tiến” được xem một thi phẩm xuất sắc, gần như đạt đến sự toàn bích về nghệ
thuật. Bút pháp hiện thực kết hợp lãng mạn, đậm chất bi tráng,nhiều sáng tạo về hình
ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu. Hình ảnh thơ sáng tạo mang sắc thái thẩm phong phú.
Ngôn ngữ thơ đa sắc thái, phong cách; (trang trọng, cổ kính; sinh động gợi tả gợi
cảm…), những kết hợp từ độc đáo (nhớ chơi vơi, Mai Châu mùa em…), tên địa
danh vừa cthể xác thực vừa gợi cảm giác lạ lẫm. Ba chùm bài thơ giọng điệu khi
tha thiết bồi hồi, khi hồn nhiên vui tươi, khi bâng khuâng man mác, khi trang trọng,
khi trầm lắng. Cả bài thơ là nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với đơn vị Tây Tiến: Nhớ
những chặng đường hành quân với bao gian khổ, thiếu thốn, hi sinh mất mát vẫn
nhiều kỉ niệm đẹp, thú vị, ấm áp; nhớ những đồng đội Tây Tiến anh hùng. Qua đó,
tác giả đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến hào hùng,o hoa
vẻ đẹp hùng thơ mộng của thiên nhiên miền Tây tổ quốc. Cũng từ đó toát lên
chất lãng mạn bi tráng vẻ đẹp độc đáo của hình tượng người lính cách mạng trong
thơ Quang Dũng.
Dưới ngòi bút hào hoa của Quang Dũng những hình ảnh về những người lính Tây
Tiến vừa hồn hậu,giản dị lại hết sức khí phách.Qua đây ta cũng thấy được những vẻ
đẹp bi tráng của những chiến binh tây tiến, cảm nhận được như thế chúng ta càng
thêm yêu hơn những con người quê hương đất nước. Bài thơ xứng đáng một
tượng đài bằng ngôn ngữ đã bất tử hóa phẩm chất anh hùng của anh b đội cụ H
trong cuộc kháng chiến chống Pháp rất đỗi gian khổ và vui tươi, hào hùng:
`991, (4"
J2!K!K2BC
L =#,(=
LM'2N'a
Bài văn mẫu 3
Bài thơ Tây Tiến ra đời vào năm 1948, khi cuộc kháng chiến chống Pháp bước
vào giai đoạn cam go ác liệt nhất. Nhà thơ Quang Dũng bằng tài năng trái tim
thương nhớ đồng đội cũ đã khắc họa nên những nét chân thực nhất về hình ảnh người
lính Tây Tiến trong cuộc kháng chiến chống Pháp với hình tượng bi tráng hào hùng.
Binh đoàn Tây Tiến được thành lập vào năm 1947 nhiệm vụ phối hợp với bộ đội
Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, đánh địch trên tuyến đường rừng núi Tây Bắc từ các
tỉnh từ Lai Châu đến Thanh Hóa. Cuộc sống chiến đấu của những người lính Tây Tiến
cùng khổ cực, thiếu thốn. Phần lớn vùng núi hiểm trở, chốn rừng thiêng nước
độc, sốt rét hoành hành, thiếu thuốc men. Những người lính Tây Tiến hi sinh nhiều vì
bệnh tật còn nhiều hơn sự hi sinh trên chiến trường.
Những người lính Tây Tiến hầu hết là những thanh niên trí thức Hà Thành, phần đông
các sinh viên, học sinh còn đang ngồi trên ghế nhà trường. Mặc phải chiến đấu
trong hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy xong họ vẫn hiện lên với hình tượng lãng mạn
song rất đỗi hào hùng, bi tráng.
Bài thơ nhan đề Tây Tiến, nhằm nhấn mạnh tên gọi của binh đoàn để thể hiện
nỗi nhớ của nhà thơ về 1 thời kháng chiến khó khăn dữ dội nhưng rất đỗi o hùng,
say mê.
Hình tượng người lính Tây Tiến đã được nhà thơ Quang Dũng khắc họa bằng những
hình ảnh chi tiết vừa tả thực lại vừa lãng mạn, mạch cảm xúc bài thơ nhớ thương
nên mở đầu bài thơ nhà thơ Quang Dũng đã viết.
`>'?@$"991(
!-5C!(-(a_
Hình ảnh sông Mã anh hùng là hình ảnh đầu tiên mà nhà thơ nhớ đến. Chắc có l~ sông
1 người bạn đồng hành u dài cùng các chiến trên các chặng đường hành
quân chiến đấu. Câu thơ giống như một tiếng gọi tha thiết ám ảnh, khoảng cách địa
xa xôi, vời vợi mà nỗi nhớ luôn thường trực ám ảnh. Câu thơ thứ 2 đã sử dụng tới hai
chữ nhớ, ngắt nhịp 4/3 đã diễn tả tinh tế những thổn thức, mong mỏi, khát khao của
tác giả. Cụm từ “nhớ chơi vơi” nỗi nhớ như lan tỏa trong cả không gian thời gian
thấm vào nỗi lòng, tạo cảm giác như trống vắng, ám ảnh khôn xiết về 1 thời hào hùng
đã qua. Câu thơ reo vần “ơi” tạo nên sự dịu dàng, nhớ thương sâu sắc.
`>Q" (=K2HR
? +"-52(a_
Ta thể thấy “Sài khao, Mường Lát” những địa danh của các tỉnh miền núi phía
Bắc nơi binh đoàn Tây Tiến đã từng hành quân qua. Chất lãng mạn chất hiện
thực câu thơ này được hòa quyện vào nhau. Viết về đoàn quân mỏi sau cuộc hành
quân dài, nhưng khí chất vẫn rất lãng mạn khi “sương lấp”, “hoa về”, “đêm hơi”.
Bức tranh thiên nhiên vùng núi Tây Bắc được nhà thơ Quang Dũng khắc họa bằng
hình ảnh rất lãng mạn, thông qua cái nhìn của những người lính Tây Tiến, giữa trùng
trùng, điệp điệp của núi non, dựng vách hiểm trở, thế qua cái nhìn của người lính,
khung cảnh ấy lại rất đỗi hay ho và vui nhộn như thế này.
`#S
a_
Hai câu thơ mang hình tượng khái quát cao diễn tả sinh động về những gian khổ của
người lính , các từ láy `, thăm thẳm” gợi lên không gian được mở ra nhiều
chiều, một không gian thiên nhiên hùng nhưng nguy hiểm trực tiếp đến tính mạng.
Từ “heo hút” được dùng rất đặc sắc vừa gợi ra độ sâu khi nhìn xuống, mà khi nhìn lên
lại cảm thấy hoang vắng, lạnh l~o. Địa hình chiến đấu của những người lính Tây Tiến
mặc dù quả thực đầy gian khó và hiểm nguy. Hình ảnh “Súng ngửi trời” được sử dụng
rất hóm hỉnh, vui tươi, đọc câu thơ ta liên tưởng đến câu thơ “Đầu súng trăng treo”
của nhà thơ Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí”. Cùng hình ảnh lãng mạn nhưng
với Chính Hữu hình nh hiện thực, từ con mắt tinh tế nhà thơ ước muốn hòa
bình. Còn với Quang Dũng cụm từ “Súng ngửi trời” khí phách hiên ngang, giữa
thiên nhiên hoang lạnh l~o, hình ảnh con người làm chủ, khẳng định cốt cách của
người lính
`055"+AT
I2? 7UK a_
Chắc l~ đây những câu thơ miêu tả chân thực nhất về những khó khăn gian khổ
của những người lính Tây Tiến nói riêng những người lính trong thời kháng chiến
chống Pháp nói chung lúc bấy giờ. Hình ảnh “cọp trêu người” “oai linh thác gầm
thét” là những dẫn chứng thật nhất, sự ám ảnh, dữ tợn của muông thú của thiên nhiên.
`V,8@A', !W"
XF,RH2a_
Từ láy “dãi dầu” miêu tả sự nhọc nhằn, vất vả của người lính. Cuộc hành quân trở như
trùng lại, chậm lại 1 chút. Qua chữ “bỏ quên đời” ta thấy được hình tượng, khí phách
dược ngời sáng từ chính sự thật đau lòng nhất, các anh đã hi sinh trong quá trình hành
quân. sự mệt mỏi, hi sinh như thế nào, họ vẫn coi đó sự nhẹ nhàng, thanh
thản.
Sau cuộc chiến đấu, hành quân gian khổ, hiểm nguy đối đầu anh dũng với giặc,
những người lính Tây Tiến lại trở về nghỉ ngơi với những buổi liên hoan văn nghệ đặc
sắc.
`"8,CB2"
QY"$+Z,"
Q["2\=K
8-5L0S$(a_
Sau những cuộc chiến đấu vất vả với súng đạn, bom lửa. Những đau thương, mất mát
bệnh tật, cái chết ập đến bất cứ lúc nào khi bỏ lại tất cả, hình tượng người lính Tây
Tiến lúc này thật gần gũi. Buổi liên hoan bùng cháy lên sự vui tươi, phấn khởi. Hội
trại bùng lên với khúc hát tươi vui, sự giao lưu giữa những người lính và những người
dân địa phương. Từ “bừng” được dùng rất hay, thể hiện sự náo nức. Đêm hội ấy, ta
làm sao mà quên được hình ảnh người con gái trong buổi liên hoan trong bộ xiêm y vô
cùng xinh đẹp, trang trọng. Cảm xúc người chiến sỹ như ngỡ ngàng trước vẻ đẹp lung
linh của đêm hội, rồi lại thả hồn vào điệu múa, tiếng nhạc khèn của đêm hội.
`!'991(4
?"0N"(1K$'a_
Hương vị xôi nếp đầu mùa, tha thiết một kỉ niệm khó quên trong lòng người lính
Tây Tiến. Câu thơ được gieo thanh bằng, tạo ra một cảm xúc bâng khuâng, nhung nhớ
đến khó tả
Tiếp theo mạch cảm xúc nhớ thương, nhà thơ Quang Dũng đã viết:
` !"# !$
"%"&' "$"(a_
Miêu tả rừng núi Tây Bắc nhà thơ đã gợi tả ra độ cao trắc trở thông qua từ “ngàn
thước”, cảm giác chông chênh, một tấc như chạm tay đến trời. Câu thơ thứ hai giống
như miêu tả sự tưởng tượng của những người chiến sau 1 buổi hành quân mệt mỏi,
đứng trên cao họ nhìn xa xa, thấy sương ẩn hiện thấp thoáng ngôi nhà của
những người dân. Người chiến như hóa thân thành người nghệ thả hồn vào điệu
nhạc thiên thiên của chính tâm hồn mình. Cảm giác phiêu lãng, nhẹ nhàng sau
chuyến đi hành quân vất vả.
Đang trong mạch cảm xúc nhẹ nhàng, phiêu ng nhà thơ Quang Dũng đột ngột r~
sang giọng điệu trầm lắng, bâng khuâng, hoài niệm.
` 20?B5 (=
04="],1,
04=+ 2BB
9'E !F"22 "a_
Kỉ niệm gợi nhớ của nhà thơ bắt đầu từ khung cảnh “chiều sương ấy”. buổi chiều luôn
gợi ra cho lòng người đọc nỗi buồn. Nỗi buồn ấy khi nỗi nhớ nhà, nhớ người
thương hoặc thể sự vu trước 1 ngày tàn. Nhưng với nhà thơ đó s trống
trải, luyến tiếc về hình ảnh không sự xác định ai, theo } thơ thì đó “hồn lau”,
“dáng người” người đọc cảm nhận được 1 không gian vắng lặng đượm buồn mênh
mang. Các từ như “có thấy, có nhớ” giống như 1 lời gợi nhớ gợi nhắc tha thiết ân tình.
Hình ảnh đối lập “nước lũ” “hoa đong đưa, một bên sự dữ dội , một bên sự
nhẹ nhàng. Nhà thơ đã sử dụng bút pháp lãng mạn cộng miêu tả để gợi hoài niệm nỗi
nhớ về hình ảnh thiên nhiên Mộc Châu.
Để khắc họa hình tượng chân dung người lính, nhà thơ đã sử dụng bút pháp lãng mạn
để đậm cái hiện thực bi thương rất đỗi phi thường của người lính Tây Tiến tiêu
biểu trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
`9912,'U4
J$"+W"Na_
Đoàn “binh không mọc tóc” có l~ đây là sự thật trần trụi nhất mà nhà thơ Quang Dũng
đã từng viết, các chiến Tây Tiến họ bị rụng tóc, da dẻ xanh xao căn bệnh sốt rét
rừng hoành hành. Ốm đau, bệnh tật vậy nhưng khí thế họ vẫn mang nét “dữ oai
hùm” tạo nên âm hưởng hoành tráng, khí thế swn sàng của người lính kháng chiến
chống Pháp lúc bấy giờ.
`?GCBH",!
I(B+5(a_
Khí thế hùng dũng vậy, tâm hồn những người lính Tây Tiến thật mộng mơ. Nếu
như ban ngày họ phải chiến đấu hết mình, “mắt trừng” cái nhìn thẳng, sâu xa, thể
hiện cái nhìn của } chí, quyết tâm bảo vệ tổ quốc. Ban đêm khi cuộc chiến đã kết thúc,
thì tâm hồn của người lính lại mơ mộng nhớ về Hà Nội, nơi mà có những người mà họ
yêu thương nhất. Nỗi nhớ ấy như tiếp thêm sức mạnh, nghị lực chiến đấu. Đọc câu thơ
này ta lại chợt nhớ đến câu thơ của nhà thơ Nguyễn Đình Thi :
`W2H=
bc,!G a_
Thêm một lần nữa nhà thơ lại viết về sự hi sinh,nhưng lần này cái chết được viết nên
anh hùng, cao cả hơn,
`)*+, (-.$/
01 212$"
<,"1"-52=
>'?@A2Ba_
Viết về đau thương của cái chết nhưng không hề bi lụy, ai oánngược lại đầy dũng
khí,hùng tráng. Giọng thơ hùng tráng xong mang đậm nét buồn của sự hi sinh, trên
con đường hành quân ấy, lòng họ không thể không cảm thấy xót thương trước những
nấm mồ viễn xứ của những người chết trong chiến trận. Họ ra đi Tổ quốc nên
không hề hối tiếc, kể cả đó thời xuân xanh. Tác giả mượn khéo hình ảnh “Áo bào”
để gợi tả sự ra đi của người lính. Nó gắn liền với sự trang trọng, thiêng liêng, giảm bớt
nỗi buồn bi lụy. Sông Mã một chứng nhân lịch sử, đã tấu lên “khúc độc hành” khúc ca
tiễn các anh về với đất mẹ. Động từ “gầm” 1 biện pháp nhân hóa, nỗi nhớ thương
của lòng người như vang vọng, đau đáu trong lòng những người ở lại.
`991 2'^ !
I SB"K'
V991N"$=
-5>A/"-5$'a_
Câu thơ đã trở về với mạch cảm xúc chung của bài thơ, cảm xúc thương nhớ nhưng
vẫn mang âm hưởng bi tráng. Nói về li biệt nhưng vẫn hùng tráng, mãnh liệt. Mong
mỏi một ngày được gặp lại, nỗi nhớ như tràn ngập cả không gian thời gian, lời thơ
như nhắn nhủ, ước hẹn tha thiết, ân tình. Câu thơ cuối như lời hứa quyết tâm, nỗi nhớ
về đoàn binh đã in hằn sâu trong ức. Tây tiến trở thành một kỉ niệm xương máu
trong cuộc đời nhà thơ Quang Dũng.
Qua bài thơ Tây Tiến, nhà thơ Quang Dũng đã khắc họa nên bức chân dung, hình
tượng bi tráng của người lính Tây Tiến trong cuộc cách mạng vệ quốc, vừa chân thực
vừa lãng mạn tiêu biểu cho sức mạnh dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống
Pháp.
Bài văn mẫu 4
Đề i, hình ảnh người lính nói chung một nguồn cảm hứng cho rất nhiều tác giả,
sáng tác ra nhiều tác phẩm cùng thi vị, để lại tên tuổi cho nhiều tác giả. Các nhà
thơ viết về đề tài người lính với những niềm kiêu hãnh vô cùng tự hào giữa muôn vàn
tác phẩm như vậy. Bài thơ 991 một vị trí cùng quan trọng đặc biệt trong
nền thơ ca Việt Nam.
Bài thơ "Tây Tiến" là một trong những bài thơ sáng tác từ rất sớm về đề tài người lính
trong cuộc kháng giải phóng dân tộc trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.
Binh đoàn Tây Tiến một đơn vị quân đội được hình thành vào những năm sau cách
mạng tháng Tám năm 1945, nhiệm vụ phối kết hợp với binh lính Lào để nhằm bảo
vệ biên giới Việt Lào. Địa điểm đóng quân hoạt động của binh đoàn Tây Tiến khá
rộng, bao gồm tất cả các tỉnh Lai Châu, Hòa Bình, Sầm Nưa, Thanh Hóa…
Họ đều là những người lính xuất thân từ thủ đô Hà Nội nơi được mệnh danh là những
nho sinh yêu nước, tâm hồn lãng mạn tinh tế, học thức bởi trong đó chủ yếu
học sinh sinh viên. Mặc dù, trong quá trình chiến đấu có rất nhiều gian khổ, thuốc men
với căn bệnh nguy hiểm như sốt rét rừng, làm cho đầu tóc bị rụng hết, thân thể gầy
mòn, nhưng tâm hồn cuộc sống vô cùng lạc quan, tinh thần anh dũng quả cảm.
Nhiều người lính thủ đô đã đi vào cuộc kháng chiến bảo vệ dân tộc mang theo những
vẹn nguyên của một trái tim đa cảm, lãng mạn, mang theo sự hào hoa của một người
lính xuất thân từ Hà Thành.
Bài thơ 991 được hình thành từ những nỗi nhớ, những nỗi nhớ vô cùng da diết về
tình cảm đồng đội trong những tháng ngày kháng chiến gian khổ. những kỷ
niệm không thể nào quên của tác giả với binh đoàn Tây Tiến, gắn liền với vùng đất
hùng vĩ gian khổ hiểm trở vô cùng thơ mộng lãng mạn.
Nỗi nhớ y đánh thức, làm bừng tỉnh trỗi dậy những ấn tượng cùng sâu sắc trong
k} ức, thể hiện một nỗi nhớ chơi vơi tha thiết trong trái tim của người lính Tây Tiến.
Nhà thơ Quang Dũng chính là bút pháp vô cùng lãng mạn không hề xa rời thực tại, bài
thơ khắc họa một bức tượng đài người lính vô cùng anh hùng, bi tráng trường tồn theo
thời gian. Hình tượng người lính hiện lên với nhiều nét thô mộc, gân guốc, thể hiện s
giản dị, mộc mạc của người lính trong binh đoàn Tây Tiến:
9912,'U4
J$"+W"N
Chúng ta từng thấy một hình nh người lính anh dũng, hài hước, lạc quan trong bài
thơ "9d2B$'e" trong bài thơ cùng hài hước dỏm của tác giả Phạm
Tiến Duật. Hay hình ảnh người lính mộc mạc, giản dị, trong bài thơ "Đồng chí" của
nhà thơ Chính Hữu.
Nhưng trong bài thơ "991" hình ảnh người lính của hiện lên gân guốc, lạ hóa
trong ngoại hình của người lính Tây Tiến đều hiện lên những chi tiết cùng sống
động, chân thực, thể hiện một cuộc sống gian khổ nhưng kiên cường của người lính
Tây Tiến. Hình ảnh người lính Tây Tiến có chút mộc mạc giản dị, với hình ảnh không
mọc tóc, vừa khắc khổ vừa bi tráng, thể hiện những trận sốt rét rừng, không thuốc
men, màu lá dữ oai hùm.
Tác giả Quang Dũng khi v~ chân dung người lính Tây Tiến trong bài thơ đã không
quên nhắc tới những hình ảnh cùng khắc khổ, thể hiện sự hiện thực của căn bệnh
quái ác. Nhưng ẩn chứa sau ngoại hình giản dị, khắc khổ đó thể hiện một sức mạnh vô
cùng nội tâm sâu sắc khí phách oai hùm của những người lính Tây Tiến.
?GCBH",!
I(B+5(
Hai câu thơ thể hiện sự nhấn mạnh của sự mộng của những người lính Tây Tiến.
Câu thơ mang hình ảnh vẹn nguyên về ước vọng của người lính trong trái tim, tâm
hồn của người lính trẻ. nói lên ước khát vọng sâu xa trong tâm hồn của người
lính Tây Tiến. Trong bài thơ này gợi nhắc tới ước bình dị của người bình thường,
khi tới tuổi yêu thương muốn có một người mộng mơ, để thương để nhớ.
Trong mỗi con người chúng ta ai cũng những ước về hạnh phúc riêng của
mình. Họ về một hạnh phúc lứa đôi, một mái ấm gia đình ấm áp vui vẻ nhiều
tiếng cười. Những hình bóng giai nhân yêu kiều, thể hiện sự thanh lịch. Những người
lính ra đi sự tự do độc lập của tổ quốc, vì những người thân yêu họ luôn hướng
tới. Họ muốn bảo vệ sự bình yên của người thân của quê hương.
Hình bóng "dáng kiều thơm" chính điểm tựa tâm hồn, niềm hy vọng tiếp sức mạnh
cho người lính Tây Tiến trên con đường hành quân gian khổ của mình.
Hình ảnh người lính Tây Tiến cùng anh dũng, hy sinh cũng thể hiện sự anh hùng,
như một bức tượng đài bi tráng. Nhà thơ Quang Dũng không hề tránh cuộc sống
khắc nghiệt của người lính phải trải qua ông đã miêu tả sinh động nhất, khắc
nghiệt, gian khổ nhưng không vì thế mà bi lụy đau thương.
V,8@A', !W"
3XF,RH2f
)*+, (-.$/
01 212$"f
<,"1"-52=
>'?@A2B_
Hình ảnh những người lính nằm xuống hi sinh nơi chiến trường cùng giản dị, thể
hiện người lính Tây Tiến ngã xuống chỉ khi anh đã nghỉ chân rồi lìa xa cuộc đời này,
nhưng cái chết không đồng nghĩa với sự ngừng chiến đấu, bởi tâm hồn của những
người lính thể hiện ước nguyện của người lính luôn tồn tại mãi với thời gian.
Những người lính ngã xuống nhưng vẫn kịp trao những trái tim ngọn lửa của trái tim
tuổi trẻ của những người lính cách mạng cùng anh dũng, vinh quang. Thể hiện sự
hy sinh của anh dũng của người lính Tây Tiến làm người đọc vô cùng nghẹn ngào.
Hai chữ *+#-.$/ thể hiện việc người lính ra đi trong chiến tranh rất
nhiều, ở đâu cũng gặp. Đồng thời thể hiện sự xót thương, da diết của tác giả với những
người lính khi nằm xuống nơi chiến trường.
Câu thơ "01 212$" thể hiện sự kiên cường của tâm hồn
người lính dù có hy sinh thân mình cũng không hề tiếc nuối thân thể của mình.
Hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến trở thành một hình tượng mạnh m~ bất
tử muôn đời, theo thời gian dòng lịch sử thể thay đổi nhưng hình nh người lính
Tây Tiến luôn là hình tượng đẹp đ~ bi tráng nhất. Những người lính Tây Tiến thể hiện
sự đối mặt với gian nan, nguy hiểm nhưng lúc nào cũng lạc quan yêu đời, thể hiện
niềm tin phơi phới vào tương lai.
Bài văn mẫu 5
"Tây Tiến" là bài thơ của người lính nói về người lính - anh Vệ quốc quân thời 9 năm
kháng chiến chống Pháp. Quang Dũng vừa cầm súng đánh giặc vừa làm thơ n thơ
ông rất chân thực hào sảng, ba. i thơ được Quang Dũng viết vào m 1948,
khi cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc bước sang năm thứ ba, chặng đường
kháng chiến còn đầy thử thách gian lao.
"Tây Tiến" nói lên nỗi nhớ niềm tự hào của Quang Dũng về đồng đội thân yêu,
cùng vào sinh ra tử một thời trận mạc.
Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi làm nao lòng người. Nỗi nhớ thương, nỗi nhớ như nén
chặt, bỗng trào dâng:
>'?@$"#991(6
!-5C#!(-(_
Từ "ơi" bắt vần với từ láy "chơi vơi" làm cho âm điệu câu thơ trở nên tha thiết sâu
lắng, bồi hồi. Hai chữ "nhớ" như hai nút nhấn gợi tả nỗi nhớ "chơi i" cháy bỏng
khôn nguôi. Từ Phù Lưu Chanh ông nhớ dòng sông Mã, nhớ núi rừng miền Tây, nhớ
đoàn binh Tây Tiến - một đơn vị bộ đội đã hoạt động tại vùng rừng núi miền Tây
Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn La - biên giới Việt Lào trong những năm đầu kháng chiến.
Bao kỉ niệm đẹp một thời chinh chiến bỗng sống dậy. Những tên bản, tên mường của
rừng xưa núi yêu thương hiện về, bỗng trở nên gần gũi thân thiết, làm xao xuyến
hồn người chiến sĩ:
>Q" (=K2HR#
? &+"-52(_
Những Sài Khao, Mường Lát... những địa danh vời vợi nghìn trùng từng in dấu chân
đoàn chiến binh Tây Tiến. Trong ”sương lấp", trong "đêm hơi" mịt mù, lạnh l~o, đoàn
dũng đã phải vượt qua những nẻo đường hành quân cùng gian khổ. Ngày nối
ngày, đêm nối đêm, trải qua bao dãi dầu, "đoàn quân mỏi" giữa cái biển sương mù của
núi rừng miền Tây; "đoàn quân mỏi" tưởng như bị "lấp" đi, bị trĩu xuống trong mệt
mỏi, gian truân, nhưng thật bất ngờ, bỗng xuất hiện "hoa về trong đêm hơi". Cái mỏi
mệt, cái gian khổ như đã tiêu tan. Sáu thanh bằng liên tiếp diễn tả cái nhẹ nhàng, cái
lâng lâng trong tâm hồn người lính trẻ đi tới đích sau những chặng đường dài hành
quân đầy thử thách: "Mường Lát hoa về trong đêm hơi".
Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt giữa núi rừng miền Tây. Những đèo dốc "khúc khuỷu",
"thăm thẳm" chưa từng in dấu chân người! Những "cồn mây heo hút". Những tầm cao
của núi, những chiều sâu của lũng, của suối thử thách chí can trường như chặn bước
tiến của đoàn quân:
g#S#
_
 !" !$
"%"&' "$"(_
Các từ láy: "thăm thẳm", "khúc khuỷu", "heo hút" được lựa chọn sử dụng như
những nét khắc, nét v~ giá trị tạo hình đặc sắc, làm hiện lên những dốc, những cồn
mây nhà thơ đồng đội phải vượt qua trong những tháng ngày: "áo vải chân
không đi lùng giặc đánh" (Hồng Nguyên). "Súng ngửi trời" một hình ảnh nhân hóa
phản ánh cái ngộ nghĩnh, hồn nhiên trẻ trung và yêu đời của người lính trẻ. Có câu thơ
gồm 2 vế tiểu đối, bản lĩnh kiên cường của người chiến Tây Tiến được "đo" bằng:
"Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống". Núi tiếp núi, đèo nối đèo, hết lên cao, lại
xuống thấp, đoàn quân đi trong sương, trong màn mưa rừng. Từ những đỉnh cao
"ngàn thước", các chiến binh dõi tầm mắt nhìn xa. Những bản mường, những nhà sàn
thấp thoáng ẩn hiện. Câu thơ thất ngôn, toàn thanh bằng gợi tả cảm xúc tươi vui, lâng
lâng thanh thản dâng lên trong tâm hồn người lính trẻ rất lạc quan yêu đời khi dõi nhìn
về xa qua màn mưa rừng: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi".
Những đã xảy trên những nẻo đường trường chinh lửa máu gian khổ ấy? Âm
điệu câu thơ bỗng trĩu xuống, nao nao:
V,8@A', !W"#
3XF,RH26_
Hai tiếng "anh bạn" cất lên như một tiếng khóc thầm. Trong gian khổ "dãi dầu", trong
những ngày dài hành quân chiến đấu, bao đồng đội thân u đã "không bước
nữa", vĩnh biệt đoàn binh, "bỏ quên đời", bỏ quên đồng chí bạn bè, nằm lại vĩnh viễn
nơi chân đèo, góc núi. Bốn chữ "gục lên súng mũ" thể hiện một sự hi sinh cùng bi
tráng: ngã xuống, gục xuống trên đường hành quân giữa trận đánh khi súng còn cầm
trên tay, còn đội trên đầu. Mặc Quang Dũng đã thay thế từ "chết", từ "hi sinh"
bằng cụm từ "không bước nữa", "gục lên"..., "bỏ quên đời", nhưng vẫn trào lên bao
nỗi xót xa, thương tiếc. Sự thật chiến tranh xưa nay vẫn thế! điều vần thơ của
Quang Dũng tuy nói đến cái chết của người lính nhưng không gợi ra bi lụy, thảm
thương, trái lại, trong sự tiếc thương niềm tự hào khẳng định: độc lập, tự do
có biết bao chiến sĩ anh hùng đã ngã xuống trên các chiến trường, trong tư thế lẫm
liệt "gục lên súng mũ..." như vậy!
Cảnh tượng chiến trường đâu chỉ đèo cao, cồn mây, dốc thẳm, đâu chỉ mưa
ngàn, muỗi rừng vắt núi, còn biết bao thử thách của rừng thiêng tự ngàn đời
mang cái vẻ hoang mật, hùng oai nghiêm. Chiều nối chiều, đêm tiếp
đêm, chiến khu vang động tiếng "gầm thét" của thác, của "cọp trêu người". Trên một
không gian mênh mông của chốn đại ngàn, từ Pha Luông đến Mường Hịch hoang vu,
cái chết đang rình rập đe dọa. Chốn rừng thiêng ẩn dấu nhiều mật "oai linh", được
nhân hóa như tăng thêm phần dữ dội. Thác thì "gầm thét", cọp thì "trêu người" như để
thử thách chí can trường các chiến binh Tây Tiến:
055"+AT
I2? 7UK _
Vượt lên gian khổ, hi sinh, hành trang người lính đầy ắp những kỉ niệm đẹp của tình
quân dân. Quên sao được "cơm lên khói", hương vị đậm đà của "mùa em thơm nếp
xôi". Trong cái hương vị đậm đà của bát cơm tỏa khói, của hương nếp xôi còn quyện
theo bao tình sâu nghĩa nặng của con dân bản Mai Châu, của "mùa em". Hai tiếng
"nhớ ôi" gợi lên nhiều bâng khuâng, vương vấn, thấm thía và ngọt ngào:
!(991(4
?"0N"(1K$'_
Phần thứ hai bài "Tây Tiến" gồm 8 câu nói về "hội đuốc hoa" những chiều
sương cao nguyên Châu Mộc. Giọng thơ man mác, bâng khuâng. Nhà thơ tự hỏi mình
"có thấy" "có nhớ". Chất tài tử, tài hoa lãng mạn của những chàng lính chiến
được nói đến thật hay trong đêm "hội đuốc hoa". Chữ "kìa" đại từ để trỏ từ xa, gợi
nhiều ngạc nhiên, tình tứ. Trong ánh lửa đuốc bập bùng, sự xuất hiện những gái
Mường, gái Thái miền Tây Bắc, những gái phù-xao Lào trong bộ xiêm áo n
tộc rực rỡ đã đem đến cho những người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến bao niềm vui, tình
quân dân thắm thiết. tiếng khèn "man điệu" của núi rừng, có khúc nhạc du dương
"xây hồn thơ". dáng điệu duyên dáng "e ấp" của "nàng", của những "bông hoa
rừng" đang múa xòe, đang múa lăm-vông:
"8,CB2"#
QY"$+Z,"#
Q["2\=K#
8-5L0S$(_
Chữ "bừng" một nét v~ thần. "Bừng" sáng bừng lên, cháy rực lên từ những
ngọn đuốc trong đêm "hội đuốc hoa". Cũng nghĩa tưng bừng rộn ràng qua tiếng
khèn "man điệu", qua giọng hát tình tứ, mê say của bài dân ca Thái, dân ca Lào.
Nhớ Tây Tiến nhớ đến những chiều sương cao nguyên, nhớ đến những con thuyền
độc mộc, nhớ đến "hồn lau nẻo bến bờ". Nhớ nhiều, nhớ mãi "dáng người trên độc
mộc", nhớ không bao giờ quên hình ảnh nên thơ "Trôi dòng nước hoa đong đưa".
Nếu không sống mạnh m~, sống hết mình của đời người lính trẻ một thời trận mạc
gian nan thì không thể nào viết được những vần thơ mang hương sắc núi rừng xa lạ,
tươi đẹp và thơ mộng như thế. Âm điệu đoạn thơ trầm bổng lâng lâng như đang ru hồn
ta vào cõi mộng. Chất nhạc, chất thơ, chất họa toát lên từ vần thơ, cho thấy tính thẩm
độc đáo của ngòi bút thơ Quang Dũng, đồng thời khắc họa vẻ đẹp tâm hồn các
chiến Tây Tiến: trong gian khổ thử thách, trong gian truân chết chóc, họ vẫn
lạc quan và yêu đời, hồn nhiên và mơ mộng.
Đây một trong những đoạn thơ hay nhất trong bài "Tây Tiến" đã thể hiện sự cảm
nhận diễn tả tinh tế, tài hoa vẻ đẹp thiên nhiên tình người, đồng thời lại rất mực
hồn nhiên từng làm mê say người đọc:
 20?B5 (=#
04="],1,#
04!+ 2BB#
9'E !F"22 "_
Phần thứ ba, Quang Dũng đã dựng lên một tượng đài hùng vĩ, bi tráng về đoàn binh
Tây Tiến. Đoàn quân luồn rừng đi trong biển sương mù, trong những cồn mây, trong
màn mưa, vượt qua bao nhiêu núi cao, đèo cao, dốc thẳm, "áo vải chân không đi lùng
giặc đánh", bỗng bất ngờ xuất hiện:
9912,'U4#
J$"+W"N
?GCBH",!
I(B+5(_
Đoạn thơ ghi lại một cách chân thật, hào hùng cái khốc liệt dữ dội của chiến tranh, của
một dân tộc quật khởi đứng lên dùng giáo mác, gậy tầm vông chống lại sắt thép quân
thù. Hình tượng thơ được đặt trong thế tương phản đối lập để khẳng định chí khí hiên
ngang, anh hùng, những tâm hồn với bao mộng tuyệt đẹp. "Đoàn binh không mọc
tóc", "quân xanh màu lá", có vẻ tiều tụy, ốm đaubệnh sốt rét rừng, nhưng tư thế
cùng oai phong lẫm liệt: "dữ oai hùm". Cũng một cách nói truyền thống trong thơ
ca dân tộc ngợi ca sức mạnh Việt Nam: "Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu" (Phạm Ngũ
Lão), "Tỳ hổ ba quân - Giáo gươm sáng chói" (Trương Hán Siêu), "Sĩ tốt kén tay tì hổ
- Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh" (Nguyễn Trãi),... những năm đầu kháng chiến chống
Pháp, anh bộ đội Cụ Hồ mang sức mạnh Việt Nam từ nghìn xưa ra trận với chí khí
lẫm liệt song: "Quân xanh màu dữ oai hùm". Trải qua những nămi chiến đấu
ác liệt, nếm trải biết bao cay đắng ngọt bùi, bao thiếu thốn gian truân, từng đánh
những trận đánh đẫm máu giữa rừng sâu. Quang Dũng đã kế thừa một cách ng tạo
thơ ca cổ điển dân tộc để viết nên những vần thơ hào sảng như vậy!
Đoàn binh Tây Tiến phần lớn cán bộchiến sĩ là thanh niên, học sinh, sinh viên của
36 phố phường, nơi ngàn năm văn vật. "Những chàng trai chưa trắng nợ anh
hùng..." ra đi đánh giặc với bao "mộng" và "mơ" tuyệt đẹp:
?GCBH",!#
I(B+5(_
Mộng chiến công. Mộng đánh tan đồn giặc, cướp súng giặc giết giặc. "Mắt trừng" gợi
tả tư thế chiến đấu lẫm liệt vô song khi đánh giáp lá cà, khi tung hoành trong đồn giặc!
Đồng thời trong hành trang trong tâm hồn những người lính trẻ còn mang theo bao
giấc tuyệt vời. Nhớ về phố trường xưa, về một áo đẹp, một "dáng kiều
thơm", nơi Hà Nội thân yêu.
Câu thơ "Đêm Nội dáng kiều thơm" thể hiện chất tài tử, o hoa của người
lính Tây Tiến. Còn người chiến trong bài "Đồng chí" của Chính Hữu, thì nỗi nhớ
hướng về ruộng nương, về "gian nhà không mặc kệ gió lung lay", về giếng nước gốc
đa... Nỗi nhớ của anh Vệ quốc quân trong bài thơ "Nhớ" của Hồng Nguyên cả một
mối tình quê trang trải, đằm thắm, sâu nặng, thiết tha:
___b"S8H (#
?+5"#
91h2 #
&2=2R#
i5 -j]
?E,8""___
Qua đó, ta thấy nỗi nhớ, cái mộng của người lính thời trận mạc nông dân, hay
tiểu sản thành thị đều đẹp đáng yêu nỗi nhớ, cái mộng ấy đều biểu lộ một
tình yêu quê hương thắm thiết. Thời gian và độc giả hơn nửa thế kỉ qua đã khẳng định
cái hay riêng của thơ Quang Dũng góp phần làm phong phú thêm chân dung
"anh bộ đội Cụ Hồ" trong kháng chiến chống Pháp.
Bài văn mẫu 6
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã lùi lại phía sau, từ sau CMT8 đến nay cũng
đã gần 80 năm, tuy nhiên hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ vẫn in đậm trong tâm trí của
những người còn sống từ thời kì ấy đến thế hệ trẻ hôm nay. Đặc biệt thông qua bài thơ
Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng sáng tác vào cuối năm 1948, chúng ta càng hiểu rõ
hơn chân dung những người lính cụ Hồ khi ấy. Bài thơ không chỉ nỗi nhớ sâu sắc
của tác giả về những năm tháng nếm mật nằm gai, tình đồng chí mà còn viết về những
người lính Tây Tiến anh dũng hào hoa giữa núi rừng miền tây hùng vĩ.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Tác giả v~ lên một bức chân dung về người lính Tây Tiến thật khác thường. Họ
không phải là “những trai xinh gái đẹp”đó là hình ảnh người lính vất vả, gian nan
không tránh khỏi những căn bệnh nơi rừng thiêng nước độc. Đó căn bệnh sốt rét
tới nỗi tóc rụng không mọc lại được. Để thêm, hình tượng hóa thêm về người lính,
Quang dũng dùng những vần thơ rất nhẹ nhàng nhưng không thể che đi được một sự
thật rằng, cuộc sống nơi chiến trường khắc, hình ảnh người lính rất đỗi bình
thường, giản dị, chân thật như thế đấy. Họ sống thiếu thốn đến độ da cũng xanh xao,
bệnh tật.
Tuy nhiên, vẻ ngoài trông vẻ khắc khổ thế, xanh xao thế nhưng bên trong
tâm hồn lại toát lên một vẻ dũng khí, anh hùng. Câu thơ: “Quân xanh màu dữ oai
hùm.” Ngụm } cho thấy tính cách hộ rất oai hùng, dữ dội không hề chùn bước
trước kẻ thù.
Hình ảnh đoàn binh không mọc tóc vừa tạo nên sự o hùng cộng với tính cách oai
hùng dữ dội đã v~ lên một bức chân dung đời thường đầy khí phách, hào sảng.
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
Khác với vẻ ngoài rắn rỏi, cứng rắn, mạnh m~ vẻ oai hùng ấy vẻ đẹp tâm hồn
lãng mạn không kém những chàng công tử Nội hào hoa, phong nhã. Tâm hồn
người lính cũng rất đa dạng, thơ mộng. Trước vẻ đẹp duyên dáng của người con gái,
bất chàng trai nào cũng s~ say đắm rung động những người lính Tây Tiến cũng
không nằm ngoài. Tâm hồn họ cũng xao động một người con gái đẹp, duyên dáng
lướt qua. Họ cũng mang trong mình vẻ đẹp tâm hồn thi sĩ, cũng yêu cái đẹp cái duyên.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Những người lính Tây Tiến những con người mộng, những người con trai
xuất thân từ đất Thành nên họ vào chiến trường mang theo cả nét thi vị, lãng mạn
trong tâm hồn. Nếu tác phẩm Đồng Chí của chính hữu, người lính đến từ các vùng
quê nghèo “đất cày lên sỏi đá” tâm hồn họ thường chỉ quanh quẩn với bến nước cây
đa một lòng hướng về đất nước. Thì ngược lại, người lính Tây Tiến ngoài l} tưởng
đánh giặc bảo vệ đất nước, họ vẫn mang trong mình vẻ đẹp lãng mạn của những chàng
trai Hà Thành. Có l~ vì vậy mà tác giả khéo léo sử dụng các vần thơ “gửi mộng” “đêm
mơ”. Họ về một Nội đầy thương nhớ, không gian khác hẳn với đời sống gian
khổ chiến trường. Họ cũng về bóng dáng thiếu nữ Thành duyên dáng, thướt
tha đó bóng người thương của lính Tây Tiến. Nỗi nhớ quê hương, nhớ người yêu
cũng là động lực để họ chiến đấu nơi chiến trường gian khó.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Hình ảnh người lính không bước nữa, gục ngay trên súng là hình ảnh bi hùng về người
lính Tây Tiến. Đó s nghỉ ngơi vĩnh viễn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, chỉ như
một giấc ngủ ngàn thu thôi. Câu thơ nghe vẻ nhẹ nhàng rất thảnh thơi tựa như
cái chết của họ nhưng lại khiến cho người đọc mang một sức nặng trong lòng. Qua đó
càng cảm thấy khâm phục những người lính Tây Tiến, họ swn sàng hi sinh bản thân
lợi ích chung của dân tộc.
Thậm chí, họ swn sàng cống hiến tuổi trẻ cho đất nước, chẳng tiếc thân mình, chẳng
tiếc tuổi xanh, ra đi thanh thản lòng nhẹ nhàng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Cái chết đã được l} tưởng hóa, hình ảnh những người chiến xưa kia với các cụm từ
“áo bào” “khúc độc hành” cho thấy thiên nhiên cũng đau đớn cho nỗi đau của họ.
Những người lính tây tiến mang vẻ đị bi tráng và tầm vóc của họ sánh ngang với tráng
xưa. thể nói, Quang Dũng đã sử cảm hứng lãng mạn đã bất tử hóa hình ảnh của
họ.
Chân dung người lính Tây Tiến được Quang Dũng l} tưởng hóa bất tử cùng thời
gian. Hình ảnh người lính Tây Tiến vừa đời thường vừa lãng mạn, vừa chân thực
lại vừa mộng mơ. Những người lính đánh đổi cả thanh xuân để sống với tưởng của
mình, hồn tạc vào núi sông và dù thác vẫn đi theo đồng đội, vẫn sống trong lòng đồng
đội.
Bài văn mẫu 7
thể nói, nếu chọn năm tác giả tiêu biểu của giai đoạn văn học thời đầu kháng
chiến chống Pháp, thể không Quang Dũng nhưng nếu chọn năm bài thơ tiêu
biểu, nhất định Tây Tiến phải được nhắc tên, đứng hàng danh dự. Đọc Tây Tiến,
chúng ta sống lại một thời lửa cháy cùng đoàn quân lừng tiếng đã đi vào lịch sử,
chúng ta thể quên một số câu thơ trong bài, nhưng không thể quên được hình ảnh
đoàn quân ấy:
9912,'U4
J$"+W"N
?GCBH",!
I(B+5(
)*+, (-.$/
01 212$"
<,"1"-52=
>'?@A2B6
Nếu như những đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân mới hiện lên qua nét v~ gián tiếp
- nói đến gian khổ, hi sinh địa bàn hoạt động - thì đây, đoàn quân ấy đã hiện lên
với những nét v~ cụ thể, gân guốc, rạch ròi. Đã thành khuôn sáo khi đề cập đến sự can
trường của các chiến binh. Ở đây, ta tưởng như gặp một mô-típ như thế:
9912,'U4
J$"+W"N
Nhưng trước hết, đây những câu thơ tả thực - thực một cách trần trụi: chiến Tây
Tiến hồi ấy hoạt động những vùng núi rừng hiểm trở, rừng thiêng nước độc, chết
trận thì ít mà chết vì bệnh tật thì nhiều, có những con suối rửa chân rụng lông, gội đầu
rụng tóc. “Quân xanh” đây thể hiểu xanh màu áo, xanh ngụy trang xanh
làn da thiếu máu. Những hình ảnh rất thực đó, vàoi thơ, với giọng điệu cách
diễn tả lãng mạn của Quang Dũng đã như mang nghĩa tượng trưng, rất khí phách.
Mười bốn chữ thơ mà chạm khắc vào lịch sử hình ảnh một đoàn quân phi thường, độc
đáo, có một không hai trong cuộc đời cũng như trong thơ ca. Đoàn quân của một thuở
“xếp bút nghiên lên đường chinh chiến” của các chàng trai Nội kiêu hùng, hào
hoa.
vậy, khó khăn, gian khổ thế, nhưng các chiến binh Tây Tiến vẫn không nguôi đi
những tình cảm lãng mạn:
?GCBH",!
I(B+5(_
“Mộng” và “mơ” của người lính được gửi về hai phương trời: biên cương, nơi còn đầy
bóng giặc - mộng giết giặc lập công,Nội, quê hương yêu dấu - mơ những bóng
dáng thân yêu.Dáng kiều thơm”, ấy vầng sáng lung linh trong ức,tố cáo” nét
đa tình của người lính. Nhưng với các chiến Tây Tiến, nỗi nhớ ấy sự cân bằng,
thư thái trong tâm hồn sau mỗi chặng hành quân vất vả, chứ không phải để thối chí
nản lòng. Vậy mà một thời, câu thơ “đẹp một cách lãng mạn” này đã khiến cho tác giả
của nó và chính bài thơ phải “trải bao gió dập, sóng dồn”.
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi - xưa nay đi chiến trận, mấy ai trở về, các chiến sĩ Tây
Tiến cũng không khỏi tránh phải những mất mát, hi sinh.
)*+, (-.$/
01 212$"
Sau những câu thơ rắn rỏi, đẹp đ~, đến đây, âm điệu câu thơ chợt trầm và trùng xuống
để độc giả thấy hơn bản chất của sự việc. Dường như đây một cảnh phim được
cố } quay chậm. Còn gì thiêng liêng và cao cả hơn sự hi sinh, chấp nhận gian khổ của
người lính. Trên đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao ngôi "mồ viễn
xứ" của những người con "chết xa nhà". Nhưng các chiến ta nhìn thấy với đôi mắt
bình thản, bởi họ đã chấp nhận điều đó. Một trong những động thôi thúc họ lên
đường hình ảnh người anh hùng da ngựa bọc thây họ tiếp nhận được trong văn
chương sách vở. Một niềm đam mê trong sáng pha chút lãng mạn.
Hai câu thơ cuối tiếp tục âm hưởng bi tráng, tô đậm thêm sự mất mát hi sinh nhưng đó
lại là một cái chết cao đẹp - cái chết bất tử của người lính Tây Tiến.
<,"1"-52=_
>'?@A2B
Hai câu mới đọc qua tưởng như chỉ làm nhiệm vụ miêu tả, thông báo bình thường
nhưng sức gợi thật lớn. Đâu đây vẫn như còn thấy những giọt nước mắt đọng sau hàng
chữ. Hai câu thơ rắn rỏi cảm khái, thương cảm thật sâu xa. Làm sao thể dửng
dưng trước cảnh “anh về đất”? “Anh về đất” hóa thân cho dáng hình xứ sở, thực
hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình. Tiếng gầm của sông về xuôi như loạt
đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của giống nòi.
Trước đây, khi nhắc đến những dòng thơ này, người ta chỉ thấy những biểu hiện nào là
“mộng rớt”, “buồn rơi” ... nhưng thời gian đã khiến chúng ta nhìn đúng hơn vào bản
chất, có thời đại ấy mới có văn chương ấy.
Tây Tiến là bài thơ, tấm lòng của những người chiến binh Tây Tiến. Bài thơ có
nhạc, họa; n cạnh cái bi cái hùng, bên cạnh mất mát, đau thương niềm kiêu
hãnh anh hùng. Nửa thế kỉ đã qua, bài thơ ngày một thêm sáng giá đoạn thơ khắc
họa đoàn quân Tây Tiến đã trở thành một hoài niệm khó quên của một thời lịch s
hào hùng trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
Phân tích hình ảnh người lính Tây Tiến ngắn gọn
Bài văn mẫu 1
Một trong những bài thơ hay cho tới tận hôm nay, những vần thơ ấy vang lên vẫn
giống như một khúc ca đi cùng năm tháng, Tây Tiến đã trở thành một hiện tượng
trong thơ Quang Dũng, cũng một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính.
Những câu thơ mang một vẻo hoa, mang một phong cách hồn hậu, phóng khoáng.
Không những thế qua bài thơ Tây Tiến chúng ta thấy được vẻ đẹp bi tráng của những
người lính Tây Tiến và về một thời hào hùng đã qua đi.
Câu thơ mở đầu như một khúc nhạc dạo cứ ngân dài mãi, khúc nhạc ấy nhắc tới hình
ảnh Sông Mã, Tây Tiến ngay câu mở đầu cũng được ưu ái với một cách gọi thân
thương “Tây Tiến ơi” . đây chính một trong tiếng gọi trở về những năm tháng kề
vai sát cánh bên nhau trong hành quân chiến đấu. Sônghào hùng như minh chứng
cho một thời oanh liệt đã qua, cứ ạt cuốn nước chảy tới bờ. Vẻ đẹp của những
anh hùng tây tiến cũng từ đó hiện ra, vẻ đẹp của những con người đã in dấu chân trên
những con đường hành quân.
`>'?@$"991(
!-5C!(-(
>Q" (=K2HR
? &+"-52(a
Một thời đạn bom đó đã để lại nỗi ám ảnh cho những người trực tiếp tham gia chiến
đấu. Cách hiệp vần những chữ cuối mỗi câu khiến cho câu thơ càng vang xa,ngân
mãi trong đêm: “ơi, vơi, hơi”. giống như lúc những anh lính tây tiến trút i thở
mệt mỏi sau một ngày hành quân. Hai địa danh Sài Khao và Mường Lát hiện lên khắc
sâu vào nỗi nhớ củac giả. Hai địa danh ấy gắn với những cuộc hành quân của đoàn
quân tây tiến. “đêm hơi” khiến cho độc giả nghĩ tới nhiều sự vật kì vĩ, đêm hơi thể
là đêm đầy sương và hơi sương, đêm hơi còn là đêm của không khí lạnh của rừng sâu,
nhưng cũng thể s di chuyển nhẹ nhàng của những chiến đoàn quân tây tiến
hay chính là những hơi sương trong đêm hành quân ấy thể hiện những khó khăn vất vả
của đoàn quân. Những khó khăn của những người lính tây tiến lại trở nên đẹp đ~
nên thơ trong những vần thơ của Quang Dũng. Đó là những gian nan mà những người
lính phải trải qua, chính những gian nan đó lại càng đậm vẻ đẹp bi tráng của họ
những triền dốc khiến người ta mới nhìn đã thấy ngại, hai từ thăm thẳm trong câu thơ
khiến độ hun hút của những con dốc lại càng trở nên nguy hiểm biết bao nhiêu.chưa
dừng lại đó,những hình ảnh hun hút, đầu súng của những người lính đang đùa giỡn
với mây trời.
`S
#
 !"# !$
"%"&' "$"(a
Những độ cao độ sâu ấy được tính bằng ngàn thước, mục đích của nhằm nhấn
mạnh vào những gian khổ đoàn quân phải vượt qua. Nhưng đến câu thơ cuối thì
một dòng toàn thanh bằng lại được xuất hiện như lại cho những câu thơ mang
nhiều thanh trắc. Sự bằng y mang đến cho chúng ta một cảm giác thật sự yên bình.
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Những lúc mưa gió, đoàn quân nghỉ ngơi và nhìn ra
những cơn mưa như trút nước xuống, khiến một vùng trắng xóa như những mặt nước
trắng xóa vậy.
Những gian nan khó khăn ấy mở nguồn cho hình ảnh đẹp vi tráng của những người
lính ấy. Cũng có những lúc sự hồn nhiên của người lính được thể hiện qua những giây
phút mệt mỏi, gục lên ba ngủ, bỏ lại sau đó những khó khăn vất vả, những hiểm
nguy của kháng chiến. Hình ảnh người lính gục lên súng dãi dầu không bước nữa
một hình ảnh đẹp. Câu thơ nhằm nói giảm đi cái chết, cái hi sinh của những người
chiến ấy. Đó là một vẻ đẹp bi tráng, cái hi sinh kia bi nhưng trong cái bi ấy ta lại
thấy một cái tráng lệ vô cùng. Họ thể hi sinh nhưng trong một tư thế rất nhẹ nhõm,
“bỏ quên đời” những ức về những lúc dừng chân mệt mỏi, những kỉ niệm với
những buổi chiều ban đêm với những con thú dữ gầm lên, nhớ những đêm mùa
nếp xôi ở Mai Châu.
đoạn thơ tiếp theo người lính hiện ra với vẻ hồn nhiên, một đời sống tinh thần
cũng cùng vui vẻ lạc quan, những hình ảnh liên hoan đời thường, cùng với gái
Viêng Chăn xinh đẹp kiều diễm với tình dân quân thân thiết đẹp sao. Bỏ qua những
vất vả những người lính hiện ra với vẻ đẹp oai hùng mà cũng hồn.
`"8,CB2"
QY"$+Z,"
Q["2\=K
8-5L0S$(
 20?B5 (=
04="],1,
04!+ 2BB
TrôiE !F"22 "a
Hình ảnh thấy dáng người trên độc mộc hoa đong đưa tạo nên một hình ảnh
đôi có cặp, hình ảnh hoa xoáy vào dòng nước càng tạo nên vẻ đẹp thơ mộng nơi đây.
`9912,'U4
J$"+W"N
?GCBH",!
I(B+5(a
Không chỉ khó khăn trên chiến trường chiến đấu, những câu chuyện về bệnh tật và nơi
khí hậu khắc nghiệt cũng được đưa vào trong thơ của Quang Dũng. Không một chút
giấu diễm, sự thiếu thốn hay những căn bệnh như sốt rét, khiến cả binh đoàn bị rụng
hết tóc, quang Dũng đã khai thác một vẻ đẹp hết sức chân thực của người lính Tây
tiến, khó khăn khắc nghiệt nhưng tinh thần chiến đấu chưa bao giờ kết thúc. Hình
ảnh quân xanh màu những hình ảnh gầy ốm nhưng không hề yếu vẫn dữ
oai hùm. Mắt trừng gợi cho ta liên tưởng đến sự căm thù giặc của những anh hùng tây
tiến. Những ánh mắt hiện lên lửa hi vọng tinh thần chiến đấu oai hùng, không một
chút phó mặc cho số phận, cũng có thể đó chính là sự thức trắng không ngủ được vì lo
cho biên giới hoặc mở mắt để nhớ những bóng kiều thơm kia. Đó sự hi sinh của
những người chiến ấy, họ phần lớn những trí thức Thánh ngày đêm nghĩ đến
quê nhà với những bóng hồng không bao giờ mờ nhạt trong lòng họ. Đó chính
cái bi của vẻ đẹp người lính. Nhưng lại rất tráng người ta chết đi vì lí tưởng cao
cả của mình thì đó chính cái chết đẹp. Thay chiếu đắp lên, sra đi của các anh
được như s ra đi của những người được những người khác tôn trọng biết ơn.
Những áo bào thì thay bằng chiếu thể hiện sự giản dị của những người lính. Chiến
trường khắc nghiệt làm cho anh phải ra đi chỉ mảnh chiếu che thân. Đất mẹ chính
nơi các anh sinh ra cũng là nơicác anh về, đất mẹ che chở cho các anh mãi mãi
yên bình với giấc ngủ ngàn thu của mình. Một lần nữa, hình ảnh sông Mã hiện ra, gầm
lên khúc hành ca, như kính cẩn tiễn đưa linh hồn các anh, không phải sự chơi vơi
nữa mà là tiếng gầm, nó càng tạo nên chất tráng cho bài thơ.
Dưới ngòi bút hào hoa của Quang Dũng những hình ảnh về những người lính Tây
Tiến vừa hồn hậu,giản dị lại hết sức khí phách. Qua đây ta cũng thấy được những vẻ
đẹp bi tráng của những chiến binh tây tiến, cảm nhận được như thế chúng ta càng
thêm yêu hơn những con người quê hương đất nước. Hình tượng các anh vẫn mãi
sống trong lớp lớp thế hệ.
Bài văn mẫu 2
Bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng một trong những tác phẩm đặc sắc với
hình tượng người lính cụ Hồ. Chân dung người lính cách mạng trong thời kháng
chiến chống Pháp huy hoàng của dân tộc được hiện lên một cách bi tráng và oai hùng.
Nhà thơ Quang Dũng viết về người lính Tây Tiến đơn vị quân đội thành lập năm
1947 với nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt Lào cùng sự kiêu nh niềm tự hào
với tất cả tình cảm chân thành của ông.
Chiến Tây Tiến phần lớn thanh niên, học sinh sinh viên Nội. Họ những
người biết đến chiến trường khắc nghiệt, nguy hiểm thiếu thốn kể từ khi đi lính.
Bài thơ Tây Tiến kỉ niệm, hoài niệm của tác giả thay cho lời muốn nói của những
người chiến kiên cường đồng thời lời của đồng bào dân tộc ta. Hình tượng
người lính Tây Tiến trong bài thơ mang những nét phẩm chất đặc trưng của người lính
trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
9912,'U4
______________
I(B+5(
Người lính Tây Tiến mang một vẻ đẹp rất mực hào hùng, hào hoa giữa môi trường
chiến đấu khắc nghiệt. Xuất thân những chàng trai Nội lãng mạn, những người
lính nhìn đời bằng con mắt mơ mộng đầy tinh thần lạc quan của tuổi trẻ. Ngoài
thiên nhiên khắc nghiệt, khó khăn chồng tiếp khó khăn với đoàn quân khi những
người lính trẻ tuổi còn phải đối mặt với bệnh tật. Bệnh sốt rét làm “đoàn binh không
mọc tóc”, tóc rụng nước da xanh xao như “màu lá”. Thế nhưng tinh thần của họ
không bao giờ bi ai tuyệt vọng. Họ vẫn đứng lên chiến đấu với tâm thế “dữ oai
hùm”,mắt trừng”. Họ vẫn mộng về “Hà Nội dáng kiều thơm”. Họ vẫn những
chiến trẻ tuổi lãng mạn trong tình yêu lạc quan trong cách sống. Sự lạc quan ấy
như tiếp thêm sức mạnh cho họ trở nên kiên cường gan dạ khó khăn đến
mấy, điều kiện môi trường khắc nghiệt đến nhường nào. Thiên nhiên hoang vu
hiểm trở đến thế, thế vượt qua của người lính Tây Tiến thật oai phong lẫm liệt
đầy khí phách:
S
___________
"%"&' "$"(
Những con dốc nguy hiểm “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” có thể lấy mạng người chiến sĩ
bất cứ lúc nào. Vượt qua muôn trùng hiểm trở, tư thế của người lính thật ngang tàn
hùng dũng biết bao “súng ngửi trời”. Người lính tay cầm cao cây súng hiên ngang bảo
vệ non sông đất nước. Giữa thiên nhiên vắng vẻ hiểm trở đến “heo hút”, chân dung
người lính cụ Hồ vẫn sừng sững kiên cường và trong tư thế swn sàng chiến đấu.
"8,CB2"
____________
9'E !F"22 "
Người lính Tây Tiến mang trong mình triết sống cao đẹp thấm đượm tình người.
Bên cạnh những đôi mắt “trừng” đương đầu với kẻ địch bên bến bờ sinh tử, bên cạnh
thế hiên ngang hùng dũng chống chọi với thiên nhiên tình, những người lính ấy
còn một đời sống tinh thần nồng nàn tình thân với đồng bào dân tộc. Họ trở về
những chàng trai thành thị vui đùa với những cô gái Lào duyên dáng thướt tha. Họ
chìm đắm trong cảm xúc nhung nhớ về ngày tháng gắn với con người miền đất
nơi đây. Đằng sau tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh của họ tâm hồn yêu
thiên nhiên, đất nước và con người sâu đậm.
)*+, (-.$/
_____________
>'?@A2B
Nét đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến làm tỏa sáng vẻ đẹp lí tưởng của giới trẻ thời
kháng chiến. Công cuộc bảo vệ đất nước dài đằng đwng khó khăn biết mấy, hòa
bình đánh đổi bằng mồ hôi xương máu muôn vàn sự hy sinh. Đã có biết bao người
lính trẻ đã ngã xuống giữa đất trời Tây Bắc. Thân xác các anh nằm lại nơi biên cương
“viễn xứ”. Thế nhưng họ vẫn hùng dũng kiên cường cầm súng bảo vệ tổ quốc
“chẳng tiếc đời xanh”. Cho đến khi ngã xuống, thân xác họ chỉ có chiếc chiếu qu} như
chiếc “áo bào”, chôn “rải rác”. Những cái chết ấy vừa bi thương vừa tráng lệ, để đời
sau cảm phục biết bao trước sự hy sinh bất khuất của những người lính Tây Tiến anh
hùng.
Qua bút pháp lãng mạn của nhà thơ Quang Dũng, hình tượng người lính Tây Tiến
hiện lên với vẻ đẹp độc đáo ngang tàng, oai hùng trong mọi hoàn cảnh và mọi tâm thế.
Chân dung người lính Tây Tiến chói ngời trong vẻ đẹp tưởng, swn sàng hi sinh cho
độc lập dân tộc. Chúng ta đang được hưởng nền độc lập từ xương máu ông cha ta
các thế hệ đi trước hy sinh thành. Ta cảm phục, tự hào biết ơn sâu sắc những
người lính Tây Tiến – người lính cụ Hồ.
Bài văn mẫu 3
Thơ ca cách mạng một chđề lớn trong kho tàng thơ ca Việt Nam. Những bài thơ,
ca khúc đã đi sâu vào trái tim của triệu triệu đồng bào về một thời khói lửa chiến
tranh. Hình ảnh những người lính bước vào trang thơ cũng rất tự nhiên gần gũi,
một đề tài quen thuộc trong thơ cách mạng. Nhà thơ Quang Dũng cũng góp vào kho
tàng ấy một tiếng thơ đẹp Tây Tiến về hình ảnh người lính xuất thân những người
thanh niên trí thức Hà thành. Bài thơ đã khắc họa thành công hình tượng người lính
Tây Tiến với vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn và cũng rất dũng cảm, ngàng tàng cùng vẻ đẹp
bi tráng.
Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên trong trang thơ trước tiên sự hào hoa lãng
mạn. Bởi họ là những người học sinh, sinh viên trẻ đang ngồi trên ghế nhà trường, ra
đi theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, nên tâm hồn tinh tế, o hoa cũng một
điều rất đỗi thường tình, dễ hiểu. Điều đó được thể hiện ban đầu cái nhìn háo hức,
say mê với cảnh sắc đẹp đ~ của thiên nhiên và con người Tây Bắc:
`? &+"-52(
!'991(4
?"0N"(1K$'a
Cái vẻ đẹp huyền ảo của núi rừng Tây Bắc trong tâm hồn người lính trẻ là những bông
“hoa về trong đêm hơi” của xứ Mường, hình ảnh của những làn khói nghi ngút từ
bát cơm thơm dẻo, từ những “mùa em” mùa của những cánh đồng bậc thang vàng
óng, trĩu hạt cùng hương thơm lúa nếp cho bát xôi thơm dẻo. Những người lính xuất
thân từ Hà thành cũng háo hức và say mê vẻ đẹp của buổi chiều lãng đãng mây bay:
` 20?B5 (=
__________
9'E !F"22 "a
Người lính Tây Tiến hòa mình vào làn sương chập chờn bên núi của buổi “chiều
sương ấy”, vào những “hồn lau” đang phất phơ theo chiều gió nơi bến bờ. Và cái nhìn
lãng mạn của các anh còn thấy được vẻ đẹp trong từng bông hoa rừng rực rỡ như hoa
mai, hoa mận, hoa ban… đang “đong đưa” bên “dòng nước lũ”. Hẳn phải tinh thế,
tâm hồn thơ mộng lắm mới nhận thấy những vẻ đẹp bình dị như thế.
Không chỉ say sưa v đẹp sông núi, người lính trẻ tuổi còn yêu cả vẻ đẹp con
người nơi đây. Đó vẻ đẹp của “dáng người trên độc mộc” của những gái miền
sơn cước trong bộ xiêm áo rực rỡ trong đêm lửa trại ấm tình quân dân:
`"8,CB2"
______________
8-5L0S$(a
Chính vẻ đẹp dịu dàng, e ấp, vẻ đẹp của những ngọn đuốc hoa rực rỡ, lung linh cùng
tiếng khèn, điệu nhạc khiến cho m hồn lãng mạn của người chiến nảy nở, chắp
cánh cho những vần thơ tuyệt vời. Tâm hồn thơ ca của những người lính Tây Tiến quả
là một nét độc đáo, tài hoa.
Vẻ đẹp hào hoa lãng mạn cũng thể hiện trong nỗi nhớ của các anh với quê hương
con người nơi các anh gắn bó. Để rồi khi đêm về, những giấc về Hà Nội thương
nhớ, về người con gái thành thanh lịch nền lại dội v trong nỗi nhớ “đêm
Hà Nội dáng kiều thơm”.
Người lính Tây Tiến hiện lên không chỉ đẹp bởi sự hào hoa, mà còn mang một vẻ đẹp
dũng cảm, kiên cường. Dù chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn gian khổ các anh vẫn
luôn cố gắng vượt qua. Nơi các anh hành quân những dãy núi cao chót vót “khúc
khuỷu” tới “ngàn thước”, những dốc núi cheo leo “thăm thẳm” “heo hút” đến "rợn
ngợp”
`S#
________________
 !" !$a
Không chỉ có vậy, nơi núi rừng hoang vu, sương muối ấy, người lính còn phải đề
phòng những loài thú dữ đáng sợ đầy nguy hiểm:
`055"+AT
I2? 7UK a
Đâu chỉ núi rừng hoang sơ, hoang dại hiện lên thật dữ dội ghê rợn, người lính
Tây Tiến còn đối mặt với những trận sốt rét, dịch bệnh khiến tóc không thmọc, n
da héo hon, xanh xao như tàu lá “đoàn binh không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”.
Thế nhưng, dù khó khăn, gian khổ và thiếu thốn đến đâu, các anh chiến sĩ vẫn cứ dũng
cảm vượt qua, hiên ngang khỏe khoắn. Sau khi vượt qua những đỉnh núi cao chót
vót, đứng trên đỉnh núi cao chạm tới mây trời, người lính vẫn vô tư, hiên ngang ví von
“súng ngửi trời”. Dù đối chọi với ốm đau bệnh tật, người lính vẫn ngang tàng:
`9912,'U4
______________
?GCBH",!a
Người lính von “đoàn binh không mọc tóc” như th tóc cũng không thèm mọc.
Cách nói cho thấy s bình thường hóa việc không mọc tóc, không mọc tóc thì hề
chi. Với các anh, da xanh thì lại càng oai phong, hiên ngang, “d oai hùm” như
thể hiện một } c sắt đá, hiên ngang, giữ vững } chí tinh thần chiến đấu. Điều đó
khẳng định tinh thần } chí quật cường của những người lính trẻ, mang theo khát
vọng mãnh liệt, nhiệt huyết sục sôi của tuổi trẻ vì một đất nước độc lập, tự do.
Hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên đặc sắc nhất là vẻ đẹp bi tráng, hào hùng:
`)*+, (-.$/
_________________
>'?@A2Ba
Nhà thơ đã nhìn thẳng vào sự thật mà không hề né tránh cái chết, cái sự thật không thể
tránh khỏi của chiến tranh khốc liệt. Nhưng s hi sinh ấy hiện lên đậm chất bi tráng,
sử thi như những tráng ngày xưa tòng quân ra trận. Hình ảnh những nấm mồ nơi
biên ải xa xôi hiện lên đau thương nhưng không hề bi lụy, rất bi tráng. Cùng với
chiếc “áo bào” uy nghiêm đưa các anh về với đất mẹ thiêng liêng là “khúc độc hành”
tráng ca hùng hồn đưa tiễn người chiến sĩ. Màu sắc cổ kính hiệnn trong những vần
thơ thật độc đáo, đẹp đ~. giúp xây lên một bức tượng đài sừng sững về những
người lính Tây Tiến ra đi một cách oai nghiêm, trang trọng, bi tráng.
Đọc bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp
người lính Tây Tiến thật hào hoa, lãng mạn cùng sự gan dạ, can trường, hiên ngang và
đặc biệt vẻ đẹp bi tráng, hào hùng. Bài thơ một khúc tráng ca tuyệt vời còn vang
mãi tới lớp lớp thế hệ trẻ ngày nay để luôn ghi nhớ công lao to lớn của những người
đã ngã xuống cho đất nước hòa bình, ấm no và hạnh phúc.
Bài văn mẫu 4
Quang Dũng một nhà thơ chiến với hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu của một con
người tài hoa, đa tài. Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, là kết tinh
của những trải nghiệm trong cuộc đấu tranh chống Pháp cùng những người đồng đội
trong binh đoàn Tây Tiến. Thành công nổi bật của của bài thơ xây dựng được hình
tượng người lính Tây Tiến vừa mang dáng dấp của những người chiến thuở trước,
vừa mang những vẻ đẹp hiện đại của những người chiến chống Pháp, kiên cường
nhưng cũng rất đỗi hào hoa, phong nhã.
Đọc Tây Tiến, } kiến cho rằng “người lính đây dáng dấp của tráng thuở
trước". Ý kiến khác thì nhấn mạnh “Hình tượng người lính mang đậm vẻ đẹp chiến sĩ
thời kháng chiến chống Pháp”. Hai } kiến tưởng chừng đối lập nhưng hoàn toàn thống
nhất bởi đều những nét đẹp đặc trưng trong hình tượng của những người lính
Tây Tiến. “Dáng dấp của tráng sĩ thuở trước” là những nét đẹp lí tưởng mang tính ước
lệ của văn chương trung đại, “mang đậm vẻ đẹp của người chiến thời chống Pháp”
lại hướng đến những nét đẹp hiện đại của những người chiến vệ quốc quân thời
kháng chiến chống Pháp.
Trước tiên, hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên với dáng vẻ oai phong, lẫm liệt
cùng tinh thần xả thân tự nguyện, thế ngang tàng, ngạo nghễ coi cái chết nhẹ tựa
hồng mao:
`)*+, (-.$/
______________
>'?@A2Ba
Hình tượng người lính Tây Tiến được đặt trong không gian đầy hào hùng, cổ xưa gợi
cho độc giả liên tưởng đến không gian bi hùng cổ xưa, nơi những chiến binh anh hùng
ra đi vào cuộc chinh chiến. Trong bài thơ Tây Tiến, tác giả Quang Dũng đã sử dụng
hàng loạt những từ ngữ Hán Việt “biên cương”, “mồ viễn xứ”, “áo bào” để làm tăng
tính trang trọng, để làm cho sự ra đi của người lính giảm bớt đau thương, thiêng liêng
hóa cho sự hi sinh thầm lặng đó.
Không gian chiến trường trong bài thơ Tây Tiến hiện lên là miền viễn xứ chốn biên ải,
đây nơi chiến đấu, cũng nơi mãi mãi nằm xuống của những người lính danh,
họ đã ng hiến cả cuộc đời, cả tuổi xanh cho sự nghiệp đấu tranh, bảo vệ tổ quốc
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Trong sự thiếu thốn của hoàn cảnh, manh áo
không lành lặn trên người của những người lính ấy cũng chính “áo bào”để “thay
chiếu anh về đất”. Tuy nói về cái mất mát, hi sinh đấy nhưng nhờ sử dụng ngôn ngữ
trang trọng, hình ảnh ước lệ mà sự hi sinh ấy trở nên thật thiêng liêng, cao đẹp.
Không chỉ mang vẻ đẹp của những người chiến binh xưa những người lính Tây
Tiến còn mang trong mình vẻ đẹp của những người chiến sĩ giải phóng của thời chống
Pháp, hào hùng, kiên cường nhưng rất đỗi hào hoa, lãng mạn. Những người lính trong
binh đoàn Tây Tiến chiến đấu với tinh thần vệ quốc của cuộc kháng chiến chống
Pháp, quyết hi sinh, dâng hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp lớn của đất nước:
` 2991'^ !
_____________
-5>A/"#-5$'a
Sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt, thiếu thốn về vật chất, hiểm nguy trong chiến đấu
với cái chết kề cận nhưng những người lính ấy chưa từng thoái chí, sờn lòng luôn
lạc quan, vui vẻ thể hiện được sức sống căng tràn của những chàng trai Hà Thành lãng
mạn, mộng mơ:
`?GCBH",!
I(B+5(a
Cuộc sống quân ngũ gian khổ nhưng những người lính vẫn một lòng hướng về biên
giới với tinh thần đấu tranh quyết liệt, mạnh m~ với kẻ thù. Cùng với sự kiên cường,
quả cảm trong chiến đấu những phút lãng mạn, hào hoa của những chàng trai khi
nhớ về bóng dáng kiều thơm. Những người lính trong tây Tiến mang vẻ đẹp hào hùng
của những người lính vệ quốc nhưng cũng thể hiện những nét đẹp tươi trẻ, nghịch
ngợm của những chàng trai đôi mươi đầy lãng mạn, mộng mơ. Cũng chính tinh thần
lạc quan, yêu đời cùng những cảm xúc hào hoa, lãng mạn ấy đã mang đến doanh trại –
nơi vốn trang nghiêm với những kỉ luật thép trở nên thật rực rỡ, ấn tượng với hội
đuốc hoa”.
Hình tượng những người lính Tây Tiến cũng được gắn liền với sự kiện lịch sử có thật,
đó chính cuộc hành binh của những người lính Tây Tiến, những địa danh xuất hiện
trong bài thơ cũng những địa danh thực, ngôn ngữ thơ cũng thật bình dị như lời
thì thầm tâm sự của những người lính.
Như vậy, hai } kiến nhận định về bài thơ Tây Tiến nhìn bên ngoài có vẻ đối lập nhưng
hoàn toàn thống nhất vì cùng hoàn thiện cho vẻ đẹp của người lính Tây Tiến, vừa kiên
cường, quả cảm vừa lãng mạn hào hoa.
Bài văn mẫu 5
Quang Dũng một gương mặt tiêu biểu của thơ ca kháng chiến Việt Nam. Tác phẩm
ông để lại không nhiều, nhưng gây ấn tượng sâu sắc, đậm nét trong lòng bạn đọc, đặc
biệt tác phẩm Tây Tiến. Người đọc ngoài ấn tượng về khung cảnh núi non hùng vĩ,
vừa mộng của nơi núi rừng còn ấn tượng bởi hình tượng người lính kiên cường,
anh dũng, lí tưởng sống cao đẹp, swn sàng hi sinh cho đất nước. Hình tượng người lính
trong tác phẩm Tây Tiến mang một vẻ đẹp rất riêng, rất lạ, đặc trưng cho phong cách
thơ Quang Dũng.
Tây Tiến đượcng tác năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, sau khi nhà thơ dời binh đoàn
Tây Tiến để nhận nhiệm vụ khác. Chính hoàn cảnh sáng tác này đã cho thấy toàn bộ
tác phẩm thấm đẫm trong nỗi nhớ vừa tha thiết vừa thiêng liêng, khắc khoải.
Trong phần một hai của bài thơ, nổi bật hơn cả bức tranh thiên nhiên con
người nơi rừng núi khi binh đoàn Tây Tiến đi qua, hình ảnh người lính Tây Tiến chỉ
xuất hiện một cách gián tiếp, nhưng cũng đã phần nào cho người đọc hình dung về
hình ảnh của họ. Sang đến phần thứ ba nhà thơ mới tập trung tất cả tình cảm cũng như
tài năng của mình để tạc vào văn học Việt Nam bức tranh chân dung sừng sững về
người lính Tây Tiến. Người lính được khai thác toàn diện từ ngoại hình cho đến tâm
hồn, lí tưởng, từ cuộc sống chiến đấu đến sự hi sinh.
Trước hết về ngoại hình, Quang Dũng đã đưa vào hình ảnh giàu chất hiện thực:
9912,'U4
J$"+W"N
Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện lên cùng chân thực: không mọc tóc, quân xanh
màu lá. Những hình ảnh này đã bỏ tất cả cái nhìn o tưởng, v~ về cuộc sống
cũng như sinh hoạt của người lính. Để đưa người đọc đến hiện thực trần trụi, gai góc
khi do sự thiếu thốn về vật chất cũng như sự hành hạ của bệnh sốt rét rừng, hình ảnh
những người lính Tây Tiến đã bị biến dạng. Họ hiện lên với chân dung hết sức lạ:
tóc rụng, da xanh như mùa lá. Hiện thực này cũng đã được các thơ khác đề cập đến
như:
0B24,XK"$ (+
I4T,"A$T7"
Q'k2@,\l
IE (W"W"
Tuy nhiên đích đến của Quang Dũng không phải hiện thực trần trụi đó, từ hiện
thực ấy nhấn mạnh vào } chí, nghị lực phi thường của người lính. Bởi vậy, nó đối lập
với khó khăn, khắc nghiệt hình ảnh người lính hết sức oai phong. nước da
xanh xao nhưng đó vẫn hiện lên thần thái “dữ oai hùm”. Tạo nên hơi thở gân guốc,
rắn rỏi cũng như bản lĩnh ngang tàng, swn sàng vượt lên khó khăn của người chiến sĩ.
Quang Dũng tiếp tục đi sâu khai thác khía cạnh thứ hai tưởng như rất đối lập nhưng
kỳ thực lại rất thống nhất trong tâm hồn người lính Tây Tiến, đó chính là tâm hồn lãng
mạn, hào hoa:
?GCBH",!
I(B+5(
Hình ảnhmắt trừng” diễn tả chính xác cái nhìn căm hờn, dữ dội người lính dành
cho kẻ thù. đó ánh lên lòng căm thù giặc sâu sắc khát vọng giết giặc lập công,
bảo vệ quê hương. Giấc mộng của người lính phương diện dễ nhận thấy nhất bất
cứ người chiến nào trong thời đại kháng chiến. Nhưng sự tinh tế, nhạy cảm của tác
giả chỗ ông nhìn sâu vào những góc khuất trong tâm hồn người lính. Hình ảnh
“dáng kiều thơm” chính dáng người thướt tha, mềm mại của những cô gái
Thành, đồng thời cũng gợi đến hương hoa sữa nồng nàn đặc trưng của Nội. Chính
giấc mộng đó là động lực để họ có thể sống, chiến đấu một cách anh dũng.
)*+, (-.$/
01 212$"
Tiếp tục sử dụng bút pháp nhất quán từ đầu tác phẩm, đến đây Quang Dũng lại đưa
thêm hình ảnh đậm chất hiện thực. Không gian xa xôi, biên viễn với những nấm mồ
rải rác tạo nên cảm giác xót xa, tang tóc, thê lương. Nhưng chất hiện thực lại không
rơi vào sự bi lụy, bởi ngay sau đó tác giả đã viết câu thơ khẳng định tưởng của
người lính Tây Tiến để cho cảm hứng của cái bi lụy trở thành bi tráng. Người lính Tây
Tiến } thức rất về quãng đời “xanh” tuổi trẻ, ước, khát vọng, đồng thời họ
cũng } thức ra chiến trường chấp nhận sự mất mát, hi sinh. Nhưng cách ứng xử của
người lính với i chết không phải sự run rẩy sợ hãi, sự lựa chọn dứt khoát,
chủ động. Hai chữ “chẳng tiếc” cùng với cấu trúc câu chủ động đã cho thấy rất rõ điều
đó. Nhà thơ Quang Dũng để người lính vào thử thách khắc nghiệt nhất, lựa chọn giữa
sống vào chết từ đó làm bật lên tưởng sống cao đẹp của họ. tưởng sống cao đẹp
đó không chỉ của riêng binh đoàn Tây Tiến còn của tất cả những người lính:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình/ Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc/
Nhưng ai cũng tiếc thì còn chi tổ quốc/ Việt Nam ơi! Chỉ duy nhất cho Người/ Chúng
tôi xin chết”.
<,"1"-52=
>'?@A2B
Câu thơ đầu tiếp tục nét chạm khắc cùng chân thực về hiện thực thiếu thốn
không chỉ đồng hành với người lính trong suốt quá trình chiến đấy mà còn theo họ đến
tận lúc hi sinh. Bởi vậy, ngay cả nghi thức cử hành tang lễ sơ sài nhất cũng không có,
họ phải lấy manh chiếu bọc lấy thân. Bằng tất cả sự yêu thương, trân trọng, Quang
Dũng đã nâng cái chết phần xót xa trở thành cái chết cùng trang trọng, khi
khoác lên mình đồng đội chiếc áo bào – trang trọng, uy nghi. Hai chữ “về đất” là cách
nói giảm, nói tránh để bớt đi sự buồn thương, mất mát đồng thời tạo ra tâm thế rất nhẹ
nhàng, thanh thản của người lính trước khi mất. đây chết không phải sự hi sinh
sự trở về với đất mẹ. để tiễn đưa người lính về với đất mẹ, sông đã gầm
lên khúc độc hành dữ dội, hùng tráng để đưa những con người trở về với cõi bất tử.
Bằng sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực lãng mạn, ngôn từ tinh tế, sắc sảo Quang
Dũng đã thành công khi dựng lên chân dung người lính Tây Tiến. Người lính Tây
Tiến vừa mang trong mình } chí, nghị lực kiên cường như bao chiến khác, vừa
mang chiều sâu tâm hồn tài hoa lãng mạn, một nét v~ rất riêng. Hình tượng người lính
Tây Tiến chính linh hồn cho toàn bộ bài thơ, đi vào văn học Việt Nam nhưng
một trong những hình tượng tinh tế nhất về đề tài người lính.
Bài văn mẫu 6
Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính danh trong khổ thơ thứ ba của
bài thơ Tây Tiến. Ta thể xem khổ thơ thứ ba này những nét bút cuối cùng hoàn
thiện bức tượng đài về chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa.
Chân dung người lính hiện lên khổ thơ thứ 3 sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ
đẹp tâm hồn, l} tưởng chiến đấu và phẩm chất hy sinh anh dũng. Có thể nói cả bài thơ
một tượng đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh khác
thường.
Chân dung đoàn binh Tây Tiến chạm khắc bằng nét bút vừa hiện thực vừa lãng mạn.
Các chi tiết như lấy từ đời sống hiện thực và khúc xạ qua tâm hồn thơ Quang Dũng để
rồi sau đó hiện lên trên trang thơ đầy sức hấp dẫn. Dọc theo hành trình, vẻ đẹp hào
hùng kiêu dũng cứ lấp lánh dần lên, đến khi người lính Tây Tiến đối mặt với dịch
bệnh, đối mặt với cái chết thì thật chói người, nét nào cũng sắc sảo lạ lùng đầy
lãng mạn:
9912,'U4
J$"+W"N_
Chữ dùng của Quang Dũngđây thật lạ. Nếu mở đầu đoạn thơ tác giả dùng từ "Đoàn
quân" thì đây tác giả dùng "Đoàn binh". Cũng đoàn quân y thôi nhưng khi dùng
"Đoàn binh" thì gợi hình ảnh đoàn chiến binh khí, khí thế xung trận át đi vẻ
ốm yếu của bệnh tật. Ba chữ "không mọc tóc" đảo thế bị động thành chủ động.
Không còn đoàn quân bị sốt rét rừng lâm tiều tuỵ đi rụng hết cả tóc. Giọng điệu của
câu thơ cứ y như họ cố tình không mọc tóc vậy. Nghe ngang tàng kiêu bạc thấy
rõ sự bốc tếu rất lính tráng.
Các chi tiết "không mọc tóc, quân xanh màu lá" diễn tả cái gian khổ khác thường của
cuộc đời người lính trên một địa bàn hoạt động đặc biệt. Di chứng của những trận sốt
rét rừng triền miên "tóc không mọc" da xanh tái. Nhưng đối lập với ngoại hình tiều
tụy ấy sức mạnh phi thường từ bên trong phát ra từ thế "dữ oai hùm". Với nghệ
thuật tương phản chỉ 2 dòng thơ Quang Dũng làm nổi bật vẻ khác thường của đoàn
quân Tây Tiến. Họ hiện lên như hình ảnh tráng trượng phu một thuở qua hai câu
tiếp:
?GCBH",!
I(B+5(
"Mắt trừng" biểu thị sdồn nén căm uất đến cao độ như khả năng thiêu đốt quân
thù qua ánh sáng của đôi mắt. Hình ảnh thơ làm nổi bật } chí của đoàn binh Tây Tiến.
đây người lính Tây Tiến được đề cập đến với tất cả thực trạng mệt mỏi, vất vả qua
các từ "không mọc tóc", "quân xanh màu lá". Chính từ thực trạng này chân dung
người lính sinh động chân thực. Thế nhưng vượt lên trên khó khăn thiếu thốn, tâm hồn
người lính vẫn cất cánh "Đêm Nội dáng kiều thơm". Câu thơ ánh lên vẻ đẹp
tâm hồn của người lính Tây Tiến. Ban ngày "Mắt trừng gửi mộng" giấc mộng chinh
phu hướng về phía trận mạc nhưng khi bom đạn yên rồi giấc mộng ấy lại hướng về
phía sau cũng là hướng về phía trước, phía tương lai hẹn ước. Một ngày về trong chiến
thắng để nối lại giấc mơ xưa, } chí thì mãnh liệt, tình cảm thì say đắm. Hai nét đẹp hài
hòa trong tính cách của những chàng trai Tây Tiến.
Quang Dũng đã dùng hình ảnh đối lập: một bên nấm mồ, một bên } chí của
những người chiến binh:
)*+, (-.$/
01 212$"
<,"1"-52=
>'?@A2B_
"Mồ viễn xứ" những nấm mồ những nơi xa vắng hoang lạnh. Những nấm mồ rải
rác trên đường hành quân, nhưng không thể cản được } chí quyết ra đi của người lính.
Câu thơ sau chính là câu trả lời dứt khoát của những con người đứng cao hơn cái chết:
01 212$"_
Chính tình u quê hương đất nước sâu nặng đã giúp người lính coi cái chết nhẹ tựa
lông hồng. Khi cần họ swn sàng hy sinh cho nghĩa lớn một cách thanh thản bình yên
như giấc ngủ quên. Câu thơ vang lên như một lời thề đúng cái chết của bậc trượng
phu:
<,"1"-52=
Nếu như người tráng sĩ phong kiến thuở trước coi da ngựa bọc thâylí tưởng thì anh
bộ đội cụ Hồ ngày nay chiến đấu hi sinh Tổ quốc một cách tự nhiên thầm lặng.
Hình ảnh "áo bào" làm tăng không khí cổ kính trang trọng cho cái chết của người lính.
Hai chữ o bào" lấy từ văn học cổ tái tạo vẻ đẹp của một tráng sĩ làm mờ đi
thực tại thiếu thốn gian khổ chiến trường. cũng gợi được hào khí của chí trai
"thời loạn swn sàng chết giữa sa trường lấy da ngựa bọc thây. Chữ "về" nói được thái
độ nhẹ nhõm, ngạo nghễ của người tráng đi vào cái chết "Anh về đất" hình ảnh
đầy sức mạnh ngợi ca. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng, người lính Tây Tiến
trở về trong niềm chở che của đất mẹ quê hương, của đồng đội. Trở về với nơi đã sinh
dưỡng ra mình. Trước những cái chết cao cả địa bàn xa xôi hẻo nh sông
nhân vật chứng kiến và tiễn đưa.
Mở đầu bài thơ ta gặp ngay hìnhnh sông Mã, con sông ấy gắn liền với lịch sử đoàn
quân Tây Tiến. Sông chứng kiến mọi gian khổ, mọi chiến công giờ đây lại
chứng kiến sự hy sinh của người lính. Đoạn thơ kết thúc bằng khúc ca bi tráng của
sông Mã.
>'?@A2B
Dòng sông chứng nhân của một thời kỳ hào hùng, chứng kiến cái chết của
người tráng sĩ, gầm lên khúc độc hành bi phẫn, làm rung động cả một chốn hoang
sơ. Câu thơ cái không khí chiến trận của bản anh hùng ca thời cổ. Câu thơ đề cập
đến mất mát đau thương mà vẫn hùng tráng.
Bốn câu kết:
Bốn câu thơ kết thúc được viết như những dòng chữ ghi vào mộ chí. Những dòng
sông ấy cũng chính là lời thề của các chiến sĩ vệ quốc quân.
V991N"$=
"Mùa xuân" thể được dùng nhiều nghĩa: thời điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến
(mùa xuân 1947), mùa xuân của đất nước, mùa xuân (tuổi thanh xuân) của đời các
chiến sĩ.
Hình ảnh "Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi", "chẳng về xuôi" bỏ mình trên đường
hành quân "Hồn về Sầm Nứa": chí nguyện của các chiến sĩ là sang nước bạn hợp đồng
tác chiến với quân tình nguyện Lào chống thực dân Pháp, thực hiện l} tưởng đến
cùng. Bởi vậy dù đã ngã xuống trên đường hành quân hồn (tinh thần của các anh) vẫn
đi cùng với đồng đội, vẫn sống trong lòng đồng đội: Vang vọng âm hưởng văn tế của
Nguyễn Đình Chiểu: "Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc".
Bài văn mẫu 7
Nhắc đến kháng chiến chống Pháp, ta s~ nhớ ngay những người lính nông dân trong
Đồng Chí Chính Hữu: “Quê hương anh nước mặn đồng chua/ Làng tôi nghèo đất
cày lên sỏi đá”. cũng không thể không nhắc đến người lính Tây Tiến trong bài thơ
cùng tên của nhà thơ Quang Dũng. Bằng ngòi bút vừa hiện thực, vừa lãng mạn, Quang
Dũng đã dựng lên bức tượng đài bất tử về những người lính danh anh dũng,
kiên cường.
Tây Tiến sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp hiện thực lãng mạn, bởi vậy chân
dung người lính cũng được tác giả tái hiện tương tự như vậy. Những người lính Tây
Tiến không còn cái e dè thuở ban đầu như những người lính trong bài Đồng chí, mà đã
mang trong mình nét vừa hóm hỉnh, vừa hiên ngang, cũng rất đỗi tài hoa của
những người dân xuất thân từ tầng lớp trí thức.
Bài thơ được Quang Dũng mở đầu bằng nỗi nhớ chơi vơi, khắc khoải:
>'?@$"991(
!-5C!(-(
Ta từng biết đến nỗi nhớ tha thiết, bổi hổi “như đứng đống lửa, như ngồi đống than”
của những chàng trai gái đang yêu nhau trong ca dao,… nhưng ta lại chưa từng
thấy nỗi nhớ “chơi vơi”. Đó một nỗi nhớ thật đặc biệt, thật ấn tượng. Tuy chơi
với ấy nhưng cùng thâm trầm, sâu sắc, thấm đượm. cũng từ chính nỗi nhớ ấy,
Quang Dũng truy dòng hồi tưởng nhớ về những người đồng chí của mình.
Hình ảnh đầu tiên ông nhớ đến chính những đoàn quân hành quân trong màn
sương dày đặc:Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”. Một nét v~ thật hiện thực, thật
trần trụi về hành trình chiến đấu gian khổ của họ, họ không chỉ phải đối mặt với thiếu
thốn về vật chất, mà còn phải đối mặt với thiên nhiên, khí hậu khắc nghiệt. Nhưng
đằng sau đó cũng lại cho ta thấy tinh thần quật cường của những người lính này.
Chân dung người lính vô danh tiếp tục được khắc họa là một nét v~ hiện thực khác:
V,8@A', !W"
3XF,RH2
Trên đường hành quân dài ngày, người lính phải đối mặt với vàn khó khăn: địa
hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, thiên nhiên hoang dã, đầy nguy hiểm,… bởi vậy
không ít người đã phải bỏ mạng ở nơi rừng thiêng nước độc. Cách gọi anh bạn của tác
giả cũng đầy thân thương, gần gũi cũng trân trọng, xót thương. Cách nói giảm nói
tránh “anh bạn dãi dầu không bước nữa” khiến cho cái chết trở nên bớt bi thương hơn,
đồng thời cũng khiến cho tổng thể văn bản không nhuốm màu sắc bi lụy.
Sau những nét v~ thấp thoáng, nhòa nhạt phải đến tận khổ thơ thứ ba chân dung của
người lính Tây Tiến mới được phác họa rõ nét:
9912,'U4
J$"+W"N
Đây chính là hình ảnh trung tâm, phối ứng hòa hợp với vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên
cũng vẻ đẹp hào hùng của con người đó chính binh đoàn Tây Tiến kiên cường,
anh dũng. Họ những con người không nề hà, khó khăn, gian khổ, mang sức trẻ,
niềm tin, khao khát lên đường. Bởi vậy với căn bệnh sốt rét rừng họ không hề shãi
né tránh, cách nói thật chủ động: “không mọc tóc” khẳng định khí thế bản lĩnh của bản
thân. Màu xanh của da cũng như hòa với màu của rừng, đầy oai hùng, dữ dội. Họ
hiện lên thật oai phong, ngạo nghễ những đồng thời cũng vô cùng lãng mạn, hào hoa:
?GCBH",!
I(B+5(
Đây quả một thái cực hoàn toàn trái ngược, ta khó thể hình dung nổi lại tồn
tại song song hòa hợp đến thế trong người lính Tây Tiến. Trong câu thơ đầu, hình
ảnh người chiến sĩ hiện lên với hùng tâm tráng trí của kẻ làm trai: “Làm trai cho đáng
nên trai/ Xuống đông đông tĩnh, lên Đoài Đoài yên”. được thể hiện cái đôi mắt
trừng đầy cảnh giác, đầy căm phẫn với kẻ thù, thể hiện tưởng anh dũng, hào hùng,
thể hiện khát vọng vươn cao hơn, xa hơn. Nhưng câu thơ sau lại dịu dàng, mộng
biết mấy. Dáng kiều thơm, vừa ng hình, vừa mùi hương, thật thơ mộng
lãng mạn biết bao. Hình ảnh những người con gái đẹp Hà thành xuất hiện làm với bớt
cái khắc nghiệt của chiến tranh, tiếp thêm một nguồn sức mạnh mới cho người chiến
sĩ.
Ngay khổ thơ sau đó, Quang Dũng một lần nữa nhìn thẳng o hiện thực, hiện thực
chết chóc, đầy bi thương:
)*+, (-.$/
01 212$"
chiến tranh, môi trường khí hậu khắc nghiệt không ít chiến đã phải bỏ
mạng trên đường hành quân, những nấm mồ rải rác nơi biên cương lãnh l~o, xa xôi.
Câu thơ sử dụng hàng loạt từ Hán Việt: biên cương, viễn xứ tạo nên sự trang nghiêm,
tôn kính. câu thơ tiếp theo càng làm bật lên khí phách của người chiến sĩ, họ ra đi
chẳng tiếc khoảng thanh xuân đẹp đ~, tươi trẻ nhất của mình. Bởi lên đường họ đã
tìm thấy cho mình tưởng sống tươi đẹp: hi sinh sự độc lập, tự do của tổ quốc.
Cũng bởi tưởng đó, cái chết của họ cũng được tác giả tưởng hóa, trở nên hùng
tráng và thiêng liêng hơn:
<,"1"-52=
>'?@A2B_
Anh mang trên mình chiếc “áo bào” trở về với đất mẹ, trở về với khởi nguyên. Và tiễn
đưa họ là tiếng sông Mã gầm lên, vừa thể hiện sự xót thương, vừa là tiếng gầm của núi
sông cảm ơn những người con dũng cảm đã swn mình xả thân cho mảnh đất này.
Với sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực lãng mạn, chân dung những người lính
danh đã được Quang Dũng tạc lên cùng anh dũng, đẹp đ~. họ vừa cái ngang
tang, phí phách của một người anh hùng, nhưng cũng cùng lãng mạn hào hoa của
một kẻ đất Bắc. Chính họ, những con người danh ấy lên đường, cống hiến tuổi
trẻ, hi sinh bản thân để dành được độc lập cho tổ quốc, chính họ người đã làm nên
Đất Nước.
Bài văn mẫu 8
Hình ảnh người lính nói chung những người lính thời kỳ chống Pháp nói riêng từ
lâu đã đi vào văn chương như một nguồn thi cảm. Các nhà thơ viết về người lính với
tất cả niềm kiêu hãnh, tự hào. Giữa muôn vàn những tác phẩm như vậy, Tây Tiến
bài thơ có vị trí đặc biệt.
Tây Tiến một trong những bài thơ sớm nhất viết về người lính cách mạng, ra đời
ngay trong thời đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trở thành thi
phẩm xuất sắc của nền thơ Việt Nam từ sau năm 1945 cùng với hình tượng người lính
Tây Tiến. Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ
phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt - Lào đánh tiêu hao lực lượng quân
đội Pháp Thượng Lào miền Tây Bắc Việt Nam. Địa bàn đóng quân và hoạt động
của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình,
miền Tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa (Lào).
Về xuất thân, các chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều
học sinh, sinh viên. Mặc hoàn cảnh chiến đấu rất gian khổ, thiếu thốn về vật chất,
thuốc men với căn bệnh sốt rét hoành hành dữ dội nhưng những người lính Tây Tiến
vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Có thể nói những người lính Thủ đô
đã đi vào cuộc kháng chiến mang theo vẹn nguyên cái mộng mơ, lãng mạn, o hoa
của người con đất Hà Thành.
Bài thơ được hình thành từ một nỗi nhớ, nỗi nhớ da diết về những người đồng đội
những ngày tháng, những kỉ niệm không thể nào quên của chính tác giả với đoàn quân
Tây Tiến, gắn với vùng đất miền Tây hùng vĩ, hiểm trở thơ mộng. Nỗi nhớ ấy đã
đánh thức mọi ấn tượng , ức để kết tinh tập trung trong bức chân dung người lính
Tây Tiến.
Bằng bút pháp lãng mạn không thoát li hiện thực, bài thơ đã khắc họa sừng sững
bức tượng đài người lính trường tồn, bất tử mãi mãi với không gian, thời gian.
Trước hết, đó là nét gân guốc, lạ hóa trong ngoại hình của người lính Tây Tiến:
9912,'U4
J$"+W"N
Ta đã từng thấy một “Tiểu đội xe không kính” dỏm trong thơ Phạm Tiến Duật thì
nay lại thấy một “đoàn binh không mọc tóc” trong thơ Quang Dũng. Nhưng nét gân
guốc, lạ hóa trong ngoại hình của người lính Tây Tiến bắt nguồn từ chính hiện thực
đến từng chi tiết. Không mọc tóc hậu quả của những trận sốt rét rừng khủng khiếp,
rừng thiêng nước độc, thuốc men không có nền quân xanh màu lá cũng thực tế hiển
nhiên. Tố Hữu khi v~ chân dung anh vệ quốc quân trong bài cá nước cũng không quên
nhắc tới sức ảnh hưởng ghê gớm của căn bệnh quái ác đó:
3U'(
9+"-\
Nhưng ẩn sau ngoại hình y sức mạnh nội tâm tâm hồn, khí phách của những
người lính Tây Tiến:
?GCBH",!
I(B+5(
Nếu câu thơ thứ nhất nhấn mạnh chữ mộng thì câu thơ thứ hai nhấn mạnh chữ “Mơ”.
Câu thơ mang vẹn nguyên cả ước vọng điểm đến cuối cùng của đời lính Tây Tiến.
Chữ “trừng” được s dụng khá độc đáo. Người đọc cảm tưởng như mọi ước
khao khát tận đáy lòng đã trào dâng đong đầy trong ánh mắt người lính. Tứ thơ ấy
gợi nhắc đến hình ảnh thơ quen thuộc:
W2H=
bc,!G _
OI= !m.IY9P
Thì ra bao giờ cũng vậy, đích đến cuối cùng của những người lính luôn hạnh phúc.
Nỗi nhớ của họ hướng cả về “dáng kiều thơm”, những bóng hình giai nhân yêu kiều,
thướt tha, thanh lịch nào đó ngoài cuộc đời. Họ ra đi chiến đấu tự do, độc lập,
nhưng trước hết cuộc sống tương lai hạnh phúc họ khao khát. Chính vậy
“dáng kiều thơm” trở thành điểm tựa, niềm hi vọng để tiếp thêm cho họ sức mạnh
để chiến đấu và chiến thắng.
Những người lính Tây Tiến sống anh dũng hi sinh cũng anh hùng. Quang Dũng
không tránh hiện thực khắc nghiệt nhất, đau thương nhất, tàn nhẫn nhất của
chiến tranh đó là sự hi sinh:
V,8@A', !W"
3XF,RH2f
m)*+, (-.$/
01 212$"f
<,"1"-52=
>'?@A2B_
Ba lần Quang Dũng nhắc tới sự hy sinh, nhưng lần nào cũng hình ảnh ẩn dụ để
tránh đi từ “chết”. Dường như khi người lính Tây Tiến ngã xuống chỉ khi anh tạm
nghỉ chân trước cuộc đời. Cái chết không đồng nghĩa với ngừng chiến đấu vì tâm hồn,
vì ước nguyện của anh s~ mãi trường tồn với thời gian. Anh ngã xuống nhưng vẫn kịp
trao ngọn lửa tuổi trẻ cho những đồng đội tiếp tục con đường cách mạng vinh quang.
Sự hi sinh của các anh làm người đọc không khỏi nghẹn ngào: “Rải rác biên cương
mồ viễn xứ”. Chữ “rải rác” được đảo lên đầu câu, nhấn mạnh cho sự quạnh qu~, lạnh
l~o, hoang vắng gợi cảm giác xót xa đau đớn nhưng đôi cánh của tưởng quên mình
Tổ quốc“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” đã xoa dịu nỗi đau làm sáng lên vẻ
đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến.
l~ hình tượng người lính Tây Tiến đã trở thành bất tử với muôn đời. Dòng lịch sử
có thể đổi thay nhưng mọi thế hệ sau vẫn gợi nhắc đến các anh như hình tượng đẹp đ~
nhất. Qua dòng hồi tưởng của Quang Dũng, những chiến sĩ Tây Tiến hiện lên trong sự
đối mặt với khó khăn, gian khổ, hi sinh nhưng lúc nào cũng lạc quan phơi phới yêu
đời. Với âm hưởng thơ lúc dữ dội, khi sôi nổi, lúc lại vang vọng, trầm lắng, bài thơ đã
dẫn hồn người đọc trở về một thời quá khứ xưa, để cùng lắng cảm trong nỗi nhớ
thương da diết của Quang Dũng.
Bài văn mẫu 9
Quang Dũng một người nghệ đa tài, ông sáng tác trên nhiều mảng nghệ thuật
khác nhau: Viết văn, làm thơ, v~ tranh, soạn nhạc, nhưng thành công hơn cả
những sáng tác thơ ca. Tên tuổi của ông được khẳng định với bài thơ Tây Tiến. Tác
phẩm này đã cho người đọc thấy hình ảnh một người lính vừa lãng mạn, hào hoa
cũng vô cùng kiên trung, dũng cảm. Đây chính là điểm đặc biệt tạo nên sự thành công
cho tác phẩm này.
Với vẻ đẹp lãng mạn o hoa, người lính Tây Tiến được tác giả Quang Dũng viết
bằng bút pháp lãng mạn. Ở họ, trước hết mang vẻ đẹp hào hoa, hào hùng. Họ là những
người lính xuất thân từ tầng lớp trí thức tiểu sản, đến vùng đất biên cương phía tây
của Tổ quốc để chiến đấu. hiện thực khắc nghiệt, nhưng không thể mài mòn tâm
hồn lãng mạn, yêu đời vốn của họ. Sự hào hoa, lãng mạn của họ được thể hiện
trong cách cảm nhận núi rừng thiên nhiên. Một thiên nhiên thật dữ dội, hiểm
trở:“Dốc lên khúc khủy, dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây súng ngửi trời”. Nhưng đó
cũng là một thiên nhiên đầy lãng mạn qua cảm quan của người lính:
9'E !F"22 "_
Thiên nhiên Tây Bắc được cảm nhận một cách cùng độc đáo, vừa hùng vĩ, hiểm
nguy mà cũng đầy tươi tắn, nên thơ. Hình ảnh những bông hoa trôi theo dòng nước
như một nét v~ khác, làm cân bằng bức tranh nơi đây, cũng cân bằng tâm trạng của
những người lính.
Trong hành trình chiến đấu đầy gian khổ, không tránh khỏi những hi sinh, nhưng
những người lính vẫn mang trong mình niềm tin vào tương lai từ những chuyển biến
tế vi nhất của hiện thực. Họ hạnh phúc, sung sướng khi ngửi thấy hương nếp hoa bừng
lên, họ như được sống những ngày tháng ở quê hương:
?"0N"(1K$'
Họ nao lòng, say sưa trong điệu nhảy man điệu của những người con gái Tây Bắc:
"8,CB2"
QY"$+Z,"
Q["2\#=K
8-5L0S$(
Đây có l~ là những giây phút nghỉ ngơi hiếm hoi của những người lính trong quá trình
hành quân. Họ ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của những người thiếu nữ nơi núi rừng, vẻ đẹp
vừa có cái hoang dại, cũng vô cùng tình tứ. Hòa cùng tiếng khèn man điệu, những
thiếu nữ e ấp, đã thực sự nhà thơ say xưa, kinh ngạc. sự lãng mạn của người lính
còn thể hiện trong giấc mơ gửi về quê hương:
?GCBH",!
I(B+5(
Nhắc đến dáng kiều thơm hắn chúng ta s~ nghĩ ngay đến những người con gái
thành thướt tha trong tà áo dài trắng. Nó không hề thể hiện cái buồn rớt, mộng rớt của
người trí thức tiểu sản, hình ảnh người thiếu nữ kia như một liều thuốc giúp họ
thêm tinh thần, động lực, bảo vệ biên giới: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”
họ luôn trong tư thế swn sàng chiến đấu để bảo quê hương, Tổ quốc.
Không chỉ hiện lên với vẻ đẹp lãng mạn, người lính còn hiện lên với nét v~ chân thực,
hình tượng của họ trở nên gân guốc, rắn rỏi hơn bao giờ hết. Rừng núi hoang vu, hiểm
trở không ít người đã bỏ mạng nơi chiến trường: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/
gục lên súng bỏ quên đời”. Những người còn kiên cường đi tiếp quả những
người anh hùng. Nhưng họ vẫn bị rừng thiêng nước độc dày vò đến thảm thương:
9912,'U4
J$"+W"N
Đây chính hiện thực hết sức khốc liệt người lính phải đối mặt. Không mọc tóc,
nước da xanh như tàu lá do những cơn sốt rét rừng, chúng làm cho người lính tùy tụy,
bị bệnh tật hành hạ. Nhiều người hi sinh không phải trên sa trường hi sinh chính
bởi rừng thiêng nước độc. Nhưng không thế họ đánh mất vẻ uy nghiêm của
mình: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”. Họ vẫn mang trong mình vẻ oai phong,
đôi mắt luôn cảnh giác, swn sàng chiến đấu bất cứ khi nào giặc xuất hiện.
)*+, (-.$/D
>'?@A2B
Người lính Tây Tiến hi sinh cả tuổi thanh xuân, chiến đấu bình yên của Tổ quốc.
Khi họ hi sinh vẫn ánh lên tinh thần quật cường, là áo bào, là về đất,tiếng sông Mã
gầm lên đưa những người chiến quả cảm về với đất mẹ. Về với đất mẹ chính để
anh được sống mãi, trường tồn với non sông, đất nước. Đoạn thơ bi không lụy,
nó là chất bi tráng, hào hùng, là nét hiên ngang, dũng cảm của những người lính.
Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng đã đem đến cho bạn đọc một hình ảnh người lính
thật khác. Kết hợp linh hoạt, hài hòa giữa chất lãng mạn hiện thực người lính hiện
lên vừa mang trong mình cái hào hoa, phong nhãn nhưng đồng thời toát lên sự anh
hùng, dũng cảm, những người con mang cả tuổi thanh xuân cống hiến cho đất nước.
Bài văn mẫu 10
Sự nghiệp của Quang Dũng không phong phú, đồ sộ như nhiều nhà thơ khác, nhưng
mỗi tác phẩm ông đ lại đều khắc dấu ấn đậm sâu trong lòng bạn đọc. Trong sự
nghiệp sáng tác của mình, nổi bật nhất tác phẩm Tây Tiến. Qua những vần thơ đầy
tinh tế cũng cùng chân thực, ông đã tái hiện thành công chân dung người lính,
binh đoàn Tây Tiến.
Tây Tiến được sáng tác năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, sau khi Quang Dũng đã rời
binh đoàn Tây Tiến để nhận nhiệm vụ khác. Mặc đã rời binh đoàn nhưng nỗi nhớ,
tình yêu với binh đoàn vẫn luôn tha thiết, đã giúp ông kết tinh nên tác phẩm nghệ
thuật này. Bởi vậy, trong tác phẩm cảm xúc chủ đạo là nỗi nhớ tha thiết, sâu đậm.
Trong phần đầu của tác phẩm, Quang Dũng đã tái hiện một thiên nhiên vừa hoang dã,
ẩn vừa nên thơ trữ tình thấp thoáng trong đó ta cũng thấy dáng hình binh đoàn
Tây Tiến: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Câu thơ
tái hiện chân thực cái chết của người lính trên đường hành quân, nhưng cách nói về
cái chết của Quang Dũng rất đặc biệt. Ông diễn tả cái chết bằng hình ảnh “không bước
nữa”, “bỏ quên đời” đó vừa cách nói giảm nói tránh làm dịu bớt cảm giác đau
thương mất mát, nhưng quan trọng hơn cách nói như vậy tạo nên giọng thơn guốc,
rắn rỏi, ngang tàng. Không phải người lính không nhìn thấy những khó khăn nhưng họ
dám chấp nhận đối diện với hiện thực. Bởi vậy, khắc họa những khó khăn gian khổ
cũng là cách Quang Dũng tạo thử thách để nhận ra những phẩm chất đẹp đ~ của người
lính.
Nếu như ở hai phần thơ đầu tiên mới chỉ là những nét v~ hết sức ít ỏi về người lính, thì
sang phần thứ ba, chân dung của họ mới thực sự được tái hiện chân thực, rõ nét.
9912,'U4
J$"+W"N
Hai u thơ đầu tiên đã chạm khắc nổi bật ngoại hình của người lính Tây Tiến. Câu
thơ là sự phản ánh hết sức chân thực, những người lính không mọc tóc, người gầy yếu
xanh xao do bệnh sốt rét rừng gây ra, cùng với sinh hoạt còn nhiều thiếu thốn, khó
khăn, cực khổ, chính những yếu tố đó đã khiến người lính vẻ bề ngoài thật khác
thường. Quang Dũng không v~ hiện thực, ông phản ánh như đúng những
diễn ra. Nhưng cái ông muốn nhấn mạnh không phải những gian khổ, khó khăn
đó chỉ những thử thách để thấy được bản lĩnh, sự phi thường của những người
lính Tây Tiến. Bởi vậy, tác giả đã xây dựng hình ảnh đối lập với những khó khăn ấy
chính là hình ảnh “dữ oai hùm” - thần thái oai phong, dữ dội và vô cùng anh dũng. Kết
hợp với kiểu câu chủ động “không mọc tóc” tạo nên hơi thở gân guốc, rắn rỏi, bản
lĩnh hiên ngang, swn sàng vượt lên mọi khó khăn, gian khổ.
Đằng sau ngoại hình gai góc một tâm hồn đầy mộng mơ, lãng mạn: “Mắt trừng gửi
mộng qua biên giới/ Đêm Nội ng kiều thơm”. Câu thơ thứ nhất đã nói lên
khát vọng muôn đời của biết bao thế hệ, chính giết giặc lập công. Ánh mắt ấy vừa
chất chứa hờn căm với giặc cướp nước, vừa hừng hực khí thế chiến đấu, swn sàng
vùng lên chống lại kẻ thù. Nhưng bằng s nhạy cảm, tinh tế của mình, Quang Dũng
còn phát hiện được vẻ đẹp bề sâu, bề sau của người lính Tây Tiến, câu thơ thứ hai
nhiều vần bằng, nhịp thơ trở nên trầm xuống, nhẹ nhàng hơn. Chữ “mơ” gói trong
mình biết bao } nghĩa, thể nỗi nhớ nhà da diết khắc khoải, cũng thể những
ước mơ, khát vọng của người lính Tây Tiến. Bên cạnh nhiệm vụ lớn lao, chiến đấu
Tổ quốc, người lính vẫn dành một góc nhỏ trong tâm hồn mình cho quê hương, gia
đình. Giấc của người lính đã lộ thế giới tâm hồn đầy lãng mạn, mộng mơ. Họ
khác với những người lính nông dân, nhớ về những điều dung dị như: “Ruộng nương
anh để bạn thân cày/ Gian nhà không mặc kệ gió lung lay/ Giếng nước gốc đa nhớ
người ra lính” (Đồng chí – Chính Hữu). Người lính xuất thân từ trí thức tiểu tư sản lại
về những “dáng kiều thơm” dáng vẻ tha thướt của thiếu nữ thành. Chính nỗi
nhớ ấy đã tiếp thêm động lực, sức mạnh chiến đấu trong họ.
Nhưng nổi bật và đẹp đ~ nhất là vẻ đẹp trong l} tưởng chiến đấu của họ:
)*+, (-.$/
01 212$"
Sử dụng bút pháp nhất quán từ đầu tác phẩm, đến đây tiếp tục những khắc họa hết
sức chân thực về cái chết của người lính. Hình ảnh “rải rác biên cương” v~ ra không
gian xa xôi, biên viễn nơi biên ải, đó biết bao chiến hi sinh, phải để lại thân xác
nơi đất khách quê người. l~ đây câu thơ hiện thực trần trụi, đau đớn xót xa
nhất trong toàn bộ tác phẩm của ông. Nhưng không thế câu thơ trở nên bi lụy,
ngay sau đó, ông đã khẳng định “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Đời người chỉ
một lần “xanh” một lần tuổi trẻ đẹp đ~, nhưng họ không hề tiếc nuối, họ swn sàng
hi sinh vì mục đích cao cả, bởi nếu “ai cũng tiếc thì còn chi tổ quốc” (Thanh Thảo).
Hai câu thơ đã khắc họa đầy bi tráng về cái chết của người lính Tây Tiến:
<,"1"-52=
>'?@A2B_
Cuộc sống chiến đấu nhiều khó khăn, thiếu thốn, khi các anh hi sinh, ngay cả những
nghi thức tang lễ đơn giản nhất cũng không được cử hành, thay vào đó chỉ là manh áo
bọc lấy thân rồi trở về với đất mẹ. Bằng tất cả sự yêu thương, cảm thông, trân trọng
Quang Dũng đã nâng n thành chiếc áo bào, khiến i chết trở nên trang trọng
hơn. Cùng với đósự sử dụng mật độ dày đặc các từ Hán Việt tạo nên sắc thái trang
trọng, cổ kính và biến cái chết của người lính Tây Tiến vốn là sự hữu hạn trở thành sự
sống hạn, bất tử. Hai chữ "về đất" đã giảm bớt sự đau buồn, cái chết trở nên nhẹ
nhàng, thanh thản hơn.cuối cùng là khúc tráng ca của sông đưa các anh trở về
với đất mẹ. Động từ “gầm” vừa diễn tả nỗi đau đớn tột cùng chứa đựng trong đó cả sự
uất hận, nghẹn ngào. Nhưng có bi mà không hề lụy, bởi nó không thê lương mà là một
khúc tráng ca độc hành tiễn người lính về với đất mẹ thiên nhiên.
Với lớp ngôn từ tinh tế, chan chứa tình cảm cảm xúc, Quang Dũng đã tái hiện chân
thực vẻ đẹp của người lính Tây Tiến. Họ hiện lên với những nét v~ vừa chân thực, vừa
lãng mạn, i hoa. Nhưng nổi bật hơn cả lòng yêu nước, sự anh dũng swn sàng hi
sinh cho độc lập của đất nước. Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến cũng chính vẻ đẹp
chung của những người lính trong thời kì kháng chiến chống Mỹ oanh liệt, hào hùng.
Bài văn mẫu 11
Mỗi lần nhắc tới nhà thơ Quang Dũng mọi thế hệ độc giả yêu thơ lại nhớ tới một
hồn thơ phóng khoáng, lãng mạn tài hoa. “Tây Tiến” một tác phẩm đặc sắc cho
phong cách thơ của nhà thơ Quang Dũng. Thông qua tác phẩm tác giả đã khắc họa
thành công hình tượng người lính Tây Tiến một thời và mãi mãi với vẻ đẹp hùng tráng
đầy ấn tượng.
`9912,'U4
J$"+W"N
?GCBH",!
I(B+5(
)*+, (-.$/
01 212$"
<,"1"-52=
>'?@A2Ba
Đoàn binh Tây Tiến được thành lập đầu năm 1947 nhiệm vụ phối hợp với bộ đội
Lào, bảo vệ biên giới Việt Lào đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng
Lào cũng như miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn đóng quân hoạt động của
đoàn quân Tây Tiến khá rộng bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền tây
Thanh Hóa cả Sầm Nưa (Lào). Chiến Tây Tiến phần đông thanh niên Hà Nội,
trong đó nhiều học sinh, sinh viên, chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ,
vô cùng thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội.
Người lính Tây Tiến hiện ra với một hình dáng đặc biệt lạ lùng khiến người đọc
cảm thấy thương xót:
`9912,'U4
J$"+W"Na
Quang Dũng miêu tả sự thật về đời sống chiến đấu gian khổ của người lính Tây Tiến
vừa thiếu ăn vừa phải đối mặt với căn bệnh sốt rét rừng. Điều này làm cho diện mạo
của các anh trở nên khác lạ "không mọc tóc”, da “xanh màu lá”. Với nét v~ “không
mọc tóc” của tác giả Quang Dũng chúng ta thể hiểu theo hai cách. Người lính Tây
Tiến cạo trọc tóc để thuận tiện trong chiến đấu, cũng thể hiểu đó hậu quả của
những trận sốt rét rừng đã hành hạ họ. Với nét v~ “xanh màu lá” cũng hai cách
hiểu. Xanh là sắc xanh của lá ngụy trang hay làn da xanh xao, ốm yếu của người chiến
sỹ. hiểu theo cách nào thì điều tác giả muốn gửi gắm chính những khó khăn,
gian khổ mà đồng đội mình đã trải qua:
`V-!',1C(!8
> -A+ !'a
Với nhà thơ Quang Dũng vẫn hình dáng không mọc tóc, xanh màu lá ấy nhưng câu
thơ còn gợi lên cái khẩu khí ngang tàn, cái khí thế của người lính. Nghệ thuật đảo trật
tự từ “không mọc tóc” cho thấy tư thế ngạo nghễ của những chàng trai Tây Tiến. Cách
nói “dữ oai hùm” tạo cho người lính dáng vẻ oai phong như con hổ chốn rừng thiêng
để chế ngự sự khắc nghiệt của thiên nhiên, của hoàn cảnh.
`?GCBH",!
I(B+5(a
Câu thơ đầu tiên đề cập đến tưởng sống chiến đấu của người lính Tây Tiến.
tưởngy được gửi gắm qua ánh “mắt trừng” giận dữ, nảy lửa làm kẻ thù phải xóa bỏ
đi tham vọng, họ muốn lập công giết chết lũ giặc xâm lược. Song hành cùng lòng căm
thù chính nỗi nhớ quê hương, gia đình, người thân đặc biệt nỗi nhớ “dáng kiều
thơm”. Dáng kiều thơm ai vậy? thể hình bóng Nội trong nỗi nhớ người
lính: vàng son, thanh lịch, hoa lệ. Cũng có thể hiểu đó là người con gái thanh lịch, yêu
kiều. Dáng kiều thơm gợi tả cả vóc dáng, hương sắc của người thiếu nữ.
Bốn câu thơ cuối đã lột tả một cách trần trụi về sự thật tàn khốc của chiến tranh.
Nhưng với cảm hứng lãng mạn bút pháp bi tráng tác giả đã tái hiện lại cái chết ấy
một cách độc đáo, khác thường mang màu sắc bi tráng:
`)*+, (-.$/
01 212$"a
Trên con đường hành quân các chiến đã gặp rất nhiều nấm mồ của những người
đồng đội nằm lại ven đường hành quân, các anh nằm lại đó đơn, côi cút, lạnh l~o.
Điều đặc sắc đây câu thơ của Quang Dũng không gây cảm giác bi lụy để lại
trong lòng người đọc cảm giác bi tráng, oai hùng. Tác giả dùng một loạt các từ n
Việt: "biên cương, viễn xứ" tạo sắc thái trang trọng, thiêng liêng, nâng tầm cái chết
của người lính. Sức mạnh thiêng liêng giúp người lính vững bước trên con đường
hành quân chính quan niệm tưởng về l~ sống cái chết. Họ luôn tâm niệm
“chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. “Đời xanh” hình ảnh ẩn dụ chỉ tuổi thanh
xuân của các chàng trai. Họ cống hiến cho quê hương cho đất nước cả tuổi thanh xuân
của mình.
Khi xông pha chiến trường không ai nói trước được sự sống và cái chết:
`<,"1"-52=
>'?@A2Ba
Một sự thật đau xót hiện ra khiến con tim chúng ta tan nát, khi người chiến nằm
xuống manh chiếu bọc thây cũng không có. Với cái nhìn thương yêu, trân trọng,
Quang Dũng đã khâm liệm đồng đội mình trong tấm chiến o sang trọng của ngôn
từ. Họ đã “về đất”, đã trở về với cát bụi. Đất mẹ dang rộng vòng tay đón các anh vào
thế giới vĩnh hằng của cha ông. Đất êm đềm đón nhận người lính còn sông hùng
vĩ cất lên âm hưởng hùng tráng đưa các anh vào thế giới vĩnh hằng.
Những vần thơ của nhà thơ Quang Dũng đã khắc họa phần nào cuộc sống thiếu thốn
của đoàn quân Tây Tiến. Đối với họ cái chết không phải cái đáng sợ, với họ được
cống hiến tuổi xuân cho quê hương cho đất nước một niềm hạnh phúc. Tác giả đã
xây dựng thành công bức tượng đài bất tử về người lính một thời và mãi mãi.
Bài văn mẫu 12
“Tây Tiến” một khúc thơ hội tụ hết những cung bậc cảm xúc khác nhau, từ những vui
tươi rộn cho đến bi tráng hào hùng hay một phút đễnh mông lung. “Tây Tiến”
khắc sâu trong lòng người những vị khó phai, tựa như những làn ba thu mát dịu
vừa khiến lòng người sảng khoái vừa mang đến sự lạnh l~o tái tê.
“Tây Tiến” đó là những nét họa tinh tế, những nốt nhạc trầm vang mà Quang Dũng đã
cẩn thận từng chút sáng tạo nên, v~ đến cái cao nhất, sâu nhất, gảy phím đàn cao vút
rồi trầm hùng. “Tây Tiến” đó không phải chỉ miền cương thổ đầy cát bụi, đấy
không chỉ là một nỗi nhớ miên man, mà đấy còn là vẻ đẹp, là tượng đài của con người,
của những người lính trẻ trung, của những chàng thi sĩ tài hoa dưới lớp áo xanh rì.
Bắt đầu trang thơ cách mạng, mỗi nhà thơ một phong cách khác nhau, tựa như
Chính Hữu đã gợi lên “Đồng chí” của mình bằng hình ảnh miền quê nghèo túng, hay
Phạm Tiến Duật với hình ảnh những chiếc xe không kính. Còn với Quang Dũng là gì?
Đó không phải một miền quê một miền đất người đã đi qua, không phải
một lời trần thuật đơn thuần một tiếng gọi. Tiếng gọi thân thương, tiếng gọi
nhung nhớ, tiếng gọi đã đưa người lính trở thành một biểu tượng của nỗi nhớ thương:
>'?@$"#991(6
!-5C!(-(
Khúc tráng ca dần dần được mở ra, trong âm của tiếng lòng. “Tây Tiến ơi!” ba
tiếng vang lên với tất cả những tha thiết nhất, dạt dào nhất cũng đớn đau nhất,
lẩn khuất vào lòng người rung lên những xúc cảm tinh tế. “Tây Tiến” đó chỉ đơn
thuần tên một chiến dịch, tên một đơn vị nhưng lại được cất lên như tiếng gọi tới
người mình yêu thương. Cách gọi ấy đầy đam mê, cùng nuối tiếc, tiếng gọi như vút
dài trong suốt chiều dài của con sông Mã, từ một âm thanh tạo nên một hình ảnh thơ
đậm chất tạo hình. Chúng ta luôn nghĩ rằng, những con người của chiến trường, dưới
tầng tầng bom đạn, hẳn s~ cùng cứng rắn, nhưng ngay với câu thơ đầu tiên, Quang
Dũng đã cho chúng ta thấy sự mềm yếu rất chân thật trong tâm hồn người lính. Chúng
ta như nhìn thấy hình ảnh một con người, đứng bên dòng sông, với đôi mắt cuộn sóng
đỏ, run rẩy thốt lên lời chia biệt cũng lời nhớ nhung. Người lính nghe trong
lòng một nỗi “chơi vơi”, một khoảng trống không đắp được, một con tim đói
khát nhưng không thể tìm được nguồn thỏa mãn. Nỗi nhớ sâu đến sắc, nỗi nhớ khôn
nguôi, nỗi nhớ tầng tầng giăng mắc khắp núi rừng Tây Bắc. Những hồi ức cứ chốc
chốc hiện lên chan hòa trên “đường lên thăm thẳm mùa chia phôi” trong cái “Tây Tiến
mùa xuân ấy”. Từng lời thơ trôi nổi, bồng bềnh, hòa lẫn giữa cái bi thương cùng quyết
liệt, giữa sự ám ảnh vẫn thật mộng mơ,m hồn con người hẳn phải rất tinh tế
nhạy cảm, trái tim chiến không chai sạn như người ta vẫn nghĩ, cháy bỏng tình
yêu, dạt dào nhung nhớ, tràn đầy những cung bậc cảm xúc khác nhau s~ rung lên
mãnh liệt mỗi khi tìm được nguồn cảm hứng. Nỗi nhớ của người lính, đó nỗi nhớ
máu thịt, nỗi nhớ không thể tách rời khỏi thân thể, tựa như là một phần của trái tim,
bản năng vốn có, họ thể không tiếc thân mình, xông pha chiến tuyến, cười vang
trước những gian nan nhưng cũng dễ dàng rơi lệ trong giây phút biệt ly. Những người
chiến sĩ cùng nỗi nhớ mà Quang Dũng tạo nên không phải là những gì cao cả, cao qu}
xa vời, đó không phải một bức tượng uy nghiêm, hùng tráng, đó là sgiản dị chân
thật trong tâm hồn, khiến cho chúng ta tựa như đến gần với những còn người “sống
mãi tuổi 20″ kia.
Người lính của Quang Dũng không đơn giản chỉ được thể hiện trong những nhung
nhớ mông lung, giống như chính ngòi bút của ông kết hợp nhuần nhuyễn giữa lối
miêu tả thực tế cùng lãng mạng. Những người chiến cùng chí khí còn được bộc lộ
nhiều hơn trong cuộc hành quân của họ. Nhắc đến hai từ “trường chinh” người ta liền
nghĩ đến một cái đó thật dài dặc, thật gian nan tràn đầy nguy hiểm. Quả thực
như vậy, những con đường hành quân cực nhọc của người lính Tây Tiến cứ nối tiếp
hiện ra, bắt đầu từ một “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” , một chốn “Lam Sơn
chướng khí”, nếu như khi nói về sương người ta thường nghĩ đến vẻ đẹp lãng mạng,
bồng bềnh như trong Việt Bắc của Tố Hữu có câu:
`!C,*4N (
>!",1K"  (2-5_a
Nhưng với Quang Dũng cũng như binh đoàn Tây Tiến thì trái ngược hẳn, sương trước
hết đó những màn sương dày đặc “lấp” người, một thử thách thực sựnh cho
con người mà chỉ những ai có bản lĩnh thật sự mới dám dương đầu. Nhưng trước hoàn
cảnh đó, thái độ của người lính ra sao, thật lạ kỳ, họ không hề s hãi, họ dường như
coi “sương lấp” kia trở thành những “bản khói cùng sương” thơ mộng vậy, người
chiến đối mặt với gian nguy với một tâm hồn lạc quan đầy sức trẻ, với cái gọi
“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Mới câu thơ trên ta còn bị cảm giác rợn ngợp
xâm chiếm nhưng ngay câu thơ sau đã chao đảo trong vẻ đẹp thần của đêm núi
rừng. “Hoa về” đây không đơn giản những đóa hoa thiên nhiên, không phải dáng
hình thiếu nữ, đó sự thăng hoa trong tâm hồn, những xúc cảm căng tràn, ước
ao trải nghiệm trước gian nguy. Ngòi bút Quang Dũng không hề che đậy thực tiễn
khốc liệt cũng giống như người lính hứng khởi muốn thử sức mình trước những hiểm
nguy. Họ đối mặt khó khăn với một niềm say mê, thích thú tới man dại, dường như
chính những gian khổ ấy đã khiến cho bọn họ bừng giấc khỏi những mệt mỏi trên
đường. còn hơn thế nữa, sương khói kia chỉ mới khúc dạo đầu cho một bản
trường ca bất tận, tất cả thử thách còn đang chờ đợi phía trước mà ấn tượng nhất chính
là địa hình núi cao vực sâu đầy hiểm trở của Tây Bắc:
`#Sa
Từ “dốc” được điệp lại nhiều lần trong câu thơ kết với với những tính từ mạnh như
“khúc khuỷu” và “thăm thẳm” đã v~ nên cả một không giang hùng vĩ và oai linh. Dốc
đã lên cao thì s~ lên cao vút đã xuống sâu thì sâu đến cùng. Hai tiếng “khúc
khuỷu” còn làm cho ta liên tưởng tới một con đường mấp không hề bằng phẳng
như người Tây Bắc thường câu “Mỗi bước đi đầu gối chạm cằm” để hình dung về
những con dốc cheo leo hiểm trở. Những người lính đã phải vật lộn với những đèo cao
dốc đứng y trong suốt quãng đường hành quân qua miền biên cương Tổ quốc.
Nhưng đó mới chỉ những gian khổ ta thể hình dung, trên thực tế còn những
hiểm nguy mà ta khó lòng tưởng tượng ra nổi.
`a
đây một hình tượng rất đặc biệt “cồn mây” không phải “cồn đất” hay “cồn cỏ”
mà là “cồn mây”, đây cũng càng không phải một sự tránh lập lại } thơ, trước có núi đá
thì nay mây trời, đây một thử thách thật sự của người lính. Có l~ nhiều người s~
thấy hình tượng này quá mứcng mạng, nhưng không, đó cũng chính một dụng }
của Quang Dũng, nếu như trong cả bài thơ, tác giả đã tinh tế dùng những hình ảnh đối
lập giữa hiện thực khó khăn cảnh sắc mộng mơ, thì đây } thơ hiện thực đã được
chia ra giữa hình ảnh thực “dốc núi” huyễn thực “cồn mây”. Dường như “heo hút
cồn mây” kia đã trở thành một thử thách chỉ dành cho người lính, một món quà rất đặc
biệt Tây Bắc dành tặng những chiến áo xanh để thử chí nam nhi. Ngoài ra, hình
ảnh thơ dường như lạc lõng này còn sự nhấn mạnh, khiến chúng ta thấy những
gian nguy trong quãng đường hành quân của người lính rất đa dạng, nhiều khi chút
khó khăn vụn vặt, nhưng cũng khi thử thách khôn cùng. Tuy nhiên, dẫu khó
khăn đến mức nào, gian khổ ra sao thì đoàn binh Tây Tiến vẫn giữ nguyên cho mình
một thái độ lạc quan còn thêm phần tếu táo khi thốt lên “súng ngửi trời”. Đây
một cách nói đậm chất lính, những chàng bộ đội trẻ lại dùng từ “ngửi”, một giác quan
tầm thường để cảm nhận chốn linh thiêng. Điều này cho thấy sự lạc quan cùng hào
sảng của người lính trẻ. Họ đứng trước gian khổ nhưng chí không sờn, lòng không nao
núng, họ vẫn cười đùa coi thường mọi thứ khi những lời cười cợt ấy chỉ
một cách để họ quên đi gian nguy. Họ đã coi mình trở thành vẻ đẹp trung tâm của tạo
hóa, tiếng cười vang lên để xua đi khó khăn, biến cực nhọc thành thứ tầm thường. Để
rồi sau một chặng hành quân dài dặc họ thể sảng khoái nhìn lại những thành quả
mình đạt được:
` !" !$a
“Ngàn thước”, “ngàn thước” lên cao xuống thấp, đó chính những chặng đường
người chiến đi qua. Họ dường như đã chỉ thẳng vào gian nan khảng khái nói
rằng, dẫu có bao nhiêu khó khăn gian khổ nữa họ vẫn có thể vượt qua, chắc chắn vượt
qua nhất định s~ vượt qua. Vóc dáng của người lính bỗng chốc trở nên cao lớn,
không còn những cái mềm mại của một hồi nhung nhớ, không tếu táo như những
phút vui đùa, nghiêm nghị oai nghiêm khiến người ta cảm phục. Đối với họ thử
thách thực sự không phải là chút sóng lòng sông, không phải ít nhiều trắc trở núi rừng
phải được đo bằng “ngàn thước”, chỉ những “ngàn thước” mới thể được
coi thử thách đối với họ. Hiện thực gian khổ thế nhưng } chí của người lính vẫn
vút cao, sự mạnh m~, rắn rỏi như ng dần lên sau từng thử thách. Họ không cực
nhọc nhụt chí, cực nhọc cho họ thêm chướng, cùng sức mạnh để tiếp tục chặng
đường bảo vệ nước nhà.
Chí khí ngút trời, lòng quân vững chãi, nhưng dẫu nói đi nữa vẫn những
chàng trai trẻ của đất thành đầy hào hoa lãng mạng. Suốt một dọc hành quân
gian lao, đoàn binh Tây Tiến đã thể hiện con người chiến của mình, thì đến khi đôi
chân đã mỏi, dừng lại chốn bản làng thì tất cả nhưng phong hoa, thi sĩ bị kìm nén bao
lâu liền bất chợt tuôn trào:
`"8,CB2"
QY"$+Z,"n
Q["2\=K
8-5-S$(a
Cả khung cảnh rực rỡ sắc hoa, lấp lánh ánh sáng, quay cuồng trong những khúc nhạc
tưng bừng. Những chàng trai cởi bỏ lớp áo xanh, buông lơi cây súng, trở về với chính
con người vốn của mình. Tất cả như ấm dần lên, tất cả như ngả nghiêng ngây
nhất trong ánh sáng lửa đuốc, trong điệu man của khèn của nhạc. Như hoa, tựa mộng,
những phút giây ngập tràn cảm hứng, những chiếc lán cũng thành doanh trại oai
nghiêm, đêm lửa đuốc thành “hội đuốc hoa” tráng lệ. Giờ phút này họ như quên đi hết
tất thảy gian nguy, đứng đón gió nghe tiếng khèn vang, bên ngọn lửa say ca vũ.
Nếu như trong “Đồng Chí” của Chính Hữu, người lính hiện lên thật đơn thuần giản dị
với “Yêu nhau tay nắm lấy bàn tay” hay “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” thì
những người lính của Tây Tiến lại trái ngược hoàn toàn. Họ tếu táo, nghịch ngợm,
thỉnh thoảng để lại lời trêu ghẹo “Kìa em, xiêm áo tự bao giờ”. Cả không gian vang
vọng tiếng cười sảng khoái, tựa như xuân phong mãn }, xuân tình nở rộ. Sự hiện diện
của “em”, sự e ấp tình tứ của “em” như đã gột rửa bụi trường chinh trên vai anh, để
anh đắm đuổi trong không gian em, nhạc cùng thơ quấn quít. Người lính đã trở
thành những chàng thi nhạy cảm, xao xuyến trước vẻ thi vị của cảnh sắc núi non
của con người Tây Bắc, lòng họ rạo rực ngọn lửa tình yêu, tưng bừng sức trẻ, tâm hồn
họ lúc y như được sinh ra từ nhạc, từ thơ. Ngọn lửa cháy bỏng ánh lên dung nhan
thiếu nữ, ngọn lửa múa ca, phả hơi ấm lên thân mình người lính, ngọn lửa say mê,
khiến họ muốn hát ca, vui múa quên đi tháng ngày. Tiếng khèn trong vắt âm vang,
vang vọng mãi trong lòng người lính để rồi theo họ “về” Viên Chăn. Tại sao không
phải đi Viên Chăn “về” Viên Chăn? Phải chăng men say của Tây Bắc hay
bởi bóng dáng “em” đã bỏ bùa anh khiến anh coi dải đất biên cương chính quê
hương mình? l~ cũng chính như vậy khổ thơ cuối cùng Quang Dũng đã
viết “hồn về Sầm Nứa” chẳng về xuôi. Những người lính trẻ đã chiến đầu bằng cả một
tấm lòng sôi nổi với bao mộng thanh xuân, giấc mộng ấy được gửi các anh gửi vào
miền đất lại để thử thách khẳng định bản thân mình trong một thế giới huyền thoại
đắm say ngây ngất. Vẻ đẹp trẻ trung lãng mạng của tâm hồn người lính đã được
bộc lộ một cách tự nhiên mà sống động cùng. Vẻ đẹp mơ mộng, tài hoa đầy quyến
khiến người ta không khỏi rung động bị cuốn theo. Nhưng không chỉ dừng
đây, người lính Tây Tiến không chỉ những chàng trai tài hoa còn những con
người tinh tế nhạy cảm, điều này đã được thể hiện một cách chân thật trong phút
chia ly.
` 20?B5 (=
04="],1,a
Trôi nổi trong ranh giới giữa hư và thực, hình ảnh con người hiện lên với những ưu tư,
trầm mặc, mới phút vừa rồi còn tếu táo, hào hoa thì bây giờ đã trở nên chín chắn
tràn đầy sự ôn nhu khó tả. Hai từ “người đi” gợi một thế ngang tàn dứt khoát, đi
không ngoại lại, đó dường như một khúc nhạc chơii người chiến cố gắng
tấu lên để che dấu xúc cảm của mình, nén lại nỗi bi thương cùng tái của tâm hồn
trong chiều sương tiễn biệt. Sông núi trời mây lúc này như liền một mảnh, tất cả
những gì của Tây Bắc đều hòa trộn lại mơ hồ trước mắt người đi. Bất quá, màn sương
ấy tuy hồ nhưng không hề mịt, đó ta vẫn có thể nhìn thấy những chuyển
động tinh tế của cảnh vật hay nói cách khác là những chuyển động tinh tế của tâm hồn
bắt đầu hình ảnh “hồn lau”. Chẳng phải đây một cách nói đầy thi vị hay sao?
Tràn một “nẻo bến bờ” quạnh, những khóm lau thấp thoáng nối đuôi nhau, từng
bông phấn trắng hòa vào sương tựa như những linh hồn trôi dạt. Một nét v~ giản
đơn chỉ bằng những đường phẩy bút, tưởng chừng như gợi lên những xúc cảm nhẹ
tênh nhưng thực sự lại sức lắng đọng khôn cùng. “Hồn lau” hàng nối hàng “đong
đưa” trước mắt độc giả tựa như muốn cuốn cả con người vào trang thơ. cũng phải
nói, trong bức họa “Tây tiến”, cảnh không bao giờ chỉ cảnh, tất cả đều mang một
dụng } riêng, một } vị riêng. Xin trích dẫn câu thơ của Chế Lan Viên:
`Q";o(2=;
Q"22=2@4"Da
Quang Dũng và Chế Lan Viên đều đã đưa “hồn đất” vào trang thơ, điểm khác biệt là
chỗ. Với Chế Lan Viên “hồn đất” được thể hiện một cách trực tiếp qua những rung
động gián tiếp của tâm hồn. Còn với Quang Dũng “hồn đất” được ẩn dụ qua hình ảnh
“hồn lau” với sự tiếp xúc thần kỳ bằng thị giác “Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”. Thử
hỏi, con người đã phải gắn bó với một mảnh đất như thế nào để có thể sử dụng những
giác quan thông thường cảm nhận tinh hoa của đất? Hai từ “có thấy” vừa để hỏi,
lại vừa để trả lời, “người đi” tự vấn bản thân, tự hỏi mình năm đó thực đã thấy
được linh hồn của Tây Bắc? ngay khi hồn lau” xuất hiện, mọi nghi ngờ đều tan
theo mây khói, nếu không tận mắt chứng kiến sao người thể lưu lại được hình
ảnh tuyệt diệu kia. Hơn thế nữa, điều này còn lần nữa được khẳng định khi từ một cái
“có thấy”, nhà thơ đã đi tới:
`04!+ 2BBa
Nếu câu thơ trên linh hồn của đất, thì câu thơ sau chính sức sống của đất con
người. Bóng dáng ai thấp thoáng màn sương, hồ ẩn hiện trên chiếc thuyền “độc
mộc”, hai tiếng “độc mộc” lạimột điểm nhấn nữa, nó gợi lên một sự lẻ loi, heo hút,
liêu đến nhường nào. Nếu như “sương” “hồn lau” chỉ như có như không làm
hiện lên nét buồn tái thì tại đây, dáng người kia đã thể hiện một cách sâu sắc nỗi
nhớ của người lính trẻ. Giống như trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử :
`L " !H+$" U
&+"kW25Da
Hình ảnh mặt chữ điền ấy, không rõ là gương mặt phụ nữ hay đàn ông, cũng không
“người thôn Vĩ” hay “người về thôn Vĩ” nhưng ta vẫn thể cảm nhận một cách sâu
sắc mặc cảm chia lìa đậm nét đầy bức bối tuyệt vọng của nhà thơ. với Quang
Dũng cũng vậy, dáng người xuất hiện với đường nét mảnh mai, chỉ gợi không phải tả.
Dáng người không nhất thiết một gái Thái hay một chàng trai Thái, đó đơn giản
chỉ cách gọi chung cho con người, n hết con người của Tây Bắc. Dáng
người kia, đó sự đại diện cho tiếng nói, cho sức sống, cho sức mạnh của một miền
đất. Người lính nhớ người cũng nhớ tới tinh thần của ngàn dặm núi rừng, nhớ tới
điều đã thực sự cuốn hút họ, khiến họ gắn với mảnh đất hoang này. Tình yêu
trọn vẹn, yêu không phải là ở cái vỏ bọc bên ngoài, mà là dùng chính tâm hồn mình để
cảm nhận, để yêu qu} linh hồn thần thái của một miền cương thổ, tình yêu ấy lớn
đến nhường nào, sâu đậm tới mức nào, ta thật khó lòng cảm nhận hết nổi. Người lính
của Quang Dũng, đậm đà và tình cảm như vậy, những người bộ đội vừa đáng kính vừa
đáng yêu. Họ không chỉ cho ta thấy những thứ hào hùng của một thời chiến loạn
còn cho ta thấy những tính tế nhất, nhạy cảm nhất ẩn sâu trong tâm hồn con người,
gian nan không khiến họ trở nên chai sạn chỉ khiến sự hào hoa của họ rực rỡ thêm
thôi.
Người lính hiện lên chân thực, thơ mộng, lãng mạng, đa tình, những đồng thời họ
cũng hào hùng dũng cảm không chỉ trong chí khí trên bước đường hành quân
còn đầy bi tráng trong phút hy sinh.
`V,8@A', !W"
3XF,RH2a
D
`<,"1"-52=
>'?@A2Ba
Cái chết đó thể một hiện thực đớn đau những đó điều tất yếu khó thể tránh
khỏi bởi chiến tranh vốn “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”, sự mất mát, chiến
tranh hy sinh, con người biết chấp nhận hiện thức sống cùng hiện thức, không
những thế còn điểm cho hiện thực khốc liệt, khiến cho gian nan cũng mang vẻ đẹp
riêng. Cụm từ “không bước nữa” mang trong mình thứ tình cảm thổn thức khó diễn tả
bằng lời, “không bước nữa” thể chỉ một phút nghỉ ngơi nhưng cũng khi phút
nghỉ ngơi ấy s~ kéo dài mãi mãi. Những dẫu thế nào đó vẫn sự lựa chọn đầy chủ
động của người lính Tây Tiến, bản thân họ không muốn tiến bước chứ không phải
do bị ngoại cảnh cản ngăn. Họ hoàn toàn thanh thản, “gục lên súng bỏ quên đời”,
một vẻ đẹp ngang tàn, ngạo nghễ, xuất hiện ngay trong hiện thực “sống sít” nhất. Cay
đắng thế, gian khổ thế, tại nơi heo hút cồn mây này, người chiến một khi hi
sinh s~ vùi mình vào đất, từng “nấm mồ viễn xứ” cứ vậy hiện lên. Nhưng với Quang
Dũng hiện thực tàn nhẫn ấy đã được chắp thêm đôi cánh lãng mạng, tấm áo xanh đã
biến thành áo bào sang trọng, người lính tựa như những ông vua trên chiến trường, ra
tay sát phạt quân xâm lược, rồi đến khi mệt mỏi s~ trở về lâu đài “đất mẹ” của mình,
về với vòng tay của quê hương, đất nước. Nhịp thơ lắng đọng, trầm hùng, hình ảnh
thơ như đọng lại mãi trong giây phút ngã xuống huy hoàng ấy. Cái chết của người linh
mang theo sự mãn nguyện cùng thống khoái, cái chết tràn trề niềm tự hào. Tựa như
trước kia vẫn luôn như vậy, cho dù cả “đoàn binh không mọc tóc” nhưng vẫn luôn “dữ
oai hùm”. Họ hành quân trong gian nan, chiến đấu trên huyết lộ hy sinh trong sự
thỏa mãn mà kiêu hùng.
`)*+, (-.$/
01 212$"a
Họ không tiếc sinh mạng mình xông pha nơi trận mạng, họ dứt khoát chọn lựa
những gian khổ, thách thức cùng cái chết kia, một l~ sống cả đời cũng không hối
hận. Chữ “chẳng tiếc” ấy một sự gồng mình lên của những người lính danh, họ
muốn Tổ quốc trường tồn, họ góp tay xây nên sự bất tự cho Tổ Quốc, như nhà thơ
thanh thảo đã viết:
0'2@2'12Y
 p" ("'1
 "F1p" (YE9pH
0RG=H+#K*'__na
Bài văn mẫu 13
Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng duyên dáng thơ mộng, mỹ lệ
của Tây Bắc, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng tập thể những người
lính Tây tiến với một vẻ đẹp đầy tính chất bi tráng:
912,'U4
J$"+W"N
?GCBH",!
I(B+5(
Như trên đã thấy, cách tả cảnh của Quang Dũng đã lạ đến đây, cách tả người
càng lạ hơn. Thơ ca thời kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh
sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài thơ "Đồng chí" đã trực tiếp miêu tả căn bệnh
ấy:
V-!',1C(!8
> -A+ !'
Còn ở đây, nhắc đến hình ảnh "Đoàn binh không mọc tóc", tác giả đã gợi lại hình ảnh
anh "vệ trọc" một thời. Nhưng câu thơ còn } tả thực về một hiện thực trần trụi
khắc nghiệt: những con suối độc, những trận sốt rét rừng đã làm cho người lính xanh
xao, rụng tóc. Hình ảnh lạ thường nhưng không hề quái đản. Người lính dù có tiều tụy
nhưng vẫn ngời lên một phẩm chất đẹp đ~, kiêu hùng: "không mọc tóc" chứ không
phải "tóc không mọc". "Không mọc tóc" vẻ như không thèm mọc tóc, không
cần mọc tóc. . . thể hiện thái độ coi thường gian nguy, vượt lên hoàn cảnh của người
lính Tây tiến. Ba tiếng "Dữ oai hùm" đặt cuối câu giống như tiếng dằn rất mạnh,
khẳng định } chí ngút trời , tinh thần chiến đấu sôi sục của người lính. Câu thơ giống
như cái hất đầu đầy kiêu hãnh, ngạo nghễ người lính Tây Tiến thách thức gian khổ,
chiến thắng gian khổ, trở thành người anh hùng. Trong bài thơ một cái n thành
thị, hoa lệ: Nội, nhưng đó không phải một cái mốc thật trên đường Tây Tiến
ở đây trở thành một mốc có thật trên đường Tây Tiến mà ở đây trở thành một mốc
của độ cao bới giấc kia chính một đỉnh điểm. Câu thơ diễn tả tinh tế chân thật
tâm l} của những người lính ra đi từ thủ đô. Hình ảnh Hà Nội dáng kiều thơm hiện
về trong đêm không làm cho họ nản lòng, thối chí ngược lại nguồn động
viên, cổ vũ đối với các chiến sĩ. Một thoáng kỉ niệm êm đềm trong sáng ấy đã tiếp sức
cho họ trong cuộc chiến đấu gian nan. động lực tinh thần giúp người lính băng
qua những tháng ngày chiến tranh gian lao của đời mình.
Bốn câu thơ tiếp theo, tác giả nhìn thẳng vào cái bi nhưng đem đến cho nó một vẻ hào
hùng lẫm liệt và sang trọng:
)*+, (-.$/
01 212$"
<,"1"-52=
>'?@A2B
Những từ Hán Việt cổ kính trang trọng "biên cương", "viễn xứ" đã làm cho những
nấm mồ chiến sĩ được vùi lấp vội vàng nơi rừng hoang biên giới cũng trở thành những
nấm mồ chí tôn nghiêm. Cái bi của câu trên được câu dưới nâng lên thành bi tráng bới
nhân cách của người đã chết "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Đời xanh tuổi trẻ
biết bao nhiêu là hoa mộng nhưng họ vui vẻ hiến dâng cho tổ quốc. Họ đi vào cái chết
như đi vào một giấc ngủ nhẹ nhàng thanh thản cùng. Nếu người tráng ngày
xưa với hình ảnh "da ngựa bọc thây" đầy vinh quang thì người lính tây tiến với hình
ảnh o bào thay chiếu" đấy sức mạnh ngợi ca. Thức tế, những người lính gục chết
trên chiến trận nhiều khi manh chiếu cũng không có, huống chi "áo bào". Nhưng
thái độ trân trọng, yêu thương cùng cảm hứng lãng mạn đã tạo ra Quang Dũng một
cái nhìn của chủ nghĩa anh hùng cổ điển trước cái chết của người lính. Trong cách
nhìn ấy, Cái chết của người lính Tây tiến không chìm trong cái lạnh l~o như trong thơ
của Đặng Trần Côn: "Hồn tử gió ù ù thổi" được bao bọc trong một âm hưởng
hùng tráng:"Sông Mã gầm lên khúc độc hành".
Câu thơ vang dội như một khúc nhạc vĩ. Âm hưởng bi hùng của khúc chiêu hồn tử
sĩ dội lên từ chữ "gầm". Thiên nhiên đã tấu lên khúc nhạc dữ dội, oai hùng của nó, vừa
để đưa tiễn hồn người chiến về i vĩnh hằng, vừa nâng cái chết lên tầm s thi
hoành tráng. Các anh ra đi lại trở về với đất mẹ, về với những người anh hùng dân
tộc đã ngã xuống, là tiếp nối truyền thống cha ông. Và phải chăng tiếng gầm của dòng
sông cũng chính tiếng lòng của người còn sống? Bởi cái chết của đồng đội
không làm họ chùn bước mà chỉ làm tăng thêm lòng quả cảm và chí căm thù.
| 1/107

Preview text:

Dàn ý phân tích hình tượng người lính Tây Tiến - Mẫu 1 I. Mở bài
● Giới thiệu về tác giả: Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài, hồn thơ ông
luôn phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, tài hoa.
● Giới thiệu về tác phẩm: Bài thơ được in trong tập Mây đầu ô, được nhà thơ viết
khi đã rời đơn vị Tây Tiến.
● Dẫn dắt để giới thiệu nội dung cần phân tích: Hình tượng nổi bật trong bài thơ
chính là hình tượng người lính Tây Tiến. II. Thân bài 1. Khái quát chung
- Tây Tiến: là tên một đoàn quân được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ kết hợp với
bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt - Lào, làm hao mòn lực lực giặc Pháp.
- Xuất thân lính Tây Tiến: phần đông là người Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên.
- Cảm hứng sáng tác: Quang Dũng viết bài thơ để bày tỏ nỗi nhớ với đoàn quân Tây
Tiến sau khi chuyển sang công tác ở đơn vị khác.
2. Vẻ đẹp lạc quan, không ngại khó khăn
Chặng đường hành quân gian khổ những người lính vẫn kiên trì để hoàn thành nhiệm vụ:
- Địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi sự hẻo lánh, xa xôi; các từ láy giàu tính tạo hình:
“khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, điệp từ “dốc” gợi địa hình hiểm trở, quanh co,
gập ghềnh. Nhịp thơ bẻ đôi “Ngàn thước lên cao/ngàn thước xuống” gợi tả sự nguy hiểm tột cùng.
- Hình ảnh nhân hóa: “cọp trêu người”, “thác gầm thét” gợi sự hoang sơ, man dại; thời
gian “chiều chiều”, “đêm đêm” cho thấy những người lính phải thường xuyên đối mặt
với điều hiểm nguy chốn rừng thiêng nước độc. Sử dụng phần lớn các thanh trắc nhấn
mạnh sự trắc trở, gập ghềnh của địa hình.
- Hình ảnh “súng ngửi trời” thể hiện tầm cao của núi non mà người lính phải vượt qua
nhưng cũng có cái hóm hỉnh của người lính trong hoàn cảnh gian khổ.
- Khung cảnh thiên nhiên cũng có lúc êm dịu, đậm hương vị cuộc sống: “nhà ai Pha
Luông ...”, “cơm lên khói”, “Mai Châu mùa em ...”, thanh bằng tạo cảm giác nhẹ
nhàng, yên bình. Là tiếng thở phào nhẹ nhõm sau chặng đường dài hành quân.
3. Vẻ đẹp bi tráng, hào hùng
- Hình ảnh thật chân thực về binh đoàn Tây Tiến:
● “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”: hóa chất bom đạn của kẻ thù đã làm cho
mái tóc người lính không còn đẹp nữa, nhưng cũng có thể là người lính chủ
động cắt tóc để thuận tiện cho sinh hoạt.
● “Quân xanh màu lá dữ oai hùm”: màu xanh của lớp áo ngụy trang lẫn với màu
xanh của lá cây, nhưng đó cũng được hiểu là khuôn mặt xanh xao của người
lính khi bị sốt rét rừng.
=> Sự khó khăn, gian khổ của người lính Tây Tiến trong hoàn cảnh chiến tranh. - Sự
mất mát hy sinh của người lính:
● “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”: đó không phải là một cái chết mà rất nhiều cái chết.
● “Áo bào thay chiếu anh về đất”: hình ảnh “áo bào” chính là chiếc áo lính các
anh đang mặc, “về đất” cách nói giảm nói tránh gợi sự hy sinh của người lính.
● Hình ảnh cuối cùng “sông Mã gầm lên khúc độc hành” là sự thành kính đưa tiễn các anh.
=> Tinh thần “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” của người lính Tây Tiến.
4. Vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa
- “Kìa em xiêm áo ... xây hồn thơ”: Cái nhìn đắm say, tình tứ của những người lính
Tây Tiến trước vẻ đẹp duyên dáng của con người Tây Bắc. Tâm hồn người lính bay
bổng, say mê trong không khí ấm áp tình người.
- “gửi mộng”, “đêm mơ”: lính Tây Tiến là những con người mơ mộng, là những người
trai xuất thân từ đất hà thành nên họ mang vào chiến trường cả nét thi vị, lãng mạn trong tâm hồn.
- “Hà Nội” là khung trời thương nhớ, là không gian khác hẳn đời sống gian khổ chiến
trường, đó là nỗi nhớ quê hương.
- “dáng Kiều thơm” gợi hình ảnh những thiếu nữ Hà Nội yêu kiều, kiêu sa, hình bóng
người thương của lính Tây Tiến. Đó là nguồn động lực để họ chiến đấu nơi chiến trường gian khổ.
=> Trong hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt họ vẫn giữ được những nét hào hoa, lãng
mạn vốn có của những thanh niên trí thức Hà Nội. III. Kết bài
● Nêu cảm nhận về hình tượng người lính Tây Tiến.
● Khái quát một số giá trị nội dung và nghệ thuật tiêu biểu.
Dàn ý phân tích hình tượng người lính Tây Tiến - Mẫu 2 I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về nhà thơ Quang Dũng, bài thơ Tây Tiến.
- Dẫn dắt để giới thiệu nội dung cần phân tích: hình tượng người lính Tây Tiến. II. Thân bài
1. Vẻ đẹp của người lính trải qua khó khăn, gian khổ những vẫn lạc quan, kiên cường
- Trên chặng đường hành quân, họ đối mặt với biết bao nguy hiểm của thiên nhiên Tây Bắc:
● Các địa danh “Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông”: gợi nhớ về những cuộc hành
quân kéo dài, để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi và heo hút.
● Địa hình hiểm trở, quanh co: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” - Những
con dốc cứ dựng đứng giữa trời đầy nguy hiểm nhưng người lính vẫn phải cố gắng vượt qua.
● “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”: Mũi súng trên vai của của người chiến binh
được nhân hóa tạo thành hình ảnh “súng ngửi trời” vừa diễn tả được độ cao
nhất, hoang sơ, lạ lẫm vừa hàm chứa vẻ đẹp tâm hồn người lính.
● Hình ảnh đoàn binh hành quân trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
thật dữ dội mà nên thơ.
● “Chiều chiều oai linh thác gầm thét/Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”:
Tiếng thác nước dữ dội hòa với tiếng hú man dại, ghê gớm của thú rừng mang
âm hưởng của đại ngàn.
- Họ sống trong hoàn cảnh thiếu thốn:
● “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”: hóa chất bom đạn của kẻ thù đã làm cho
mái tóc người lính không còn đẹp nữa, nhưng cũng có thể là người lính chủ
động cắt tóc để thuận tiện cho sinh hoạt.
● “Quân xanh màu lá dữ oai hùm”: màu xanh của lớp áo ngụy trang lẫn với màu
xanh của lá cây, nhưng đó cũng được hiểu là khuôn mặt xanh xao của người
lính khi bị sốt rét rừng.
2. Vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, hào hoa
- Nỗi nhớ về binh đoàn Tây Tiến: Mở đầu bài thơ, Quang Dũng nhắc đến con sông
này cho thấy nỗi nhớ của tác giả dường như đã trải dài khắp con sông Mã. Kết hợp với
cụm từ “Tây Tiến” là chỉ một đoàn quân cùng với từ “ơi” lại vang lên thật trìu mến.
“Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”: cảm xúc chủ đạo của bài thơ, diễn tả nỗi nhớ đến trống vắng, hụt hẫng.
- Say mê trước vẻ đẹp trong đêm trại đuốc hoa:
● Hai chữ “kìa em” thể hiện sự ngạc nhiên đến ngỡ ngàng của người lính. Những
cô gái Tây Bắc trong bộ xiêm áo đang múa điệu múa truyền thống trong.
● Tiếng khèn mang linh hồn của núi rừng càng trở nên lôi cuốn. Tâm hồn các
chiến sĩ mộng mơ, lãng mạn.
- Tâm hồn lãng mạn, trái tim biết yêu thương:
● “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”: đôi mắt đang theo dõi kẻ thù với sự căm giận và quyết tâm.
● “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”: Nỗi nhớ đến những cô gái Hà Nội với vẻ
đẹp thướt tha thanh lịch, hay chính là nỗi nhớ về gia đình, quê hương.
3. Vẻ đẹp hào hùng, bi tráng
● “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”: đó không phải là một cái chết mà rất nhiều cái chết.
● “Áo bào thay chiếu anh về đất”: hình ảnh “áo bào” chính là chiếc áo lính các
anh đang mặc, “về đất” cách nói giảm nói tránh gợi sự hy sinh của người lính.
● Đoàn quân Tây Tiến vẫn quyết tâm ra đi vì sự nghiệp cách mạng.
=> Tinh thần bất khuất, kiên cường của người lính Tây Tiến. III. Kết bài
● Khái quát lại hình ảnh người lính Tây Tiến.
● Cảm nhận về hình ảnh người lính Tây Tiến.
Dàn ý phân tích hình tượng người lính Tây Tiến - Mẫu 3 I. Mở bài
- Đôi nét về nhà thơ Quang Dũng, phong cách sáng tác thơ ca của ông.
- Giới thiệu về bài thơ Tây Tiến - một trong những tác phẩm tiêu biểu của Quang Dũng.
- Dẫn dắt để giới thiệu về hình tượng người lính Tây Tiến. II. Thân bài
1. Tinh thần lạc quan, kiên cường
- Chặng đường hành quân gian khổ:
● Các địa danh “Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông” cho thấy chặng đường hành
quân xa xôi, hẻo lánh của người lính.
● Địa hình hiểm trở, quanh co: nhưng người lính vẫn phải cố gắng vượt qua.
● “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”: Mũi súng trên vai của của người chiến binh
được nhân hóa tạo thành hình ảnh “súng ngửi trời” vừa diễn tả được độ cao
nhất, hoang sơ, lạ lẫm vừa hàm chứa vẻ đẹp tâm hồn người lính.
● Hình ảnh đoàn binh hành quân trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
thật dữ dội mà nên thơ.
- Hoàn cảnh sống thiếu thốn:
● “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”: hóa chất bom đạn của kẻ thù đã làm cho
mái tóc người lính không còn đẹp nữa, nhưng cũng có thể là người lính chủ
động cắt tóc để thuận tiện cho sinh hoạt.
● “Quân xanh màu lá dữ oai hùm”: màu xanh của lớp áo ngụy trang lẫn với màu
xanh của lá cây, nhưng đó cũng được hiểu là khuôn mặt xanh xao của người
lính khi bị sốt rét rừng.
=> Tâm hồn lạc quan, vui vẻ của người lính trước khó khăn.
2. Tâm hồn lãng mạn, hào hoa
- Trong đêm liên hoan văn nghệ:
● Hai chữ “kìa em” thể hiện sự ngạc nhiên đến ngỡ ngàng của người lính khi
nhìn thấy những cô gái Tây Bắc trong bộ xiêm áo đang múa điệu múa truyền thống trong.
● Tiếng khèn mang linh hồn của núi rừng càng trở nên lôi cuốn. Tâm hồn các
chiến sĩ mộng mơ, lãng mạn.
- Tâm hồn lãng mạn, trái tim biết yêu thương:
● “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”: đôi mắt đang theo dõi kẻ thù với sự căm giận và quyết tâm.
● “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”: Nỗi nhớ đến những cô gái Hà Nội với vẻ
đẹp thướt tha thanh lịch, hay chính là nỗi nhớ về gia đình, quê hương.
3. Tinh thần bi tráng mà vẫn hào hùng
- Sự hy sinh của người lính:
● “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”: đó không phải là một cái chết mà rất nhiều cái chết.
● “Áo bào thay chiếu anh về đất”: hình ảnh “áo bào” chính là chiếc áo lính các
anh đang mặc, “về đất” cách nói giảm nói tránh gợi sự hy sinh của người lính.
- Ý chí kiên cường: Đoàn quân Tây Tiến vẫn quyết tâm ra đi vì sự nghiệp cách mạng.
=> Tinh thần bất khuất, kiên cường của người lính Tây Tiến. III. Kết bài
Cảm nhận chung về hình tượng người lính Tây Tiến.
Chân dung người lính Tây Tiến
Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ là một trong những tượng đài đẹp nhất, đáng tự hào nhất
của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Họ là những người sống có lí tưởng sẵn sàng lấy
máu mình để tô thắm lá cờ cho Tổ quốc, đồng thời đó cũng tràn đầy tâm hồn lãng mạn
hào hoa. Qua việc tìm hiểu hình ảnh anh bộ đội trong bài thơ "Tây Tiến", một bài thơ
tiêu biểu nhất của Quang Dũng nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói
chung, chúng ta có thể thấy rõ.
Bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng viết về những người lính chiến đấu nơi biên
cương miền Tây Tổ quốc. Bài thơ được viết theo bút pháp lãng mạn. Bút pháp này sử
dụng rộng rãi thủ pháp đối lập và có khuynh hướng tô đậm những cái khác thường,
phi thường để tác động mạnh vào cảm xúc của người đọc.
Bài thơ ra đời năm 1948, hai năm sau cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Cái hào
khí của cả một dân tộc vừa giành được độc lập đã phải vùng lên cầm gươm, súng để
bảo vệ nền độc lập tự do non trẻ, thiêng liêng của mình đã truyền vào người lính, tạo
cho họ một vẻ đẹp lãng mạn hào hùng. Tâm hồn lãng mạn ấy luôn hướng về cái khác thường, phi thường.
Người lính Tây Tiến, qua cảm hứng lãng mạn của Quang Dũng được xuất hiện trên
cái bối cảnh hoang sơ, kì vĩ, dữ dội, hiểm trở mà cũng rất khỏe đep và thi vị với đủ núi
cao, vực thẳm, dốc đứng, thác gầm… cùng với những cồn mây heo hút, sương lấp,
mưa xa khơi, cọp trêu người:
"Dốc lên khúc khuỷu dốc thẳm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuồng
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
Những chi tiết, hình ảnh thơ của tác giả đầy ấn tượng. Sương dày như lấp cả đoàn
quân, mưa nhiều đến nỗi làm cho những ngôi nhà như trôi bồng bềnh giữa biển
khơi… Nhiều câu thơ sử dụng hàng loạt thanh trắc: "dốc", "khúc khuỷu", "thăm
thẳm"… làm hiện lên cái gập ghềnh, thăm thẳm, khúc khuỷu, cheo leo của con đường
hành quân. Tiếp đó là những chữ dùng rất bạo, nhất là ba chữ "súng ngửi trời" gợi lên
độ cao chóng mặt. Hai câu sau có sự phối thanh rất độc đáo. Câu trên nhiều thanh trắc,
đổ xuống gần như thẳng đừng: "Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống", và câu thơ
sau thì toàn thanh bằng: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi", dòng thơ mở ra một
khoảng không gian bát ngát, câu thơ như bay ngang trời. Ta như hình dung được
người lính đang leo lên những cồn mây, một hôm nào đó, dừng chân bên dốc núi
phóng tầm mắt nhìn ngang ra xa, thấy nhà ai đó thấp thoáng ẩn hiện qua một không
gian mù mịt sương mù, mây núi. Những địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Mường
Hịch, Pha Luông… rất xa lạ, làm tăng thêm ấn tượng về sự hoang sơ, kì vĩ, bí mật của
rừng thiêng. Chúng cho biết không chỉ miền đất mà người lính đã đi qua mà khi "vừa
mới đọc lên thôi đã thấy mòn chân mỏi gối" (Trần Lê Văn).
Phi thường ở sự gian khổ cùng cực: ăn đói, mặc rách, bệnh tật, sốt rét đến xanh da,
trọc tóc. Hình ảnh người lính được tác giả khắc họa thật độc đáo và có phần kì lạ. Sốt
rét làm cho thân thể của họ tiều tụy. Tuy nhiên, họ vẫn giữ được vẻ hào hùng. Với bút
pháp lãng mạn, tác giả đã nhấn mạnh sự tương phản giữa ngoại hình và nội tâm, giữa
hình thức có phần xanh xao tiều tụy với sức mạnh tinh thần mãnh liệt bên trong.
Đó là những con người phi thường: tràn đầy khí phách anh hùng chẳng những dám
đương đầu với mọi thử thách gian truân: đói rét, bệnh tật, rừng thiêng nước độc, thú
dữ… mà còn có thái độ, tư thế, khí phách hiên ngang trước cái chết:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Câu thơ "Rải rác… viễn xứ" còn gợi lên một cái gì đó hơi bi thảm. Những câu thơ
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh" đã nâng ý thức lên thành bi tráng bởi cái
phương châm sống, triết lí sống rất đẹp của tuổi trẻ thời ấy. Người lính Tây Tiến mang
dáng vẻ của những người anh hùng kiểu Kinh Kha sang Tần, người chinh phu thời
xưa một đi không trở về, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng:
"Gió hiu hiu hề! Nước sông Dịch lạnh tê
Tráng sĩ ra đi, không trở về"
Chủ nghĩa lãng mạn cũng thường hay nói về nỗi buồn, cái chết với ý nghĩa biểu hiện
cái đẹp với chất bi hùng. Do phải chiến đấu trong hoàn cảnh vô cùng ác liệt, cực khổ,
các chiến sĩ chết vì sốt rét rừng nhiều hơn là vì chiến trận, và khi chôn cất, đến ngay
manh chiếu che thân cũng không có nhưng dù vậy, hình tượng người lính trong thơ
vẫn phải đẹp, phải sang, phải hào hùng. Người lính ngã xuống trong tiếng nhạc bi tráng của núi sông:
"Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Tiếng gầm của sông Mã như một khúc độc hành tiễn đưa người chiến sĩ đi về trong
lòng đất mẹ vĩnh hằng, gợi lên biết bao tiếc thương ngậm ngùi. Điều đó làm cho cái
chết của người lính có bi mà không có lụy, vẫn đẹp và hào hùng. Bài thơ "Tây Tiến"
có một màu sắc bi tráng rất độc đáo.
Người lính Tây tiến không chỉ có vẻ đẹp lãng mạn hào hùng, mà còn có một vẻ đẹp
đáng yêu khác. Đó là chất hào hoa, thanh lịch, chất mơ mộng rất lãng mạn. Đoàn quân
Tây Tiến gồm hầu hết là những người thanh niên Hà thành tài hoa, trong đó tác giả
Quang Dũng là một trong những con người tài hoa nhất.
Chất tài hoa ấy bắt rất nhạy với những hình ảnh đẹp đẽ, nên thơ, cái nét tinh tế của
cảnh và người, đặc biệt là những cái đẹp mang màu sắc xứ lạ phương xa. Từ một làn
sương chiều mờ ảo đến một dáng hoa lau núi phất phơ, đơn sơ, gợi cảm; từ một đêm
hội đuốc hoa như trong truyện cổ tích đến những bông hoa "đong đưa" rất tình tứ bên
dòng nước lũ, tất cả đều in rất đậm trong tâm hồn người lính để tạo nên những bức
tranh vừa thực, vừa mộng:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
…Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Những con người ấy sống vô cùng gian khổ nơi rừng núi, thường xuyên phải tiếp xúc
với thần chết, nhưng đêm đêm hồn mộng của họ vẫn bay về với những cô gái Hà Nội
đẹp một cách thanh lịch, dịu dàng:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Quang Dũng đã khắc họa một cách khá đầy đủ chân dung tập thể của người lính Tây
Tiến từ diện mạo đến tâm hồn, khí phách anh hùng, thái độ trước cái chết cũng như vẻ
hào hoa rất Hà Nội của họ. Bài thơ xứng đáng là một tượng đài bằng ngôn ngữ đã bất
tử hóa phẩm chất anh hùng của anh bộ đội cụ Hồ trong cuộc kháng chiến chống Pháp
rất đỗi gian khổ và vui tươi, hào hùng:
"Tây Tiến biên cương mờ khói lửa
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và con người ấy, bài thơ ấy
Vẫn sống muôn đời cùng núi sông" (Giang Nam)
Phân tích hình ảnh người lính Tây Tiến đạt điểm cao
Vào những đêm cuối năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, cái làng nhỏ bé nằm ven bờ con
sông Đáy, Quang Dũng đã bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm còn tươi nguyên. Năm ấy
Quang Dũng là đội trưởng của đoàn quân Tây Tiến làm nhiệm vụ phối hợp với quân
đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh địch trên những tuyến đường rừng núi Tây
Bắc từ Lai Châu đến phía bắc Thanh Hóa. Những người lính trẻ của trung đoàn Tây
Tiến sống vô cùng thiếu thốn và khổ cực, vì rừng thiêng nước độc, sốt rét hoành hành,
thuốc men ít ỏi và vì dưới hành quân là trập trùng núi rừng hoang vu, lạnh lẽo, hiểm trở .
Những người lính Tây Tiến hầu hết là những anh thanh niên Hà Nội, phần đông là học
sinh, tiểu tư sản trí thức, tuy phải chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ vẫn phơi phới
tinh thần lãng mạn anh hùng lớn. Tác giả Quang Dũng viết bài thơ Tây Tiến năm 1918
trước đây đã lấy tên là “Nhớ Tây Tiến” để thể hiện nỗi nhớ và niềm yêu thương về
một thời chiến đấu gian khổ mà hào hùng, dữ dội mà mê say quên mình.
Để khắc họa lên chân dung người lính, Quang Dũng đã sử dụng những chi tiết và hình
ảnh thực của đoàn quân Tây Tiến nhưng những hình ảnh lại được diễn tả bằng bút
pháp lãng mạn để tô đậm cái phi thường cái tài hoa, đem đến cho người đọc một vẻ
đẹp rất độc đáo hiếm có của người lính trong một thời kì lịch sử oai hùng. Bài thơ đã
được viết theo mạch cảm xúc nhớ thương nên nó có mở đầu bằng câu thơ biểu hiện nỗi nhớ ngày ấy.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Hình ảnh con sông Mã anh hùng mở đầu bài thơ như hé mở cho người đọc có những
câu chuyện oai hùng về binh đoàn Tây Tiến. Trên bước con đường ra trận, những
người lính Tây Tiến có sông Mã đi cùng bởi vì vậy cũng thật tự nhiên mà ngay từ đầu
bài thơ Quang Dũng gọi tên là “sông Mã”. Câu thơ cũng giống như một tiếng gọi tha
thiết ám ảnh, về khoảng cách địa lý thì xa xôi vời vợi mà nỗi nhớ lại nơi luôn thường
trực. Trong lòng câu thơ thứ hai này dùng hai chữ “nhớ”, lại được ngắt nhịp 4/3 để
diễn tả tinh tế những thổn thức, mong mỏi và khao khát nhung nhớ của tác giả. Cái
đặc sắc chính ở ba chữ “nhớ chơi vơi”, chữ “chơi vơi” làm cho người đọc có thể cảm
nhận như lan tỏa vào không gian và thấm sâu vào lòng mỗi người, một chút chống
chếnh, một chút hụt hẫng và một chút nao lòng. Nỗi nhớ Tây Tiến tưởng như xa
nhưng lại hóa gần, tưởng dịu nhẹ mơn man nhưng lại có sức ám ảnh khôn xiết. Không
những thế, người đọc còn như nghe đã được trong những chữ “nhớ chơi vơi” ấy âm
hưởng sâu đậm của núi rừng, của sông suối Tây Tiến. Câu thơ reo vần “ơi” đã tạo ra
được độ dịu nhẹ lâng lâng ở trong cảm xúc, ở đây cảm xúc nhớ thương giống như sợi
tơ tình bện chặt lòng người. Và ngay sau đó nhà thơ đã cụ thể hóa nỗi nhớ của chính mình.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Các địa danh Sài Khao và Mường Lát trong nỗi nhớ của Quang Dũng đã trở nên thân
gần kỳ lạ, viết về hình ảnh đoàn quân mỏi là khi “Quang Dũng lại điểm thêm vào đó
những hình ảnh “sương lấp”, “hoa về”, “đêm hơi”. Rõ ràng ở đây chất hiện thực đã đi
liền với chất lãng mạn tạo nên những nét vẽ độc đáo về Tây Tiến.
Trong cảm xúc nhớ thương của nhà thơ là bức tranh Tây Tiến như được khoác sắc
một màu huyền ảo, thơ mộng, giàu sắc thái lãng mạn khung cảnh rừng núi mà ở đoàn
quân Tây Tiến đã bước chân qua vừa thơ mộng vừa hùng vĩ. Trong nỗi nhớ, những kỷ
niệm còn tươi nguyên như thể sống dậy, nhà thơ nhớ đến hình ảnh thời gian khổ:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Hai câu thơ trên đã mang giá trị tạo hình cao diễn tả một cách cụ thể và sinh động nhất
những gian khổ của những người lính Tây Tiến trên đường ra trận. Câu thơ thứ nhất
dùng ngắt nhịp 4/3 và chủ yếu được gieo thanh trắc và đã gợi cho người đọc cảm nhận
được về một sự trúc trắc gập ghềnh và đầy hiểm nguy. Những cái hay của câu thơ
chính ở hai từ láy “khúc khuỷu, “thăm thẳm”, nó đã gợi cho người đọc những cảm
nhận về một không gian được đã mở ra nhiều chiều; cao, rộng, sâu, xa và người đọc
như sẻ chia được cùng với những người lính những vất vả, gian khó. Câu thơ thứ hai
chữ “heo hút” đã được dùng rất đặc sắc, nó khác với hun hút và nếu “hun hút” gợi
được độ sâu thì heo hút bản không giới hạn, từ heo hút không chỉ đã gợi ra độ sâu mà
còn thêm cả một cảm giác hoang vắng, lạnh lẽo và hiu quạnh. Địa hình chiến đấu của
những người lính Tây Tiến quả thực đầy gian khó nguy hiểm. Hơn thế nữa ba chữ
“súng ngửi trời” đã được sử dụng thật độc đáo, nó cũng giống như hình ảnh “đầu súng
trăng treo” của tác giả Chính Hữu bao trùm lên hình ảnh là một không gian tưởng
tượng chừng lãng mạn, nhưng nó được bắt nguồn từ một cuộc sống hiện thực, từ con
mắt tinh tế với ngòi bút đa tài của nhà thơ. Nhờ hình ảnh “súng ngửi trời”, câu thơ đã
nói về những gian khổ vất vả nhưng lại làm ra sáng ngời lên khí phách ngạo nghễ và
tư thế hiên rất ngang của con người, ngoài ra nó còn thể hiện được một chút dí dỏm
tinh nghịch, một chút phong cách lính trẻ trung và lãng mạn. Giữa thiên nhiên hoang
sơ vắng lạnh và hình ảnh con người không cảm thấy bé nhỏ và cô đơn mà lại khẳng
định tư thế làm chủ, khẳng định bản lĩnh của chiến sĩ anh hùng và tinh thần lạc quan
của nhiều con người. Không những thế, hình ảnh còn một thời gian khổ còn được biểu hiện qua những câu thơ:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Với hình ảnh “oai linh thác gầm thét”, “Mường Hịch cọp trêu người” là những người
dẫn chứng sống động nhất về những gian khổ hiểm nguy mà người lính Tây Tiến đã
đang phải trải qua khoảng thời gian “chiều chiều”, “đêm đêm” trở thành khoảng thời
gian ước lệ, nó giống như một ám ảnh về Tây Tiến thời gian in sâu trong tiềm thức
của chính tác giả ấy. Viết về những gian khổ của người lính quân đội, ngòi bút của
Quang Dũng cũng ghi lại được những hình ảnh hết sức chân thực:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Bao nhiêu vất vả nhọc nhằn của những người lính được thể hiện qua hai chữ đó là “dãi
dầu”. Tuy nhiên từ “dãi dầu” vẫn có thể giúp cho người đọc cảm nhận được chút
phong trần của người lính trên con đường hành quân, phải chăng cũng vì thế hình ảnh
của họ thấp thoáng bóng dáng của người chiến sĩ, chinh phu thuở nào. Qua chữ “bỏ
quên đời” ta thấy khí phách bản lĩnh của người lính được ngời sáng từ chính những
chuyển hiện thực tưởng chừng như gian khổ khốc liệt – một chút bất cần phó mặc
nhưng cũng hơn hết là một trang trí nơi anh hùng, dẫu là mỏi mệt hay dầu là hy sinh
thì họ vẫn sẽ coi những biểu hiện ấy rất đỗi nhẹ nhàng. Những người lính Tây Tiến
khi chiến đấu hết mình thật anh dũng quả cảm nhưng những giây phút nghỉ ngơi của
họ cũng đầy lãng mạn và mê say:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Họ đã bỏ lại sau lưng mình những hòn đạn, gạt bỏ những lo lắng và vất vả của cuộc
chiến, giữa đời thường, người lính Tây Tiến đã hiện lên thật bình dị, gần gũi. Một
buổi liên hoan bỗng chốc lại biến thành một ngày hội tưng bừng náo nhiệt qua những
lăng kính lãng mạn của người chiến sĩ không gian của đêm hội đuốc hoa thật lãng
mạn, rực rỡ, lung linh, câu thơ tràn đầy ánh sáng và màu sắc, trong thơ như có họa.
Chữ “bừng” được dùng cũng rất hay, nó không chỉ là sự bùng lên của ánh sáng, của
bó đuốc đêm hội mà chính là sự bùng lên của niềm vui và niềm say mê kiêu hãnh.
Trong sự náo nức của đêm hội ấy những hình ảnh người em gái là hình ảnh trung tâm,
bao nhiêu con mắt như đã đổ dồn về phía người em gái để mà kìa em xiêm áo đã tự
bao giờ” — một cảm xúc ngạc nhiên đến sững sờ nhưng đã đi liền ngay sau đó là cảm
xúc ngây ngất đắm đuối say mê. Từ Hán việt “xiêm áo” tạo ra một nét trang trọng, ở
đây hình ảnh người em gái như đã được mỹ lệ hóa. Những chữ “tự bao giờ” như
không giấu nổi được cảm xúc ngây ngất của những người lính Tây Tiến, họ ngỡ như
là hình ảnh của đêm hội với người em gái ấy đã có từ rất lâu lắm để rồi bất chợt lại
thấy được sự ngỡ ngàng. Bức tranh đêm hội đã được lung linh hóa, mỹ lệ hóa để rồi
người đọc tưởng tượng ra người em gái ấy tựa như một nàng tiên bước ra từ cổ tích
giữa hiện thực khốc liệt dữ dội người ta bắt gặp hình ảnh như là những huyền thoại,
đây chính là sắc thái lãng mạn của bài thơ. Điểm thêm vào bức tranh đó là đêm hội ấy
là hình ảnh của nhạc, của khèn và nhịp thơ đồng thời là nhịp của tiếng lòng náo nức
mê say với tiếng nhạc của tâm hồn như lan đã tỏa ra từng câu chữ. Một thời mê say,
lãng mạn của người lính Tây Tiến còn như được gọi nhắc qua hình ảnh rất đẹp đẽ:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Hình ảnh của những bữa cơm lên khói, hương vị của nếp xôi đã nồng nàn mà tha thiết
như quyện chặt tâm hồn của người đi xa. Câu thơ đã chủ yếu gieo thanh bằng, tạo cảm
xúc lâng lâng chơi vơi, một chút bâng khuâng và nhung nhớ, một chút da diết khắc
khoải cũng làm nao lòng người khi nhớ về Tây Tiến. Viết về thời mê say ấy, tác giả
Quang Dũng có những câu thơ rất đỗi tài hoa.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Câu thơ thứ nhất được bẻ gãy làm đôi, gợi ra cái trập trùng và hiểm trở của núi rừng
Tây Tiến. Còn câu thơ thứ hai giống một tiếng buông lơi thật dịu nhẹ chơi vơi. Câu
thơ như đẩy tư duy người đọc về một hoài niệm nào đó đã quá xa vắng trong nỗi niềm
của tác giả: tưởng là mơ hồ và không xác định, tưởng là vu vơ bất chợt nhưng lại cứ
ám ảnh khắc khoải trong tâm trí tác giả, không những thế và câu thơ còn có tiết tấu
giai điệu rất rõ thể hiện tính nhạc rất cao. Như vậy người chiến sĩ cũng chính là một
người nghệ sĩ. Cuộc sống của thời kháng chiến không chỉ có gian khổ mất mát mà còn
đẹp lung linh ở trong tâm hồn người lính. Chính cuộc sống này, cuộc sống đầy chất
thơ mộng này, và đã xua tan đi những mỏi mệt gian lao trong đời sống chiến đấu của
những người lính. Tiếp đó, mạch cảm xúc ấy đã có sự chuyển đổi: đang ở giọng náo
nức giục giã và mê say chuyển sang giọng điệu trầm lắng, bâng khuâng pha một chút ít hoài niệm ngậm ngùi:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Hoài niệm ở đây của tác giả bắt đầu từ hình ảnh “chiều sương ấy”, không gian như
thoáng phủ một nỗi buồn thật sự mênh mang. Chữ “ấy” có ý nghĩa định vị về mặt
không gian như thể muốn đẩy những kỉ niệm lùi về một nơi rất xa, để nó giúp cho
người đọc cảm nhận được khoảng cách vời vợi của nhớ và thương. Những câu thơ gợi
đã nhiều hơn tả, các hình ảnh được gợi ra không phải là hình ảnh cụ thể chi tiết mà chi
là dáng hình, rất khó định hình, khó nắm bắt. Nhà thơ ấy dường như không miêu tả
cảnh mà còn chỉ gợi lại cái linh hồn của nó, hay là nói đúng hơn cảnh vật được nhìn
qua lăng kính trong nhớ thương, không rõ nét, mờ ảo, hư hư thực thực. Không phải
miêu tả lâu mà là những “hồn lau”, không phải miêu tả người mà mà cũng là “dáng
người”, người đọc cảm nhận được một không gian hoang sơ vắng lặng đượm một nỗi
buồn mênh mang. Đặc sắc nhất mà khổ thơ là việc sử dụng cấu trúc câu “có thấy” và
“có nhớ”, Đây không chỉ câu hỏi má còn giống như một lời gợi nhắc, một lời nhắn
nhủ vô cùng tha thiết ân tình. Phải chăng hồn lau, dáng người ấy đã trở thành những
hình ảnh ám ảnh tâm hồn của tác giả, để rồi khi gợi nhắc về nó giống như một điểm
nhấn xúc cảm. Đặc biệt, những sự biến đổi trong cách sử dụng các cụm từ “có thấy”,
”có nhớ” còn là sự thay đổi khác về giác quan, không chi là cái nhìn mà còn là những
tâm hồn, trái tim được đánh thức. Câu thơ thứ tư khá độc đáo vì nó xuất hiện hình ảnh
“nước lũ” đối lập với những hình ảnh “hoa đong đưa”: một bên là mạnh mẽ dữ dội,
một bên là nhẹ nhàng thật khẽ thật êm. Có lẽ hình ảnh “hoa đong đưa” không còn là
những hình ảnh tả thực mà đã trở thành hình ảnh diễn tả tâm trạng nỗi niềm tác giả.
Từ láy “đong đưa” khác với “đu đưa”, nó không chỉ miêu tả dáng hình và sự chuyển
động như là từ “đu đưa” mà đó còn là đầy tình ý, nó còn là sự đong đưa của ánh mắt
hoài niệm mê say, đầy sắc thái lãng mạn và phong cách sáng tạo ra nghệ thuật độc đáo
của Quang Dũng. Đọc Tây Tiến ta như sống lại một thời lửa cháy và cùng đoàn quân
lừng tiếng đã đi vào lịch sử. Để khắc họa chân dung người lính nhà thơ ấy cũng đã sử
dụng những chi tiết, hình ảnh thực của đoàn quân Tây Tiến những hình ảnh đó lại
được diễn tả bằng bút pháp lãng mạn để tô đậm thêm cái phi thường, tài hoa, và đem
đến cho người đọc một vẻ đẹp độc đáo hiếm có của người lính trong thời kỳ lịch sử:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Nhà thơ Quang Dũng đã gọi tên binh đoàn của mình bằng tên đó gọi khá thú vị “đoàn
binh không mọc tóc”. Thật thú vị khi những con người ấy đã lấy chính hiện thực gian
khổ khốc liệt để biến thành niềm kiêu hãnh, niềm tự tôn cho chính mình. Nhà thơ
Phạm Tiến Duật cũng từng gọi tiểu đội của mình bằng cái tên bắt nguồn từ hiện thực
cách thiếu thốn khắc nghiệt “tiểu đội xe không kính”, qua đó chúng ta thấy được tinh
thần lạc quan với chất lính dí dỏm hài hước. Câu thơ thứ hai đã tạo ra hai vế đối lập:
“quân xanh màu lá” và “dữ oai hùm”, một bên là cái thiếu thốn khó khăn gian khổ còn
một bên là khí phách anh hùng của người lính Tây Tiến. Ba tiếng “dữ oai hùm” đã tạo
nên một âm hưởng mạnh mẽ hùng tráng cho câu thơ, người đọc đã cảm nhận được khí
thế của đoàn quân bước ra trận, câu thơ ngắt nhịp mạnh đã tô đậm nét hùng dũng.
Những người lính Tây Tiến ấy cũng là những người lắm mộng nhiều mơ và những
người giàu khát vọng hoài bão. Đến đây nhà thơ cũng đã tạo ra nét vẽ chân thực về
hình ảnh của người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Hai câu thơ trên đã nhấn mạnh chữ “mộng”, “mơ”. Từ “trừng“được dùng khá đặc sắc,
nó cho thấy biết bao nhiêu tâm nguyện, bao nhiêu khát vọng hoài bão tự đáy lòng đều
đã dâng cả lên trên ánh mắt. “Mắt trừng” chỉ một hành động mạnh và nhưng không
phải là trừng trị, dọa nạt mà là cái nhìn đau đáu và khôn nguôi thể hiện những nhung
nhớ, ước ao khắc khoải. Chữ “mộng” đã khiến cho câu thơ như bị trùng xuống, ẩn
chứa cảm xúc bâng khuâng. Câu thơ của tác giả Quang Dũng gợi nhắc người đọc tới
một câu thơ của nhà thơ Nguyễn Đình Thi: “Những đêm dài hành quân nung nấu –
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu. Nỗi nhớ người yêu và nhớ “dáng kiều thơm” nào
đó thật đời thường và bình dị nhưng cũng thật cao quý. Nó đã khiến cho hình ảnh
người lính đã trở nên chân thực gần gũi hơn. Nỗi nhớ ấy trong hành trang của họ như
được tiếp thêm sức mạnh nghị lực để chiến đấu và chiến thắng, và nó như một điểm
tựa vững chắc cho những thanh niên học sinh chốn Hà Nội rời ghế nhà trường để tham
gia chiến trận – những con người “lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”.
Những người lính Tây Tiến đã sống anh hùng mà chết cùng anh hùng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Cái độc đáo ở đây là nhà thơ viết về sự một sự ra đi của họ nhưng không tô đậm sự
sầu thương bị lụy sự ai oán não nùng mà đã nhấn mạnh dũng khí hùng tráng, khí
phách anh hùng. Sau những câu thơ rắn rỏi ấy, đẹp đẽ đến đây âm điệu câu thơ cũng
chợt trầm và trùng xuống, nó cũng giống như một thước phim quay chậm.
Còn gì thiêng liêng hơn và cao cả hơn sự hi sinh, sự chấp nhận gian khổ của những
người lính. Trên con đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao mồ viễn
xứ của một trong những kẻ chết xa quê. Những người chiến sĩ của chúng ta nhìn với
ánh mắt bình thản bởi họ đã chấp nhận điều đó. Nếu câu thứ nhất tô đậm nên cái “Bi”
thì câu thứ hai tô đậm nét “Tráng” và “Hùng”. Câu thơ thứ hai cũng giống như một
cái hất đầu ngạo nghễ của anh lính trẻ Tây Tiến: bất chấp khó khăn, bỏ mặc chết chóc
và hiểm nguy cận kề, những người lính Tây Tiến vẫn kiên định trong ý chí, vô cùng
dũng cảm trong hành động, ngạo nghễ trong khí phách người anh hùng dân tộc. Tác
giả đã mượn hình ảnh “áo bào” để gợi tả cái sự ra đi của những người lính. Đặc biệt
nó còn gắn bó với hình ảnh thiêng liêng và tạo ra sắc thái trang trọng, và giảm bớt nỗi
buồn thương bị lụy. Nó cũng tạo ra một hình ảnh hết sức cảm động, giống như sự sẻ
chia đồng cảm của tác giả đối với những con người lính Tây Tiến. Câu thơ tiếp đã để
lại xuất hiện hình ảnh sông Mã – chứng nhân lịch sử. Sông Mã tấu lên “khúc độc
hành” – khúc ca đã đơn độc buồn thương. Chữ “gầm” – biện pháp nhân hóa, nồi nhớ
thương của những lòng người như hóa thân vào một nỗi nhớ thương của dòng sông
hay dòng sông ấy vẫn đang chở đi những khúc ca đã đau đớn của con người. “Anh về
đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở và thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của chính
mình. Tiếng gầm của dòng sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt người
con yêu dấu của giống nòi. Cuối cùng, sau khi hồi tưởng lại bình ảnh đoàn binh Tây
Tiến một đã thời mê say lãng mạn, tác giả Quang Dũng đã bộc lộ nỗi niềm mong ước gặp lại Tây Tiến:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi
Câu thơ trên đã trở về với mạch cảm xúc chung của bài thơ, cảm xúc thương nhớ và
nhưng vẫn mang trong nó âm hưởng tráng trí vang ngất ngời. Câu thơ nói đã về biệt
ly, về xa cách, có ngậm ngùi nuối tiếc nhưng vần đầy những dũng khí, quyết tâm.
Khoảng cách càng xa thăm thẳm thì nỗi nhớ trở nên vời vợi bởi xa Tây Tiến không
biết bao giờ mới được gặp lại. Người đọc đã cảm thấy nồi nhớ thương như là đang đầy
cả câu thơ trên. Hai câu cuối, với giọng điệu và mạch cảm xúc có sự chuyển hướng:
câu thơ cũng giống như một lời mời gọi, một lời nhắn nhủ và ước hẹn tha thiết ân tình.
Phải chăng đây là lời hẹn gặp mà Tây Tiến vào mùa xuân – mùa xuân của hội ngộ,
của chiến thắng oanh liệt. Điều đó chứng tỏ tác giả đã mong ngày gặp lại Tây Tiến và
trở về Tây Tiến chính là ngày mà chiến thắng. Câu thơ kết vang lên kiêu hãnh như
một lời thề, với lời hứa quyết tâm. Từ nồi nhớ về một đoàn binh, rồi về những con
người cụ thể đã hóa thân thành một nỗi nhớ về một mảnh đất, một quê hương, Tây
Tiến cũng đã trở thành nỗi nhớ, với niềm yêu tha thiết của Quang Dũng.
Nhà phê bình Phong Lan đã nhận định: “Tây Tiến là một tượng đài bất tử về người
lính vô danh” – bất tử bởi chính vẻ đẹp hào hoa và hào hùng bi tráng. Vì vậy, người
lính Tây Tiến Cũng qua bài thơ cùng tên của tác giả Quang Dũng sẽ sống mãi trong
cõi vĩnh hằng, trong thế giới nhân sinh.
Phân tích hình tượng người lính hay nhất
Quang Dũng được biết đến là một nhà thơ có tâm hồn phóng khoáng, hồn hậu và lãng
mạn. Ông đã mang cái chất hào hoa của người Hà Nội và cả của xứ Đoài để làm nên
chất men say lãng mạn ở nhiều tác phẩm của mình và bài thơ thể hiện thành công
phong cách lãng mạn, phóng khoáng của ông chính là Tây Tiến. Tác phẩm đặc thể
hiện thành công vẻ đẹp của hình tượng người lính Tây Tiến trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Tây Tiến được Quang Dũng sáng tác vào năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh và được
in trong tập Mây đầu ô. Hình ảnh người lính Tây Tiến được khắc họa dưới ngòi bút
của Quang Dũng mang một vẻ đẹp vừa bi tráng vừa lãng mạn tỏa sáng giữa núi rừng thiên nhiên.
Hình tượng người lính người lính Tây Tiến được khắc họa rất lạ để tả màu da khi bị sốt rét rừng:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm."
Người lính giữ cho mình một tư thế oai phong, hùng dũng là "dữ oai hùm”. Nhưng tư
thế đó được tả thực đến từng chi tiết. Người chiến sĩ không có tóc do những trận sốt
rét rất khủng khiếp mà hầu như ai cũng phải trải qua. Đoàn quân Tây Tiến đã ra đi
không ít người vì những căn bệnh nguy hiểm như vậy, người hành quân phải đối mặt
với mọi khó khăn, gian nguy, thiếu thốn. Chính Hữu đã từng miêu tả:
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.
Đằng sau ngoại hình là một sức mạnh tâm hồn:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm."
Một nét đẹp lãng mạn giữa khung cảnh hiểm nguy của cuộc kháng chiến. Có một thời
giấc mơ lãng mạn ấy được xem là mộng tưởng vô thực của tiểu tư sản thể hiện tâm
hồn yếu đuối không nên có ở người anh hùng ra trận. Tác giả đã đem đến cho ta sự
quý giá của những câu thơ tả thực như thế. Giấc mơ ấy thật bay bổng và cũng là sức
mạnh tinh thần của Tây Tiến. Những giấc mộng ấy đã biến thành động lực giúp người
chiến sĩ vượt qua bao gian khổ và thúc họ tiến về phía trước, vượt qua mọi kẻ thù.
Lí tưởng và khát vọng của người lính Tây Tiến được thể hiện một cách sâu sắc qua câu thơ:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh."
Tuổi trẻ khát vọng của những người lính trẻ tuổi vẫn còn đang ở phía trước nhưng Tổ
quốc thân yêu vẫn còn đang ở phía trước, không có tình yêu cao hơn Tổ quốc. Vì vậy
khát vọng của họ là được ra đi, được dâng hiến, xả thân. Bao chiến sĩ anh dũng vung
gươm ra chiến trường. Những người ra đi không ngoảnh lại với tình cảm tươi đẹp đã
được thể hiện và trở thành lí tưởng của người chiến sĩ.
Quang Dũng không hề tránh hiện thực khắc nghiệt:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh."
Trên chặng đường gian nan nhiều người lính không thể vượt qua và đã vĩnh viễn gục
lên súng mũ bỏ quên đời. Trên con đường hành quân có rất nhiều phải hi sinh. Sự hi
sinh đầy bi tráng của họ được khắc họa vô cùng đẹp:
"Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành."
“Áo bào thay chiếu anh về đất” lại nói về sự ra đi của họ và sang trọng hóa sự hi sinh
cao cả ấy. Người lính ngã xuống trên chiến trường chỉ có duy nhất manh chiếu sơ sài
thậm chí còn chẳng có chiếu. Sự hy sinh của người lính còn được thể hiện với giai
điệu của bản anh hùng ca: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Con sông Mã gắn với
hành trình cùng chia sẻ mọi buồn vui mất mát. Chữ gầm là tiếng khóc của thiên nhiên,
thể hiện cái chết oai hùng của người lính và nâng cái chết lên tầm sử thi. Quang Dũng
đã sáng tạo thơ ca dân tộc với cái nhìn đầy lãng mạn. Hiện thực khốc liệt được nhìn
qua lăng kính lãng mạn không đem đến nỗi bi lụy mà là sự sang trọng, hào hùng và đẹp đẽ.
Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến được khắc họa qua những câu thơ hào hùng và lãng
mạn bằng bút pháp đa dạng, ngôn ngữ quen thuộc, độc đáo, kết hợp với các hình ảnh ẩn dụ đầy ý nghĩa.
Người lính Tây Tiến trong bài thơ vừa bi tráng vừa lãng mạn với tâm hồn lạc quan, tin
tưởng trước mọi gian khổ, khó khăn để đem đến độc lập, tự do cho đất nước.
Phân tích chân dung người lính Tây Tiến
Quang Dũng không hề che giấu những khó khăn, gian khổ và hiện thực nghiệt ngã mà
người lính phải chịu đựng. Tuy nhiên, sự thật ấy không được miêu tả trần trụi, khô
cứng mà thông qua cái nhìn lãng mạn, thi vị:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Người lính Tây Tiến hiện lên với một vẻ đẹp ngoại hình dữ dội, lẫm liệt. Những chàng
trai với cái đầu “không mọc tóc”, với nước xả ngăn ngắt xanh đâu phải sản phẩm của
trí tưởng tượng để tạo nên sự li kì. Đó là hiện thực của những năm tháng không thể
nào quên. Có thể, do người lính chủ động cạo trọc để thuận tiện khi đánh nhau với
giắc, có thể do ốm đau, tật bệnh khiến các anh rụng tóc, trụ đầu. Cách dùng từ độc đáo
đã đảo thế bị động thành chủ động như một nhà phê bình đã viết: “Không phải là các
anh không thể mọc tóc mà dường như không thèm mọc tóc”. Chất ngang tàng, kiêu
dũng, xem thường gian lao của người chiến binh đã được thể hiện từ những chi tiết
đời thường như thế. Nét vẽ thứ hai về người lính Tây Tiến qua hình ảnh “Quân xanh
màu lá dữ oai hùm”. Đó là màu xanh của bộ quân phục người chiến sĩ hay màu xanh
của những vòm lá ngụy trang hay màu xanh vì căn bệnh sốt rét rừng hằn in trên làn da đoàn quân Tây Tiến.
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Ánh “mắt trừng” chứa đầy cảm xúc, đầy nội tâm. Phải chăng đó là ánh mắt căm phẫn,
uất nghẹn như muốn nuốt chửng kẻ thù xâm lăng, cũng có thể là ánh mắt đau đáu về
quê hương, ánh mắt bồn chồn, thao thức thăm thẳm suy tư nặng trĩu nỗi niềm. Đằng
sau ánh mắt ấy là cả một niềm khao khát, mang theo giấc mộng chiến thắng, hứa hẹn
ngày trở về, đôi khi giữa ánh mắt xa xăm, rạo rực, khắc khoải xen lẫn giấc mơ về Hà
Nội, nhớ Hà Nội – dải đất thiêng ngàn năm văn hiến.
Trong bài thơ Tây Tiến, ngòi bút Quang Dũng không chỉ hướng về vẻ đẹp lãng mạn,
hào hoa mà còn tập trung thể hiện chất hào hùng, bi tráng:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Giọng thơ bỗng nhiên lắng xuống da diết hơn, đắm sâu vào cõi lòng người đọc, dấy
lên nỗi mất mát tang tóc đau thương được dồn nén trong từ “rải rác”. Trên những
chặng đường hành quân bao đồng chí, đồng đội của Quang Dũng ngã xuống, gửi thân
xác mình nơi khe suối sườn đèo, cứ thế nỗi đau triền miên, nỗi đau này chưa vơi, nước
mắt này chưa ráo thì nỗi đau khác đã cọ cứa vào trái tim những người còn sống.
Hai câu thơ khép lại một lần nữa tô đậm đức hi sinh của những chàng trai đất Hà
thành được Quang Dũng thể hiện qua âm hưởng thơ trầm hùng, bi tráng:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Quang Dũng có lần tâm sự: “lính Tây Tiến ngã xuống, manh chiếu không đủ che thân,
đồng chí, đồng đội vào những bản làng xa xôi để xin chiếu, khi hiểu rõ mục đích của
việc sử dụng chiếu, già làng không cầm được nước mắt, họ cùng nhau đan những phên
nứa cho cho các anh bó gối thi hài đồng đội”.
Bốn câu thơ cuối một lần nữa nhấn mạnh lời thề thiêng liêng vì tinh thần sẵn sàng xả
thân cho Tổ quốc. Dù khó khăn gian khổ nhưng không một người chiến sĩ nào thoái thác nhiệm vụ:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.
“Tây Tiến” là một bài thơ xuất sắc của Quang Dũng và thơ ca kháng chiến chống
Pháp. Phân tích hình tượng người lính Tây Tiến được tái hiện đầy lãng mạn với một
tinh thần bi tráng. Với tác phẩm “Tây Tiến”, Quang Dũng đã góp vào viện bảo tàng
người chiến sĩ Việt Nam một bức chân dung đẹp và độc đáo.
Phân tích hình ảnh người lính Tây Tiến đầy đủ Bài văn mẫu 1
Vào một đêm cuối năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, cái làng nhỏ nằm ven bờ con sông
Đáy, Quang Dũng bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm còn tươi nguyên. Năm ấy Quang
Dũng là đội trưởng đoàn quân Tây Tiến làm nhiệm vụ phối hợp với bộ đội lào bảo vệ
biên giới Việt – Lào, đánh địch trên tuyến đường rừng núi Tây Bắc từ Lai Châu đến
bắc Thanh Hóa. Những người lính của trung đoàn Tây Tiến sống vô cùng thiếu thốn
khổ cực, vì rừng thiêng nước độc, sốt rét hoành hành, thuốc men ít ỏi, vì dưới hành
quân là trập trùng núi rừng hoang vu, hiểm trở.
Những người lính Tây Tiến hầu hết là thanh niên Hà Nội, phần đông là học sinh, tiểu
tư sản trí thức, tuy chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ vẫn phơi phới tinh thần lãng
mạn anh hùng. Quang Dũng viết bài thơ Tây Tiến năm 1918 (trước đây lấy tên là
"Nhớ Tây Tiến”) để thể hiện nỗi nhớ và niềm yêu về một thời chiến đấu gian khổ mà
hào hùng, dữ dội mà mê say.
Để khắc họa chân dung người lính, Quang Dũng đã sử dụng những chi tiết, hình ảnh
thực của đoàn quân Tây Tiến nhưng những hình ảnh đó lại được diễn tả bằng bút pháp
lãng mạn để tô đậm cái phi thường tài hoa, đem đến cho người đọc một vẻ đẹp độc
đáo hiếm có của người lính trong một thời kì lịch sử. Bài thơ được viết theo mạch cảm
xúc nhớ thương nên nó mở đầu bằng câu thơ biểu hiện nỗi nhớ ấy.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Hình ảnh sông Mã anh hùng mở đầu bài thơ như hé mở cho người đọc những câu
chuyện oai hùng của binh đoàn Tây Tiến. Trên bước đường ra trận, những người lính
Tây Tiến có sông Mã đi cùng bởi vậy cũng thật tự nhiên mà ngay từ đầu bài thơ
Quang Dũng gọi tên "sông Mã". Câu thơ giống như một tiếng gọi tha thiết ám ảnh,
khoảng cách địa lý thì xa xôi vời vợi mà nỗi nhớ lại luôn thường trực. Trong lòng câu
thơ thứ hai dùng hai chữ "nhớ", lại được ngắt nhịp 4/3 đã diễn tả tinh tế những thổn
thức, mong mỏi, khao khát nhung nhớ của tác giả. Cái đặc sắc chính là ở ba chữ "nhớ
chơi vơi", chữ "chơi vơi” làm cho người đọc có cảm nhận như lan tỏa vào không gian
và thấm sâu vào lòng người, một chút chống chếnh, một chút hụt hẫng, một chút nao
lòng. Nỗi nhớ Tây Tiến tưởng như xa mà lại hóa gần, tưởng dịu nhẹ mơn man và lại
có sức ám ảnh khôn xiết. Không những thế, người đọc còn như nghe được trong
những chữ "nhớ chơi vơi" ấy âm hưởng của núi rừng, của sông suối Tây Tiến. Câu thơ
reo vần "ơi" tạo ra được độ dịu nhẹ lâng lâng trong cảm xúc, ở đây cảm xúc nhớ
thương giống như một sợi tơ tình bện chặt lòng người. Ngay sau đó nhà thơ đã cụ thể hóa nỗi nhớ của mình.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Các địa danh Sài Khao, Mường Lát trong nỗi nhớ của Quang Dũng trở nên thân gần kì
lạ, viết về hình ảnh đoàn quân mỏi "Quang Dũng lại điểm thêm vào đó hình ảnh
"sương lấp", "hoa về", "đêm hơi". Rõ ràng là ở đây chất hiện thực đã đi liền với chất
lãng mạn tạo nên nét vẽ độc đáo về Tây Tiến.
Trong cảm xúc nhớ thương của nhà thơ, bức tranh Tây Tiến như được khoác sắc màu
huyền ảo, thơ mộng, giàu sắc thái lãng mạn khung cảnh rừng núi mà đoàn quân Tây
Tiến bước chân qua vừa thơ mộng vừa hùng vĩ. Trong nỗi nhớ, những kỷ niệm còn
tươi nguyên như sống dậy, nhà thơ nhớ đến hình ảnh một thời gian khổ:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Hai câu thơ mang giá trị tạo hình cao diễn tả một cách cụ thể và sinh động nhất những
gian khổ của người lính Tây Tiến trên đường ra trận. Câu thơ thứ nhất ngắt nhịp 4/3
và chủ yếu được gieo thanh trắc đã gợi cho người đọc cảm nhận về một sự trúc trắc
gập ghềnh đầy hiểm nguy. Nhưng cái hay của câu thơ chính ở hai từ láy "khúc khuỷu,
"thăm thẳm", nó gợi cho người đọc những cảm nhận về một không gian được mở ra
nhiều chiều; cao, rộng, sâu, xa, người đọc như sẻ chia được cùng với người lính những
vất vả, gian khó. Câu thơ thứ hai chữ "heo hút" được dùng rất đặc sắc, nó khác với
hun hút, nếu “hun hút” gợi được độ sâu thì heo hút không giới hạn, từ heo hút không
chỉ gợi ra độ sâu mà còn thêm cả cảm giác hoang vắng, lạnh lẽo, hiu quạnh. Địa hình
chiến đấu của người lính Tây Tiến quả thực đầy gian khó và nguy hiểm. Hơn thế nữa
ba chữ "súng ngửi trời" được sử dụng thật độc đáo, nó cũng giống như hình ảnh "đầu
súng trăng treo" của Chính Hữu bao trùm lên hình ảnh là một không gian tưởng tượng
lãng mạn, nhưng nó được bắt nguồn từ cuộc sống hiện thực, từ con mắt tinh tế và ngòi
bút đa tài của nhà thơ. Nhờ hình ảnh "súng ngửi trời", câu thơ nói về những gian khổ
vất vả nhưng lại làm sáng ngời lên khí phách ngạo nghễ và tư thế hiên ngang của con
người, ngoài ra nó còn thể hiện một chút dí dỏm tinh nghịch, một phong cách lính trẻ
trung và lãng mạn. Giữa thiên nhiên hoang sơ vắng lạnh, hình ảnh con người không
cảm thấy bé nhỏ cô đơn mà lại khẳng định tư thế làm chủ, khẳng định bản lĩnh của
một chiến sĩ anh hùng và tinh thần lạc quan của con người. Không những thế, hình
ảnh một thời gian khổ còn được biểu hiện qua những câu thơ:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Hình ảnh "oai linh thác gầm thét" và "Mường Hịch cọp trêu người" là những dẫn
chứng sống động nhất về những gian khổ hiểm nguy mà người lính Tây Tiến đã phải
trải qua khoảng thời gian "chiều chiều", "đêm đêm" trở thành một khoảng thời gian
ước lệ, nó giống như một ám ảnh về Tây Tiến thời gian in sâu trong tiềm thức của
chính tác giả. Viết về những gian khổ của người lính, ngòi bút của Quang Dũng cũng
ghi lại những hình ảnh hết sức chân thực:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Bao nhiêu vất vả nhọc nhằn của người lính được thể hiện qua hai chữ "dãi dầu". Tuy
nhiên từ "dãi dầu" vẫn giúp cho người đọc cảm nhận được chút phong trần của người
lính trên đường hành quân, phải chăng vì thế hình ảnh của họ thấp thoáng bóng dáng
của người tráng sĩ, chinh phu thuở nào. Qua những chữ "bỏ quên đời" ta thấy khí
phách bản lĩnh của người lính lại được ngời sáng từ chính những hiện thực tưởng
chừng như gian khổ khốc liệt – một chút bất cần phó mặc nhưng hơn hết là một tráng
trí anh hùng, dẫu là mỏi mệt hay dầu là hy sinh thì họ vẫn coi những biểu hiện ấy rất
đỗi nhẹ nhàng. Những người lính Tây Tiến khi chiến đấu thật anh dũng quả cảm
nhưng những giây phút nghỉ ngơi của họ cũng đầy lãng mạn, mê say:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Họ bỏ lại sau lưng mình những hòn đạn, gạt bỏ những lo lắng vất vả của cuộc chiến,
giữa đời thường, người lính Tây Tiến hiện lên thật bình dị, gần gũi. Một buổi liên
hoan bỗng chốc biến thành một ngày hội tưng bừng náo nhiệt qua lăng kính lãng mạn
của người chiến sĩ không gian của đêm hội đuốc hoa thật rực rỡ lung linh, câu thơ tràn
đầy ánh sáng và màu sắc, trong thơ như có họa. Chữ "bừng" được dùng rất hay, nó
không chỉ là sự bùng lên của ánh sáng, của bó đuốc đêm hội mà là sự bùng lên của
niềm vui, niềm say mê kiêu hãnh. Trong sự náo nức của đêm hội ấy, hình ảnh người
em gái là hình ảnh trung tâm, bao nhiêu con mắt như đổ dồn về phía người em gái để
mà kìa em xiêm áo tự bao giờ" — một cảm xúc ngạc nhiên đến sững sờ nhưng đi liền
ngay sau đó là cảm xúc ngây ngất đắm đuối và say mê. Từ Hán việt "xiêm áo" tạo ra
nét trang trọng, ở đây hình ảnh người em gái như được mỹ lệ hóa. Những chữ "tự bao
giờ" như không giấu nổi cảm xúc ngây ngất của những người lính Tây Tiến, họ ngỡ
như hình ảnh của đêm hội với người em gái ấy đã có từ lâu lắm để rồi bất chợt lại thấy
ngỡ ngàng. Bức tranh đêm hội được lung linh hóa, mỹ lệ hóa để rồi người đọc tưởng
người em gái ấy tựa như một nàng tiên bước ra từ cổ tích giữa hiện thực khốc liệt dữ
dội người ta bắt gặp hình ảnh như là huyền thoại, đây chính là sắc thái lãng mạn của
bài thơ. Điểm thêm vào bức tranh đêm hội ấy là hình ảnh của nhạc, của khèn, nhịp thơ
đồng thời là nhịp của tiếng lòng náo nức mê say, tiếng nhạc của tâm hồn như lan tỏa
ra từng câu chữ. Một thời mê say và lãng mạn của người lính Tây Tiến còn được gọi
nhắc qua hình ảnh rất đẹp đẽ:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Hình ảnh của cơm lên khói, hương vị của nếp xôi nồng nàn mà tha thiết như quyện
chặt tâm hồn người đi xa. Câu thơ chủ yếu gieo thanh bằng, tạo ra một cảm xúc lâng
lâng chơi vơi, một chút bâng khuâng nhung nhớ, một chút da diết khắc khoải cũng đủ
làm nao lòng người khi nhớ về Tây Tiến. Viết về một thời mê say ấy, Quang Dũng có
những câu thơ rất đỗi tài hoa.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Câu thơ thứ nhất như được bẻ gãy làm đôi, gợi ra cái trập trùng hiểm trở của núi rừng
Tây Tiến. Còn câu thơ thứ hai giống như một tiếng buông lơi thật dịu nhẹ chơi vơi.
Câu thơ như đẩy tư duy người đọc về một hoài niệm nào đó đã xa vắng trong nỗi niềm
của tác giả: tưởng là mơ hồ không xác định, tưởng là vu vơ bất chợt nhưng lại cứ ám
ảnh và khắc khoải trong tâm trí tác giả, không những thế, câu thơ còn có tiết tấu giai
điệu rất rõ thể hiện tính nhạc cao. Như vậy người chiến sĩ cũng chính là người nghệ sĩ.
Cuộc sống kháng chiến không chỉ có gian khổ mất mát mà còn đẹp lung linh trong
tâm hồn người lính. Chính cuộc sống này, cuộc sống đầy chất thơ và mộng này, đã
xua tan đi những mỏi mệt gian lao trong đời sống chiến đấu của người lính. Tiếp đó,
mạch cảm xúc đã có sự chuyển đổi: đang ở giọng náo nức giục giã mê say chuyển
sang giọng điệu trầm lắng, bâng khuâng pha một chút hoài niệm ngậm ngùi:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Hoài niệm của tác giả bắt đầu từ hình ảnh "chiều sương ấy", không gian như thoáng
phủ một nỗi buồn mênh mang. Chữ "ấy" có ý nghĩa định vị về mặt không gian như
muốn đẩy những kỉ niệm lùi về một nơi rất xa, nó giúp cho người đọc cảm nhận được
khoảng cách vời vợi của nhớ thương. Những câu thơ gợi nhiều hơn tả, các hình ảnh
được gợi ra không phải là những hình ảnh cụ thể chi tiết mà chi là dáng, là hình, rất
khó định hình, khó nắm bắt. Nhà thơ dường như không miêu tả cảnh mà chỉ gợi lại cái
linh hồn của nó, hay nói đúng hơn cảnh vật được nhìn qua lăng kính nhớ thương,
không rõ nét, mờ mờ ảo ảo, hư hư thực thực. Không phải miêu tả lâu mà là "hồn lau”,
không phải miêu tả người mà là “dáng người”, người đọc cảm nhận được một không
gian hoang sơ vắng lặng đượm một nỗi buồn mênh mang. Đặc sắc nhất của khổ thơ là
việc sử dụng cấu trúc câu “có thấy”, "có nhớ", Đây không chỉ là câu hỏi má còn giống
như một lời gợi nhắc, một lời nhắn nhủ tha thiết ân tình. Phải chăng hồn lau ấy, dáng
người ấy đã trở thành những hình ảnh ám ảnh tâm hồn tác giả, để rồi khi gợi nhắc về
nó giống như một điểm nhấn của xúc cảm. Đặc biệt, sự biến đổi trong cách sử dụng
các cụm từ "có thấy", ”có nhớ” còn là sự thay đổi về giác quan, không chi là cái nhìn
mà còn là tâm hồn, trái tim được đánh thức. Câu thơ thứ tư khá độc đáo, nó xuất hiện
hình ảnh "nước lũ" đối lập với hình ảnh “hoa đong đưa": một bên là cái mạnh mẽ dữ
dội, một bên là cái nhẹ nhàng thật khẽ thật êm. Có lẽ hình ảnh "hoa đong đưa" không
còn là hình ảnh tả thực mà đã trở thành hình ảnh diễn tả tâm trạng nỗi niềm của tác
giả. Từ láy "đong đưa" khác với từ láy "đu đưa", nó không chỉ miêu tả dáng hình và
sự chuyển động như từ "đu đưa" mà còn là đầy tình ý, nó còn là sự đong đưa của ánh
mắt đầy hoài niệm mê say, đầy sắc thái lãng mạn và phong cách sáng tạo nghệ thuật
độc đáo của Quang Dũng. Đọc Tây Tiến chúng ta như sống lại một thời lửa cháy cùng
đoàn quân lừng tiếng đã đi vào lịch sử. Để khắc họa chân dung người lính, nhà thơ đã
sử dụng những chi tiết, hình ảnh thực của đoàn quân Tây Tiến nhưng những hình ảnh
đó lại được diễn tả bằng bút pháp lãng mạn để tô đậm cái phi thường, tài hoa, đem đến
cho người đọc một vẻ đẹp độc đáo hiếm có của người lính trong thời kỳ lịch sử:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Nhà thơ Quang Dũng gọi tên binh đoàn của mình bằng tên gọi khá thú vị "đoàn binh
không mọc tóc”. Thật thú vị khi những con người ấy lại lấy chính hiện thực gian khổ
khốc liệt để biến thành niềm kiêu hãnh và tự tôn cho chính mình. Nhà thơ Phạm Tiến
Duật cũng đã từng gọi tiểu đội của mình bằng cái tên bắt nguồn từ hiện thực thiếu
thốn khắc nghiệt "tiểu đội xe không kính", qua đó ta thấy được tinh thần lạc quan và
chất lính dí dỏm hài hước. Câu thơ thứ hai tạo ra hai vế đối lập: "quân xanh màu lá"
với "dữ oai hùm", một bên là cái thiếu thốn khó khăn gian khổ, một bên là khí phách
anh hùng của những người lính Tây Tiến. Ba tiếng "dữ oai hùm" tạo nên một âm
hưởng mạnh mẽ hùng tráng cho câu thơ, người đọc cảm nhận được khí thế của đoàn
quân ra trận, câu thơ ngắt nhịp mạnh tô đậm nét hùng dũng. Những người lính Tây
Tiến cũng là những người lắm mộng nhiều mơ, những người giàu khát vọng hoài bão.
Đến đây nhà thơ đã tạo ra nét vẽ chân thực về hình ảnh người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Hai câu thơ đã nhấn mạnh chữ "mộng" và "mơ”. Từ "trừng“được dùng khá đặc sắc, nó
cho thấy bao nhiêu tâm nguyện, bao nhiêu khát vọng hoài bão tự đáy lòng đêu dâng cả
lên trên ánh mắt. "Mắt trừng" chỉ một hành động mạnh, nhưng không phải là trừng trị,
dọa nạt mà là cái nhìn đau đáu, khôn nguôi thể hiện những nhung nhớ, ước ao đến
khắc khoải. Chữ "mộng" khiến cho câu thơ như bị trùng xuống, ẩn chứa xúc cảm bâng
khuâng. Câu thơ của Quang Dũng gợi nhắc người đọc tới một câu thơ của Nguyễn
Đình Thi: “Những đêm dài hành quân nung nấu – Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Nỗi nhớ người yêu nhớ "dáng kiều thơm” nào đó thật đời thường, bình dị nhưng cũng
thật cao quý. Nó khiến cho hình ảnh người lính trở nên chân thực gần gũi hơn. Nỗi
nhớ ấy trong hành trang của họ như tiếp thêm sức mạnh nghị lực để chiến đấu và
chiến thắng, nó như một điểm tựa vững chắc cho những thanh niên học sinh Hà Nội
rời ghế nhà trường tham gia chiến trận – những con người "lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”.
Những người lính Tây Tiến sống anh hùng mà chết cùng anh hùng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đì chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Cái độc đáo là nhà thơ viết về sự ra đi của họ nhưng không tô đậm sự sầu thương bị
lụy sự ai oán não nùng mà nhấn mạnh dũng khí hùng tráng, khí phách anh hùng. Sau
những câu thơ rắn rỏi, đẹp đẽ đến đây âm điệu câu thơ chợt trầm và trùng xuống, nó
giống như một thước phim quay chậm.
Còn gì thiêng liêng và cao cả hơn sự hi sinh, sự chấp nhận gian khổ của người lính.
Trên đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao mồ viễn xứ của những kẻ
chết xa quê. Nhưng những người chiến sĩ của chúng ta nhìn với ánh mắt bình thản bởi
họ chấp nhận điều đó. Nếu câu thứ nhất tô đậm cái "Bi" thì câu thứ hai tô đậm nét
"Tráng", "Hùng". Câu thơ thứ hai giống như một cái hất đầu ngạo nghễ của anh lính
Tây Tiến: bất chấp khó khăn, bỏ mặc chết chóc hiểm nguy cận kề, những người lính
Tây Tiến vẫn kiên định trong ý chí, dũng cảm trong hành động, ngạo nghễ trong khí
phách người anh hùng. Tác giả mượn hình ảnh "áo bào" để gợi tả sự ra đi của những
người lính. Đặc biệt nó còn gắn với hình ảnh thiêng liêng và tạo ra sắc thái trang
trọng, giảm bớt nỗi buồn thương bị lụy. Nó tạo ra một hình ảnh hết sức cảm động,
giống như một sự sẻ chia đồng cảm của tác giả đối với những người lính Tây Tiến.
Câu thơ tiếp lại xuất hiện hình ảnh sông Mã – chứng nhân của lịch sử. Sông Mã tấu
lên "khúc độc hành" – khúc ca đơn độc buồn thương. Chữ "gầm" – biện pháp nhân
hóa, nồi nhớ thương của lòng người như hóa thân vào nỗi nhớ thương của dòng sông
hay dòng sông ấy đang chở đi những khúc ca đau đớn của con người. “Anh về đất” là
hóa thân cho dáng hình xứ sở, thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình. Tiếng
gầm của sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt người con yêu dấu của
giống nòi. Cuối cùng, sau khi đã hồi tưởng lại bình ảnh đoàn binh Tây Tiến một thời
mê say lãng mạn, Quang Dũng đã bộc lộ nỗi niềm mong ước gặp lại Tây Tiến:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi
Câu thơ đã trở về với mạch cảm xúc chung của bài thơ, cảm xúc thương nhớ, nhưng
vẫn mang trong nó âm hưởng tráng trí ngất ngời. Câu thơ nói về biệt li, về xa cách, có
ngậm ngùi nuối tiếc nhưng vần đầy dũng khí, quyết tâm. Khoảng cách càng xa thăm
thẳm thì nỗi nhớ càng trở nên vời vợi bởi xa Tây Tiến không biết bao giờ mới gặp lại.
Người đọc cảm thấy nồi nhớ thương như là đang đầy cả câu thơ. Hai câu cuối, giọng
điệu và mạch cảm xúc có sự chuyển hướng: câu thơ giống như một lời mời gọi, một
lời nhắn nhủ, ước hẹn tha thiết ân tình. Phải chăng đây là lời hẹn gặp Tây Tiến vào
mùa xuân – mùa xuân của hội ngộ, của chiến thắng. Điều đó chứng tỏ tác giả mong
ngày gặp lại Tây Tiến, trở về Tây Tiến chính là ngày chiến thắng. Câu thơ kết vang
lên đầy kiêu hãnh như một lời thề, lời hứa quyết tâm. Từ nồi nhớ về một đoàn binh, về
những con người cụ thể đã hóa thân thành nỗi nhớ về một mảnh đất, một quê hương,
Tây Tiến đã trở thành nỗi nhớ, niềm yêu tha thiết của Quang Dũng.
Nhà phê bình Phong Lan nhận định: “Tây Tiến là một tượng đài bất tử về người lính
vô danh” – bất tử bởi chính những vẻ đẹp hào hoa, hào hùng bi tráng. Vì vậy, người
lính Tây Tiến qua bài thơ cùng tên của Quang Dũng sẽ sống mãi trong cõi vĩnh hằng
và trong thế giới nhân sinh. Bài văn mẫu 2
Trong nền văn học nước nhà, thơ ca Cách Mạng Việt Nam luôn được coi là tài sản vô
giá của dân tộc, bởi chúng phản ánh cả một giai đoạn lịch sử đấu tranh hào hùng của
đất nước và con người Việt. Đặc biệt trong thời kì kháng chiến, với cảm hứng yêu
nước, thi ca đã thực sự hun đúc nên tượng đại của những chiến sĩ anh hùng, những
“Thạch Sanh của thế kỉ XX”. Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ trở thành hình tượng đẹp
nhất, đáng tự hào nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Họ là những người sống có
lí tưởng sẵn sàng lấy máu mình để tô thắm lá cờ cho Tổ quốc, đồng thời đó cũng tràn
đầy tâm hồn lãng mạn hào hoa. Qua việc tìm hiểu hình ảnh anh bộ đội trong bài thơ
“Tây Tiến”, một bài thơ tiêu biểu nhất của Quang Dũng nói riêng, của thơ ca kháng
chiến chống Pháp nói chung, chúng ta có thể thấy rõ.
"Tây Tiến" là tên của một đơn vị bộ đội được thành lập năm 19471947, giữa những
ngày đầu vô cùng gian khổ của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Lính Tây Tiến
phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên, trí thức trẻ.
Đơn vị này hoạt động chủ yếu trên địa bàn núi rừng miền Tây Bắc sang tới Thượng
Lào, có nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt- Lào và phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao
lực lượng quân đội Pháp. Sinh hoạt vô cùng thiếu thốn và gian khổ nhưng lính Tây
Tiến vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn anh hùng. Bài thơ được viết ở Phù Lưu Chanh
(Hà Tây) cuối năm 1948, lúc Quang Dũng rời xa đơn vị chưa lâu, Bài thơ ban đầu có
tên là Nhớ Tây Tiến, sau đổi lại là Tây Tiến. Qua nỗi nhớ cảnh vật và con người Tây
Tiến, bài thơ bày tỏ niềm ngưỡng mộ những người lính trong kháng chiến chống Pháp
và ngợi ca một thời gian khổ mà anh hùng trong lịch sử dân tộc. Nỗi nhớ ấy xuyên
suốt cả ba đoạn và bốn câu kết thúc của bài thơ.
Trước hết là khổ thơ đầu của bài, Quang Dũng thể hiện sự thể hiện nỗi nhớ của mình
về đoàn quân Tây Tiến thông qua nỗi nhớ ấy ta thấy được những hình ảnh bi tráng thể
hiện vẻ đẹp của những anh hùng Tây Tiến:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Nỗi nhớ ấy bắt đầu bằng tiếng gọi Tây Tiến ơi. Tiếng gọi đó sao mà nghe tha thiết như
thế, nó như vọng vào không gian của con sông Mã, quay ngược lại với những kỉ niệm
thời xưa. Một thời đạn bom đó đã để lại nỗi ám ảnh cho những người trực tiếp tham
gia chiến đấu. Cách hiệp vần ở những chữ cuối mỗi câu khiến cho câu thơ càng vang
xa, ngân mãi trong đêm: “ơi, vơi, hơi”. Nó giống như lúc những anh lính tây tiến trút
hơi thở mệt mỏi sau một ngày hành quân. Hai địa danh Sài Khao và Mường Lát hiện
lên khắc sâu vào nỗi nhớ của tác giả. Hai địa danh ấy gắn với những cuộc hành quân
của đoàn quân tây tiến. “Đêm hơi” khiến cho độc giả nghĩ tới nhiều sự vật kì vĩ, đêm
hơi có thể là đêm đầy sương và hơi sương, đêm hơi còn là đêm của không khí lạnh của
rừng sâu, nhưng cũng có thể là sự di chuyển nhẹ nhàng của những chiến sĩ đoàn quân
tây tiến hay chính là những hơi sương trong đêm hành quân ấy thể hiện những khó
khăn vất vả của đoàn quân. Những khó khăn của những người lính tây tiến lại trở nên
đẹp đẽ và nên thơ trong những vần thơ của Quang Dũng. Đó là những gian nan mà
những người lính phải trải qua, chính những gian nan đó lại càng tô đậm vẻ đẹp bi
tráng của họ… những triền dốc khiến người ta mới nhìn đã thấy ngại, hai từ thăm
thẳm trong câu thơ khiến độ hun hút của những con dốc lại càng trở nên nguy hiểm
biết bao nhiêu.chưa dừng lại đó,những hình ảnh hun hút, đầu súng của những người
lính đang đùa giỡn với mây trời.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Những chi tiết, hình ảnh thơ của tác giả đầy ấn tượng. Sương dày như lấp cả đoàn
quân, mưa nhiều đến nỗi làm cho những ngôi nhà như trôi bồng bềnh giữa biển khơi.
Nhiều câu thơ sử dụng hàng loạt thanh trắc: “dốc”, “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” làm
hiện lên cái gập ghềnh, thăm thẳm, khúc khuỷu, cheo leo của con đường hành quân.
Những độ cao độ sâu ấy được tính bằng ngàn thước, nhấn mạnh vào những gian khổ
mà đoàn quân phải vượt qua. Tiếp đó là những chữ dùng rất bạo, nhất là ba chữ “súng
ngửi trời” gợi lên độ cao chóng mặt.
Hai câu sau có sự phối thanh rất độc đáo. Điệp ngữ "ngàn thước" là một ước lệ nghệ
thuật có tính định lượng, khắc họa vẻ đẹp hùng vĩ, chênh vênh, kì thú của núi rừng
miền Tây. Yếu tố tương đồng của điệp ngữ "ngàn thước" và tính chất tương phản của
các động từ "lên – xuống"trong hai vế câu đã tạo ra cảm giác về một nét gập đột ngột,
dữ dội cho câu thơ, cũng là cách để nhà thơ gợi tả thật tài hoa độ của của dốc, độ sâu
của vực: bên này đường lên núi dựng đứng, vút cao; bên kia vực đổ xuống hun hút,
hiểm trở. Trong cả câu thơ đặc biệt giàu tính tạo hình và biểu cảm, dốc núi miền Tây
được miêu tả hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng đều khắc họa được đồng thời cả sự
hiểm trở lẫn vẻ đẹp hùng vĩ, kì thú. Thông qua bức tranh thiên nhiên, có thể thấy vẻ
đẹp tâm hồn của những người lính Tây Tiến: họ lạc quan, mạnh mẽ, coi thường mọi
gian truân, vất vả; những thử thách của thiên nhiên chỉ càng làm rõ hơn ý chí, sức
mạnh, tâm hồn trẻ trung và tư chất nghệ sĩ của họ. Sau những câu thơ hun hút, nhọc
nhằn miêu tả dốc núi, câu thơ tả mưa miên man trong bảy thanh bằng, cùng với rất
nhiều âm tiết mở; câu thơ đã gợi tả một không gian mênh mang, dàn trải, nhạt nhòa
trong mưa "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi". Dòng thơ mở ra một khoảng không gian
bát ngát, câu thơ như bay ngang trời. Ta như hình dung được người lính đang leo lên
những cồn mây, một hôm nào đó, dừng chân bên dốc núi phóng tầm mắt nhìn ngang
ra xa, Ánh mắt những người lính xa nhà bâng khuâng hướng tới những ngôi nhà bồng
bềnh, thấp thoáng, ẩn hiện trong màn mưa hư ảo… Sắc thái phiếm chỉ khiến cụm từ
"nhà ai" trở nên mơ hồ, xa xăm. Sắc thái nghi vấn lại gợi nỗi trăn trở trong lòng người.
Cả câu thơ chỉ có duy nhất tiếng "nhà" mang thanh huyền như một thoáng trầm lắng,
suy tư để rồi sau đó, tất cả những thanh không chơi vơi trong nỗi nhớ. Giữa mưa rừng
buốt lạnh, giữa núi rừng mênh mông, ở những địa danh như Sài Khao, Mường Lát,
Mường Hịch, Pha Luông rất xa lạ, làm tăng thêm ấn tượng về sự hoang sơ, kì vĩ, bí
mật của rừng thiêng, hình ảnh ngôi nhà gợi cảm giác ấm áp, nhớ nhung dễ làm xao
xuyến lòng người xa quê. Chúng cho biết không chỉ miền đất mà người lính đã đi qua
mà khi “vừa mới đọc lên thôi đã thấy mòn chân mỏi gối” (Trần Lê Văn).
Núi rừng miền Tây tiếp tục được miêu tả trong những nét vẽ đầy ấn tượng:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
"Thác gầm thét" và "cọp trêu người" là hai hình ảnh nhân hóa thể hiện sự dữ dội,
hoang sơ đầy bí hiểm của núi rừng miền Tây. Bút pháp đối lập của cảm hứng lãng
mạn được sử dụng trong phép đối thanh rất tinh tế ở hai câu thơ này. Nếu câu trên có
các tiếng "thác", "thét" mang thanh trắc ở âm vực cao thì câu dưới là các tiếng "Hịch",
"cọp" cũng mang thanh trắc nhưng lại thuộc âm vực thấp. Và có thể thấy những dấu
sắc trong câu trên như gợi âm thanh của tiếng thác nước man dại ở vòm cao thăm
thẳm; những dấu nặng liên tiếp trong câu thơ dưới lại như một phỏng tiếng bước chân
nặng nề của thú dữ, gợi ra cái thâm u, bí ẩn đầy đe dọa ở vòm tối thấp của núi rừng.
"Chiều chiều" và "đêm đêm" là những trạng ngữ chỉ dòng thời gian tuần hoàn, miên
viễn, vĩnh hằng. Những sức mạnh thiên nhiên khủng khiếp đã ngự trị núi rừng miền
Tây không phải một chiều, một đêm mà là "chiều chiều – đêm đêm" – sự ngự trị muôn
đời! Nhưng cũng chính điều này lại càng khiến chân dung người chiến sĩ Tây Tiến
thêm hào hùng, mạnh mẽ: họ đã hành quân qua những vùng đất hoang sơ, dữ dội,
vắng bóng con người, những vùng đất tưởng như chỉ là vương quốc riêng của heo hút
mây trời, của rừng thiêng nước độc; vùng đất ấy nay đã in dấu chân của những người
chiến sĩ kiên cường, dũng cảm trong đoàn quân Tây Tiến.
Sự vất vả, gian truân cũng như vẻ đẹp trong tâm hồn người lính Tây Tiến đã ít nhiều
thể hiện trong những câu thơ miêu tả cảnh thiên nhiên miền Tây và hành trình qua
miền Tây, ngoài ra còn có những câu thơ trực tiếp miêu tả hình ảnh người lính cũng
như những kỉ niệm của họ trong chặng đường hành quân. Trước hết là một kí ức sâu
đậm của Quang Dũng về hình ảnh một người chiến sĩ Tây Tiến trên đường hành quân:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi "
Từ láy "dãi dầu" đã thể hiện toàn bộ những vất vả, nhọc nhằn của các anh khi hành
quân qua miền Tây, khi vượt qua những núi cao, vực sâu, thác ghềnh dữ dội, vượt qua
những nắng mưa, sương gió miền Tây. Hai câu thơ tựa như một bức kí họa đầy ấn
tượng về người lính Tây Tiến. Sự hồn nhiên của người lính được thể hiện qua những
giây phút mệt mỏi, gục lên ba lô và ngủ,bỏ lại sau đó những khó khăn vất vả, những
hiểm nguy của kháng chiến. Hình ảnh người lính gục lên súng mũ dãi dầu không bước
nữa là một hình ảnh đẹp. Câu thơ nhằm nói giảm đi cái chết, cái hi sinh của những
người chiến sĩ ấy. Đó là một vẻ đẹp bi tráng, cái hi sinh kia là bị nhưng trong cái bi ấy
ta lại thấy một cái tráng lệ vô cùng. Họ có thể hi sinh nhưng trong một tư thế rất nhẹ
nhõm, “bỏ quên đời” những kí ức về những lúc dừng chân mệt mỏi, những kỉ niệm
với những buổi chiều và ban đêm với những con thú dữ gầm rú lên, nhớ những đêm mùa nếp xôi ở Mai Châu.
Ở đoạn thơ tiếp theo người lính hiện ra với vẻ hồn nhiên, có một đời sống tinh thần
cũng vô cùng vui vẻ lạc quan, những hình ảnh liên hoan đời thường, cùng với cô gái
Viêng Chăn xinh đẹp kiều diễm với tình dân quân thân thiết đẹp sao. Bỏ qua những
vất vả những người lính hiện ra với vẻ đẹp oai hùng mà cũng hồn.
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
“Doanh trại” là nơi đóng quân của Tây Tiến cũng là nơi diễn ra lễ hội văn hóa đậm đà
tình quân dân. Đồng bào dân tộc đã tụ họp về đây để sinh hoạt và góp vui tinh thần
với bộ đội Tây Tiến. Từ “Bừng” gợi cảm giác ấm áp, gợi niềm vui lan tỏa. Đêm rừng
núi thành đêm hội. Ngọn đuốc nứa, đuốc lau thành “đuốc hoa” (“Đuốc hoa” là hoa
chúc – cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn). Ở đây, “đuốc hoa” có ý nghĩa
là gợi không khí ấm cúng gợi niềm vui, niềm hạnh phúc trong lòng các chiến sĩ.
“Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là
tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười nói tưng bừng rộn rã. Có thể hình dung đêm hội mà
Quang Dũng viết trên đây như một đám cưới tập thể. Từ “Kìa em” trong câu thơ thứ
hai thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của lính Tây Tiến trước vẻ đẹp của cô gái vùng
cao trong trang phục “xiêm áo” lộng lẫy cùng dáng vẻ “e ấp” rất thiếu nữ. Quang
Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục.
Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc
văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ. Quang Dũng
không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên trước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân
của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ
Thái, những cô gái Lào xinh đẹp, duyên dáng “e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực
rỡ. Cũng có thể hiểu người lính đang đóng giả con gái trong những trang phục dân tộc
rất độc đáo, tạo tiếng cười vui cho đêm văn nghệ.
Ngỡ ngàng nữa là tiếng khèn “man điệu”. Khèn là một loại nhạc cụ của người dân tộc
miền núi Tây Bắc còn “man điệu” là một điệu nhạc “lạ” đặc trưng văn hoá của những
con người nơi đây. Và hòa vào tiếng khèn ngất ngây ấy là điệu múa vông quyến rũ
của những cô gái Lào đã “xây hồn thơ” trong lòng các chàng lính trẻ. Chính cái lạ ấy
làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa. Chính trong
không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây
Tiến thăng hoa, mọi mỏi mệt như bị đẩy lùi, thêm vào đó là lòng yêu đời, yêu miền
đất lạ. Chính vì thế mọi cảm giác mỏi mệt, mọi vất vả đều tan biến. Thay vào đó là
niềm lạc quan, yêu đời nâng bước họ mạnh mẽ hơn trên con đường hướng về “Viên
Chăn xây hồn thơ”. Từ đó, ta có thể thấy được rằng các chiến sĩ của chúng ta dù trong
những giờ phút vui vẻ, thoải mái nhất thì tâm hồn của họ vẫn luôn hướng về lí tưởng cách mạng cao đẹp.
Bốn câu sau là khung cảnh chia tay trên nền sông nước Tây Bắc vừa thực vừa mộng
hoang vắng, tĩnh lặng, buồn thi vị. Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
So với bốn câu thơ trên là hình ảnh không khí đêm lễ hội tưng bừng hoà hợp với ánh
sáng lung linh và tâm hồn trẻ trung, yêu đời của các chiến sĩ Tây Tiến thì bốn dòng
thơ tiếp theo, Quang Dũng đưa người đọc đến với hình ảnh của con người và núi rừng
Tây Bắc trong một buổi chiều sương. Một không gian bảng lảng khói sương như trong
cõi mộng cứ thế hiện ra. Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên theo chiều hướng. Cái dữ dội,
khốc liệt được đẩy lùi đi và thay vào đó là những hình ảnh nhẹ nhàng và thơ mộng.
Hình ảnh đầu tiên là hình ảnh chiều sương cho ta thấy nét đặc trưng vốn có của núi
rừng nơi đây. Nhưng sương ở đây ko phải là sương lấp, sương che hay sương phủ mà
là ' Người đi Châu Mộc chiều sương ấy''. Nó gợi màu sắc bảng lảng, sương khói vừa
có nỗi buồn man mác. Đại từ ' ấy'' làm rõ nghĩa hơn cho từ chiều sương để nhấn mạnh
rằng đây là một buổi chiều sương rất đặc biệt, chiều sương trong nỗi nhớ đã thành kỷ
niệm nên tình người cũng man mác, bâng khuâng!
Không gian nên thơ ấy làm nền cho người thơ xuất hiện: Giữa hình ảnh thiên nhiên
Tây Bắc hiện lên đầy sức sống và lãng mạn thì hình ảnh con người nơi đây hiện lên
mang một vẻ đẹp khỏe khoắn, bất khuất, kiên cường: ' Có nhớ dáng người trên độc
mộc' . Điệp ngữ “có thấy – có nhớ” luyến láy như chạm khắc vào lòng người một nỗi
nhớ da diết, cháy bỏng khôn nguôi. Độc mộc là một loại thuyền được làm từ thân cây
gỗ lớn, dài. Dáng người trên độc mộc ở đây có thể là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển
của những cô gái Thái, Mèo đang đưa các chiến sĩ vượt sông. Cũng có thể hiểu là
dáng hình kiêu dũng của các chiến sĩ Tây Tiến đang chèo chống con thuyền vượt
sông, vượt thác dữ tiến về phía trước. Tất cả những hình ảnh ấy đều đã để lại trong
lòng của Quang Dũng một hình ảnh khó phai nhòa. Thiên nhiên Tây Bắc vốn nổi tiếng
với con sông Mã, một dòng sông đã chứa trong nó biết bao dữ dội. Nhưng ở đây, dòng
sông Mã đã hiện lên với sự nhẹ nhàng đến kỳ lạ. Những cánh hoa rừng không bị ' dồi
lên dập xuống'' mà là “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa' . Từ láy “đong đưa” được sử
dụng rất gợi: Cánh hoa rừng như cũng quyến luyến con người. Cánh hoa rừng như bàn
tay vẫy chào người lính, tiễn người lính vượt sông đi đánh giặc.
Với những nét kiên cường dù cho sự khắc nghiệt làm cho ý chí và lòng quyết tâm của
chiến sĩ không hề bị phôi phai, những đoàn binh phải chịu đựng hàng trăm những gian
nan và nguy hiểm đó đã tác động xấu đến thân thể của người lính, nhưng nó không
làm phôi phai đi tinh thần của người chiến sĩ Tây Tiến.
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Không chỉ khó khăn trên chiến trường chiến đấu, những câu chuyện về bệnh tật và nơi
khí hậu khắc nghiệt cũng được đưa vào trong thơ của Quang Dũng. Không một chút
giấu diễm, sự thiếu thốn hay những căn bệnh như sốt rét. Chính Hữu trong bài thơ
"Đồng chí" đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi"
Căn bệnh đáng sợ khiến cả binh đoàn bị rụng hết tóc được Quang Dũng khai thác hết
sức chân thực của người lính Tây tiến, dù khó khăn khắc nghiệt nhưng tinh thần chiến
đấu chưa bao giờ kết thúc. Hình ảnh quân xanh màu lá là những hình ảnh gầy gò ốm
nhưng không hề yếu mà vẫn dữ oai hùm. Mắt trừng gợi cho ta liên tưởng đến sự căm
thù giặc của những anh hùng tây tiến. Những ánh mắt hiện lên lửa hi vọng và tinh thần
chiến đấu oai hùng, không một chút phó mặc cho số phận, cũng có thể đó chính là sự
thức trắng không ngủ được vì lo cho biên giới hoặc mở mắt để nhớ những bóng kiều
thơm kia..Đó sự hi sinh của những người chiến sĩ ấy, họ phần lớn là những trí thức Hà
Thánh ngày đêm nghĩ đến quê nhà với những bóng hồng mà không bao giờ mờ nhạt
trong lòng họ. Đó chính là cái bi của vẻ đẹp người lính. Nhưng nó lại rất tráng vì
người ta chết đi vì lí tưởng cao cả của mình thì đó chính là cái chết đẹp. Thay vì chiếu
đắp lên, sự ra đi của các anh được ví như sự ra đi của những người được những người
khác tôn trọng và biết ơn. Áo bào thì thay bằng chiếu thể hiện sự giản dị của những
người lính. Chiến trường khắc nghiệt làm cho anh phải ra đi chỉ có mảnh chiếu che
thân. Đất mẹ chính là nơi các anh sinh ra cũng là nơi mà các anh về, đất mẹ che chở
cho các anh mãi mãi yên bình với giấc ngủ ngàn thu của mình. Một lần nữa, hình ảnh
sông Mã hiện ra, gầm lên khúc hành ca, như kính cẩn tiễn đưa linh hồn các anh, không
phải là sự chơi vơi nữa mà là tiếng gầm, nó càng tạo nên chất tráng cho bài thơ.
“Tây tiến” được xem là một thi phẩm xuất sắc, gần như đạt đến sự toàn bích về nghệ
thuật. Bút pháp hiện thực kết hợp lãng mạn, đậm chất bi tráng,nhiều sáng tạo về hình
ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu. Hình ảnh thơ sáng tạo mang sắc thái thẩm mĩ phong phú.
Ngôn ngữ thơ đa sắc thái, phong cách; (trang trọng, cổ kính; sinh động gợi tả gợi
cảm…), có những kết hợp từ độc đáo (nhớ chơi vơi, Mai Châu mùa em…), tên địa
danh vừa cụ thể xác thực vừa gợi cảm giác lạ lẫm. Ba chùm bài thơ là giọng điệu khi
tha thiết bồi hồi, khi hồn nhiên vui tươi, khi bâng khuâng man mác, khi trang trọng,
khi trầm lắng. Cả bài thơ là nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với đơn vị Tây Tiến: Nhớ
những chặng đường hành quân với bao gian khổ, thiếu thốn, hi sinh mất mát mà vẫn
có nhiều kỉ niệm đẹp, thú vị, ấm áp; nhớ những đồng đội Tây Tiến anh hùng. Qua đó,
tác giả đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa và
vẻ đẹp hùng vĩ thơ mộng của thiên nhiên miền Tây tổ quốc. Cũng từ đó mà toát lên
chất lãng mạn bi tráng là vẻ đẹp độc đáo của hình tượng người lính cách mạng trong thơ Quang Dũng.
Dưới ngòi bút hào hoa của Quang Dũng những hình ảnh về những người lính Tây
Tiến vừa hồn hậu,giản dị lại hết sức khí phách.Qua đây ta cũng thấy được những vẻ
đẹp bi tráng của những chiến binh tây tiến, cảm nhận được như thế chúng ta càng
thêm yêu hơn những con người vì quê hương đất nước. Bài thơ xứng đáng là một
tượng đài bằng ngôn ngữ đã bất tử hóa phẩm chất anh hùng của anh bộ đội cụ Hồ
trong cuộc kháng chiến chống Pháp rất đỗi gian khổ và vui tươi, hào hùng:
“Tây Tiến biên cương mờ khói lửa
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và con người ấy, bài thơ ấy
Vẫn sống muôn đời cùng núi sông” Bài văn mẫu 3
Bài thơ Tây Tiến ra đời vào năm 1948, khi mà cuộc kháng chiến chống Pháp bước
vào giai đoạn cam go và ác liệt nhất. Nhà thơ Quang Dũng bằng tài năng và trái tim
thương nhớ đồng đội cũ đã khắc họa nên những nét chân thực nhất về hình ảnh người
lính Tây Tiến trong cuộc kháng chiến chống Pháp với hình tượng bi tráng hào hùng.
Binh đoàn Tây Tiến được thành lập vào năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội
Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, đánh địch trên tuyến đường rừng núi Tây Bắc từ các
tỉnh từ Lai Châu đến Thanh Hóa. Cuộc sống chiến đấu của những người lính Tây Tiến
vô cùng khổ cực, thiếu thốn. Phần lớn vì vùng núi hiểm trở, chốn rừng thiêng nước
độc, sốt rét hoành hành, thiếu thuốc men. Những người lính Tây Tiến hi sinh nhiều vì
bệnh tật còn nhiều hơn sự hi sinh trên chiến trường.
Những người lính Tây Tiến hầu hết là những thanh niên trí thức Hà Thành, phần đông
là các sinh viên, học sinh còn đang ngồi trên ghế nhà trường. Mặc dù phải chiến đấu
trong hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy xong họ vẫn hiện lên với hình tượng lãng mạn
song rất đỗi hào hùng, bi tráng.
Bài thơ có nhan đề Tây Tiến, nhằm nhấn mạnh tên gọi của binh đoàn và để thể hiện
nỗi nhớ của nhà thơ về 1 thời kháng chiến khó khăn dữ dội nhưng rất đỗi hào hùng, say mê.
Hình tượng người lính Tây Tiến đã được nhà thơ Quang Dũng khắc họa bằng những
hình ảnh chi tiết vừa tả thực lại vừa lãng mạn, mạch cảm xúc bài thơ là nhớ thương
nên mở đầu bài thơ nhà thơ Quang Dũng đã viết.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”.
Hình ảnh sông Mã anh hùng là hình ảnh đầu tiên mà nhà thơ nhớ đến. Chắc có lẽ sông
Mã là 1 người bạn đồng hành lâu dài cùng các chiến sĩ trên các chặng đường hành
quân chiến đấu. Câu thơ giống như một tiếng gọi tha thiết ám ảnh, khoảng cách địa lí
xa xôi, vời vợi mà nỗi nhớ luôn thường trực ám ảnh. Câu thơ thứ 2 đã sử dụng tới hai
chữ nhớ, ngắt nhịp 4/3 đã diễn tả tinh tế những thổn thức, mong mỏi, khát khao của
tác giả. Cụm từ “nhớ chơi vơi” nỗi nhớ như lan tỏa trong cả không gian và thời gian
thấm vào nỗi lòng, tạo cảm giác như trống vắng, ám ảnh khôn xiết về 1 thời hào hùng
đã qua. Câu thơ reo vần “ơi” tạo nên sự dịu dàng, nhớ thương sâu sắc.
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường lát hoa về trong đêm hơi”.
Ta có thể thấy “Sài khao, Mường Lát” là những địa danh của các tỉnh miền núi phía
Bắc nơi mà binh đoàn Tây Tiến đã từng hành quân qua. Chất lãng mạn và chất hiện
thực ở câu thơ này được hòa quyện vào nhau. Viết về đoàn quân mỏi sau cuộc hành
quân dài, nhưng khí chất vẫn rất lãng mạn khi “sương lấp”, “hoa về”, “đêm hơi”.
Bức tranh thiên nhiên vùng núi Tây Bắc được nhà thơ Quang Dũng khắc họa bằng
hình ảnh rất lãng mạn, thông qua cái nhìn của những người lính Tây Tiến, giữa trùng
trùng, điệp điệp của núi non, dựng vách hiểm trở, thế mà qua cái nhìn của người lính,
khung cảnh ấy lại rất đỗi hay ho và vui nhộn như thế này.
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”.
Hai câu thơ mang hình tượng khái quát cao diễn tả sinh động về những gian khổ của
người lính , các từ láy “khúc khuỷu, thăm thẳm” gợi lên không gian được mở ra nhiều
chiều, một không gian thiên nhiên hùng vĩ nhưng nguy hiểm trực tiếp đến tính mạng.
Từ “heo hút” được dùng rất đặc sắc vừa gợi ra độ sâu khi nhìn xuống, mà khi nhìn lên
lại cảm thấy hoang vắng, lạnh lẽo. Địa hình chiến đấu của những người lính Tây Tiến
mặc dù quả thực đầy gian khó và hiểm nguy. Hình ảnh “Súng ngửi trời” được sử dụng
rất hóm hỉnh, vui tươi, đọc câu thơ ta liên tưởng đến câu thơ “Đầu súng trăng treo”
của nhà thơ Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí”. Cùng là hình ảnh lãng mạn nhưng
với Chính Hữu là hình ảnh hiện thực, từ con mắt tinh tế nhà thơ và ước muốn hòa
bình. Còn với Quang Dũng cụm từ “Súng ngửi trời” là khí phách hiên ngang, giữa
thiên nhiên hoang sơ lạnh lẽo, hình ảnh con người làm chủ, khẳng định cốt cách của người lính
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.
Chắc có lẽ đây là những câu thơ miêu tả chân thực nhất về những khó khăn gian khổ
của những người lính Tây Tiến nói riêng và những người lính trong thời kháng chiến
chống Pháp nói chung lúc bấy giờ. Hình ảnh “cọp trêu người” và “oai linh thác gầm
thét” là những dẫn chứng thật nhất, sự ám ảnh, dữ tợn của muông thú của thiên nhiên.
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
ục lên súng mũ bỏ quên đời”.
Từ láy “dãi dầu” miêu tả sự nhọc nhằn, vất vả của người lính. Cuộc hành quân trở như
trùng lại, chậm lại 1 chút. Qua chữ “bỏ quên đời” ta thấy được hình tượng, khí phách
dược ngời sáng từ chính sự thật đau lòng nhất, các anh đã hi sinh trong quá trình hành
quân. Dù là sự mệt mỏi, hi sinh như thế nào, họ vẫn coi đó là sự nhẹ nhàng, thanh thản.
Sau cuộc chiến đấu, hành quân gian khổ, hiểm nguy đối đầu anh dũng với lũ giặc,
những người lính Tây Tiến lại trở về nghỉ ngơi với những buổi liên hoan văn nghệ đặc sắc.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ”.
Sau những cuộc chiến đấu vất vả với súng đạn, bom lửa. Những đau thương, mất mát
vì bệnh tật, cái chết ập đến bất cứ lúc nào khi bỏ lại tất cả, hình tượng người lính Tây
Tiến lúc này thật gần gũi. Buổi liên hoan bùng cháy lên sự vui tươi, phấn khởi. Hội
trại bùng lên với khúc hát tươi vui, sự giao lưu giữa những người lính và những người
dân địa phương. Từ “bừng” được dùng rất hay, thể hiện sự náo nức. Đêm hội ấy, ta
làm sao mà quên được hình ảnh người con gái trong buổi liên hoan trong bộ xiêm y vô
cùng xinh đẹp, trang trọng. Cảm xúc người chiến sỹ như ngỡ ngàng trước vẻ đẹp lung
linh của đêm hội, rồi lại thả hồn vào điệu múa, tiếng nhạc khèn của đêm hội.
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.
Hương vị xôi nếp đầu mùa, tha thiết là một kỉ niệm khó quên trong lòng người lính
Tây Tiến. Câu thơ được gieo thanh bằng, tạo ra một cảm xúc bâng khuâng, nhung nhớ đến khó tả
Tiếp theo mạch cảm xúc nhớ thương, nhà thơ Quang Dũng đã viết:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Miêu tả rừng núi Tây Bắc nhà thơ đã gợi tả ra độ cao trắc trở thông qua từ “ngàn
thước”, cảm giác chông chênh, một tấc như chạm tay đến trời. Câu thơ thứ hai giống
như miêu tả sự tưởng tượng của những người chiến sĩ sau 1 buổi hành quân mệt mỏi,
đứng trên cao họ nhìn xa xa, thấy sương mù ẩn hiện là thấp thoáng ngôi nhà của
những người dân. Người chiến sĩ như hóa thân thành người nghệ sĩ thả hồn vào điệu
nhạc thiên thiên và của chính tâm hồn mình. Cảm giác phiêu lãng, nhẹ nhàng sau
chuyến đi hành quân vất vả.
Đang trong mạch cảm xúc nhẹ nhàng, phiêu lãng nhà thơ Quang Dũng đột ngột rẽ
sang giọng điệu trầm lắng, bâng khuâng, hoài niệm.
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
Kỉ niệm gợi nhớ của nhà thơ bắt đầu từ khung cảnh “chiều sương ấy”. buổi chiều luôn
gợi ra cho lòng người đọc nỗi buồn. Nỗi buồn ấy có khi là nỗi nhớ nhà, nhớ người
thương hoặc có thể là sự vu vơ trước 1 ngày tàn. Nhưng với nhà thơ đó là sự trống
trải, luyến tiếc về hình ảnh không rõ sự xác định là ai, theo ý thơ thì đó là “hồn lau”,
“dáng người” người đọc cảm nhận được 1 không gian vắng lặng đượm buồn mênh
mang. Các từ như “có thấy, có nhớ” giống như 1 lời gợi nhớ gợi nhắc tha thiết ân tình.
Hình ảnh đối lập “nước lũ” và “hoa đong đưa, một bên là sự dữ dội , một bên là sự
nhẹ nhàng. Nhà thơ đã sử dụng bút pháp lãng mạn cộng miêu tả để gợi hoài niệm nỗi
nhớ về hình ảnh thiên nhiên Mộc Châu.
Để khắc họa hình tượng chân dung người lính, nhà thơ đã sử dụng bút pháp lãng mạn
để tô đậm cái hiện thực bi thương mà rất đỗi phi thường của người lính Tây Tiến tiêu
biểu trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”.
Đoàn “binh không mọc tóc” có lẽ đây là sự thật trần trụi nhất mà nhà thơ Quang Dũng
đã từng viết, các chiến sĩ Tây Tiến họ bị rụng tóc, da dẻ xanh xao vì căn bệnh sốt rét
rừng hoành hành. Ốm đau, bệnh tật là vậy nhưng khí thế họ vẫn mang nét “dữ oai
hùm” tạo nên âm hưởng hoành tráng, khí thế sẵn sàng của người lính kháng chiến
chống Pháp lúc bấy giờ.
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
Khí thế hùng dũng là vậy, tâm hồn những người lính Tây Tiến thật mộng mơ. Nếu
như ban ngày họ phải chiến đấu hết mình, “mắt trừng” là cái nhìn thẳng, sâu xa, thể
hiện cái nhìn của ý chí, quyết tâm bảo vệ tổ quốc. Ban đêm khi cuộc chiến đã kết thúc,
thì tâm hồn của người lính lại mơ mộng nhớ về Hà Nội, nơi mà có những người mà họ
yêu thương nhất. Nỗi nhớ ấy như tiếp thêm sức mạnh, nghị lực chiến đấu. Đọc câu thơ
này ta lại chợt nhớ đến câu thơ của nhà thơ Nguyễn Đình Thi :
“Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”.
Thêm một lần nữa nhà thơ lại viết về sự hi sinh,nhưng lần này cái chết được viết nên anh hùng, cao cả hơn,
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Viết về đau thương của cái chết nhưng không hề bi lụy, ai oán mà ngược lại đầy dũng
khí,hùng tráng. Giọng thơ hùng tráng xong mang đậm nét buồn của sự hi sinh, trên
con đường hành quân ấy, lòng họ không thể không cảm thấy xót thương trước những
nấm mồ viễn xứ của những người chết trong chiến trận. Họ ra đi vì Tổ quốc nên
không hề hối tiếc, kể cả đó là thời xuân xanh. Tác giả mượn khéo hình ảnh “Áo bào”
để gợi tả sự ra đi của người lính. Nó gắn liền với sự trang trọng, thiêng liêng, giảm bớt
nỗi buồn bi lụy. Sông Mã một chứng nhân lịch sử, đã tấu lên “khúc độc hành” khúc ca
tiễn các anh về với đất mẹ. Động từ “gầm” là 1 biện pháp nhân hóa, nỗi nhớ thương
của lòng người như vang vọng, đau đáu trong lòng những người ở lại.
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.
Câu thơ đã trở về với mạch cảm xúc chung của bài thơ, cảm xúc thương nhớ nhưng
vẫn mang âm hưởng bi tráng. Nói về li biệt nhưng vẫn hùng tráng, mãnh liệt. Mong
mỏi một ngày được gặp lại, nỗi nhớ như tràn ngập cả không gian và thời gian, lời thơ
như nhắn nhủ, ước hẹn tha thiết, ân tình. Câu thơ cuối như lời hứa quyết tâm, nỗi nhớ
về đoàn binh đã in hằn sâu trong kí ức. Tây tiến trở thành một kỉ niệm xương máu
trong cuộc đời nhà thơ Quang Dũng.
Qua bài thơ Tây Tiến, nhà thơ Quang Dũng đã khắc họa nên bức chân dung, hình
tượng bi tráng của người lính Tây Tiến trong cuộc cách mạng vệ quốc, vừa chân thực
vừa lãng mạn tiêu biểu cho sức mạnh dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Bài văn mẫu 4
Đề tài, hình ảnh người lính nói chung là một nguồn cảm hứng cho rất nhiều tác giả,
sáng tác ra nhiều tác phẩm vô cùng thi vị, để lại tên tuổi cho nhiều tác giả. Các nhà
thơ viết về đề tài người lính với những niềm kiêu hãnh vô cùng tự hào giữa muôn vàn
tác phẩm như vậy. Bài thơ Tây Tiến có một vị trí vô cùng quan trọng đặc biệt trong nền thơ ca Việt Nam.
Bài thơ "Tây Tiến" là một trong những bài thơ sáng tác từ rất sớm về đề tài người lính
trong cuộc kháng giải phóng dân tộc trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.
Binh đoàn Tây Tiến là một đơn vị quân đội được hình thành vào những năm sau cách
mạng tháng Tám năm 1945, có nhiệm vụ phối kết hợp với binh lính Lào để nhằm bảo
vệ biên giới Việt Lào. Địa điểm đóng quân và hoạt động của binh đoàn Tây Tiến khá
rộng, bao gồm tất cả các tỉnh Lai Châu, Hòa Bình, Sầm Nưa, Thanh Hóa…
Họ đều là những người lính xuất thân từ thủ đô Hà Nội nơi được mệnh danh là những
nho sinh yêu nước, có tâm hồn lãng mạn tinh tế, có học thức bởi trong đó chủ yếu là
học sinh sinh viên. Mặc dù, trong quá trình chiến đấu có rất nhiều gian khổ, thuốc men
với căn bệnh nguy hiểm như sốt rét rừng, làm cho đầu tóc bị rụng hết, thân thể gầy
mòn, nhưng tâm hồn cuộc sống vô cùng lạc quan, tinh thần anh dũng quả cảm.
Nhiều người lính thủ đô đã đi vào cuộc kháng chiến bảo vệ dân tộc mang theo những
vẹn nguyên của một trái tim đa cảm, lãng mạn, mang theo sự hào hoa của một người
lính xuất thân từ Hà Thành.
Bài thơ Tây Tiến được hình thành từ những nỗi nhớ, những nỗi nhớ vô cùng da diết về
tình cảm đồng đội trong những tháng ngày kháng chiến gian khổ. Nó là những kỷ
niệm không thể nào quên của tác giả với binh đoàn Tây Tiến, gắn liền với vùng đất
hùng vĩ gian khổ hiểm trở vô cùng thơ mộng lãng mạn.
Nỗi nhớ ấy đánh thức, làm bừng tỉnh trỗi dậy những ấn tượng vô cùng sâu sắc trong
ký ức, thể hiện một nỗi nhớ chơi vơi tha thiết trong trái tim của người lính Tây Tiến.
Nhà thơ Quang Dũng chính là bút pháp vô cùng lãng mạn không hề xa rời thực tại, bài
thơ khắc họa một bức tượng đài người lính vô cùng anh hùng, bi tráng trường tồn theo
thời gian. Hình tượng người lính hiện lên với nhiều nét thô mộc, gân guốc, thể hiện sự
giản dị, mộc mạc của người lính trong binh đoàn Tây Tiến:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Chúng ta từng thấy một hình ảnh người lính anh dũng, hài hước, lạc quan trong bài
thơ "Tiểu đội xe không kính" trong bài thơ vô cùng hài hước dí dỏm của tác giả Phạm
Tiến Duật. Hay hình ảnh người lính mộc mạc, giản dị, trong bài thơ "Đồng chí" của nhà thơ Chính Hữu.
Nhưng trong bài thơ "Tây Tiến" hình ảnh người lính của hiện lên gân guốc, lạ hóa
trong ngoại hình của người lính Tây Tiến đều hiện lên những chi tiết vô cùng sống
động, chân thực, thể hiện một cuộc sống gian khổ nhưng kiên cường của người lính
Tây Tiến. Hình ảnh người lính Tây Tiến có chút mộc mạc giản dị, với hình ảnh không
mọc tóc, vừa khắc khổ vừa bi tráng, thể hiện những trận sốt rét rừng, không thuốc men, màu lá dữ oai hùm.
Tác giả Quang Dũng khi vẽ chân dung người lính Tây Tiến trong bài thơ đã không
quên nhắc tới những hình ảnh vô cùng khắc khổ, thể hiện sự hiện thực của căn bệnh
quái ác. Nhưng ẩn chứa sau ngoại hình giản dị, khắc khổ đó thể hiện một sức mạnh vô
cùng nội tâm sâu sắc khí phách oai hùm của những người lính Tây Tiến.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Hai câu thơ thể hiện sự nhấn mạnh của sự mơ mộng của những người lính Tây Tiến.
Câu thơ mang hình ảnh vẹn nguyên về ước vọng của người lính trong trái tim, tâm
hồn của người lính trẻ. Nó nói lên ước mơ khát vọng sâu xa trong tâm hồn của người
lính Tây Tiến. Trong bài thơ này gợi nhắc tới ước mơ bình dị của người bình thường,
khi tới tuổi yêu thương muốn có một người mộng mơ, để thương để nhớ.
Trong mỗi con người chúng ta ai cũng có những ước mơ về hạnh phúc riêng của
mình. Họ mơ về một hạnh phúc lứa đôi, một mái ấm gia đình ấm áp vui vẻ có nhiều
tiếng cười. Những hình bóng giai nhân yêu kiều, thể hiện sự thanh lịch. Những người
lính ra đi vì sự tự do độc lập của tổ quốc, vì những người thân yêu mà họ luôn hướng
tới. Họ muốn bảo vệ sự bình yên của người thân của quê hương.
Hình bóng "dáng kiều thơm" chính là điểm tựa tâm hồn, niềm hy vọng tiếp sức mạnh
cho người lính Tây Tiến trên con đường hành quân gian khổ của mình.
Hình ảnh người lính Tây Tiến vô cùng anh dũng, hy sinh cũng thể hiện sự anh hùng,
như một bức tượng đài bi tráng. Nhà thơ Quang Dũng không hề tránh né cuộc sống
khắc nghiệt của người lính phải trải qua mà ông đã miêu tả nó sinh động nhất, khắc
nghiệt, gian khổ nhưng không vì thế mà bi lụy đau thương.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời;
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh;
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Hình ảnh những người lính nằm xuống hi sinh nơi chiến trường vô cùng giản dị, thể
hiện người lính Tây Tiến ngã xuống chỉ khi anh đã nghỉ chân rồi lìa xa cuộc đời này,
nhưng cái chết không đồng nghĩa với sự ngừng chiến đấu, bởi tâm hồn của những
người lính thể hiện ước nguyện của người lính luôn tồn tại mãi với thời gian.
Những người lính ngã xuống nhưng vẫn kịp trao những trái tim ngọn lửa của trái tim
tuổi trẻ của những người lính cách mạng vô cùng anh dũng, vinh quang. Thể hiện sự
hy sinh của anh dũng của người lính Tây Tiến làm người đọc vô cùng nghẹn ngào.
Hai chữ rải rác, mồ viễn xứ… thể hiện việc người lính ra đi trong chiến tranh là rất
nhiều, ở đâu cũng gặp. Đồng thời thể hiện sự xót thương, da diết của tác giả với những
người lính khi nằm xuống nơi chiến trường.
Câu thơ "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh" thể hiện sự kiên cường của tâm hồn
người lính dù có hy sinh thân mình cũng không hề tiếc nuối thân thể của mình.
Hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến trở thành một hình tượng mạnh mẽ bất
tử muôn đời, theo thời gian dòng lịch sử có thể thay đổi nhưng hình ảnh người lính
Tây Tiến luôn là hình tượng đẹp đẽ bi tráng nhất. Những người lính Tây Tiến thể hiện
sự đối mặt với gian nan, nguy hiểm nhưng lúc nào cũng lạc quan yêu đời, thể hiện
niềm tin phơi phới vào tương lai. Bài văn mẫu 5
"Tây Tiến" là bài thơ của người lính nói về người lính - anh Vệ quốc quân thời 9 năm
kháng chiến chống Pháp. Quang Dũng vừa cầm súng đánh giặc vừa làm thơ nên thơ
ông rất chân thực và hào sảng, dư ba. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948,
khi cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc bước sang năm thứ ba, chặng đường
kháng chiến còn đầy thử thách gian lao.
"Tây Tiến" nói lên nỗi nhớ và niềm tự hào của Quang Dũng về đồng đội thân yêu,
cùng vào sinh ra tử một thời trận mạc.
Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi làm nao lòng người. Nỗi nhớ thương, nỗi nhớ như nén chặt, bỗng trào dâng:
"Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi".
Từ "ơi" bắt vần với từ láy "chơi vơi" làm cho âm điệu câu thơ trở nên tha thiết sâu
lắng, bồi hồi. Hai chữ "nhớ" như hai nút nhấn gợi tả nỗi nhớ "chơi vơi" cháy bỏng
khôn nguôi. Từ Phù Lưu Chanh ông nhớ dòng sông Mã, nhớ núi rừng miền Tây, nhớ
đoàn binh Tây Tiến - một đơn vị bộ đội đã hoạt động tại vùng rừng núi miền Tây
Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn La - biên giới Việt Lào trong những năm đầu kháng chiến.
Bao kỉ niệm đẹp một thời chinh chiến bỗng sống dậy. Những tên bản, tên mường của
rừng xưa núi cũ yêu thương hiện về, bỗng trở nên gần gũi thân thiết, làm xao xuyến hồn người chiến sĩ:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi".
Những Sài Khao, Mường Lát... những địa danh vời vợi nghìn trùng từng in dấu chân
đoàn chiến binh Tây Tiến. Trong ”sương lấp", trong "đêm hơi" mịt mù, lạnh lẽo, đoàn
dũng sĩ đã phải vượt qua những nẻo đường hành quân vô cùng gian khổ. Ngày nối
ngày, đêm nối đêm, trải qua bao dãi dầu, "đoàn quân mỏi" giữa cái biển sương mù của
núi rừng miền Tây; "đoàn quân mỏi" tưởng như bị "lấp" đi, bị trĩu xuống trong mệt
mỏi, gian truân, nhưng thật bất ngờ, bỗng xuất hiện "hoa về trong đêm hơi". Cái mỏi
mệt, cái gian khổ như đã tiêu tan. Sáu thanh bằng liên tiếp diễn tả cái nhẹ nhàng, cái
lâng lâng trong tâm hồn người lính trẻ đi tới đích sau những chặng đường dài hành
quân đầy thử thách: "Mường Lát hoa về trong đêm hơi".
Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt giữa núi rừng miền Tây. Những đèo dốc "khúc khuỷu",
"thăm thẳm" chưa từng in dấu chân người! Những "cồn mây heo hút". Những tầm cao
của núi, những chiều sâu của lũng, của suối thử thách chí can trường như chặn bước tiến của đoàn quân:
"Dốc lên khúc khủyu, dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi".
Các từ láy: "thăm thẳm", "khúc khuỷu", "heo hút" được lựa chọn và sử dụng như
những nét khắc, nét vẽ có giá trị tạo hình đặc sắc, làm hiện lên những dốc, những cồn
mây mà nhà thơ và đồng đội phải vượt qua trong những tháng ngày: "áo vải chân
không đi lùng giặc đánh" (Hồng Nguyên). "Súng ngửi trời" là một hình ảnh nhân hóa
phản ánh cái ngộ nghĩnh, hồn nhiên trẻ trung và yêu đời của người lính trẻ. Có câu thơ
gồm 2 vế tiểu đối, bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ Tây Tiến được "đo" bằng:
"Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống". Núi tiếp núi, đèo nối đèo, hết lên cao, lại
xuống thấp, đoàn quân đi trong mù sương, trong màn mưa rừng. Từ những đỉnh cao
"ngàn thước", các chiến binh dõi tầm mắt nhìn xa. Những bản mường, những nhà sàn
thấp thoáng ẩn hiện. Câu thơ thất ngôn, toàn thanh bằng gợi tả cảm xúc tươi vui, lâng
lâng thanh thản dâng lên trong tâm hồn người lính trẻ rất lạc quan yêu đời khi dõi nhìn
về xa qua màn mưa rừng: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi".
Những gì đã xảy trên những nẻo đường trường chinh lửa máu và gian khổ ấy? Âm
điệu câu thơ bỗng trĩu xuống, nao nao:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!".
Hai tiếng "anh bạn" cất lên như một tiếng khóc thầm. Trong gian khổ "dãi dầu", trong
những ngày dài hành quân và chiến đấu, có bao đồng đội thân yêu đã "không bước
nữa", vĩnh biệt đoàn binh, "bỏ quên đời", bỏ quên đồng chí bạn bè, nằm lại vĩnh viễn
nơi chân đèo, góc núi. Bốn chữ "gục lên súng mũ" thể hiện một sự hi sinh vô cùng bi
tráng: ngã xuống, gục xuống trên đường hành quân giữa trận đánh khi súng còn cầm
trên tay, mũ còn đội trên đầu. Mặc dù Quang Dũng đã thay thế từ "chết", từ "hi sinh"
bằng cụm từ "không bước nữa", "gục lên"..., "bỏ quên đời", nhưng vẫn trào lên bao
nỗi xót xa, thương tiếc. Sự thật chiến tranh xưa nay vẫn thế! Có điều là vần thơ của
Quang Dũng tuy nói đến cái chết của người lính nhưng không gợi ra bi lụy, thảm
thương, mà trái lại, trong sự tiếc thương có niềm tự hào khẳng định: Vì độc lập, tự do
mà có biết bao chiến sĩ anh hùng đã ngã xuống trên các chiến trường, trong tư thế lẫm
liệt "gục lên súng mũ..." như vậy!
Cảnh tượng chiến trường đâu chỉ có đèo cao, cồn mây, dốc thẳm, đâu chỉ có mưa
ngàn, muỗi rừng vắt núi, mà còn có biết bao thử thách của rừng thiêng tự ngàn đời
mang cái vẻ hoang sơ và bí mật, hùng vĩ và oai nghiêm. Chiều nối chiều, đêm tiếp
đêm, chiến khu vang động tiếng "gầm thét" của thác, của "cọp trêu người". Trên một
không gian mênh mông của chốn đại ngàn, từ Pha Luông đến Mường Hịch hoang vu,
cái chết đang rình rập đe dọa. Chốn rừng thiêng ẩn dấu nhiều bí mật "oai linh", được
nhân hóa như tăng thêm phần dữ dội. Thác thì "gầm thét", cọp thì "trêu người" như để
thử thách chí can trường các chiến binh Tây Tiến:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người".
Vượt lên gian khổ, hi sinh, hành trang người lính đầy ắp những kỉ niệm đẹp của tình
quân dân. Quên sao được "cơm lên khói", hương vị đậm đà của "mùa em thơm nếp
xôi". Trong cái hương vị đậm đà của bát cơm tỏa khói, của hương nếp xôi còn quyện
theo bao tình sâu nghĩa nặng của bà con dân bản Mai Châu, của "mùa em". Hai tiếng
"nhớ ôi" gợi lên nhiều bâng khuâng, vương vấn, thấm thía và ngọt ngào:
"Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi".
Phần thứ hai bài "Tây Tiến" gồm có 8 câu nói về "hội đuốc hoa" và những chiều
sương cao nguyên Châu Mộc. Giọng thơ man mác, bâng khuâng. Nhà thơ tự hỏi mình
"có thấy" và "có nhớ". Chất tài tử, tài hoa và lãng mạn của những chàng lính chiến
được nói đến thật hay trong đêm "hội đuốc hoa". Chữ "kìa" là đại từ để trỏ từ xa, gợi
nhiều ngạc nhiên, tình tứ. Trong ánh lửa đuốc bập bùng, sự xuất hiện những cô gái
Mường, cô gái Thái miền Tây Bắc, những cô gái phù-xao Lào trong bộ xiêm áo dân
tộc rực rỡ đã đem đến cho những người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến bao niềm vui, tình
quân dân thắm thiết. Có tiếng khèn "man điệu" của núi rừng, có khúc nhạc du dương
"xây hồn thơ". Có dáng điệu duyên dáng "e ấp" của "nàng", của những "bông hoa
rừng" đang múa xòe, đang múa lăm-vông:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ,
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ".
Chữ "bừng" là một nét vẽ có thần. "Bừng" là sáng bừng lên, cháy rực lên từ những
ngọn đuốc trong đêm "hội đuốc hoa". Cũng có nghĩa là tưng bừng rộn ràng qua tiếng
khèn "man điệu", qua giọng hát tình tứ, mê say của bài dân ca Thái, dân ca Lào.
Nhớ Tây Tiến là nhớ đến những chiều sương cao nguyên, nhớ đến những con thuyền
độc mộc, nhớ đến "hồn lau nẻo bến bờ". Nhớ nhiều, nhớ mãi "dáng người trên độc
mộc", nhớ không bao giờ quên hình ảnh nên thơ "Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa".
Nếu không sống mạnh mẽ, sống hết mình của đời người lính trẻ một thời trận mạc
gian nan thì không thể nào viết được những vần thơ mang hương sắc núi rừng xa lạ,
tươi đẹp và thơ mộng như thế. Âm điệu đoạn thơ trầm bổng lâng lâng như đang ru hồn
ta vào cõi mộng. Chất nhạc, chất thơ, chất họa toát lên từ vần thơ, cho thấy tính thẩm
mĩ độc đáo của ngòi bút thơ Quang Dũng, đồng thời khắc họa vẻ đẹp tâm hồn các
chiến sĩ Tây Tiến: trong gian khổ và thử thách, trong gian truân và chết chóc, họ vẫn
lạc quan và yêu đời, hồn nhiên và mơ mộng.
Đây là một trong những đoạn thơ hay nhất trong bài "Tây Tiến" đã thể hiện sự cảm
nhận và diễn tả tinh tế, tài hoa vẻ đẹp thiên nhiên và tình người, đồng thời lại rất mực
hồn nhiên từng làm mê say người đọc:
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ,
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa".
Phần thứ ba, Quang Dũng đã dựng lên một tượng đài hùng vĩ, bi tráng về đoàn binh
Tây Tiến. Đoàn quân luồn rừng đi trong biển sương mù, trong những cồn mây, trong
màn mưa, vượt qua bao nhiêu núi cao, đèo cao, dốc thẳm, "áo vải chân không đi lùng
giặc đánh", bỗng bất ngờ xuất hiện:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".
Đoạn thơ ghi lại một cách chân thật, hào hùng cái khốc liệt dữ dội của chiến tranh, của
một dân tộc quật khởi đứng lên dùng giáo mác, gậy tầm vông chống lại sắt thép quân
thù. Hình tượng thơ được đặt trong thế tương phản đối lập để khẳng định chí khí hiên
ngang, anh hùng, những tâm hồn với bao mộng mơ tuyệt đẹp. "Đoàn binh không mọc
tóc", "quân xanh màu lá", có vẻ tiều tụy, ốm đau vì bệnh sốt rét rừng, nhưng tư thế vô
cùng oai phong lẫm liệt: "dữ oai hùm". Cũng là một cách nói truyền thống trong thơ
ca dân tộc ngợi ca sức mạnh Việt Nam: "Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu" (Phạm Ngũ
Lão), "Tỳ hổ ba quân - Giáo gươm sáng chói" (Trương Hán Siêu), "Sĩ tốt kén tay tì hổ
- Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh" (Nguyễn Trãi),... Và những năm đầu kháng chiến chống
Pháp, anh bộ đội Cụ Hồ mang sức mạnh Việt Nam từ nghìn xưa ra trận với chí khí
lẫm liệt vô song: "Quân xanh màu lá dữ oai hùm". Trải qua những năm dài chiến đấu
ác liệt, nếm trải biết bao cay đắng ngọt bùi, bao thiếu thốn gian truân, từng đánh
những trận đánh đẫm máu giữa rừng sâu. Quang Dũng đã kế thừa một cách sáng tạo
thơ ca cổ điển dân tộc để viết nên những vần thơ hào sảng như vậy!
Đoàn binh Tây Tiến phần lớn cán bộ và chiến sĩ là thanh niên, học sinh, sinh viên của
36 phố phường, nơi ngàn năm văn vật. Là "Những chàng trai chưa trắng nợ anh
hùng..." ra đi đánh giặc với bao "mộng" và "mơ" tuyệt đẹp:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".
Mộng chiến công. Mộng đánh tan đồn giặc, cướp súng giặc giết giặc. "Mắt trừng" gợi
tả tư thế chiến đấu lẫm liệt vô song khi đánh giáp lá cà, khi tung hoành trong đồn giặc!
Đồng thời trong hành trang và trong tâm hồn những người lính trẻ còn mang theo bao
giấc mơ tuyệt vời. Nhớ về phố cũ trường xưa, mơ về một tà áo đẹp, một "dáng kiều
thơm", nơi Hà Nội thân yêu.
Câu thơ "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm" thể hiện chất tài tử, hào hoa của người
lính Tây Tiến. Còn người chiến sĩ trong bài "Đồng chí" của Chính Hữu, thì nỗi nhớ
hướng về ruộng nương, về "gian nhà không mặc kệ gió lung lay", về giếng nước gốc
đa... Nỗi nhớ của anh Vệ quốc quân trong bài thơ "Nhớ" của Hồng Nguyên là cả một
mối tình quê trang trải, đằm thắm, sâu nặng, thiết tha:
... "Ba năm rồi gửi lại quê hương, Mái lều gianh,
Tiếng mõ đêm trường,
Luống cày đất đỏ,
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya"...
Qua đó, ta thấy nỗi nhớ, cái mộng mơ của người lính thời trận mạc là nông dân, hay
tiểu tư sản thành thị đều đẹp và đáng yêu vì nỗi nhớ, cái mộng mơ ấy đều biểu lộ một
tình yêu quê hương thắm thiết. Thời gian và độc giả hơn nửa thế kỉ qua đã khẳng định
cái hay riêng của thơ Quang Dũng vì nó góp phần làm phong phú thêm chân dung
"anh bộ đội Cụ Hồ" trong kháng chiến chống Pháp. Bài văn mẫu 6
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã lùi lại phía sau, từ sau CMT8 đến nay cũng
đã gần 80 năm, tuy nhiên hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ vẫn in đậm trong tâm trí của
những người còn sống từ thời kì ấy đến thế hệ trẻ hôm nay. Đặc biệt thông qua bài thơ
Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng sáng tác vào cuối năm 1948, chúng ta càng hiểu rõ
hơn chân dung những người lính cụ Hồ khi ấy. Bài thơ không chỉ là nỗi nhớ sâu sắc
của tác giả về những năm tháng nếm mật nằm gai, tình đồng chí mà còn viết về những
người lính Tây Tiến anh dũng hào hoa giữa núi rừng miền tây hùng vĩ.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Tác giả vẽ lên một bức chân dung về người lính Tây Tiến thật khác thường. Họ
không phải là “những trai xinh gái đẹp” mà đó là hình ảnh người lính vất vả, gian nan
và không tránh khỏi những căn bệnh nơi rừng thiêng nước độc. Đó là căn bệnh sốt rét
tới nỗi tóc rụng không mọc lại được. Để tô thêm, hình tượng hóa thêm về người lính,
Quang dũng dùng những vần thơ rất nhẹ nhàng nhưng không thể che đi được một sự
thật rằng, cuộc sống nơi chiến trường hà khắc, hình ảnh người lính rất đỗi bình
thường, giản dị, chân thật như thế đấy. Họ sống thiếu thốn đến độ da cũng xanh xao, bệnh tật.
Tuy nhiên, vẻ ngoài trông có vẻ khắc khổ là thế, xanh xao là thế nhưng ở bên trong
tâm hồn lại toát lên một vẻ dũng khí, anh hùng. Câu thơ: “Quân xanh màu lá dữ oai
hùm.” Ngụm ý cho thấy tính cách hộ rất oai hùng, dữ dội và không hề chùn bước trước kẻ thù.
Hình ảnh đoàn binh không mọc tóc vừa tạo nên sự hào hùng cộng với tính cách oai
hùng dữ dội đã vẽ lên một bức chân dung đời thường đầy khí phách, hào sảng.
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
Khác với vẻ ngoài rắn rỏi, cứng rắn, mạnh mẽ có vẻ oai hùng ấy là vẻ đẹp tâm hồn
lãng mạn không kém gì những chàng công tử Hà Nội hào hoa, phong nhã. Tâm hồn
người lính cũng rất đa dạng, thơ mộng. Trước vẻ đẹp duyên dáng của người con gái,
bất kì chàng trai nào cũng sẽ say đắm rung động và những người lính Tây Tiến cũng
không nằm ngoài. Tâm hồn họ cũng xao động vì một người con gái đẹp, duyên dáng
lướt qua. Họ cũng mang trong mình vẻ đẹp tâm hồn thi sĩ, cũng yêu cái đẹp cái duyên.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Những người lính Tây Tiến là những con người mơ mộng, là những người con trai
xuất thân từ đất hà Thành nên họ vào chiến trường mang theo cả nét thi vị, lãng mạn
trong tâm hồn. Nếu ở tác phẩm Đồng Chí của chính hữu, người lính đến từ các vùng
quê nghèo “đất cày lên sỏi đá” tâm hồn họ thường chỉ quanh quẩn với bến nước cây
đa và một lòng hướng về đất nước. Thì ngược lại, người lính Tây Tiến ngoài lý tưởng
đánh giặc bảo vệ đất nước, họ vẫn mang trong mình vẻ đẹp lãng mạn của những chàng
trai Hà Thành. Có lẽ vì vậy mà tác giả khéo léo sử dụng các vần thơ “gửi mộng” “đêm
mơ”. Họ mơ về một hà Nội đầy thương nhớ, không gian khác hẳn với đời sống gian
khổ chiến trường. Họ cũng mơ về bóng dáng thiếu nữ Hà Thành duyên dáng, thướt
tha đó là bóng người thương của lính Tây Tiến. Nỗi nhớ quê hương, nhớ người yêu
cũng là động lực để họ chiến đấu nơi chiến trường gian khó.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Hình ảnh người lính không bước nữa, gục ngay trên súng là hình ảnh bi hùng về người
lính Tây Tiến. Đó là sự nghỉ ngơi vĩnh viễn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, chỉ như
một giấc ngủ ngàn thu mà thôi. Câu thơ nghe có vẻ nhẹ nhàng rất thảnh thơi tựa như
cái chết của họ nhưng lại khiến cho người đọc mang một sức nặng trong lòng. Qua đó
càng cảm thấy khâm phục những người lính Tây Tiến, họ sẵn sàng hi sinh bản thân vì
lợi ích chung của dân tộc.
Thậm chí, họ sẵn sàng cống hiến tuổi trẻ cho đất nước, chẳng tiếc thân mình, chẳng
tiếc tuổi xanh, ra đi thanh thản lòng nhẹ nhàng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Cái chết đã được lý tưởng hóa, hình ảnh những người chiến sĩ xưa kia với các cụm từ
“áo bào” “khúc độc hành” cho thấy thiên nhiên cũng đau đớn cho nỗi đau của họ.
Những người lính tây tiến mang vẻ đị bi tráng và tầm vóc của họ sánh ngang với tráng
sĩ xưa. Có thể nói, Quang Dũng đã sử cảm hứng lãng mạn đã bất tử hóa hình ảnh của họ.
Chân dung người lính Tây Tiến được Quang Dũng lý tưởng hóa và bất tử cùng thời
gian. Hình ảnh người lính Tây Tiến vừa đời thường vừa lãng mạn, vừa chân thực mà
lại vừa mộng mơ. Những người lính đánh đổi cả thanh xuân để sống với lí tưởng của
mình, hồn tạc vào núi sông và dù thác vẫn đi theo đồng đội, vẫn sống trong lòng đồng đội. Bài văn mẫu 7
Có thể nói, nếu chọn năm tác giả tiêu biểu của giai đoạn văn học thời kì đầu kháng
chiến chống Pháp, có thể không có Quang Dũng nhưng nếu chọn năm bài thơ tiêu
biểu, nhất định Tây Tiến phải được nhắc tên, đứng ở hàng danh dự. Đọc Tây Tiến,
chúng ta sống lại một thời lửa cháy cùng đoàn quân lừng tiếng đã đi vào lịch sử,
chúng ta có thể quên một số câu thơ trong bài, nhưng không thể quên được hình ảnh đoàn quân ấy:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành!
Nếu như ở những đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân mới hiện lên qua nét vẽ gián tiếp
- nói đến gian khổ, hi sinh và địa bàn hoạt động - thì ở đây, đoàn quân ấy đã hiện lên
với những nét vẽ cụ thể, gân guốc, rạch ròi. Đã thành khuôn sáo khi đề cập đến sự can
trường của các chiến binh. Ở đây, ta tưởng như gặp một mô-típ như thế:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùng
Nhưng trước hết, đây là những câu thơ tả thực - thực một cách trần trụi: chiến sĩ Tây
Tiến hồi ấy hoạt động ở những vùng núi rừng hiểm trở, rừng thiêng nước độc, chết
trận thì ít mà chết vì bệnh tật thì nhiều, có những con suối rửa chân rụng lông, gội đầu
rụng tóc. “Quân xanh” ở đây có thể hiểu là xanh màu áo, xanh lá ngụy trang và xanh
làn da vì thiếu máu. Những hình ảnh rất thực đó, vào bài thơ, với giọng điệu và cách
diễn tả lãng mạn của Quang Dũng đã như mang nghĩa tượng trưng, rất có khí phách.
Mười bốn chữ thơ mà chạm khắc vào lịch sử hình ảnh một đoàn quân phi thường, độc
đáo, có một không hai trong cuộc đời cũng như trong thơ ca. Đoàn quân của một thuở
“xếp bút nghiên lên đường chinh chiến” của các chàng trai Hà Nội kiêu hùng, hào hoa.
Vì vậy, khó khăn, gian khổ là thế, nhưng các chiến binh Tây Tiến vẫn không nguôi đi
những tình cảm lãng mạn:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
“Mộng” và “mơ” của người lính được gửi về hai phương trời: biên cương, nơi còn đầy
bóng giặc - mộng giết giặc lập công, và Hà Nội, quê hương yêu dấu - mơ những bóng
dáng thân yêu. “Dáng kiều thơm”, ấy là vầng sáng lung linh trong kí ức, “tố cáo” nét
đa tình của người lính. Nhưng với các chiến sĩ Tây Tiến, nỗi nhớ ấy là sự cân bằng,
thư thái trong tâm hồn sau mỗi chặng hành quân vất vả, chứ không phải để thối chí
nản lòng. Vậy mà một thời, câu thơ “đẹp một cách lãng mạn” này đã khiến cho tác giả
của nó và chính bài thơ phải “trải bao gió dập, sóng dồn”.
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi - xưa nay đi chiến trận, mấy ai trở về, các chiến sĩ Tây
Tiến cũng không khỏi tránh phải những mất mát, hi sinh.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Sau những câu thơ rắn rỏi, đẹp đẽ, đến đây, âm điệu câu thơ chợt trầm và trùng xuống
để độc giả thấy rõ hơn bản chất của sự việc. Dường như đây là một cảnh phim được
cố ý quay chậm. Còn gì thiêng liêng và cao cả hơn sự hi sinh, chấp nhận gian khổ của
người lính. Trên đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao ngôi "mồ viễn
xứ" của những người con "chết xa nhà". Nhưng các chiến sĩ ta nhìn thấy với đôi mắt
bình thản, bởi họ đã chấp nhận điều đó. Một trong những động cơ thôi thúc họ lên
đường là hình ảnh người anh hùng da ngựa bọc thây mà họ tiếp nhận được trong văn
chương sách vở. Một niềm đam mê trong sáng pha chút lãng mạn.
Hai câu thơ cuối tiếp tục âm hưởng bi tráng, tô đậm thêm sự mất mát hi sinh nhưng đó
lại là một cái chết cao đẹp - cái chết bất tử của người lính Tây Tiến.
Áo bào thay chiếu anh về đất.
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Hai câu mới đọc qua tưởng như chỉ làm nhiệm vụ miêu tả, thông báo bình thường
nhưng sức gợi thật lớn. Đâu đây vẫn như còn thấy những giọt nước mắt đọng sau hàng
chữ. Hai câu thơ rắn rỏi mà cảm khái, thương cảm thật sâu xa. Làm sao có thể dửng
dưng trước cảnh “anh về đất”? “Anh về đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở, thực
hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình. Tiếng gầm của sông Mã về xuôi như loạt
đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của giống nòi.
Trước đây, khi nhắc đến những dòng thơ này, người ta chỉ thấy những biểu hiện nào là
“mộng rớt”, “buồn rơi” ... nhưng thời gian đã khiến chúng ta nhìn đúng hơn vào bản
chất, có thời đại ấy mới có văn chương ấy.
Tây Tiến là bài thơ, là tấm lòng của những người chiến binh Tây Tiến. Bài thơ có
nhạc, họa; bên cạnh cái bi là cái hùng, bên cạnh mất mát, đau thương là niềm kiêu
hãnh anh hùng. Nửa thế kỉ đã qua, bài thơ ngày một thêm sáng giá và đoạn thơ khắc
họa đoàn quân Tây Tiến đã trở thành một hoài niệm khó quên của một thời kì lịch sử
hào hùng trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
Phân tích hình ảnh người lính Tây Tiến ngắn gọn Bài văn mẫu 1
Một trong những bài thơ hay mà cho tới tận hôm nay, những vần thơ ấy vang lên vẫn
giống như một khúc ca đi cùng năm tháng, Tây Tiến đã trở thành một hiện tượng
trong thơ Quang Dũng, cũng là một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính.
Những câu thơ mang một vẻ hào hoa, mang một phong cách hồn hậu, phóng khoáng.
Không những thế qua bài thơ Tây Tiến chúng ta thấy được vẻ đẹp bi tráng của những
người lính Tây Tiến và về một thời hào hùng đã qua đi.
Câu thơ mở đầu như một khúc nhạc dạo cứ ngân dài mãi, khúc nhạc ấy nhắc tới hình
ảnh Sông Mã, Tây Tiến ngay ở câu mở đầu cũng được ưu ái với một cách gọi thân
thương “Tây Tiến ơi” . đây chính là một trong tiếng gọi trở về những năm tháng kề
vai sát cánh bên nhau trong hành quân chiến đấu. Sông Mã hào hùng như minh chứng
cho một thời oanh liệt đã qua, cứ ồ ạt cuốn nước chảy tới vô bờ. Vẻ đẹp của những
anh hùng tây tiến cũng từ đó hiện ra, vẻ đẹp của những con người đã in dấu chân trên
những con đường hành quân.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Một thời đạn bom đó đã để lại nỗi ám ảnh cho những người trực tiếp tham gia chiến
đấu. Cách hiệp vần ở những chữ cuối mỗi câu khiến cho câu thơ càng vang xa,ngân
mãi trong đêm: “ơi, vơi, hơi”. Nó giống như lúc những anh lính tây tiến trút hơi thở
mệt mỏi sau một ngày hành quân. Hai địa danh Sài Khao và Mường Lát hiện lên khắc
sâu vào nỗi nhớ của tác giả. Hai địa danh ấy gắn với những cuộc hành quân của đoàn
quân tây tiến. “đêm hơi” khiến cho độc giả nghĩ tới nhiều sự vật kì vĩ, đêm hơi có thể
là đêm đầy sương và hơi sương, đêm hơi còn là đêm của không khí lạnh của rừng sâu,
nhưng cũng có thể là sự di chuyển nhẹ nhàng của những chiến sĩ đoàn quân tây tiến
hay chính là những hơi sương trong đêm hành quân ấy thể hiện những khó khăn vất vả
của đoàn quân. Những khó khăn của những người lính tây tiến lại trở nên đẹp đẽ và
nên thơ trong những vần thơ của Quang Dũng. Đó là những gian nan mà những người
lính phải trải qua, chính những gian nan đó lại càng tô đậm vẻ đẹp bi tráng của họ
những triền dốc khiến người ta mới nhìn đã thấy ngại, hai từ thăm thẳm trong câu thơ
khiến độ hun hút của những con dốc lại càng trở nên nguy hiểm biết bao nhiêu.chưa
dừng lại đó,những hình ảnh hun hút, đầu súng của những người lính đang đùa giỡn với mây trời.
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Những độ cao độ sâu ấy được tính bằng ngàn thước, mục đích của nó nhằm nhấn
mạnh vào những gian khổ mà đoàn quân phải vượt qua. Nhưng đến câu thơ cuối thì
một dòng toàn thanh bằng lại được xuất hiện như bù lại cho những câu thơ mang
nhiều thanh trắc. Sự bằng ấy mang đến cho chúng ta một cảm giác thật sự yên bình.
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Những lúc mưa gió, đoàn quân nghỉ ngơi và nhìn ra
những cơn mưa như trút nước xuống, khiến một vùng trắng xóa như những mặt nước trắng xóa vậy.
Những gian nan khó khăn ấy mở nguồn cho hình ảnh đẹp vi tráng của những người
lính ấy. Cũng có những lúc sự hồn nhiên của người lính được thể hiện qua những giây
phút mệt mỏi, gục lên ba lô và ngủ, bỏ lại sau đó những khó khăn vất vả, những hiểm
nguy của kháng chiến. Hình ảnh người lính gục lên súng mũ dãi dầu không bước nữa
là một hình ảnh đẹp. Câu thơ nhằm nói giảm đi cái chết, cái hi sinh của những người
chiến sĩ ấy. Đó là một vẻ đẹp bi tráng, cái hi sinh kia là bi nhưng trong cái bi ấy ta lại
thấy một cái tráng lệ vô cùng. Họ có thể hi sinh nhưng trong một tư thế rất nhẹ nhõm,
“bỏ quên đời” những kí ức về những lúc dừng chân mệt mỏi, những kỉ niệm với
những buổi chiều và ban đêm với những con thú dữ gầm rú lên, nhớ những đêm mùa nếp xôi ở Mai Châu.
Ở đoạn thơ tiếp theo người lính hiện ra với vẻ hồn nhiên, có một đời sống tinh thần
cũng vô cùng vui vẻ lạc quan, những hình ảnh liên hoan đời thường, cùng với cô gái
Viêng Chăn xinh đẹp kiều diễm với tình dân quân thân thiết đẹp sao. Bỏ qua những
vất vả những người lính hiện ra với vẻ đẹp oai hùng mà cũng hồn.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Hình ảnh có thấy dáng người trên độc mộc và hoa đong đưa tạo nên một hình ảnh có
đôi có cặp, hình ảnh hoa xoáy vào dòng nước càng tạo nên vẻ đẹp thơ mộng nơi đây.
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Không chỉ khó khăn trên chiến trường chiến đấu, những câu chuyện về bệnh tật và nơi
khí hậu khắc nghiệt cũng được đưa vào trong thơ của Quang Dũng. Không một chút
giấu diễm, sự thiếu thốn hay những căn bệnh như sốt rét, khiến cả binh đoàn bị rụng
hết tóc, quang Dũng đã khai thác một vẻ đẹp hết sức chân thực của người lính Tây
tiến, dù khó khăn khắc nghiệt nhưng tinh thần chiến đấu chưa bao giờ kết thúc. Hình
ảnh quân xanh màu lá là những hình ảnh gầy gò ốm nhưng không hề yếu mà vẫn dữ
oai hùm. Mắt trừng gợi cho ta liên tưởng đến sự căm thù giặc của những anh hùng tây
tiến. Những ánh mắt hiện lên lửa hi vọng và tinh thần chiến đấu oai hùng, không một
chút phó mặc cho số phận, cũng có thể đó chính là sự thức trắng không ngủ được vì lo
cho biên giới hoặc mở mắt để nhớ những bóng kiều thơm kia. Đó sự hi sinh của
những người chiến sĩ ấy, họ phần lớn là những trí thức Hà Thánh ngày đêm nghĩ đến
quê nhà với những bóng hồng mà không bao giờ mờ nhạt trong lòng họ. Đó chính là
cái bi của vẻ đẹp người lính. Nhưng nó lại rất tráng vì người ta chết đi vì lí tưởng cao
cả của mình thì đó chính là cái chết đẹp. Thay vì chiếu đắp lên, sự ra đi của các anh
được ví như sự ra đi của những người được những người khác tôn trọng và biết ơn.
Những áo bào thì thay bằng chiếu thể hiện sự giản dị của những người lính. Chiến
trường khắc nghiệt làm cho anh phải ra đi chỉ có mảnh chiếu che thân. Đất mẹ chính
là nơi các anh sinh ra cũng là nơi mà các anh về, đất mẹ che chở cho các anh mãi mãi
yên bình với giấc ngủ ngàn thu của mình. Một lần nữa, hình ảnh sông Mã hiện ra, gầm
lên khúc hành ca, như kính cẩn tiễn đưa linh hồn các anh, không phải là sự chơi vơi
nữa mà là tiếng gầm, nó càng tạo nên chất tráng cho bài thơ.
Dưới ngòi bút hào hoa của Quang Dũng những hình ảnh về những người lính Tây
Tiến vừa hồn hậu,giản dị lại hết sức khí phách. Qua đây ta cũng thấy được những vẻ
đẹp bi tráng của những chiến binh tây tiến, cảm nhận được như thế chúng ta càng
thêm yêu hơn những con người vì quê hương đất nước. Hình tượng các anh vẫn mãi
sống trong lớp lớp thế hệ. Bài văn mẫu 2
Bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng là một trong những tác phẩm đặc sắc với
hình tượng người lính cụ Hồ. Chân dung người lính cách mạng trong thời kì kháng
chiến chống Pháp huy hoàng của dân tộc được hiện lên một cách bi tráng và oai hùng.
Nhà thơ Quang Dũng viết về người lính Tây Tiến – đơn vị quân đội thành lập năm
1947 với nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt – Lào – cùng sự kiêu hãnh và niềm tự hào
với tất cả tình cảm chân thành của ông.
Chiến sĩ Tây Tiến phần lớn là thanh niên, học sinh sinh viên Hà Nội. Họ là những
người biết đến chiến trường khắc nghiệt, nguy hiểm và thiếu thốn kể từ khi đi lính.
Bài thơ Tây Tiến là kỉ niệm, hoài niệm của tác giả thay cho lời muốn nói của những
người chiến sĩ kiên cường và đồng thời là lời của đồng bào dân tộc ta. Hình tượng
người lính Tây Tiến trong bài thơ mang những nét phẩm chất đặc trưng của người lính
trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc ..............
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Người lính Tây Tiến mang một vẻ đẹp rất mực hào hùng, hào hoa giữa môi trường
chiến đấu khắc nghiệt. Xuất thân là những chàng trai Hà Nội lãng mạn, những người
lính nhìn đời bằng con mắt mơ mộng và đầy tinh thần lạc quan của tuổi trẻ. Ngoài
thiên nhiên khắc nghiệt, khó khăn chồng tiếp khó khăn với đoàn quân khi mà những
người lính trẻ tuổi còn phải đối mặt với bệnh tật. Bệnh sốt rét làm “đoàn binh không
mọc tóc”, tóc rụng và nước da xanh xao như “màu lá”. Thế nhưng tinh thần của họ
không bao giờ là bi ai tuyệt vọng. Họ vẫn đứng lên chiến đấu với tâm thế “dữ oai
hùm”, “mắt trừng”. Họ vẫn mơ mộng về “Hà Nội dáng kiều thơm”. Họ vẫn là những
chiến sĩ trẻ tuổi lãng mạn trong tình yêu và lạc quan trong cách sống. Sự lạc quan ấy
như tiếp thêm sức mạnh cho họ trở nên kiên cường và gan dạ dù có khó khăn đến
mấy, dù điều kiện môi trường có khắc nghiệt đến nhường nào. Thiên nhiên hoang vu
hiểm trở đến thế, tư thế vượt qua của người lính Tây Tiến thật oai phong lẫm liệt và đầy khí phách:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm ...........
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Những con dốc nguy hiểm “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” có thể lấy mạng người chiến sĩ
bất cứ lúc nào. Vượt qua muôn trùng hiểm trở, tư thế của người lính thật ngang tàn và
hùng dũng biết bao “súng ngửi trời”. Người lính tay cầm cao cây súng hiên ngang bảo
vệ non sông đất nước. Giữa thiên nhiên vắng vẻ hiểm trở đến “heo hút”, chân dung
người lính cụ Hồ vẫn sừng sững kiên cường và trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa ............
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Người lính Tây Tiến mang trong mình triết lí sống cao đẹp thấm đượm tình người.
Bên cạnh những đôi mắt “trừng” đương đầu với kẻ địch bên bến bờ sinh tử, bên cạnh
tư thế hiên ngang hùng dũng chống chọi với thiên nhiên vô tình, những người lính ấy
còn có một đời sống tinh thần nồng nàn tình thân với đồng bào dân tộc. Họ trở về là
những chàng trai thành thị vui đùa với những cô gái Lào duyên dáng thướt tha. Họ
chìm đắm trong cảm xúc nhung nhớ về ngày tháng gắn bó với con người và miền đất
nơi đây. Đằng sau tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh của họ là tâm hồn yêu
thiên nhiên, đất nước và con người sâu đậm.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ .............
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Nét đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến làm tỏa sáng vẻ đẹp lí tưởng của giới trẻ thời
kì kháng chiến. Công cuộc bảo vệ đất nước dài đằng đẵng và khó khăn biết mấy, hòa
bình đánh đổi bằng mồ hôi xương máu và muôn vàn sự hy sinh. Đã có biết bao người
lính trẻ đã ngã xuống giữa đất trời Tây Bắc. Thân xác các anh nằm lại nơi biên cương
“viễn xứ”. Thế nhưng họ vẫn hùng dũng kiên cường cầm súng bảo vệ tổ quốc mà
“chẳng tiếc đời xanh”. Cho đến khi ngã xuống, thân xác họ chỉ có chiếc chiếu quý như
chiếc “áo bào”, chôn “rải rác”. Những cái chết ấy vừa bi thương vừa tráng lệ, để đời
sau cảm phục biết bao trước sự hy sinh bất khuất của những người lính Tây Tiến anh hùng.
Qua bút pháp lãng mạn của nhà thơ Quang Dũng, hình tượng người lính Tây Tiến
hiện lên với vẻ đẹp độc đáo ngang tàng, oai hùng trong mọi hoàn cảnh và mọi tâm thế.
Chân dung người lính Tây Tiến chói ngời trong vẻ đẹp lí tưởng, sẵn sàng hi sinh cho
độc lập dân tộc. Chúng ta đang được hưởng nền độc lập từ xương máu ông cha ta và
các thế hệ đi trước hy sinh mà thành. Ta cảm phục, tự hào và biết ơn sâu sắc những
người lính Tây Tiến – người lính cụ Hồ. Bài văn mẫu 3
Thơ ca cách mạng là một chủ đề lớn trong kho tàng thơ ca Việt Nam. Những bài thơ,
ca khúc đã đi sâu vào trái tim của triệu triệu đồng bào về một thời khói lửa chiến
tranh. Hình ảnh những người lính bước vào trang thơ cũng rất tự nhiên và gần gũi, là
một đề tài quen thuộc trong thơ cách mạng. Nhà thơ Quang Dũng cũng góp vào kho
tàng ấy một tiếng thơ đẹp Tây Tiến về hình ảnh người lính xuất thân là những người
thanh niên trí thức Hà thành. Bài thơ đã khắc họa thành công hình tượng người lính
Tây Tiến với vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn và cũng rất dũng cảm, ngàng tàng cùng vẻ đẹp bi tráng.
Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên trong trang thơ trước tiên là sự hào hoa lãng
mạn. Bởi họ là những người học sinh, sinh viên trẻ đang ngồi trên ghế nhà trường, ra
đi theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, nên tâm hồn tinh tế, hào hoa cũng là một
điều rất đỗi thường tình, dễ hiểu. Điều đó được thể hiện ban đầu ở cái nhìn háo hức,
say mê với cảnh sắc đẹp đẽ của thiên nhiên và con người Tây Bắc:
“Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Cái vẻ đẹp huyền ảo của núi rừng Tây Bắc trong tâm hồn người lính trẻ là những bông
“hoa về trong đêm hơi” của xứ Mường, là hình ảnh của những làn khói nghi ngút từ
bát cơm thơm dẻo, từ những “mùa em” – mùa của những cánh đồng bậc thang vàng
óng, trĩu hạt cùng hương thơm lúa nếp cho bát xôi thơm dẻo. Những người lính xuất
thân từ Hà thành cũng háo hức và say mê vẻ đẹp của buổi chiều lãng đãng mây bay:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy ..........
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Người lính Tây Tiến hòa mình vào làn sương chập chờn bên núi của buổi “chiều
sương ấy”, vào những “hồn lau” đang phất phơ theo chiều gió nơi bến bờ. Và cái nhìn
lãng mạn của các anh còn thấy được vẻ đẹp trong từng bông hoa rừng rực rỡ như hoa
mai, hoa mận, hoa ban… đang “đong đưa” bên “dòng nước lũ”. Hẳn là phải tinh thế,
tâm hồn thơ mộng lắm mới nhận thấy những vẻ đẹp bình dị như thế.
Không chỉ say sưa vẻ đẹp sông núi, mà người lính trẻ tuổi còn yêu cả vẻ đẹp con
người nơi đây. Đó là vẻ đẹp của “dáng người trên độc mộc” của những cô gái miền
sơn cước trong bộ xiêm áo rực rỡ trong đêm lửa trại ấm tình quân dân:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa ..............
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Chính vẻ đẹp dịu dàng, e ấp, vẻ đẹp của những ngọn đuốc hoa rực rỡ, lung linh cùng
tiếng khèn, điệu nhạc khiến cho tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ nảy nở, chắp
cánh cho những vần thơ tuyệt vời. Tâm hồn thơ ca của những người lính Tây Tiến quả
là một nét độc đáo, tài hoa.
Vẻ đẹp hào hoa lãng mạn cũng thể hiện trong nỗi nhớ của các anh với quê hương và
con người nơi các anh gắn bó. Để rồi khi đêm về, những giấc mơ về Hà Nội thương
nhớ, về người con gái Hà thành thanh lịch nền nã lại dội về trong nỗi nhớ “đêm mơ
Hà Nội dáng kiều thơm”.
Người lính Tây Tiến hiện lên không chỉ đẹp bởi sự hào hoa, mà còn mang một vẻ đẹp
dũng cảm, kiên cường. Dù chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn gian khổ các anh vẫn
luôn cố gắng vượt qua. Nơi các anh hành quân là những dãy núi cao chót vót “khúc
khuỷu” tới “ngàn thước”, là những dốc núi cheo leo “thăm thẳm” “heo hút” đến "rợn ngợp”
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm, ................
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
Không chỉ có vậy, nơi núi rừng hoang vu, sương muối ấy, người lính còn phải đề
phòng những loài thú dữ đáng sợ đầy nguy hiểm:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Đâu chỉ có núi rừng hoang sơ, hoang dại hiện lên thật dữ dội và ghê rợn, người lính
Tây Tiến còn đối mặt với những trận sốt rét, dịch bệnh khiến tóc không thể mọc, làn
da héo hon, xanh xao như tàu lá “đoàn binh không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”.
Thế nhưng, dù khó khăn, gian khổ và thiếu thốn đến đâu, các anh chiến sĩ vẫn cứ dũng
cảm vượt qua, hiên ngang và khỏe khoắn. Sau khi vượt qua những đỉnh núi cao chót
vót, đứng trên đỉnh núi cao chạm tới mây trời, người lính vẫn vô tư, hiên ngang ví von
“súng ngửi trời”. Dù đối chọi với ốm đau bệnh tật, người lính vẫn ngang tàng:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc ..............
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”
Người lính ví von “đoàn binh không mọc tóc” như thể tóc cũng không thèm mọc.
Cách nói cho thấy sự bình thường hóa việc không mọc tóc, không mọc tóc thì có hề
chi. Với các anh, dù da có xanh thì lại càng oai phong, hiên ngang, “dữ oai hùm” như
thể hiện một ý chí sắt đá, hiên ngang, giữ vững ý chí và tinh thần chiến đấu. Điều đó
khẳng định tinh thần và ý chí quật cường của những người lính trẻ, mang theo khát
vọng mãnh liệt, nhiệt huyết sục sôi của tuổi trẻ vì một đất nước độc lập, tự do.
Hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên đặc sắc nhất là vẻ đẹp bi tráng, hào hùng:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ .................
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Nhà thơ đã nhìn thẳng vào sự thật mà không hề né tránh cái chết, cái sự thật không thể
tránh khỏi của chiến tranh khốc liệt. Nhưng sự hi sinh ấy hiện lên đậm chất bi tráng,
sử thi như những tráng sĩ ngày xưa tòng quân ra trận. Hình ảnh những nấm mồ nơi
biên ải xa xôi hiện lên đau thương nhưng không hề bi lụy, mà rất bi tráng. Cùng với
chiếc “áo bào” uy nghiêm đưa các anh về với đất mẹ thiêng liêng là “khúc độc hành”
tráng ca hùng hồn đưa tiễn người chiến sĩ. Màu sắc cổ kính hiện lên trong những vần
thơ thật độc đáo, đẹp đẽ. Nó giúp xây lên một bức tượng đài sừng sững về những
người lính Tây Tiến ra đi một cách oai nghiêm, trang trọng, bi tráng.
Đọc bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp
người lính Tây Tiến thật hào hoa, lãng mạn cùng sự gan dạ, can trường, hiên ngang và
đặc biệt là vẻ đẹp bi tráng, hào hùng. Bài thơ là một khúc tráng ca tuyệt vời còn vang
mãi tới lớp lớp thế hệ trẻ ngày nay để luôn ghi nhớ công lao to lớn của những người
đã ngã xuống cho đất nước hòa bình, ấm no và hạnh phúc. Bài văn mẫu 4
Quang Dũng là một nhà thơ chiến sĩ với hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu của một con
người tài hoa, đa tài. Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, là kết tinh
của những trải nghiệm trong cuộc đấu tranh chống Pháp cùng những người đồng đội
trong binh đoàn Tây Tiến. Thành công nổi bật của của bài thơ là xây dựng được hình
tượng người lính Tây Tiến vừa mang dáng dấp của những người chiến sĩ thuở trước,
vừa mang những vẻ đẹp hiện đại của những người chiến sĩ chống Pháp, kiên cường
nhưng cũng rất đỗi hào hoa, phong nhã.
Đọc Tây Tiến, có ý kiến cho rằng “người lính ở đây có dáng dấp của tráng sĩ thuở
trước". Ý kiến khác thì nhấn mạnh “Hình tượng người lính mang đậm vẻ đẹp chiến sĩ
thời kháng chiến chống Pháp”. Hai ý kiến tưởng chừng đối lập nhưng hoàn toàn thống
nhất bởi nó đều là những nét đẹp đặc trưng trong hình tượng của những người lính
Tây Tiến. “Dáng dấp của tráng sĩ thuở trước” là những nét đẹp lí tưởng mang tính ước
lệ của văn chương trung đại, “mang đậm vẻ đẹp của người chiến sĩ thời chống Pháp”
lại hướng đến những nét đẹp hiện đại của những người chiến sĩ vệ quốc quân thời kháng chiến chống Pháp.
Trước tiên, hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên với dáng vẻ oai phong, lẫm liệt
cùng tinh thần xả thân tự nguyện, tư thế ngang tàng, ngạo nghễ coi cái chết nhẹ tựa hồng mao:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ ..............
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Hình tượng người lính Tây Tiến được đặt trong không gian đầy hào hùng, cổ xưa gợi
cho độc giả liên tưởng đến không gian bi hùng cổ xưa, nơi những chiến binh anh hùng
ra đi vào cuộc chinh chiến. Trong bài thơ Tây Tiến, tác giả Quang Dũng đã sử dụng
hàng loạt những từ ngữ Hán Việt “biên cương”, “mồ viễn xứ”, “áo bào” để làm tăng
tính trang trọng, để làm cho sự ra đi của người lính giảm bớt đau thương, thiêng liêng
hóa cho sự hi sinh thầm lặng đó.
Không gian chiến trường trong bài thơ Tây Tiến hiện lên là miền viễn xứ chốn biên ải,
đây là nơi chiến đấu, cũng là nơi mãi mãi nằm xuống của những người lính vô danh,
họ đã dâng hiến cả cuộc đời, cả tuổi xanh cho sự nghiệp đấu tranh, bảo vệ tổ quốc
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Trong sự thiếu thốn của hoàn cảnh, manh áo
không lành lặn trên người của những người lính ấy cũng chính là “áo bào”để “thay
chiếu anh về đất”. Tuy nói về cái mất mát, hi sinh đấy nhưng nhờ sử dụng ngôn ngữ
trang trọng, hình ảnh ước lệ mà sự hi sinh ấy trở nên thật thiêng liêng, cao đẹp.
Không chỉ mang vẻ đẹp của những người chiến binh xưa mà những người lính Tây
Tiến còn mang trong mình vẻ đẹp của những người chiến sĩ giải phóng của thời chống
Pháp, hào hùng, kiên cường nhưng rất đỗi hào hoa, lãng mạn. Những người lính trong
binh đoàn Tây Tiến chiến đấu với tinh thần vệ quốc của cuộc kháng chiến chống
Pháp, quyết hi sinh, dâng hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp lớn của đất nước:
“Người đi Tây Tiến không hẹn ước .............
Hồn về Sầm Nứa, chẳng về xuôi”
Sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt, thiếu thốn về vật chất, hiểm nguy trong chiến đấu
với cái chết kề cận nhưng những người lính ấy chưa từng thoái chí, sờn lòng mà luôn
lạc quan, vui vẻ thể hiện được sức sống căng tràn của những chàng trai Hà Thành lãng mạn, mộng mơ:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Cuộc sống quân ngũ gian khổ nhưng những người lính vẫn một lòng hướng về biên
giới với tinh thần đấu tranh quyết liệt, mạnh mẽ với kẻ thù. Cùng với sự kiên cường,
quả cảm trong chiến đấu là những phút lãng mạn, hào hoa của những chàng trai khi
nhớ về bóng dáng kiều thơm. Những người lính trong tây Tiến mang vẻ đẹp hào hùng
của những người lính vệ quốc nhưng cũng thể hiện những nét đẹp tươi trẻ, nghịch
ngợm của những chàng trai đôi mươi đầy lãng mạn, mộng mơ. Cũng chính tinh thần
lạc quan, yêu đời cùng những cảm xúc hào hoa, lãng mạn ấy đã mang đến doanh trại –
nơi vốn trang nghiêm với những kỉ luật thép trở nên thật rực rỡ, ấn tượng với “hội đuốc hoa”.
Hình tượng những người lính Tây Tiến cũng được gắn liền với sự kiện lịch sử có thật,
đó chính là cuộc hành binh của những người lính Tây Tiến, những địa danh xuất hiện
trong bài thơ cũng là những địa danh có thực, ngôn ngữ thơ cũng thật bình dị như lời
thì thầm tâm sự của những người lính.
Như vậy, hai ý kiến nhận định về bài thơ Tây Tiến nhìn bên ngoài có vẻ đối lập nhưng
hoàn toàn thống nhất vì cùng hoàn thiện cho vẻ đẹp của người lính Tây Tiến, vừa kiên
cường, quả cảm vừa lãng mạn hào hoa. Bài văn mẫu 5
Quang Dũng một gương mặt tiêu biểu của thơ ca kháng chiến Việt Nam. Tác phẩm
ông để lại không nhiều, nhưng gây ấn tượng sâu sắc, đậm nét trong lòng bạn đọc, đặc
biệt là tác phẩm Tây Tiến. Người đọc ngoài ấn tượng về khung cảnh núi non hùng vĩ,
vừa mơ mộng của nơi núi rừng còn ấn tượng bởi hình tượng người lính kiên cường,
anh dũng, lí tưởng sống cao đẹp, sẵn sàng hi sinh cho đất nước. Hình tượng người lính
trong tác phẩm Tây Tiến mang một vẻ đẹp rất riêng, rất lạ, đặc trưng cho phong cách thơ Quang Dũng.
Tây Tiến được sáng tác năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, sau khi nhà thơ dời binh đoàn
Tây Tiến để nhận nhiệm vụ khác. Chính hoàn cảnh sáng tác này đã cho thấy toàn bộ
tác phẩm thấm đẫm trong nỗi nhớ vừa tha thiết vừa thiêng liêng, khắc khoải.
Trong phần một và hai của bài thơ, nổi bật hơn cả là bức tranh thiên nhiên và con
người nơi rừng núi khi binh đoàn Tây Tiến đi qua, hình ảnh người lính Tây Tiến chỉ
xuất hiện một cách gián tiếp, nhưng cũng đã phần nào cho người đọc hình dung về
hình ảnh của họ. Sang đến phần thứ ba nhà thơ mới tập trung tất cả tình cảm cũng như
tài năng của mình để tạc vào văn học Việt Nam bức tranh chân dung sừng sững về
người lính Tây Tiến. Người lính được khai thác toàn diện từ ngoại hình cho đến tâm
hồn, lí tưởng, từ cuộc sống chiến đấu đến sự hi sinh.
Trước hết về ngoại hình, Quang Dũng đã đưa vào hình ảnh giàu chất hiện thực:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện lên vô cùng chân thực: không mọc tóc, quân xanh
màu lá. Những hình ảnh này đã xé bỏ tất cả cái nhìn ảo tưởng, tô vẽ về cuộc sống
cũng như sinh hoạt của người lính. Để đưa người đọc đến hiện thực trần trụi, gai góc
khi do sự thiếu thốn về vật chất cũng như sự hành hạ của bệnh sốt rét rừng, hình ảnh
những người lính Tây Tiến đã bị biến dạng. Họ hiện lên với chân dung hết sức kì lạ:
tóc rụng, da xanh như mùa lá. Hiện thực này cũng đã được các thơ khác đề cập đến như:
Cuộc đời gió bụi pha xương máu
Đói rét bao lần xé thịt da
Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa
Tuy nhiên đích đến của Quang Dũng không phải là hiện thực trần trụi đó, mà từ hiện
thực ấy nhấn mạnh vào ý chí, nghị lực phi thường của người lính. Bởi vậy, nó đối lập
với khó khăn, khắc nghiệt là hình ảnh người lính hết sức oai phong. Dù nước da có
xanh xao nhưng ở đó vẫn hiện lên thần thái “dữ oai hùm”. Tạo nên hơi thở gân guốc,
rắn rỏi cũng như bản lĩnh ngang tàng, sẵn sàng vượt lên khó khăn của người chiến sĩ.
Quang Dũng tiếp tục đi sâu khai thác khía cạnh thứ hai tưởng như rất đối lập nhưng
kỳ thực lại rất thống nhất trong tâm hồn người lính Tây Tiến, đó chính là tâm hồn lãng mạn, hào hoa:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Hình ảnh “mắt trừng” diễn tả chính xác cái nhìn căm hờn, dữ dội mà người lính dành
cho kẻ thù. Ở đó ánh lên lòng căm thù giặc sâu sắc và khát vọng giết giặc lập công,
bảo vệ quê hương. Giấc mộng của người lính là phương diện dễ nhận thấy nhất ở bất
cứ người chiến sĩ nào trong thời đại kháng chiến. Nhưng sự tinh tế, nhạy cảm của tác
giả ở chỗ ông nhìn sâu vào những góc khuất trong tâm hồn người lính. Hình ảnh
“dáng kiều thơm” chính là dáng người thướt tha, mềm mại của những cô gái Hà
Thành, đồng thời cũng gợi đến hương hoa sữa nồng nàn đặc trưng của Hà Nội. Chính
giấc mộng đó là động lực để họ có thể sống, chiến đấu một cách anh dũng.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Tiếp tục sử dụng bút pháp nhất quán từ đầu tác phẩm, đến đây Quang Dũng lại đưa
thêm hình ảnh đậm chất hiện thực. Không gian xa xôi, biên viễn với những nấm mồ
rải rác tạo nên cảm giác xót xa, tang tóc, thê lương. Nhưng chất hiện thực lại không
rơi vào sự bi lụy, bởi ngay sau đó tác giả đã viết câu thơ khẳng định lí tưởng của
người lính Tây Tiến để cho cảm hứng của cái bi lụy trở thành bi tráng. Người lính Tây
Tiến ý thức rất rõ về quãng đời “xanh” – tuổi trẻ, mơ ước, khát vọng, đồng thời họ
cũng ý thức ra chiến trường chấp nhận sự mất mát, hi sinh. Nhưng cách ứng xử của
người lính với cái chết không phải là sự run rẩy sợ hãi, mà là sự lựa chọn dứt khoát,
chủ động. Hai chữ “chẳng tiếc” cùng với cấu trúc câu chủ động đã cho thấy rất rõ điều
đó. Nhà thơ Quang Dũng để người lính vào thử thách khắc nghiệt nhất, lựa chọn giữa
sống vào chết từ đó làm bật lên lí tưởng sống cao đẹp của họ. Lí tưởng sống cao đẹp
đó không chỉ của riêng binh đoàn Tây Tiến mà còn là của tất cả những người lính:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình/ Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc/
Nhưng ai cũng tiếc thì còn chi tổ quốc/ Việt Nam ơi! Chỉ duy nhất cho Người/ Chúng tôi xin chết”.
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Câu thơ đầu tiếp tục là nét chạm khắc vô cùng chân thực về hiện thực thiếu thốn
không chỉ đồng hành với người lính trong suốt quá trình chiến đấy mà còn theo họ đến
tận lúc hi sinh. Bởi vậy, ngay cả nghi thức cử hành tang lễ sơ sài nhất cũng không có,
họ phải lấy manh chiếu bọc lấy thân. Bằng tất cả sự yêu thương, trân trọng, Quang
Dũng đã nâng cái chết có phần xót xa trở thành cái chết vô cùng trang trọng, khi
khoác lên mình đồng đội chiếc áo bào – trang trọng, uy nghi. Hai chữ “về đất” là cách
nói giảm, nói tránh để bớt đi sự buồn thương, mất mát đồng thời tạo ra tâm thế rất nhẹ
nhàng, thanh thản của người lính trước khi mất. Ở đây chết không phải là sự hi sinh
mà là sự trở về với đất mẹ. Và để tiễn đưa người lính về với đất mẹ, sông Mã đã gầm
lên khúc độc hành dữ dội, hùng tráng để đưa những con người trở về với cõi bất tử.
Bằng sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn, ngôn từ tinh tế, sắc sảo Quang
Dũng đã thành công khi dựng lên chân dung người lính Tây Tiến. Người lính Tây
Tiến vừa mang trong mình ý chí, nghị lực kiên cường như bao chiến sĩ khác, vừa
mang chiều sâu tâm hồn tài hoa lãng mạn, một nét vẽ rất riêng. Hình tượng người lính
Tây Tiến chính là linh hồn cho toàn bộ bài thơ, nó đi vào văn học Việt Nam nhưng
một trong những hình tượng tinh tế nhất về đề tài người lính. Bài văn mẫu 6
Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của
bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn
thiện bức tượng đài về chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa.
Chân dung người lính hiện lên ở khổ thơ thứ 3 có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ
đẹp tâm hồn, lý tưởng chiến đấu và phẩm chất hy sinh anh dũng. Có thể nói cả bài thơ
là một tượng đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh khác thường.
Chân dung đoàn binh Tây Tiến chạm khắc bằng nét bút vừa hiện thực vừa lãng mạn.
Các chi tiết như lấy từ đời sống hiện thực và khúc xạ qua tâm hồn thơ Quang Dũng để
rồi sau đó hiện lên trên trang thơ đầy sức hấp dẫn. Dọc theo hành trình, vẻ đẹp hào
hùng kiêu dũng cứ lấp lánh dần lên, đến khi người lính Tây Tiến đối mặt với dịch
bệnh, đối mặt với cái chết thì nó thật chói người, nét nào cũng sắc sảo lạ lùng và đầy lãng mạn:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Chữ dùng của Quang Dũng ở đây thật lạ. Nếu mở đầu đoạn thơ tác giả dùng từ "Đoàn
quân" thì ở đây tác giả dùng "Đoàn binh". Cũng đoàn quân ấy thôi nhưng khi dùng
"Đoàn binh" thì gợi hình ảnh đoàn chiến binh có vũ khí, có khí thế xung trận át đi vẻ
ốm yếu của bệnh tật. Ba chữ "không mọc tóc" là đảo thế bị động thành chủ động.
Không còn đoàn quân bị sốt rét rừng lâm tiều tuỵ đi rụng hết cả tóc. Giọng điệu của
câu thơ cứ y như là họ cố tình không mọc tóc vậy. Nghe ngang tàng kiêu bạc và thấy
rõ sự bốc tếu rất lính tráng.
Các chi tiết "không mọc tóc, quân xanh màu lá" diễn tả cái gian khổ khác thường của
cuộc đời người lính trên một địa bàn hoạt động đặc biệt. Di chứng của những trận sốt
rét rừng triền miên là "tóc không mọc" da xanh tái. Nhưng đối lập với ngoại hình tiều
tụy ấy là sức mạnh phi thường từ bên trong phát ra từ tư thế "dữ oai hùm". Với nghệ
thuật tương phản chỉ 2 dòng thơ Quang Dũng làm nổi bật vẻ khác thường của đoàn
quân Tây Tiến. Họ hiện lên như hình ảnh tráng sĩ trượng phu một thuở qua hai câu tiếp:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
"Mắt trừng" biểu thị sự dồn nén căm uất đến cao độ như có khả năng thiêu đốt quân
thù qua ánh sáng của đôi mắt. Hình ảnh thơ làm nổi bật ý chí của đoàn binh Tây Tiến.
ở đây người lính Tây Tiến được đề cập đến với tất cả thực trạng mệt mỏi, vất vả qua
các từ "không mọc tóc", "quân xanh màu lá". Chính từ thực trạng này mà chân dung
người lính sinh động chân thực. Thế nhưng vượt lên trên khó khăn thiếu thốn, tâm hồn
người lính vẫn cất cánh "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm". Câu thơ ánh lên vẻ đẹp
tâm hồn của người lính Tây Tiến. Ban ngày "Mắt trừng gửi mộng" giấc mộng chinh
phu hướng về phía trận mạc nhưng khi bom đạn yên rồi giấc mộng ấy lại hướng về
phía sau cũng là hướng về phía trước, phía tương lai hẹn ước. Một ngày về trong chiến
thắng để nối lại giấc mơ xưa, ý chí thì mãnh liệt, tình cảm thì say đắm. Hai nét đẹp hài
hòa trong tính cách của những chàng trai Tây Tiến.
Quang Dũng đã dùng hình ảnh đối lập: một bên là nấm mồ, một bên là ý chí của những người chiến binh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
"Mồ viễn xứ" là những nấm mồ ở những nơi xa vắng hoang lạnh. Những nấm mồ rải
rác trên đường hành quân, nhưng không thể cản được ý chí quyết ra đi của người lính.
Câu thơ sau chính là câu trả lời dứt khoát của những con người đứng cao hơn cái chết:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Chính tình yêu quê hương đất nước sâu nặng đã giúp người lính coi cái chết nhẹ tựa
lông hồng. Khi cần họ sẵn sàng hy sinh cho nghĩa lớn một cách thanh thản bình yên
như giấc ngủ quên. Câu thơ vang lên như một lời thề đúng là cái chết của bậc trượng phu:
"Áo bào thay chiếu anh về đất"
Nếu như người tráng sĩ phong kiến thuở trước coi da ngựa bọc thây là lí tưởng thì anh
bộ đội cụ Hồ ngày nay chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc một cách tự nhiên thầm lặng.
Hình ảnh "áo bào" làm tăng không khí cổ kính trang trọng cho cái chết của người lính.
Hai chữ "áo bào" lấy từ văn học cổ tái tạo vẻ đẹp của một tráng sĩ và nó làm mờ đi
thực tại thiếu thốn gian khổ ở chiến trường. Nó cũng gợi được hào khí của chí trai
"thời loạn sẵn sàng chết giữa sa trường lấy da ngựa bọc thây. Chữ "về" nói được thái
độ nhẹ nhõm, ngạo nghễ của người tráng sĩ đi vào cái chết "Anh về đất" là hình ảnh
đầy sức mạnh ngợi ca. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng, người lính Tây Tiến
trở về trong niềm chở che của đất mẹ quê hương, của đồng đội. Trở về với nơi đã sinh
dưỡng ra mình. Trước những cái chết cao cả ở địa bàn xa xôi hẻo lánh sông Mã là
nhân vật chứng kiến và tiễn đưa.
Mở đầu bài thơ ta gặp ngay hình ảnh sông Mã, con sông ấy gắn liền với lịch sử đoàn
quân Tây Tiến. Sông Mã chứng kiến mọi gian khổ, mọi chiến công và giờ đây lại
chứng kiến sự hy sinh của người lính. Đoạn thơ kết thúc bằng khúc ca bi tráng của sông Mã.
"Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Dòng sông Mã là chứng nhân của một thời kỳ hào hùng, chứng kiến cái chết của
người tráng sĩ, nó gầm lên khúc độc hành bi phẫn, làm rung động cả một chốn hoang
sơ. Câu thơ có cái không khí chiến trận của bản anh hùng ca thời cổ. Câu thơ đề cập
đến mất mát đau thương mà vẫn hùng tráng. Bốn câu kết:
Bốn câu thơ kết thúc được viết như những dòng chữ ghi vào mộ chí. Những dòng
sông ấy cũng chính là lời thề của các chiến sĩ vệ quốc quân.
"Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy"
"Mùa xuân" có thể được dùng nhiều nghĩa: thời điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến
(mùa xuân 1947), mùa xuân của đất nước, mùa xuân (tuổi thanh xuân) của đời các chiến sĩ.
Hình ảnh "Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi", "chẳng về xuôi" bỏ mình trên đường
hành quân "Hồn về Sầm Nứa": chí nguyện của các chiến sĩ là sang nước bạn hợp đồng
tác chiến với quân tình nguyện Lào chống thực dân Pháp, thực hiện lý tưởng đến
cùng. Bởi vậy dù đã ngã xuống trên đường hành quân hồn (tinh thần của các anh) vẫn
đi cùng với đồng đội, vẫn sống trong lòng đồng đội: Vang vọng âm hưởng văn tế của
Nguyễn Đình Chiểu: "Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc". Bài văn mẫu 7
Nhắc đến kháng chiến chống Pháp, ta sẽ nhớ ngay những người lính nông dân trong
Đồng Chí – Chính Hữu: “Quê hương anh nước mặn đồng chua/ Làng tôi nghèo đất
cày lên sỏi đá”. Và cũng không thể không nhắc đến người lính Tây Tiến trong bài thơ
cùng tên của nhà thơ Quang Dũng. Bằng ngòi bút vừa hiện thực, vừa lãng mạn, Quang
Dũng đã dựng lên bức tượng đài bất tử về những người lính vô danh mà anh dũng, kiên cường.
Tây Tiến là sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn, bởi vậy chân
dung người lính cũng được tác giả tái hiện tương tự như vậy. Những người lính Tây
Tiến không còn cái e dè thuở ban đầu như những người lính trong bài Đồng chí, mà đã
mang trong mình nét vừa hóm hỉnh, vừa hiên ngang, mà cũng rất đỗi tài hoa của
những người dân xuất thân từ tầng lớp trí thức.
Bài thơ được Quang Dũng mở đầu bằng nỗi nhớ chơi vơi, khắc khoải:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Ta từng biết đến nỗi nhớ tha thiết, bổi hổi “như đứng đống lửa, như ngồi đống than”
của những chàng trai cô gái đang yêu nhau trong ca dao,… nhưng ta lại chưa từng
thấy nỗi nhớ “chơi vơi”. Đó là một nỗi nhớ thật đặc biệt, thật ấn tượng. Tuy là chơi
với ấy nhưng vô cùng thâm trầm, sâu sắc, thấm đượm. Và cũng từ chính nỗi nhớ ấy,
Quang Dũng truy dòng hồi tưởng nhớ về những người đồng chí của mình.
Hình ảnh đầu tiên mà ông nhớ đến chính là những đoàn quân hành quân trong màn
sương dày đặc: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”. Một nét vẽ thật hiện thực, thật
trần trụi về hành trình chiến đấu gian khổ của họ, họ không chỉ phải đối mặt với thiếu
thốn về vật chất, mà còn phải đối mặt với thiên nhiên, khí hậu khắc nghiệt. Nhưng
đằng sau đó cũng lại cho ta thấy tinh thần quật cường của những người lính này.
Chân dung người lính vô danh tiếp tục được khắc họa là một nét vẽ hiện thực khác:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Trên đường hành quân dài ngày, người lính phải đối mặt với vô vàn khó khăn: địa
hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, thiên nhiên hoang dã, đầy nguy hiểm,… bởi vậy
không ít người đã phải bỏ mạng ở nơi rừng thiêng nước độc. Cách gọi anh bạn của tác
giả cũng đầy thân thương, gần gũi mà cũng trân trọng, xót thương. Cách nói giảm nói
tránh “anh bạn dãi dầu không bước nữa” khiến cho cái chết trở nên bớt bi thương hơn,
đồng thời cũng khiến cho tổng thể văn bản không nhuốm màu sắc bi lụy.
Sau những nét vẽ thấp thoáng, nhòa nhạt phải đến tận khổ thơ thứ ba chân dung của
người lính Tây Tiến mới được phác họa rõ nét:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Đây chính là hình ảnh trung tâm, phối ứng hòa hợp với vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên
cũng là vẻ đẹp hào hùng của con người – đó chính là binh đoàn Tây Tiến kiên cường,
anh dũng. Họ là những con người không nề hà, khó khăn, gian khổ, mang sức trẻ,
niềm tin, khao khát lên đường. Bởi vậy với căn bệnh sốt rét rừng họ không hề sợ hãi
né tránh, cách nói thật chủ động: “không mọc tóc” khẳng định khí thế bản lĩnh của bản
thân. Màu xanh của da cũng như hòa với màu lá của rừng, đầy oai hùng, dữ dội. Họ
hiện lên thật oai phong, ngạo nghễ những đồng thời cũng vô cùng lãng mạn, hào hoa:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Đây quả là một thái cực hoàn toàn trái ngược, mà ta khó có thể hình dung nổi lại tồn
tại song song và hòa hợp đến thế trong người lính Tây Tiến. Trong câu thơ đầu, hình
ảnh người chiến sĩ hiện lên với hùng tâm tráng trí của kẻ làm trai: “Làm trai cho đáng
nên trai/ Xuống đông đông tĩnh, lên Đoài Đoài yên”. Và nó được thể hiện cái đôi mắt
trừng đầy cảnh giác, đầy căm phẫn với kẻ thù, thể hiện lí tưởng anh dũng, hào hùng,
thể hiện khát vọng vươn cao hơn, xa hơn. Nhưng câu thơ sau lại dịu dàng, mơ mộng
biết mấy. Dáng kiều thơm, vừa có dáng hình, vừa có mùi hương, thật thơ mộng và
lãng mạn biết bao. Hình ảnh những người con gái đẹp Hà thành xuất hiện làm với bớt
cái khắc nghiệt của chiến tranh, tiếp thêm một nguồn sức mạnh mới cho người chiến sĩ.
Ngay khổ thơ sau đó, Quang Dũng một lần nữa nhìn thẳng vào hiện thực, hiện thực
chết chóc, đầy bi thương:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Vì chiến tranh, vì môi trường khí hậu khắc nghiệt mà không ít chiến sĩ đã phải bỏ
mạng trên đường hành quân, những nấm mồ rải rác nơi biên cương lãnh lẽo, xa xôi.
Câu thơ sử dụng hàng loạt từ Hán Việt: biên cương, viễn xứ tạo nên sự trang nghiêm,
tôn kính. Và câu thơ tiếp theo càng làm bật lên khí phách của người chiến sĩ, họ ra đi
chẳng tiếc khoảng thanh xuân đẹp đẽ, tươi trẻ nhất của mình. Bởi lên đường là họ đã
tìm thấy cho mình lí tưởng sống tươi đẹp: hi sinh vì sự độc lập, tự do của tổ quốc.
Cũng bởi lí tưởng đó, cái chết của họ cũng được tác giả lí tưởng hóa, trở nên hùng
tráng và thiêng liêng hơn:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Anh mang trên mình chiếc “áo bào” trở về với đất mẹ, trở về với khởi nguyên. Và tiễn
đưa họ là tiếng sông Mã gầm lên, vừa thể hiện sự xót thương, vừa là tiếng gầm của núi
sông cảm ơn những người con dũng cảm đã sẵn mình xả thân cho mảnh đất này.
Với sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn, chân dung những người lính vô
danh đã được Quang Dũng tạc lên vô cùng anh dũng, đẹp đẽ. ở họ vừa có cái ngang
tang, phí phách của một người anh hùng, nhưng cũng vô cùng lãng mạn hào hoa của
một kẻ sĩ đất Bắc. Chính họ, những con người vô danh ấy lên đường, cống hiến tuổi
trẻ, hi sinh bản thân để dành được độc lập cho tổ quốc, chính họ là người đã làm nên Đất Nước. Bài văn mẫu 8
Hình ảnh người lính nói chung và những người lính thời kỳ chống Pháp nói riêng từ
lâu đã đi vào văn chương như một nguồn thi cảm. Các nhà thơ viết về người lính với
tất cả niềm kiêu hãnh, tự hào. Giữa muôn vàn những tác phẩm như vậy, Tây Tiến là
bài thơ có vị trí đặc biệt.
Tây Tiến là một trong những bài thơ sớm nhất viết về người lính cách mạng, ra đời
ngay trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và trở thành thi
phẩm xuất sắc của nền thơ Việt Nam từ sau năm 1945 cùng với hình tượng người lính
Tây Tiến. Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ
phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt - Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân
đội Pháp ở Thượng Lào và miền Tây Bắc Việt Nam. Địa bàn đóng quân và hoạt động
của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình,
miền Tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa (Lào).
Về xuất thân, các chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều
học sinh, sinh viên. Mặc dù hoàn cảnh chiến đấu rất gian khổ, thiếu thốn về vật chất,
thuốc men với căn bệnh sốt rét hoành hành dữ dội nhưng những người lính Tây Tiến
vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Có thể nói những người lính Thủ đô
đã đi vào cuộc kháng chiến mang theo vẹn nguyên cái mộng mơ, lãng mạn, hào hoa
của người con đất Hà Thành.
Bài thơ được hình thành từ một nỗi nhớ, nỗi nhớ da diết về những người đồng đội và
những ngày tháng, những kỉ niệm không thể nào quên của chính tác giả với đoàn quân
Tây Tiến, gắn với vùng đất miền Tây hùng vĩ, hiểm trở và thơ mộng. Nỗi nhớ ấy đã
đánh thức mọi ấn tượng , kí ức để kết tinh tập trung trong bức chân dung người lính Tây Tiến.
Bằng bút pháp lãng mạn mà không thoát li hiện thực, bài thơ đã khắc họa sừng sững
bức tượng đài người lính trường tồn, bất tử mãi mãi với không gian, thời gian.
Trước hết, đó là nét gân guốc, lạ hóa trong ngoại hình của người lính Tây Tiến:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Ta đã từng thấy một “Tiểu đội xe không kính” dí dỏm trong thơ Phạm Tiến Duật thì
nay lại thấy một “đoàn binh không mọc tóc” trong thơ Quang Dũng. Nhưng nét gân
guốc, lạ hóa trong ngoại hình của người lính Tây Tiến bắt nguồn từ chính hiện thực
đến từng chi tiết. Không mọc tóc là hậu quả của những trận sốt rét rừng khủng khiếp,
rừng thiêng nước độc, thuốc men không có nền quân xanh màu lá cũng là thực tế hiển
nhiên. Tố Hữu khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài cá nước cũng không quên
nhắc tới sức ảnh hưởng ghê gớm của căn bệnh quái ác đó: Giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Nhưng ẩn sau ngoại hình ấy là sức mạnh nội tâm là tâm hồn, khí phách của những người lính Tây Tiến:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Nếu câu thơ thứ nhất nhấn mạnh chữ mộng thì câu thơ thứ hai nhấn mạnh chữ “Mơ”.
Câu thơ mang vẹn nguyên cả ước vọng và điểm đến cuối cùng của đời lính Tây Tiến.
Chữ “trừng” được sử dụng khá độc đáo. Người đọc có cảm tưởng như mọi ước mơ
khao khát tận đáy lòng đã trào dâng và đong đầy trong ánh mắt người lính. Tứ thơ ấy
gợi nhắc đến hình ảnh thơ quen thuộc:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
Thì ra bao giờ cũng vậy, đích đến cuối cùng của những người lính luôn là hạnh phúc.
Nỗi nhớ của họ hướng cả về “dáng kiều thơm”, những bóng hình giai nhân yêu kiều,
thướt tha, thanh lịch nào đó ngoài cuộc đời. Họ ra đi chiến đấu vì tự do, độc lập,
nhưng trước hết là vì cuộc sống tương lai hạnh phúc mà họ khao khát. Chính vì vậy
mà “dáng kiều thơm” trở thành điểm tựa, niềm hi vọng để tiếp thêm cho họ sức mạnh
để chiến đấu và chiến thắng.
Những người lính Tây Tiến sống anh dũng mà hi sinh cũng anh hùng. Quang Dũng
không hè né tránh hiện thực khắc nghiệt nhất, đau thương nhất, tàn nhẫn nhất của
chiến tranh đó là sự hi sinh:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời;
– Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh;
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Ba lần Quang Dũng nhắc tới sự hy sinh, nhưng lần nào cũng là hình ảnh ẩn dụ để
tránh đi từ “chết”. Dường như khi người lính Tây Tiến ngã xuống chỉ là khi anh tạm
nghỉ chân trước cuộc đời. Cái chết không đồng nghĩa với ngừng chiến đấu vì tâm hồn,
vì ước nguyện của anh sẽ mãi trường tồn với thời gian. Anh ngã xuống nhưng vẫn kịp
trao ngọn lửa tuổi trẻ cho những đồng đội tiếp tục con đường cách mạng vinh quang.
Sự hi sinh của các anh làm người đọc không khỏi nghẹn ngào: “Rải rác biên cương
mồ viễn xứ”. Chữ “rải rác” được đảo lên đầu câu, nhấn mạnh cho sự quạnh quẽ, lạnh
lẽo, hoang vắng gợi cảm giác xót xa đau đớn nhưng đôi cánh của lí tưởng quên mình
vì Tổ quốc“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” đã xoa dịu nỗi đau làm sáng lên vẻ
đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến.
Có lẽ hình tượng người lính Tây Tiến đã trở thành bất tử với muôn đời. Dòng lịch sử
có thể đổi thay nhưng mọi thế hệ sau vẫn gợi nhắc đến các anh như hình tượng đẹp đẽ
nhất. Qua dòng hồi tưởng của Quang Dũng, những chiến sĩ Tây Tiến hiện lên trong sự
đối mặt với khó khăn, gian khổ, hi sinh nhưng lúc nào cũng lạc quan phơi phới yêu
đời. Với âm hưởng thơ lúc dữ dội, khi sôi nổi, lúc lại vang vọng, trầm lắng, bài thơ đã
dẫn hồn người đọc trở về một thời quá khứ xưa, để cùng lắng cảm trong nỗi nhớ
thương da diết của Quang Dũng. Bài văn mẫu 9
Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài, ông sáng tác trên nhiều mảng nghệ thuật
khác nhau: Viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc, nhưng thành công hơn cả là ở
những sáng tác thơ ca. Tên tuổi của ông được khẳng định với bài thơ Tây Tiến. Tác
phẩm này đã cho người đọc thấy hình ảnh một người lính vừa lãng mạn, hào hoa mà
cũng vô cùng kiên trung, dũng cảm. Đây chính là điểm đặc biệt tạo nên sự thành công cho tác phẩm này.
Với vẻ đẹp lãng mạn hào hoa, người lính Tây Tiến được tác giả Quang Dũng viết
bằng bút pháp lãng mạn. Ở họ, trước hết mang vẻ đẹp hào hoa, hào hùng. Họ là những
người lính xuất thân từ tầng lớp trí thức tiểu tư sản, đến vùng đất biên cương phía tây
của Tổ quốc để chiến đấu. Dù hiện thực khắc nghiệt, nhưng không thể mài mòn tâm
hồn lãng mạn, yêu đời vốn có của họ. Sự hào hoa, lãng mạn của họ được thể hiện
trong cách cảm nhận núi rừng và thiên nhiên. Một thiên nhiên thật dữ dội, và hiểm
trở:“Dốc lên khúc khủy, dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây súng ngửi trời”. Nhưng đó
cũng là một thiên nhiên đầy lãng mạn qua cảm quan của người lính:
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Thiên nhiên Tây Bắc được cảm nhận một cách vô cùng độc đáo, vừa hùng vĩ, hiểm
nguy mà cũng đầy tươi tắn, nên thơ. Hình ảnh những bông hoa trôi theo dòng nước lũ
như một nét vẽ khác, làm cân bằng bức tranh nơi đây, cũng là cân bằng tâm trạng của những người lính.
Trong hành trình chiến đấu đầy gian khổ, không tránh khỏi những hi sinh, nhưng
những người lính vẫn mang trong mình niềm tin vào tương lai từ những chuyển biến
tế vi nhất của hiện thực. Họ hạnh phúc, sung sướng khi ngửi thấy hương nếp hoa bừng
lên, họ như được sống những ngày tháng ở quê hương:
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Họ nao lòng, say sưa trong điệu nhảy man điệu của những người con gái Tây Bắc:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu, nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Đây có lẽ là những giây phút nghỉ ngơi hiếm hoi của những người lính trong quá trình
hành quân. Họ ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của những người thiếu nữ nơi núi rừng, vẻ đẹp
vừa có cái hoang dại, mà cũng vô cùng tình tứ. Hòa cùng tiếng khèn man điệu, những
thiếu nữ e ấp, đã thực sự là nhà thơ say xưa, kinh ngạc. sự lãng mạn của người lính
còn thể hiện trong giấc mơ gửi về quê hương:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Nhắc đến dáng kiều thơm hắn chúng ta sẽ nghĩ ngay đến những người con gái Hà
thành thướt tha trong tà áo dài trắng. Nó không hề thể hiện cái buồn rớt, mộng rớt của
người trí thức tiểu tư sản, mà hình ảnh người thiếu nữ kia như một liều thuốc giúp họ
có thêm tinh thần, động lực, bảo vệ biên giới: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới” –
họ luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu để bảo quê hương, Tổ quốc.
Không chỉ hiện lên với vẻ đẹp lãng mạn, người lính còn hiện lên với nét vẽ chân thực,
hình tượng của họ trở nên gân guốc, rắn rỏi hơn bao giờ hết. Rừng núi hoang vu, hiểm
trở không ít người đã bỏ mạng nơi chiến trường: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/
gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Những người còn kiên cường đi tiếp quả là những
người anh hùng. Nhưng họ vẫn bị rừng thiêng nước độc dày vò đến thảm thương:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Đây chính là hiện thực hết sức khốc liệt mà người lính phải đối mặt. Không mọc tóc,
nước da xanh như tàu lá do những cơn sốt rét rừng, chúng làm cho người lính tùy tụy,
bị bệnh tật hành hạ. Nhiều người hi sinh không phải trên sa trường mà hi sinh chính
bởi rừng thiêng nước độc. Nhưng không vì thế mà họ đánh mất vẻ uy nghiêm của
mình: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”. Họ vẫn mang trong mình vẻ oai phong,
đôi mắt luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu bất cứ khi nào giặc xuất hiện.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ…
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Người lính Tây Tiến hi sinh cả tuổi thanh xuân, chiến đấu vì bình yên của Tổ quốc.
Khi họ hi sinh vẫn ánh lên tinh thần quật cường, là áo bào, là về đất, là tiếng sông Mã
gầm lên đưa những người chiến sĩ quả cảm về với đất mẹ. Về với đất mẹ chính là để
anh được sống mãi, trường tồn với non sông, đất nước. Đoạn thơ có bi mà không lụy,
nó là chất bi tráng, hào hùng, là nét hiên ngang, dũng cảm của những người lính.
Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng đã đem đến cho bạn đọc một hình ảnh người lính
thật khác. Kết hợp linh hoạt, hài hòa giữa chất lãng mạn và hiện thực người lính hiện
lên vừa mang trong mình cái hào hoa, phong nhãn nhưng đồng thời toát lên sự anh
hùng, dũng cảm, những người con mang cả tuổi thanh xuân cống hiến cho đất nước. Bài văn mẫu 10
Sự nghiệp của Quang Dũng không phong phú, đồ sộ như nhiều nhà thơ khác, nhưng
mỗi tác phẩm ông để lại đều khắc dấu ấn đậm sâu trong lòng bạn đọc. Trong sự
nghiệp sáng tác của mình, nổi bật nhất là tác phẩm Tây Tiến. Qua những vần thơ đầy
tinh tế mà cũng vô cùng chân thực, ông đã tái hiện thành công chân dung người lính, binh đoàn Tây Tiến.
Tây Tiến được sáng tác năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, sau khi Quang Dũng đã rời
binh đoàn Tây Tiến để nhận nhiệm vụ khác. Mặc dù đã rời binh đoàn nhưng nỗi nhớ,
tình yêu với binh đoàn vẫn luôn tha thiết, nó đã giúp ông kết tinh nên tác phẩm nghệ
thuật này. Bởi vậy, trong tác phẩm cảm xúc chủ đạo là nỗi nhớ tha thiết, sâu đậm.
Trong phần đầu của tác phẩm, Quang Dũng đã tái hiện một thiên nhiên vừa hoang dã,
bí ẩn vừa nên thơ trữ tình và thấp thoáng trong đó ta cũng thấy dáng hình binh đoàn
Tây Tiến: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Câu thơ
tái hiện chân thực cái chết của người lính trên đường hành quân, nhưng cách nói về
cái chết của Quang Dũng rất đặc biệt. Ông diễn tả cái chết bằng hình ảnh “không bước
nữa”, “bỏ quên đời” đó vừa là cách nói giảm nói tránh làm dịu bớt cảm giác đau
thương mất mát, nhưng quan trọng hơn cách nói như vậy tạo nên giọng thơ gân guốc,
rắn rỏi, ngang tàng. Không phải người lính không nhìn thấy những khó khăn nhưng họ
dám chấp nhận đối diện với hiện thực. Bởi vậy, khắc họa những khó khăn gian khổ
cũng là cách Quang Dũng tạo thử thách để nhận ra những phẩm chất đẹp đẽ của người lính.
Nếu như ở hai phần thơ đầu tiên mới chỉ là những nét vẽ hết sức ít ỏi về người lính, thì
sang phần thứ ba, chân dung của họ mới thực sự được tái hiện chân thực, rõ nét.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Hai câu thơ đầu tiên đã chạm khắc nổi bật ngoại hình của người lính Tây Tiến. Câu
thơ là sự phản ánh hết sức chân thực, những người lính không mọc tóc, người gầy yếu
xanh xao do bệnh sốt rét rừng gây ra, cùng với sinh hoạt còn nhiều thiếu thốn, khó
khăn, cực khổ, chính những yếu tố đó đã khiến người lính có vẻ bề ngoài thật khác
thường. Quang Dũng không tô vẽ hiện thực, mà ông phản ánh như đúng những gì nó
diễn ra. Nhưng cái mà ông muốn nhấn mạnh không phải những gian khổ, khó khăn
mà đó chỉ là những thử thách để thấy được bản lĩnh, sự phi thường của những người
lính Tây Tiến. Bởi vậy, tác giả đã xây dựng hình ảnh đối lập với những khó khăn ấy
chính là hình ảnh “dữ oai hùm” - thần thái oai phong, dữ dội và vô cùng anh dũng. Kết
hợp với kiểu câu chủ động “không mọc tóc” tạo nên hơi thở gân guốc, rắn rỏi, bản
lĩnh hiên ngang, sẵn sàng vượt lên mọi khó khăn, gian khổ.
Đằng sau ngoại hình gai góc là một tâm hồn đầy mộng mơ, lãng mạn: “Mắt trừng gửi
mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Câu thơ thứ nhất đã nói lên
khát vọng muôn đời của biết bao thế hệ, chính là giết giặc lập công. Ánh mắt ấy vừa
chất chứa hờn căm với lũ giặc cướp nước, vừa hừng hực khí thế chiến đấu, sẵn sàng
vùng lên chống lại kẻ thù. Nhưng bằng sự nhạy cảm, tinh tế của mình, Quang Dũng
còn phát hiện được vẻ đẹp bề sâu, bề sau của người lính Tây Tiến, câu thơ thứ hai
nhiều vần bằng, nhịp thơ trở nên trầm xuống, nhẹ nhàng hơn. Chữ “mơ” gói trong
mình biết bao ý nghĩa, có thể là nỗi nhớ nhà da diết khắc khoải, cũng có thể là những
ước mơ, khát vọng của người lính Tây Tiến. Bên cạnh nhiệm vụ lớn lao, chiến đấu vì
Tổ quốc, người lính vẫn dành một góc nhỏ trong tâm hồn mình cho quê hương, gia
đình. Giấc mơ của người lính đã hé lộ thế giới tâm hồn đầy lãng mạn, mộng mơ. Họ
khác với những người lính nông dân, nhớ về những điều dung dị như: “Ruộng nương
anh để bạn thân cày/ Gian nhà không mặc kệ gió lung lay/ Giếng nước gốc đa nhớ
người ra lính” (Đồng chí – Chính Hữu). Người lính xuất thân từ trí thức tiểu tư sản lại
mơ về những “dáng kiều thơm” – dáng vẻ tha thướt của thiếu nữ Hà thành. Chính nỗi
nhớ ấy đã tiếp thêm động lực, sức mạnh chiến đấu trong họ.
Nhưng nổi bật và đẹp đẽ nhất là vẻ đẹp trong lý tưởng chiến đấu của họ:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Sử dụng bút pháp nhất quán từ đầu tác phẩm, đến đây tiếp tục là những khắc họa hết
sức chân thực về cái chết của người lính. Hình ảnh “rải rác biên cương” vẽ ra không
gian xa xôi, biên viễn nơi biên ải, ở đó biết bao chiến sĩ hi sinh, phải để lại thân xác
nơi đất khách quê người. Có lẽ đây là câu thơ hiện thực trần trụi, đau đớn và xót xa
nhất trong toàn bộ tác phẩm của ông. Nhưng không vì thế mà câu thơ trở nên bi lụy,
ngay sau đó, ông đã khẳng định “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Đời người chỉ
có một lần “xanh” một lần tuổi trẻ đẹp đẽ, nhưng họ không hề tiếc nuối, họ sẵn sàng
hi sinh vì mục đích cao cả, bởi nếu “ai cũng tiếc thì còn chi tổ quốc” (Thanh Thảo).
Hai câu thơ đã khắc họa đầy bi tráng về cái chết của người lính Tây Tiến:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Cuộc sống chiến đấu nhiều khó khăn, thiếu thốn, khi các anh hi sinh, ngay cả những
nghi thức tang lễ đơn giản nhất cũng không được cử hành, thay vào đó chỉ là manh áo
bọc lấy thân rồi trở về với đất mẹ. Bằng tất cả sự yêu thương, cảm thông, trân trọng
Quang Dũng đã nâng nó lên thành chiếc áo bào, khiến cái chết trở nên trang trọng
hơn. Cùng với đó là sự sử dụng mật độ dày đặc các từ Hán Việt tạo nên sắc thái trang
trọng, cổ kính và biến cái chết của người lính Tây Tiến vốn là sự hữu hạn trở thành sự
sống vô hạn, bất tử. Hai chữ "về đất" đã giảm bớt sự đau buồn, cái chết trở nên nhẹ
nhàng, thanh thản hơn. Và cuối cùng là khúc tráng ca của sông Mã đưa các anh trở về
với đất mẹ. Động từ “gầm” vừa diễn tả nỗi đau đớn tột cùng chứa đựng trong đó cả sự
uất hận, nghẹn ngào. Nhưng có bi mà không hề lụy, bởi nó không thê lương mà là một
khúc tráng ca độc hành tiễn người lính về với đất mẹ thiên nhiên.
Với lớp ngôn từ tinh tế, chan chứa tình cảm cảm xúc, Quang Dũng đã tái hiện chân
thực vẻ đẹp của người lính Tây Tiến. Họ hiện lên với những nét vẽ vừa chân thực, vừa
lãng mạn, tài hoa. Nhưng nổi bật hơn cả là lòng yêu nước, sự anh dũng sẵn sàng hi
sinh cho độc lập của đất nước. Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến cũng chính là vẻ đẹp
chung của những người lính trong thời kì kháng chiến chống Mỹ oanh liệt, hào hùng. Bài văn mẫu 11
Mỗi lần nhắc tới nhà thơ Quang Dũng là mọi thế hệ độc giả yêu thơ lại nhớ tới một
hồn thơ phóng khoáng, lãng mạn và tài hoa. “Tây Tiến” là một tác phẩm đặc sắc cho
phong cách thơ của nhà thơ Quang Dũng. Thông qua tác phẩm tác giả đã khắc họa
thành công hình tượng người lính Tây Tiến một thời và mãi mãi với vẻ đẹp hùng tráng đầy ấn tượng.
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Đoàn binh Tây Tiến được thành lập đầu năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội
Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng
Lào cũng như ở miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn đóng quân và hoạt động của
đoàn quân Tây Tiến khá rộng bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền tây
Thanh Hóa và cả Sầm Nưa (Lào). Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội,
trong đó có nhiều học sinh, sinh viên, chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ,
vô cùng thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội.
Người lính Tây Tiến hiện ra với một hình dáng đặc biệt và lạ lùng khiến người đọc cảm thấy thương xót:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Quang Dũng miêu tả sự thật về đời sống chiến đấu gian khổ của người lính Tây Tiến
vừa thiếu ăn vừa phải đối mặt với căn bệnh sốt rét rừng. Điều này làm cho diện mạo
của các anh trở nên khác lạ "không mọc tóc”, da “xanh màu lá”. Với nét vẽ “không
mọc tóc” của tác giả Quang Dũng chúng ta có thể hiểu theo hai cách. Người lính Tây
Tiến cạo trọc tóc để thuận tiện trong chiến đấu, cũng có thể hiểu đó là hậu quả của
những trận sốt rét rừng đã hành hạ họ. Với nét vẽ “xanh màu lá” cũng có hai cách
hiểu. Xanh là sắc xanh của lá ngụy trang hay làn da xanh xao, ốm yếu của người chiến
sỹ. Dù hiểu theo cách nào thì điều tác giả muốn gửi gắm chính là những khó khăn,
gian khổ mà đồng đội mình đã trải qua:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
Với nhà thơ Quang Dũng vẫn là hình dáng không mọc tóc, xanh màu lá ấy nhưng câu
thơ còn gợi lên cái khẩu khí ngang tàn, cái khí thế của người lính. Nghệ thuật đảo trật
tự từ “không mọc tóc” cho thấy tư thế ngạo nghễ của những chàng trai Tây Tiến. Cách
nói “dữ oai hùm” tạo cho người lính dáng vẻ oai phong như con hổ chốn rừng thiêng
để chế ngự sự khắc nghiệt của thiên nhiên, của hoàn cảnh.
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Câu thơ đầu tiên đề cập đến lí tưởng sống và chiến đấu của người lính Tây Tiến. Lí
tưởng ấy được gửi gắm qua ánh “mắt trừng” giận dữ, nảy lửa làm kẻ thù phải xóa bỏ
đi tham vọng, họ muốn lập công giết chết lũ giặc xâm lược. Song hành cùng lòng căm
thù chính là nỗi nhớ quê hương, gia đình, người thân đặc biệt là nỗi nhớ “dáng kiều
thơm”. Dáng kiều thơm là ai vậy? Có thể là hình bóng Hà Nội trong nỗi nhớ người
lính: vàng son, thanh lịch, hoa lệ. Cũng có thể hiểu đó là người con gái thanh lịch, yêu
kiều. Dáng kiều thơm gợi tả cả vóc dáng, hương sắc của người thiếu nữ.
Bốn câu thơ cuối đã lột tả một cách trần trụi về sự thật tàn khốc của chiến tranh.
Nhưng với cảm hứng lãng mạn và bút pháp bi tráng tác giả đã tái hiện lại cái chết ấy
một cách độc đáo, khác thường mang màu sắc bi tráng:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Trên con đường hành quân các chiến sĩ đã gặp rất nhiều nấm mồ của những người
đồng đội nằm lại ven đường hành quân, các anh nằm lại đó cô đơn, côi cút, lạnh lẽo.
Điều đặc sắc ở đây là câu thơ của Quang Dũng không gây cảm giác bi lụy mà để lại
trong lòng người đọc cảm giác bi tráng, oai hùng. Tác giả dùng một loạt các từ Hán
Việt: "biên cương, viễn xứ" tạo sắc thái trang trọng, thiêng liêng, nâng tầm cái chết
của người lính. Sức mạnh thiêng liêng giúp người lính vững bước trên con đường
hành quân chính là quan niệm lí tưởng về lẽ sống và cái chết. Họ luôn tâm niệm
“chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. “Đời xanh” là hình ảnh ẩn dụ chỉ tuổi thanh
xuân của các chàng trai. Họ cống hiến cho quê hương cho đất nước cả tuổi thanh xuân của mình.
Khi xông pha chiến trường không ai nói trước được sự sống và cái chết:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Một sự thật đau xót hiện ra khiến con tim chúng ta tan nát, khi người chiến sĩ nằm
xuống manh chiếu bọc thây cũng không có. Với cái nhìn thương yêu, trân trọng,
Quang Dũng đã khâm liệm đồng đội mình trong tấm chiến bào sang trọng của ngôn
từ. Họ đã “về đất”, đã trở về với cát bụi. Đất mẹ dang rộng vòng tay đón các anh vào
thế giới vĩnh hằng của cha ông. Đất êm đềm đón nhận người lính còn sông Mã hùng
vĩ cất lên âm hưởng hùng tráng đưa các anh vào thế giới vĩnh hằng.
Những vần thơ của nhà thơ Quang Dũng đã khắc họa phần nào cuộc sống thiếu thốn
của đoàn quân Tây Tiến. Đối với họ cái chết không phải là cái đáng sợ, với họ được
cống hiến tuổi xuân cho quê hương cho đất nước là một niềm hạnh phúc. Tác giả đã
xây dựng thành công bức tượng đài bất tử về người lính một thời và mãi mãi. Bài văn mẫu 12
“Tây Tiến” một khúc thơ hội tụ hết những cung bậc cảm xúc khác nhau, từ những vui
tươi rộn rã cho đến bi tráng hào hùng hay một phút lơ đễnh mông lung. “Tây Tiến”
khắc sâu trong lòng người những dư vị khó phai, tựa như những làn ba thu mát dịu
vừa khiến lòng người sảng khoái vừa mang đến sự lạnh lẽo tái tê.
“Tây Tiến” đó là những nét họa tinh tế, những nốt nhạc trầm vang mà Quang Dũng đã
cẩn thận từng chút sáng tạo nên, vẽ đến cái cao nhất, sâu nhất, gảy phím đàn cao vút
rồi trầm hùng. “Tây Tiến” đó không phải chỉ là miền cương thổ đầy cát bụi, đấy
không chỉ là một nỗi nhớ miên man, mà đấy còn là vẻ đẹp, là tượng đài của con người,
của những người lính trẻ trung, của những chàng thi sĩ tài hoa dưới lớp áo xanh rì.
Bắt đầu trang thơ cách mạng, mỗi nhà thơ có một phong cách khác nhau, tựa như
Chính Hữu đã gợi lên “Đồng chí” của mình bằng hình ảnh miền quê nghèo túng, hay
Phạm Tiến Duật với hình ảnh những chiếc xe không kính. Còn với Quang Dũng là gì?
Đó không phải là một miền quê mà là một miền đất người đã đi qua, không phải là
một lời trần thuật đơn thuần mà là một tiếng gọi. Tiếng gọi thân thương, tiếng gọi
nhung nhớ, tiếng gọi đã đưa người lính trở thành một biểu tượng của nỗi nhớ thương:
Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Khúc tráng ca dần dần được mở ra, trong dư âm của tiếng lòng. “Tây Tiến ơi!” ba
tiếng vang lên với tất cả những gì tha thiết nhất, dạt dào nhất mà cũng đớn đau nhất,
lẩn khuất vào lòng người và rung lên những xúc cảm tinh tế. “Tây Tiến” đó chỉ đơn
thuần là tên một chiến dịch, tên một đơn vị nhưng lại được cất lên như tiếng gọi tới
người mình yêu thương. Cách gọi ấy đầy đam mê, cùng nuối tiếc, tiếng gọi như vút
dài trong suốt chiều dài của con sông Mã, từ một âm thanh tạo nên một hình ảnh thơ
đậm chất tạo hình. Chúng ta luôn nghĩ rằng, những con người của chiến trường, dưới
tầng tầng bom đạn, hẳn sẽ vô cùng cứng rắn, nhưng ngay với câu thơ đầu tiên, Quang
Dũng đã cho chúng ta thấy sự mềm yếu rất chân thật trong tâm hồn người lính. Chúng
ta như nhìn thấy hình ảnh một con người, đứng bên dòng sông, với đôi mắt cuộn sóng
đỏ, run rẩy mà thốt lên lời chia biệt mà cũng là lời nhớ nhung. Người lính nghe trong
lòng một nỗi “chơi vơi”, một khoảng trống không gì bù đắp được, một con tim đói
khát nhưng không thể tìm được nguồn thỏa mãn. Nỗi nhớ sâu đến sắc, nỗi nhớ khôn
nguôi, nỗi nhớ tầng tầng giăng mắc khắp núi rừng Tây Bắc. Những hồi ức cứ chốc
chốc hiện lên chan hòa trên “đường lên thăm thẳm mùa chia phôi” trong cái “Tây Tiến
mùa xuân ấy”. Từng lời thơ trôi nổi, bồng bềnh, hòa lẫn giữa cái bi thương cùng quyết
liệt, giữa sự ám ảnh mà vẫn thật mộng mơ, tâm hồn con người hẳn phải rất tinh tế và
nhạy cảm, trái tim chiến sĩ không chai sạn như người ta vẫn nghĩ, nó cháy bỏng tình
yêu, dạt dào nhung nhớ, tràn đầy những cung bậc cảm xúc khác nhau mà sẽ rung lên
mãnh liệt mỗi khi tìm được nguồn cảm hứng. Nỗi nhớ của người lính, đó là nỗi nhớ
máu thịt, nỗi nhớ không thể tách rời khỏi thân thể, tựa như là một phần của trái tim, là
bản năng vốn có, họ có thể không tiếc thân mình, xông pha chiến tuyến, cười vang
trước những gian nan nhưng cũng dễ dàng rơi lệ trong giây phút biệt ly. Những người
chiến sĩ cùng nỗi nhớ mà Quang Dũng tạo nên không phải là những gì cao cả, cao quý
xa vời, đó không phải một bức tượng uy nghiêm, hùng tráng, đó là sự giản dị và chân
thật trong tâm hồn, khiến cho chúng ta tựa như đến gần với những còn người “sống mãi tuổi 20″ kia.
Người lính của Quang Dũng không đơn giản chỉ được thể hiện trong những nhung
nhớ mông lung, giống như chính ngòi bút của ông kết hợp nhuần nhuyễn giữa lối
miêu tả thực tế cùng lãng mạng. Những người chiến cùng chí khí còn được bộc lộ
nhiều hơn trong cuộc hành quân của họ. Nhắc đến hai từ “trường chinh” người ta liền
nghĩ đến một cái gì đó thật dài dặc, thật gian nan và tràn đầy nguy hiểm. Quả thực là
như vậy, những con đường hành quân cực nhọc của người lính Tây Tiến cứ nối tiếp
hiện ra, bắt đầu từ một “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” , một chốn “Lam Sơn
chướng khí”, nếu như khi nói về sương người ta thường nghĩ đến vẻ đẹp lãng mạng,
bồng bềnh như trong Việt Bắc của Tố Hữu có câu:
“Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.”
Nhưng với Quang Dũng cũng như binh đoàn Tây Tiến thì trái ngược hẳn, sương trước
hết đó là những màn sương mù dày đặc “lấp” người, một thử thách thực sự gành cho
con người mà chỉ những ai có bản lĩnh thật sự mới dám dương đầu. Nhưng trước hoàn
cảnh đó, thái độ của người lính ra sao, thật lạ kỳ, họ không hề sợ hãi, họ dường như
coi “sương lấp” kia trở thành những “bản khói cùng sương” thơ mộng vậy, người
chiến sĩ đối mặt với gian nguy với một tâm hồn lạc quan đầy sức trẻ, với cái gọi là
“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Mới câu thơ trên ta còn bị cảm giác rợn ngợp
xâm chiếm nhưng ngay câu thơ sau đã chao đảo trong vẻ đẹp thần kì của đêm núi
rừng. “Hoa về” ở đây không đơn giản là những đóa hoa thiên nhiên, không phải dáng
hình thiếu nữ, đó là sự thăng hoa trong tâm hồn, là những xúc cảm căng tràn, là ước
ao trải nghiệm trước gian nguy. Ngòi bút Quang Dũng không hề che đậy thực tiễn
khốc liệt cũng giống như người lính hứng khởi muốn thử sức mình trước những hiểm
nguy. Họ đối mặt khó khăn với một niềm say mê, thích thú tới man dại, dường như
chính những gian khổ ấy đã khiến cho bọn họ bừng giấc khỏi những mệt mỏi trên
đường. Mà còn hơn thế nữa, sương khói kia chỉ mới là khúc dạo đầu cho một bản
trường ca bất tận, tất cả thử thách còn đang chờ đợi phía trước mà ấn tượng nhất chính
là địa hình núi cao vực sâu đầy hiểm trở của Tây Bắc:
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm”
Từ “dốc” được điệp lại nhiều lần trong câu thơ kết với với những tính từ mạnh như
“khúc khuỷu” và “thăm thẳm” đã vẽ nên cả một không giang hùng vĩ và oai linh. Dốc
đã lên cao thì sẽ lên cao vút mà đã xuống sâu thì sâu đến vô cùng. Hai tiếng “khúc
khuỷu” còn làm cho ta liên tưởng tới một con đường mấp mô không hề bằng phẳng
như người Tây Bắc thường có câu “Mỗi bước đi đầu gối chạm cằm” để hình dung về
những con dốc cheo leo hiểm trở. Những người lính đã phải vật lộn với những đèo cao
và dốc đứng ấy trong suốt quãng đường hành quân qua miền biên cương Tổ quốc.
Nhưng đó mới chỉ là những gian khổ ta có thể hình dung, trên thực tế còn có những
hiểm nguy mà ta khó lòng tưởng tượng ra nổi.
“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Ở đây có một hình tượng rất đặc biệt “cồn mây” không phải “cồn đất” hay “cồn cỏ”
mà là “cồn mây”, đây cũng càng không phải một sự tránh lập lại ý thơ, trước có núi đá
thì nay có mây trời, đây là một thử thách thật sự của người lính. Có lẽ nhiều người sẽ
thấy hình tượng này quá mức lãng mạng, nhưng không, đó cũng chính là một dụng ý
của Quang Dũng, nếu như trong cả bài thơ, tác giả đã tinh tế dùng những hình ảnh đối
lập giữa hiện thực khó khăn và cảnh sắc mộng mơ, thì ở đây ý thơ hiện thực đã được
chia ra giữa hình ảnh thực “dốc núi” và huyễn thực “cồn mây”. Dường như “heo hút
cồn mây” kia đã trở thành một thử thách chỉ dành cho người lính, một món quà rất đặc
biệt mà Tây Bắc dành tặng những chiến sĩ áo xanh để thử chí nam nhi. Ngoài ra, hình
ảnh thơ dường như lạc lõng này còn là sự nhấn mạnh, khiến chúng ta thấy rõ những
gian nguy trong quãng đường hành quân của người lính rất đa dạng, nhiều khi là chút
khó khăn vụn vặt, nhưng cũng có khi là thử thách khôn cùng. Tuy nhiên, dẫu có khó
khăn đến mức nào, gian khổ ra sao thì đoàn binh Tây Tiến vẫn giữ nguyên cho mình
một thái độ lạc quan mà còn thêm phần tếu táo khi thốt lên “súng ngửi trời”. Đây là
một cách nói đậm chất lính, những chàng bộ đội trẻ lại dùng từ “ngửi”, một giác quan
tầm thường để cảm nhận chốn linh thiêng. Điều này cho thấy sự lạc quan cùng hào
sảng của người lính trẻ. Họ đứng trước gian khổ nhưng chí không sờn, lòng không nao
núng, họ vẫn cười đùa và coi thường mọi thứ dù có khi những lời cười cợt ấy chỉ là
một cách để họ quên đi gian nguy. Họ đã coi mình trở thành vẻ đẹp trung tâm của tạo
hóa, tiếng cười vang lên để xua đi khó khăn, biến cực nhọc thành thứ tầm thường. Để
rồi sau một chặng hành quân dài dặc họ có thể sảng khoái nhìn lại những thành quả mình đạt được:
“Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
“Ngàn thước”, “ngàn thước” lên cao xuống thấp, đó chính là những chặng đường mà
người chiến sĩ đi qua. Họ dường như đã chỉ thẳng vào gian nan mà khảng khái nói
rằng, dẫu có bao nhiêu khó khăn gian khổ nữa họ vẫn có thể vượt qua, chắc chắn vượt
qua và nhất định sẽ vượt qua. Vóc dáng của người lính bỗng chốc trở nên cao lớn, nó
không còn những cái mềm mại của một hồi nhung nhớ, nó không tếu táo như những
phút vui đùa, nó nghiêm nghị và oai nghiêm khiến người ta cảm phục. Đối với họ thử
thách thực sự không phải là chút sóng lòng sông, không phải ít nhiều trắc trở núi rừng
mà phải được đo bằng “ngàn thước”, chỉ những gì là “ngàn thước” mới có thể được
coi là thử thách đối với họ. Hiện thực gian khổ là thế nhưng ý chí của người lính vẫn
vút cao, sự mạnh mẽ, rắn rỏi như tăng dần lên sau từng thử thách. Họ không vì cực
nhọc mà nhụt chí, cực nhọc cho họ thêm chí hướng, cùng sức mạnh để tiếp tục chặng
đường bảo vệ nước nhà.
Chí khí ngút trời, lòng quân vững chãi, nhưng dẫu nói gì đi nữa hò vẫn là những
chàng trai trẻ của đất Hà thành đầy hào hoa và lãng mạng. Suốt một dọc hành quân
gian lao, đoàn binh Tây Tiến đã thể hiện con người chiến sĩ của mình, thì đến khi đôi
chân đã mỏi, dừng lại chốn bản làng thì tất cả nhưng phong hoa, thi sĩ bị kìm nén bao
lâu liền bất chợt tuôn trào:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ?
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về viên chăn xây hồn thơ”
Cả khung cảnh rực rỡ sắc hoa, lấp lánh ánh sáng, quay cuồng trong những khúc nhạc
tưng bừng. Những chàng trai cởi bỏ lớp áo xanh, buông lơi cây súng, trở về với chính
con người vốn có của mình. Tất cả như ấm dần lên, tất cả như ngả nghiêng và ngây
nhất trong ánh sáng lửa đuốc, trong điệu man của khèn của nhạc. Như hoa, tựa mộng,
những phút giây ngập tràn cảm hứng, những chiếc lán cũng thành doanh trại oai
nghiêm, đêm lửa đuốc thành “hội đuốc hoa” tráng lệ. Giờ phút này họ như quên đi hết
tất thảy gian nguy, đứng đón gió nghe tiếng khèn vang, bên ngọn lửa say mê ca vũ.
Nếu như trong “Đồng Chí” của Chính Hữu, người lính hiện lên thật đơn thuần giản dị
với “Yêu nhau tay nắm lấy bàn tay” hay “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” thì
những người lính của Tây Tiến lại trái ngược hoàn toàn. Họ tếu táo, nghịch ngợm,
thỉnh thoảng để lại lời trêu ghẹo “Kìa em, xiêm áo tự bao giờ”. Cả không gian vang
vọng tiếng cười sảng khoái, tựa như xuân phong mãn ý, xuân tình nở rộ. Sự hiện diện
của “em”, sự e ấp tình tứ của “em” như đã gột rửa bụi trường chinh trên vai anh, để
anh đắm đuổi trong không gian mà em, nhạc cùng thơ quấn quít. Người lính đã trở
thành những chàng thi sĩ nhạy cảm, xao xuyến trước vẻ thi vị của cảnh sắc núi non
của con người Tây Bắc, lòng họ rạo rực ngọn lửa tình yêu, tưng bừng sức trẻ, tâm hồn
họ lúc này như được sinh ra từ nhạc, từ thơ. Ngọn lửa cháy bỏng ánh lên dung nhan
thiếu nữ, ngọn lửa múa ca, phả hơi ấm lên thân mình người lính, ngọn lửa say mê,
khiến họ muốn hát ca, vui múa quên đi tháng ngày. Tiếng khèn trong vắt âm vang,
vang vọng mãi trong lòng người lính để rồi theo họ “về” Viên Chăn. Tại sao không
phải là đi Viên Chăn mà là “về” Viên Chăn? Phải chăng vì men say của Tây Bắc hay
bởi bóng dáng “em” đã bỏ bùa anh khiến anh coi dải đất biên cương chính là quê
hương mình? Có lẽ cũng chính vì như vậy mà ở khổ thơ cuối cùng Quang Dũng đã
viết “hồn về Sầm Nứa” chẳng về xuôi. Những người lính trẻ đã chiến đầu bằng cả một
tấm lòng sôi nổi với bao mộng thanh xuân, giấc mộng ấy được gửi các anh gửi vào
miền đất lại để thử thách và khẳng định bản thân mình trong một thế giới huyền thoại
mà đắm say ngây ngất. Vẻ đẹp trẻ trung lãng mạng của tâm hồn người lính đã được
bộc lộ một cách tự nhiên mà sống động vô cùng. Vẻ đẹp mơ mộng, tài hoa đầy quyến
rũ khiến người ta không khỏi rung động mà bị cuốn theo. Nhưng không chỉ dừng ở
đây, người lính Tây Tiến không chỉ là những chàng trai tài hoa mà còn là những con
người tinh tế nhạy cảm, và điều này đã được thể hiện một cách chân thật trong phút chia ly.
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”
Trôi nổi trong ranh giới giữa hư và thực, hình ảnh con người hiện lên với những ưu tư,
trầm mặc, mới phút vừa rồi còn tếu táo, hào hoa thì bây giờ đã trở nên chín chắn và
tràn đầy sự ôn nhu khó tả. Hai từ “người đi” gợi một tư thế ngang tàn dứt khoát, đi
không ngoại lại, đó dường như là một khúc nhạc chơi vơi mà người chiến sĩ cố gắng
tấu lên để che dấu xúc cảm của mình, nén lại nỗi bi thương cùng tê tái của tâm hồn
trong chiều sương tiễn biệt. Sông núi trời mây lúc này như liền một mảnh, tất cả
những gì của Tây Bắc đều hòa trộn lại mơ hồ trước mắt người đi. Bất quá, màn sương
ấy tuy mơ hồ nhưng không hề mù mịt, ở đó ta vẫn có thể nhìn thấy những chuyển
động tinh tế của cảnh vật hay nói cách khác là những chuyển động tinh tế của tâm hồn
mà bắt đầu là hình ảnh “hồn lau”. Chẳng phải đây là một cách nói đầy thi vị hay sao?
Tràn một “nẻo bến bờ” cô quạnh, những khóm lau thấp thoáng nối đuôi nhau, từng
bông phấn trắng hòa vào sương mù tựa như những linh hồn trôi dạt. Một nét vẽ giản
đơn chỉ bằng những đường phẩy bút, tưởng chừng như gợi lên những xúc cảm nhẹ
tênh nhưng thực sự lại có sức lắng đọng khôn cùng. “Hồn lau” hàng nối hàng “đong
đưa” trước mắt độc giả tựa như muốn cuốn cả con người vào trang thơ. Mà cũng phải
nói, trong bức họa “Tây tiến”, cảnh không bao giờ chỉ là cảnh, tất cả đều mang một
dụng ý riêng, một ý vị riêng. Xin trích dẫn câu thơ của Chế Lan Viên:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn…”
Quang Dũng và Chế Lan Viên đều đã đưa “hồn đất” vào trang thơ, điểm khác biệt là ở
chỗ. Với Chế Lan Viên “hồn đất” được thể hiện một cách trực tiếp qua những rung
động gián tiếp của tâm hồn. Còn với Quang Dũng “hồn đất” được ẩn dụ qua hình ảnh
“hồn lau” với sự tiếp xúc thần kỳ bằng thị giác “Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”. Thử
hỏi, con người đã phải gắn bó với một mảnh đất như thế nào để có thể sử dụng những
giác quan thông thường mà cảm nhận tinh hoa của đất? Hai từ “có thấy” vừa để hỏi,
lại vừa để trả lời, “người đi” tự vấn bản thân, tự hỏi mình năm đó có thực đã thấy
được linh hồn của Tây Bắc? Và ngay khi “hồn lau” xuất hiện, mọi nghi ngờ đều tan
theo mây khói, vì nếu không tận mắt chứng kiến sao người có thể lưu lại được hình
ảnh tuyệt diệu kia. Hơn thế nữa, điều này còn lần nữa được khẳng định khi từ một cái
“có thấy”, nhà thơ đã đi tới:
“Có nhớ dáng người trên độc mộc”
Nếu câu thơ trên là linh hồn của đất, thì câu thơ sau chính là sức sống của đất – con
người. Bóng dáng ai thấp thoáng màn sương, mơ hồ ẩn hiện trên chiếc thuyền “độc
mộc”, hai tiếng “độc mộc” lại là một điểm nhấn nữa, nó gợi lên một sự lẻ loi, heo hút,
và cô liêu đến nhường nào. Nếu như “sương” và “hồn lau” chỉ như có như không làm
hiện lên nét buồn tê tái thì tại đây, dáng người kia đã thể hiện một cách sâu sắc nỗi
nhớ của người lính trẻ. Giống như trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử :
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền…”
Hình ảnh mặt chữ điền ấy, không rõ là gương mặt phụ nữ hay đàn ông, cũng không rõ
“người thôn Vĩ” hay “người về thôn Vĩ” nhưng ta vẫn có thể cảm nhận một cách sâu
sắc mặc cảm chia lìa đậm nét đầy bức bối và tuyệt vọng của nhà thơ. Và với Quang
Dũng cũng vậy, dáng người xuất hiện với đường nét mảnh mai, chỉ gợi không phải tả.
Dáng người không nhất thiết là một cô gái Thái hay một chàng trai Thái, đó đơn giản
chỉ là cách gọi chung cho con người, mà hơn hết là con người của Tây Bắc. Dáng
người kia, đó là sự đại diện cho tiếng nói, cho sức sống, cho sức mạnh của một miền
đất. Người lính nhớ người cũng là nhớ tới tinh thần của ngàn dặm núi rừng, nhớ tới
điều đã thực sự cuốn hút họ, khiến họ gắn bó với mảnh đất hoang sơ này. Tình yêu
trọn vẹn, yêu không phải là ở cái vỏ bọc bên ngoài, mà là dùng chính tâm hồn mình để
cảm nhận, để yêu quý linh hồn và thần thái của một miền cương thổ, tình yêu ấy lớn
đến nhường nào, sâu đậm tới mức nào, ta thật khó lòng cảm nhận hết nổi. Người lính
của Quang Dũng, đậm đà và tình cảm như vậy, những người bộ đội vừa đáng kính vừa
đáng yêu. Họ không chỉ cho ta thấy những thứ hào hùng của một thời chiến loạn mà
còn cho ta thấy những gì tính tế nhất, nhạy cảm nhất ẩn sâu trong tâm hồn con người,
gian nan không khiến họ trở nên chai sạn mà chỉ khiến sự hào hoa của họ rực rỡ thêm thôi.
Người lính hiện lên chân thực, thơ mộng, lãng mạng, đa tình, những đồng thời họ
cũng hào hùng và dũng cảm không chỉ trong chí khí trên bước đường hành quân mà
còn đầy bi tráng trong phút hy sinh.
“Anh bạn giãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Cái chết đó có thể là một hiện thực đớn đau những đó là điều tất yếu khó có thể tránh
khỏi bởi chiến tranh vốn là “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”, là sự mất mát, chiến
tranh là hy sinh, con người biết chấp nhận hiện thức và sống cùng hiện thức, không
những thế còn tô điểm cho hiện thực khốc liệt, khiến cho gian nan cũng mang vẻ đẹp
riêng. Cụm từ “không bước nữa” mang trong mình thứ tình cảm thổn thức khó diễn tả
bằng lời, “không bước nữa” có thể chỉ là một phút nghỉ ngơi nhưng cũng có khi phút
nghỉ ngơi ấy sẽ kéo dài mãi mãi. Những dẫu thế nào đó vẫn là sự lựa chọn đầy chủ
động của người lính Tây Tiến, là bản thân họ không muốn tiến bước chứ không phải
do bị ngoại cảnh cản ngăn. Họ hoàn toàn thanh thản, “gục lên súng mũ bỏ quên đời”,
một vẻ đẹp ngang tàn, ngạo nghễ, xuất hiện ngay trong hiện thực “sống sít” nhất. Cay
đắng là thế, gian khổ là thế, tại nơi heo hút cồn mây này, người chiến sĩ một khi hi
sinh sẽ vùi mình vào đất, từng “nấm mồ viễn xứ” cứ vậy hiện lên. Nhưng với Quang
Dũng hiện thực tàn nhẫn ấy đã được chắp thêm đôi cánh lãng mạng, tấm áo xanh đã
biến thành áo bào sang trọng, người lính tựa như những ông vua trên chiến trường, ra
tay sát phạt quân xâm lược, rồi đến khi mệt mỏi sẽ trở về lâu đài “đất mẹ” của mình,
về với vòng tay của quê hương, đất nước. Nhịp thơ lắng đọng, trầm hùng, hình ảnh
thơ như đọng lại mãi trong giây phút ngã xuống huy hoàng ấy. Cái chết của người linh
mang theo sự mãn nguyện cùng thống khoái, cái chết tràn trề niềm tự hào. Tựa như
trước kia vẫn luôn như vậy, cho dù cả “đoàn binh không mọc tóc” nhưng vẫn luôn “dữ
oai hùm”. Họ hành quân trong gian nan, chiến đấu trên huyết lộ và hy sinh trong sự thỏa mãn mà kiêu hùng.
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Họ không tiếc sinh mạng mình mà xông pha nơi trận mạng, họ dứt khoát chọn lựa
những gian khổ, thách thức cùng cái chết kia, một lẽ sống mà cả đời cũng không hối
hận. Chữ “chẳng tiếc” ấy là một sự gồng mình lên của những người lính vô danh, họ
muốn Tổ quốc trường tồn, họ góp tay xây nên sự bất tự cho Tổ Quốc, như nhà thơ thanh thảo đã viết:
Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc
Cỏ sắc mà ấm quá, phải không em..?” Bài văn mẫu 13
Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng và duyên dáng thơ mộng, mỹ lệ
của Tây Bắc, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng tập thể những người
lính Tây tiến với một vẻ đẹp đầy tính chất bi tráng:
"Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm"
Như ở trên đã thấy, cách tả cảnh của Quang Dũng đã lạ mà đến đây, cách tả người
càng lạ hơn. Thơ ca thời kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh
sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài thơ "Đồng chí" đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi"
Còn ở đây, nhắc đến hình ảnh "Đoàn binh không mọc tóc", tác giả đã gợi lại hình ảnh
anh "vệ trọc" một thời. Nhưng câu thơ còn có ý tả thực về một hiện thực trần trụi và
khắc nghiệt: những con suối độc, những trận sốt rét rừng đã làm cho người lính xanh
xao, rụng tóc. Hình ảnh lạ thường nhưng không hề quái đản. Người lính dù có tiều tụy
nhưng vẫn ngời lên một phẩm chất đẹp đẽ, kiêu hùng: "không mọc tóc" chứ không
phải là "tóc không mọc". "Không mọc tóc" có vẻ như là không thèm mọc tóc, không
cần mọc tóc. . . thể hiện thái độ coi thường gian nguy, vượt lên hoàn cảnh của người
lính Tây tiến. Ba tiếng "Dữ oai hùm" đặt cuối câu giống như tiếng dằn rất mạnh,
khẳng định ý chí ngút trời , tinh thần chiến đấu sôi sục của người lính. Câu thơ giống
như cái hất đầu đầy kiêu hãnh, ngạo nghễ người lính Tây Tiến thách thức gian khổ,
chiến thắng gian khổ, trở thành người anh hùng. Trong bài thơ có một cái tên thành
thị, hoa lệ: Hà Nội, nhưng đó không phải là một cái mốc có thật trên đường Tây Tiến
mà ở đây trở thành một mốc có thật trên đường Tây Tiến mà ở đây trở thành một mốc
của độ cao bới giấc mơ kia chính là một đỉnh điểm. Câu thơ diễn tả tinh tế chân thật
tâm lý của những người lính ra đi từ thủ đô. Hình ảnh Hà Nội và dáng kiều thơm hiện
về trong đêm mơ không làm cho họ nản lòng, thối chí mà ngược lại là nguồn động
viên, cổ vũ đối với các chiến sĩ. Một thoáng kỉ niệm êm đềm trong sáng ấy đã tiếp sức
cho họ trong cuộc chiến đấu gian nan. Nó là động lực tinh thần giúp người lính băng
qua những tháng ngày chiến tranh gian lao của đời mình.
Bốn câu thơ tiếp theo, tác giả nhìn thẳng vào cái bi nhưng đem đến cho nó một vẻ hào
hùng lẫm liệt và sang trọng:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Những từ Hán Việt cổ kính trang trọng "biên cương", "viễn xứ" đã làm cho những
nấm mồ chiến sĩ được vùi lấp vội vàng nơi rừng hoang biên giới cũng trở thành những
nấm mồ chí tôn nghiêm. Cái bi của câu trên được câu dưới nâng lên thành bi tráng bới
nhân cách của người đã chết "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Đời xanh tuổi trẻ
biết bao nhiêu là hoa mộng nhưng họ vui vẻ hiến dâng cho tổ quốc. Họ đi vào cái chết
như đi vào một giấc ngủ nhẹ nhàng và thanh thản vô cùng. Nếu người tráng sĩ ngày
xưa với hình ảnh "da ngựa bọc thây" đầy vinh quang thì người lính tây tiến với hình
ảnh "áo bào thay chiếu" đấy sức mạnh ngợi ca. Thức tế, những người lính gục chết
trên chiến trận nhiều khi manh chiếu cũng không có, huống chi là "áo bào". Nhưng
thái độ trân trọng, yêu thương cùng cảm hứng lãng mạn đã tạo ra ở Quang Dũng một
cái nhìn của chủ nghĩa anh hùng cổ điển trước cái chết của người lính. Trong cách
nhìn ấy, Cái chết của người lính Tây tiến không chìm trong cái lạnh lẽo như trong thơ
của Đặng Trần Côn: "Hồn tử sĩ gió ù ù thổi" mà được bao bọc trong một âm hưởng
hùng tráng:"Sông Mã gầm lên khúc độc hành".
Câu thơ vang dội như một khúc nhạc kì vĩ. Âm hưởng bi hùng của khúc chiêu hồn tử
sĩ dội lên từ chữ "gầm". Thiên nhiên đã tấu lên khúc nhạc dữ dội, oai hùng của nó, vừa
là để đưa tiễn hồn người chiến sĩ về nơi vĩnh hằng, vừa nâng cái chết lên tầm sử thi
hoành tráng. Các anh ra đi và lại trở về với đất mẹ, về với những người anh hùng dân
tộc đã ngã xuống, là tiếp nối truyền thống cha ông. Và phải chăng tiếng gầm của dòng
sông Mã cũng chính là tiếng lòng của người còn sống? Bởi cái chết của đồng đội
không làm họ chùn bước mà chỉ làm tăng thêm lòng quả cảm và chí căm thù.
Document Outline

  • Dàn ý phân tích hình tượng người lính Tây Tiến - Mẫu 1
  • Dàn ý phân tích hình tượng người lính Tây Tiến - Mẫu 2
  • Dàn ý phân tích hình tượng người lính Tây Tiến - Mẫu 3
  • Chân dung người lính Tây Tiến
  • Phân tích hình ảnh người lính Tây Tiến đạt điểm cao
  • Phân tích hình tượng người lính hay nhất
  • Phân tích hình ảnh người lính Tây Tiến đầy đủ
    • Bài văn mẫu 1
    • Bài văn mẫu 2
    • Bài văn mẫu 3
    • Bài văn mẫu 4
    • Bài văn mẫu 5
    • Bài văn mẫu 6
    • Bài văn mẫu 7
  • Phân tích hình ảnh người lính Tây Tiến ngắn gọn
    • Bài văn mẫu 1
    • Bài văn mẫu 2
    • Bài văn mẫu 3
    • Bài văn mẫu 4
    • Bài văn mẫu 5
    • Bài văn mẫu 6
    • Bài văn mẫu 7
    • Bài văn mẫu 8
    • Bài văn mẫu 9
    • Bài văn mẫu 10
    • Bài văn mẫu 11
    • Bài văn mẫu 12
    • Bài văn mẫu 13