Văn mẫu lớp 12: So sánh bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh và Vội vàng của Xuân Diệu

Xuân Quỳnh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước. Thơ Xuân Quỳnh in đậm vẻ đẹp nữ tính, vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ nhiều trắc ẩn, hồn nhiên, chân thành, đằm thắm, da diết trong khát vọng đời thường. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Thông tin:
30 trang 1 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Văn mẫu lớp 12: So sánh bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh và Vội vàng của Xuân Diệu

Xuân Quỳnh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước. Thơ Xuân Quỳnh in đậm vẻ đẹp nữ tính, vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ nhiều trắc ẩn, hồn nhiên, chân thành, đằm thắm, da diết trong khát vọng đời thường. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

31 16 lượt tải Tải xuống
1. Dàn ý so sánh bài thơ Sóng Vội vàng
I. Mở bài:
- Xuân Quỳnh một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ thời chống
cứu nước. Thơ Xuân Quỳnh in đậm vẻ đẹp nữ tính, vẻ đẹp tâm hồn người phụ
nữ nhiều trắc ẩn, hồn nhiên, chân thành, đằm thắm, da diết trong khát vọng đời
thường.
Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967, trong chuyến đi thực tế vùng biển Diêm
Điền (Thái Bình), bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh.
- Xuân Diệu - một trong ba đỉnh cao của phong trào Thơ Mới 1932 - 1945. Ông được
đánh giá "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ Mới" bởi những cách tân cả về
tưởng bút pháp nghệ thuật.
"Vội vàng" bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám, được coi
tuyên ngôn sống, tuyên ngôn nghệ thuật của nhà thơ.
- Cả 2 đoạn thơ trên đều đoạn kết của hai tác phẩm, thể hiện những khát vọng
mãnh liệt.
II. Thân bài:
1. Đoạn thơ trong bài Vội vàng của Xuân Diệu:
- Đoạn thơ thể hiện “cái tôi” ham sống, muốn tận hưởng cuộc đời mãnh liệt. Như
một tuyên ngôn của lòng mình, nhà thơ tự xác định một thái độ sống gấp, tận hưởng
cảm nhận cái hữu hạn của cuộc đời (Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm); ý
thức chiếm lĩnh, tận hưởng cuộc sống mức độ cao nhất (chếnh choáng, đã đầy,
no ) những tươi đẹp nhất (mùi thơm, ánh sáng, thời tươi ).
- Các yếu tố nghệ thuật như điệp từ, điệp cấu trúc câu, động từ mạnh.. góp phần thể
hiện cái hối hả, gấp gáp, cuống quýt của tâm trạng, khiến nhịp điệu đoạn thơ sôi nổi,
cuồng nhiệt.
2. Đoạn thơ trong bài Sóng của Xuân Quỳnh:
- Đoạn thơ thể hiện khát vọng lớn lao, cao cả trong tình yêu: ước mong được tan
hòa cái tôi nhỏ bé-con sóng thể, thành cái ta chung rộng lớn- “trăm con sóng”
giữa biển cả mênh mông. Những câu thơ tính chất tự nhủ mình gợi cách sống,
tình yêu mãnh liệt, hết mình: mong muốn được tan hòa vào tình yêu lớn lao của
cuộc đời. Đó cách để tình yêu trở thành bất tử.
- Thể thơ năm chữ với hình tượng “sóng”vừa ẩn dụ vừa giàu tính thẩm khiến
đoạn thơ sâu sắc, giàu nữ tính.
3. So sánh:
- Điểm tương đồng: Hai đoạn thơ đều bộc lộ cảm xúc mãnh liệt, những suy ngẫm
trước cuộc đời. Đây hai đoạn thơ sự kết hợp giữa cảm xúc-triết lí.
- Điểm khác biệt: không chỉ nằm phong cách thơ (Xuân Diệu sôi nổi, mãnh liệt đầy
nam tính, xuân Quỳnh thủ thỉ, tâm tình đầy nữ tính) còn trong cách “ứng xử” của
mỗi nhà thơ: trước sự “chảy trôi” của thời gian, Xuân Diệu chọn cách sống gấp gáp,
tận hưởng, Xuân Quỳnh lại thể hiện khát vọng muốn được tan hòa cái riêng vào cái
chung để tình yêu trở thành bất tử
III. Kết bài:
Kết luận lại giá trị nội dung nghệ thuật của hai đoạn thơ trên. Kết luận lại giá trị
nội dung nghệ thuật của hai đoạn thơ trên.
2. So sánh bài thơ Sóng Vội vàng (2 Mẫu)
Bài làm mẫu 1
“Sống khát vọng” tưởng cao đẹp của thanh niên thời hiện đại. Tuổi trẻ nên
biết tận hưởng cống hiến sức mình cho đời. Đó lẽ biểu hiện niềm ham sống
mãnh liệt, hay nỗi khao khát hòa mình vào tình yêu chung của nhân loại. Xuân
Diệu Xuân Quỳnh những nhà thơ của tuổi trẻ đã thể hiện quan niệm sống
mới mẻ này qua hai tác phẩm tiêu biểu “Sóng” “Vội vàng” tiêu biểu hai
đoạn thơ sau:
"Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ"
(Sóng Xuân Quỳnh)
"Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi"
(Vội vàng Xuân Diệu)
Xuân Quỳnh một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ thời
chống Mỹ. Thơ Xuân Quỳnh tiếng lòng người phụ nữ khi yêu, nhiều trắc ẩn vừa
hồn nhiên, tươi tắn lại vừa đằm thắm, chân thành. Nhân vật trữ tình trong thơ Xuân
Quỳnh đều những người phụ nữ mạnh mẽ, luôn da diết khát vọng hạnh phúc đời
thường. Bài thơ “Sóng” ra đời trong chuyến đi thực tế biển Diêm Điền (Thái Bình).
Đây thi phẩm đặc sắc, đậm chất phong cách thơ Xuân Quỳnh. Bài thơ được in
trong tập “Hoa dọc chiến hào”.
Xuân Diệu “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Ông đã đem
đến cho thi ca đương thời một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới cùng những
cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo. Cũng như Xuân Quỳnh, Xuân Diệu nhà thơ của
tình yêu tuổi trẻ với giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời thắm thiết. Từ sau cách
mạng, thơ Xuân Diệu gắn liền với đất nước rất giàu tính thời sự. Bài thơ “Vội
vàng” một trong số những thi phẩm về lòng yêu cuộc sống của người trẻ, được in
trong tập “Thơ Thơ”.
“Tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại” (Xuân Diệu). thế, sống để yêu thương khát
vọng luôn song hành cùng tuổi trẻ. Đó tính quy luật muôn đời.
Trước hết, ta sẽ tìm hiểu khát vọng nữ Xuân Quỳnh đã đề cập đến trong
“Sóng”. Tuổi trẻ sinh ra để được yêu tình yêu đóng vai trò đặc biệt đối với tuổi
thanh xuân của mỗi người. Bởi lẽ:
"Làm sao sống được không yêu
Không nhớ không thương một kẻ nào."
(Xuân Diệu)
Tình yêu trong “Sóng” của Xuân Quỳnh không chỉ những cung bậc cảm xúc đời
thường của người phụ nữ khi yêu còn ẩn chứa tưởng cao đẹp của tình yêu
hiện đại:
"Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ."
Người trẻ yêu rất say đắm, rất mãnh liệt, họ luôn khát vọng tình yêu, luôn “bồi hồi
trong ngực trẻ”. Chính vậy, họ sẵn sàng hi sinh, hiến dâng cho hạnh phúc của
mình. Chỉ với bốn câu thơ, nữ tác giả đã bộc lộ cái tôi bản thân cũng như suy nghĩ
của thế hệ trẻ. Hai chữ “làm sao” thật giàu cảm xúc. nỗi băn khoăn, trăn trở của
Xuân Quỳnh. Đó chính nỗi khát khao được “tan thành trăm con sóng nhỏ”. sao
vậy, nhà thơ bằng trực cảm của mình đã nhận ra tình yêu không thuộc về vĩnh
viễn. giống như:
"Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa"
Cuộc đời tuy dài nhưng không ngăn nổi tháng năm của tuổi trẻ sẽ đi qua. Biển dẫu
đến cùng vẫn không thể nào giữ nổi một đám mây bay về cuối chân trời. vậy
mới sinh ra khát vọng của thi nhân. Khát vọng được hóa thân thành sóng khát
vọng được cho đi, được dâng hiến. Bởi vì, một nghịch trong tình yêu “hạnh
phúc thật sự chỉ đến khi bạn biết mạnh dạn cho đi chứ không phải nắm giữ thật
chặt” (Christopher Hoare). Con sóng lớn tổng hòa của “Trăm con sóng nhỏ” để
hòa vào đại dương mênh mông sâu thẳm. Trong bao la tận ấy, sóng sẽ mãi mãi
vỗ muôn điệu yêu thương không bao giờ lo âu tình yêu trong biển rộng trời
cao ấy chẳng bao giờ vơi cạn. Bên cạnh đó, thể thấy rằng, Xuân Quỳnh đang
ngầm so sánh cuộc đời tựa hồ như biển lớn tình yêu được tạo nên từ những con
sóng nhỏ. Sóng chẳng thể tồn tại nếu không còn một phần của biển khơi.
Cũng như tình yêu của muôn người, nếu tách khỏi cộng đồng thì chỉ mãi một tình
yêu lẻ loi, vị kỉ. Từ đó, người đọc cảm nhận được khao khát bất tử hóa tình yêu của
nhà thơ:
"Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ."
Những con sóng đó quyện mình vào đại dương bao la, cùng vỗ nhịp yêu thương
đến ngàn đời sau tượng trưng cho tình yêu vĩnh hằng. Tình yêu nhân cần phải
hòa mình vào tình yêu chung của nhân loại thì mới trường tồn, vĩnh cửu. Bởi một lẽ
“giọt nước chỉ không thể cạn khi hòa vào biển cả”. Hơn nữa, bài thơ được ra đời
vào năm 1968, trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn ác liệt của cuộc
chiến tranh chống Mỹ xâm lược. Thanh niên nam nữ đều xông pha mặt trận, chiến
trường khói lửa bom đạn. Biết bao nhiêu cuộc chia li màu đỏ giữa các cặp gái trai
diễn ra vào thời điểm đó. Nghĩ đến điều này, ta lại càng thấm thía hơn về tưởng
tình yêu của con người thời đại ấy. Nói tóm lại, thông qua khổ cuối của bài thơ
“Sóng”, Xuân Quỳnh đã gửi đến độc giả thông điệp nhân văn về tình yêu: yêu hiến
dâng tình yêu nhân không thể cũng không thể tách rời bể lớn tình yêu nhân
loại.
Xuân Quỳnh đã rất khéo léo khi chọn viết “Sóng” bằng thể thơ ngũ ngôn, giàu nhịp
điệu. Nhịp điệu của sóng, nhịp điệu của tâm hồn giúp cho nhà thơ phần nào truyền
tải ý nghĩa nhân văn của mình đến người đọc một cách sâu sắc xúc động nhất.
Cách so sánh “em” với “sóng” độc đáo, cùng những hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ
những con sóng tựa như tâm hồn trắc ẩn của người phụ nữ đang yêu đã tạo nên
thành công cho bài thơ.
Chẳng những yêu hết mình, yêu chân thành tuổi trẻ còn một niềm ham sống
mãnh liệt. Không ai khác ngoài Xuân Diệu thể bộc lộ cái tôi sôi nổi, giàu khát
vọng ấy của đời thanh niên:
"Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi."
Bốn câu thơ trên lời mở đầu cho thi phẩm “Vội vàng”. Đặc biệt thay, chỉ những
câu thơ này được viết bằng thể ngũ ngôn. Với nhịp ngắn, nhanh, giàu nhạc điệu, thì
đây thể thơ thích hợp nhất để bộc lộ cái tôi đầy khát vọng mãnh liệt táo bạo
của nhà thơ. Nhân vật trữ tình trong “Vội vàng” một khao khát được “tắt nắng”
cho màu hoa đừng phai, được “buộc gió” cho “hương đừng bay đi”. Nắng gió,
hương hoa đây mùa xuân của đất trời. Mùa xuân mùa đẹp nhất trong năm
với bạt ngàn hoa thơm, cỏ lạ, với không khí ấm áp, muôn chim hội tụ. Đó “đồng
nội xa rì”, “lá cành phơ phất” còn “của yến anh này đây khúc tình si”. Mùa
xuân qua “cặp mắt xanh non biếc rờn” của nhà thơ càng trở nên thanh tân, quyến
đến lạ lùng: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.
Nhưng ẩn sâu trong vẻ đẹp diệu ấy của mùa xuân vòng quay không ngừng của
thời gian. Thời gian sức mạnh ghê gớm, bào mòn mọi thứ, kể cả tuổi thanh
xuân của con người. vậy Xuân Diệu luôn lo sợ về tình yêu, về tuổi già trước
mắt: Xuân đương tới nghĩa xuân đương qua Xuân còn non nghĩa xuân sẽ già.
Nỗi sợ hình ấy cứ ám ảnh nhà thơ mãi không thôi. Chính lẽ đó Xuân Diệu
đã khát vọng chiếm đoạt quyền năng của tạo hóa, buộc trụ ngừng quay, thời gian
dừng lại. Từ đó, thi nhân được hưởng trọn vẹn những phút giây đẹp nhất của đời
người. Khát khao ấy nghe vẻ ngông cuồng, điên rồ nhưng lại rất hợp lí. người
từng bảo rằng: “Tuổi trẻ như một cơn mưa rào, cho bị cảm, vẫn muốn quay lại để
được ướt thêm một lần nữa”. Tuổi thanh xuân, quãng thời gian con người
cảm thấy mình đẹp nhất, sung sức nhất. Nhà thơ muốn được níu giữ, được tận
hưởng thời trẻ, điều đó cũng không quá khó hiểu. Đây chính khát vọng đầy chất
nhân văn của tác giả. Xuân Diệu, qua đó, cũng nhắc nhở người đọc: “Mau đi thôi,
mùa chưa ngả chiều hôm”. Nghĩa ta phải nhanh lên để tình non chẳng chóng già,
để một mai ngẫm lại ta không hối tiếc đã “chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
Tác giả sử dụng thể thơ ngũ ngôn giàu nhịp điệu, lột tả chân thực khát vọng mãnh
liệt của bản thân cũng như làm tăng sức truyền cảm đối với độc giả. Chỉ vỏn vẹn
bốn câu thơ mở đầu, các động từ mạnh “tắt”, “buộc”,… cùng với điệp ngữ “Tôi
muốn” đồng loạt xuất hiện, góp phần nhấn mạnh nội dung của thi phẩm, đồng thời
tạo nên cái hay cho đoạn thơ, mang đậm phong cách thơ Xuân Diệu.
Dễ dàng nhận thấy, cả Xuân Quỳnh lẫn Xuân Diệu đều sử dụng thể thơ ngũ ngôn,
giàu nhịp điệu nhằm tăng tính biểu cảm khi truyền tải ý nghĩa nhân văn đến người
đọc. Ngoài ra, hai khổ thơ trên đều bộc lộ cái tôi khát vọng với đời cùng cháy
bỏng của thế hệ trẻ thời hiện đại. Tuy nhiên, khát vọng trong “Sóng” khát vọng
tình yêu lứa đôi, khao khát được tận hiến, được hi sinh cho một tình yêu đẹp,
giữa “biển lớn ngàn năm sóng vỗ”. Còn trong “Vội vàng”, ấy lại một quan niệm
nhân sinh về lẽ sống: sống vội vàng , giục giã để tận hưởng những giá trị của cuộc
sống.
Người ta nói: “Tuổi trẻ tuổi không ngại ngùng không nghi ngờ gì”. Tuổi thanh
xuân của đời người trôi qua nhanh lắm. Vậy nên, đừng ngại ngùng, hãy yêu hết
mình, sống vội vàng với cả nhiệt huyết của người trẻ như Xuân Diệu Xuân
Quỳnh. Chỉ thế, ta mới vươn tới được hạnh phúc vĩnh hằng hưởng thụ lấy
những tinh hoa, những khoảnh khắc tươi đẹp của cuộc đời này.
Bài làm mẫu 2
“Thơ viết về ai, cái gì, xét đến cùng vẫn sự bộc lộ cái tôi nhà thơ.” (Thanh
Thảo). Tiếng nói trữ tình trong thơ bao giờ cũng thuộc về ngôi thứ nhất, tiếng nói
bên trong của một cái tôi nhân, thể của nỗi niềm, tâm trạng. vậy, cùng nói
về khát vọng tình yêu, Xuân Quỳnh nói: “Làm sao được tan ra...Để ngàn năm còn
vỗ” (Sóng) còn Xuân Diệu trong bài thơ “Vội vàng” lại từng bộc bạch: “Ta muốn
ôm...Cho no thanh sắc của thời tươi”
Tình yêu vốn một đề tài quen thuộc đi về trong thơ ca muôn đời. Ta từng thổn
thức trước nỗi nhớ của người con gái trong “Khăn thương nhớ ai”, ta từng đau lòng
cho mối tình chớm nở của Kim Kiều, ta từng xót xa cho sự chờ đợi canh
khuya của người chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm”. lẽ, gắn với tình yêu
muôn ngàn suy ngẫm, muôn ngàn cách nghĩ, muôn vàn khát vọng. Với Xuân Quỳnh
một người phụ nữ với trái tim luôn rực cháy lòng yêu, chị tin vào tình yêu chân
chính, chị thể hiện một cái tôi đầy nữ tính, duyên dáng ý nhị đối với tình cảm
thiêng liêng của loài người. Còn với thi Xuân Diệu, một người nghệ suốt đời đi
tìm “lầu thơ trên mặt đất”, ông khao khát một tình yêu trọn vẹn cháy bỏng,
muốn đem hết thảy cái dào dạt, mãnh liệt của tâm hồn để chiếm đoạt lấy tình yêu
của tạo hóa. Đi về trong hai sáng tác nổi bật hai cách viết, hai cách thể hiện,
mang đậm dấu ấn nhân của mỗi người nghệ sĩ, tạo cho thế giới thơ ca những
xúc cảm không ngờ, những “tự truyện của một khát vọng” (J.M.Maulpoix).
“Sóng” sản phẩm của chuyến đi thực tế về vùng biển Diêm Điền của nữ sĩ. Trước
sự ào ạt của sóng bể ngọn gió của muôn trùng biển khơi, nhà thơ đã không nén
nổi lòng mình cất lên tiếng hát của nỗi lòng. Để lại trong bài thơ không chỉ tình
yêu, đó còn khát vọng, khao khát của một trái tim yêu nồng nàn, mãnh liệt:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.”
Hình ảnh sóng hòa vào khát vọng được dâng hiến, hòa mình vào biển lớn tình yêu.
Hai chữ “tan ra” thể hiện khát vọng được hóa thân vào sóng để tồn tại trong cái
không gian tận của biển cả vĩnh hằng. Con sóng lớn ấy muốn hóa thân mình
thành trăm ngàn con sóng nhỏ hơn để được hòa mình vào biển khơi tận, để trải
lòng mình, để quyện hòa hiến dâng tất cả cho người tình biển khơi. Khát vọng ấy
khát vọng dâng hiến trong tình yêu, muốn dùng tình yêu để nối dài cái hữu hạn,
ngắn ngủi của cuộc đời. Khát vọng xem chừng đầy hi sinh đó khiến người đọc nhớ
về chuyện nàng tiên đã biến mình thành bọt biển. Sự hóa thân ấy đau lòng
nhưng đó biểu hiện của sự hi sinh, thà để bản thân tan biến chỉ để cho người
mình yêu được hạnh phúc. Phải chăng liên tưởng ấy đã mở hình ảnh một người
con gái giàu khát vọng hi sinh, sẵn sàng hi sinh tất cả cho tình yêu chân chính? Mục
đích của gái ấy gì, phải chăng là:
“Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
Sự hóa thân ấy không phải nghĩa, sự hóa thân ấy cũng không phải sự tan biến
vĩnh viễn. Sóng sẵn sàng tan ra thành ngàn con sóng nhỏ hơn để hòa mình vào
muôn trùng sóng bể, để ngàn năm trôi đi thì những lớp sóng ấy vẫn kéo dài mãi mãi.
Những dòng thơ kết lại tác phẩm vẫn mang nhịp đập thổn thức của một trái tim yêu
tha thiết mãnh liệt. vậy, “Sóng” đã trở thành một trong những bản tình ca đẹp
nhất trong văn học Việt Nam hiện đại.
Trước Xuân Quỳnh, từng một nhà thơ đã khao khát mãnh liệt như thế, một
nhà thơ Mới với cách viết mới, suy nghĩ mới khiến nhà phê bình Chu Văn Sơn từng
phải thốt lên: “Trong bầu khí quyển của tinh thần Xuân Diệu, thời gian chỉ hai
mùa: mùa xuân mùa của tuổi trẻ, tình yêu, sự sống, còn mùa thu màu úa, tàn
phai, rơi rụng. Cảm nhận thời gian của Xuân Diệu chỉ hai thì: thì tươi thì phai”.
Khát vọng yêu đương của Xuân Diệu đã từng khắc ghi trong tâm hồn người đọc với
những câu thơ giàu khao khát:
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa gió lượn;
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
non nước, cây, cỏ rạng
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no thanh sắc của thời tươi”
Đại từ “ta” được sử dụng nhiều lần như một cách tác giả bày tỏ cái tôi riêng của
chính mình. Câu thơ như tái hiện lại một cách tay đang ham muốn ôm trọn đất trời,
khát khao tận hưởng xuân sắc xuân thì của tạo hóa. Điệp từ “ta muốn” lặp lại kết
hợp với các động từ mạnh “ôm, riết, say, thâu” càng thể hiện đậm nét khát khao yêu
đương mãnh liệt của “ông hoàng thơ tình” Xuân Diệu. lẽ quá đam trước
cảnh sắc thiên nhiên với sự sống mơn mởn mới chớm nở trên từng cành cây kẽ lá,
quá say đắm với mây gió trời, quá yêu chiều với cánh bướm dập dờn trước gió,
cho nên thi muốn “thâu trong một cái hôn nhiều”. Ông khát khao giao cảm, khát
khao chiếm trọn lấy đất trời cảnh sắc thiên nhiên, để tận hưởng trọn vẹn chúng,
để “chếnh choáng” trong hương mật cuộc đời để ‘đã đầy” trước ánh sáng của tạo
hóa ban cho. Đối với Xuân Diệu, không một tình yêu nào tình yêu hời hợt. Đã
yêu, đã thương, đã say thì phải giao cảm tuyệt đối, phải thực sự quyện hòa vào
nhau để được đã đầy no trong hơi men cuộc sống. Nàng Xuân với sắc đẹp
sự trẻ trung của mình đã thu hút được trái tim khao khát của người thi sĩ, khiến ông
muốn thâu tóm cả “trời đất, cây, cỏ rạng” sự lặp lại tưởng chừng như thừa
thãi đó lại một màn kết tuyệt đẹp trong khát vọng yêu được mãnh liệt của nhà thơ.
đúng như Khrapchenko từng nói: “Điều còn lại của nhà văn cái giọng của riêng
mình” Xuân Diệu, thi của những nỗi niềm tình cảm mãnh liệt, đã gieo vào lòng
người những xúc cảm rất mực dào dạt như thế, đã khắc vào lòng người một dấu
triện rất riêng. rồi lầu thơ của ông cứ cao lên mãi, bởi được xây dựng từ khao
khát yêu đương giao cảm, khao khát đó chưa bao giờ thôi bùng cháy.
Tuy văn chương lĩnh vực của sự sáng tạo, không cho phép sự lặp lại, giống
nhau nhưng lạ thay giữa những người nghệ lại một sự đồng điệu giao cảm.
Cả “Sóng” “Vội vàng” đều tiếng nói của một cái tôi giàu cảm xúc với khát khao
giao cảm với đời, với người. Cùng với đó khát vọng yêu đương cháy bỏng của
những trái tim giàu khao khát yêu đương với cuộc đời, những xúc cảm dào dạt
bùng cháy. “không khó lối đi nào chung cho hai nhà thơ cả” mỗi bài thơ đều
mang theo những thông điệp độc đáo, mang đậm dấu ấn nhân người nghệ sĩ.
Nếu như “Sóng” thể hiện một tình yêu đầy nữ tính, khát khao dâng hiến, tận hiến
bất tử hóa với tình yêu thì “Vội vàng” lại đưa ta đến một quan niệm sống rất hiện đại:
sống vội vàng, sống cuống quýt để tận hưởng hết thảy mọi vẻ đẹp trên đời bởi
tuổi trẻ chẳng hội thắm lại lần hai. thể nói rằng “Sóng” như một bản giao
hưởng tình yêu còn “Vội vàng” khúc thanh về khát vọng sống vội với cuộc
đời tươi đẹp.
Chẳng hẹn gặp, hai người nghệ đã thổi hồn mình vào những trang thơ với xúc
cảm dào dạt mãnh liệt. Một Xuân Quỳnh với trái tim yêu đầy nữ tính, một Xuân
Diệu với sự hối hả mãnh liệt trong cảm xúc mỗi người đều đã ghi tên mình vào
dòng chảy của thời gian, của lòng người. Những áng thơ của họ sẽ còn sống mãi
với thời gian.
Bài làm mẫu 3
Qua tiếng hát anh nhận ra người hát.
Qua nét khắc anh nhận ra người thợ bạc”
(“Dagestan của tôi”)
Như những dấu vân tay duy nhất, mỗi người nghệ đều cho mình một “vân chữ”
độc nhất, không giống bất cứ ai. thế, dẫu cùng dưới một bầu trời, hít một bầu
không khí, dẫu chung một đề tài thì cuộc sống dưới con mắt của những người nghệ
cũng không bao giờ trùng lặp. thể thấy điều đó trong cái nhìn về tình yêu
qua con mắt của Xuân Quỳnh:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
(“Sóng”)
Vơi Xuân Diệu lại là:
“Tôi muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
non nước, cây cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Thơ ca, với Xuân Quỳnh, gắn liền với sự sống, tình yêu; làm thơ nữ được sống
với chính mình, sống đủ đầy trọn vẹn mình. Mỗi bài thơ đều tiếng nói chân
thành nhất của một tâm hồn phụ nữ giàu trắc ẩn, vừa âu lo vừa da diết trong khát
vọng hạnh phúc đời thường. Bài thơ “Sóng” kết quả của chuyến đi thực tế vùng
biển Diêm Điền Thái Bình cuối năm 1967, được đưa vào tập thơ “Hoa dọc chiến
hào” (1968). “Sóng” với “em”, hai như một, một trong hai, song hành cùng nhau
để thể hiện sâu sắc nhất cảm xúc của chủ thể trữ tình.
Trong tình yêu, người con gái cũng lúc âu lo: “Cuộc đời tuy dài thế/ Mây vẫn bay
về xa” nhưng cuối cùng vẫn chọn cách tin tưởng:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
“Tan ra”- đó khát vọng được hóa thân vào sóng để được tồn tại trong không gian
rộng lớn của biển cả cái vĩnh hằng của thời gian. Đó khát vọng vĩnh viễn hóa
tình yêu, dùng tình yêu để nối dài cuộc đời ngắn ngủi của con người. Khát vọng ấy
lại làm ta nhớ tới câu chuyện nàng tiên hóa thân làm bọt biển để người mình yêu
được hạnh phúc trọn vẹn. Câu hỏi “Làm sao...” như một sự khắc khoải khôn nguôi
trong lòng người phụ nữ. Đến hai câu thơ sau, từ con sông buổi nào, người phụ nữ
đã tìm được biển lớn của đời mình. Nhưng phải làm sao để giữa biển lớn tình yêu
ấy, em vẫn thể thấy được con sóng tính yêu của chúng ta? Ước vọng được hóa
thân, được níu giữ vĩnh viễn tình yêu tươi đẹp càng trở nên thiết tha. Phải chăng đó
bản tính hi sinh dâng hiến của người phụ nữ?
Mở đầu bài thơ sự mạnh mẽ, chủ động tìm đến hạnh phúc, kết thúc lại bằng sự hi
sinh, yêu thương bờ. Mở đầu bài thơ khát vọng được làm mình, kết thúc lại
bằng khát vọng được hòa mình của người phụ nữ. Mở đầu bài thơ ước vọng về
hạnh phúc đến cuối bài thơ chính hành động để tạo dựng gìn giữ hạnh phúc
ấy. Sự song hành hình tượng sóng em đã khắc họa vẻ đẹp vừa dịu dàng, tinh tế
vừa chủ động, mãnh liệt, vừa truyền thống vừa hiện đại của một tình yêu chân
thành. Đó một quá trình biến đổi hết sức tự nhiên cũng đầy can đảm, cao đẹp
trong phẩm chất, vẻ đẹp của người phụ nữ. Từ đó, cũng tạo nên sự khác biệt trong
giọng điệu: từ những câu thơ ngắt nhịp nhanh, giọng thơ tự tin, dứt khoát đến
những câu thơ nhẹ nhàng, du dương như tiếng đại dương rào sóng vỗ, không
nghe thanh âm những vang vọng đến mãi về sau. Với Xuân Quỳnh, thơ sống,
sống thơ. Nếu nói thơ chuyện “rút ruột rút gan mình” viết, Xuân Quỳnh
chính người như thế. Cứ hết mình sống, hồn nhiên viết, trút trọn vẹn cái tôi của
mình vào mỗi thi phẩm, thi tứ, mỗi thi ảnh, thi điều đó cách thơ Xuân Quỳnh.
Không mặt nạ, không son phấn, không vay mượn, không lên gân, Xuân Quỳnh đã
gửi mình vào thơ.
Với Xuân Diệu, lại là:
“Tôi muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
non nước, cây cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Đoạn thơ tám chữ bỗng gây chú ý, độc đáo với câu thơ ba chữ: “Tôi muốn ôm”
khiến cho giọng thơ trở nên đanh lại, mạnh mẽ, biểu đạt mong muốn, yêu cầu được
thực hiện hành động. Từ cái “tôi” đơn cũng kiêu hãnh dòng trên đã chuyển
thành cái “ta”. Trong cái “ta” vẫn cái “tôi” kiêu hùng của nhà thơ nhưng còn biết
bao cái “tôi” của mỗi độc giả. Đúng thế. Đừng trước “sự sống mới bắt đầu mơn
mởn” nhưng lại nhận thức được “Xuân đang tới nghĩa xuân đang qua”, “Xuân còn
non nghĩa xuân sẽ già” sao khỏi những nuối tiếc, xót xa. Tuổi trẻ phải yêu,
sống hết mình để níu giữ thời gian, để tận hưởng sự sống tràn đầy này. Cấu trúc “Ta
muốn” cùng với một loạt những động từ mạnh: “ôm, say, thâu, cắn” đã thể hiện
được ước muốn, sự tận hưởng trọn vẹn ấy. Giọng thơ nhanh để theo kịp với những
ước muốn kia với một loạt các biện pháp liệt kê. Tưởng như ta càng tận hưởng,
càng tiếp nhận ta lại càng cảm thấy được cuộc sống càng tươi đẹp ý nghĩa hơn.
Đến cuối cùng câu cảm thán: “- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!” Lần đầu
tiên, xuân hồng lại được hữu hình hóa để thể “cắn” được. Động từ “cắn” đã thể
hiện cao nhất ước muốn được giao hòa với thiên nhiên của Xuân Diệu. Với Xuân
Diệu, tất cả không được hồ, phải cảm giác chân thực. Bởi thế, Thế Lữ mới
viết về ông “Con người của trần thế. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một
tấm lòng trần gian”. Trong câu thơ, ông Tây tân Xuân Diệu cũng đã vận dụng
phép tương giao giữa các giác quan- thủ pháp tiêu biểu của các nhà thơ Tượng
trưng Pháp.
Với Xuân Diệu, cuộc sống thực tại mới tươi đẹp đáng sống nhất. Ông đón
nhận cuộc sống bằng tất cả tình yêu, sự nồng nhiệt nhất. Nhưng nhận ra quy luật
nghiệt ngã của thời gian, ông sống tận hưởng hết mình, yêu hết mình. Đó mới chính
Xuân Diệu, luôn thiết tha, rạo rực, băn khoăn.
Đối với tình yêu, cả Xuân Quỳnh Xuân Diệu luôn chân thành nồng thắm nhất,
khát vọng được vĩnh viễn hóa tình yêu. Nhưng hướng tới tình yêu đôi lứa, Xuân
Quỳnh lựa chọn dâng hiến hết mình, hòa mình để thể vĩnh hằng tình yêu đẹp ấy.
Đó chính đức tính hy sinh, thiên tính nữ trong thơ nữ sĩ, vẻ đẹp muôn đời của
những áng thơ nữ Việt Nam. Còn với tình yêu cuộc sống, Xuân Diệu chọn cách tận
hưởng hết mình để vĩnh viễn hóa tuổi trẻ tươi đẹp một đi không trở lại. Đó chính
cách ứng xử của phương Tây dành cho cuộc sống, cho tình yêu. Mỗi cách ứng xử
khác nhau với tình yêu, chúng ta lại thêm được những cảm nhận tình cảm khác
nhau.
Đến với mỗi trang viết một thế giới mở ra, không lặp lại, không giản đơn. Điều đó
làm cho văn học dẫu ra đời từ thời của Homere, Kinh thi nhưng sẽ tồn tại với ta đến
ngày tận thế, vật không thể mua cũng chẳng thể bán nhưng lại thứ không
thể thiếu trong đời sống con người để ta sống tốt, sống đẹp hơn.
3. So sánh Sóng Vội vàng (2 Mẫu)
Bài làm mẫu 1
Tình yêu khát vọng luôn những "nguyên tố" cần thiết trong cuộc đời mỗi con
người. Bởi chỉ khi khao khát yêu được yêu, khát khao khát sống trân quý cuộc
sống thì đó mới chính làm nên giá trị của cuộc sống. lẽ vậy, hơn ai hết, mỗi
nhà thơ, những con người thiết tha với cuộc đời nhạy cảm trước thời cuộc lại
càng hiểu hơn điều đó. Bởi vậy, những vần thơ được viết ra như thay lời
muốn nói cho bao kiếp người, bao tình cảm thiết tha mãnh liệt của con người
muốn được thể hiện. "Sóng" "Vội vàng" những bài thơ như thế, những bài thơ
của khát vọng tình yêu, khát vọng sống cống hiến.
Cả Xuân Quỳnh Xuân Diệu đều ý thức rất lớn về sự chảy trôi của thời gian,
muốn nhưng vẫn không thể ngưng lại sự chảy trôi ấy.
"Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi quá"
Cuộc đời dài thật, nhưng thời gian nào chậm, vẫn lặng lẽ vụt qua rút ngắn cái
hữu hạn của đời người. Đó nỗi lo âu trước thời gian, nỗi ngậm ngùi trước năm
tháng cuộc đời, vừa lo sợ, lại vừa luyến tiếc.
"Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa"
Biển kia rộng bao la tận cũng không thể ngăn cản được mây bay, cả hai
vẫn chẳng thể nào gặp gỡ. Xuân Diệu cũng thế, cũng lo sợ trước thời gian, cũng
vội vàng, cuống quýt:
"Xuân đang tới, nghĩa xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa xuân sẽ già,
xuân hết, nghĩa tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,"
Ông lo sợ trước tuổi trẻ rồi sẽ dần qua đi, sau tất thảy còn lại sự luyến tiếc, ngậm
ngùi thôi. Thời gian vốn vẫn vậy, cứ chảy dài, mùa xuân vẫn vậy, cứ tuần hoàn,
tới rồi đi, để rồi người chợt nhận ra thanh xuân không còn mãi, tuổi tác ngày một lớn
thêm khi xuân hết nghĩa tôi cũng mất. Càng nhận ra thời gian không chờ đợi ai,
càng nhận ra sự ngắn ngủi của cuộc đời của tuổi trẻ. Tác giả lại càng ý thức được
việc sống của mình hơn, lại càng khát khao yêu khát khao sống để không phải
hối tiếc cuộc đời, hối tiếc về những năm tháng đã qua. Xuân Quỳnh mang mối tình
đằm thắm, chân thành, một mối tình mãnh liệt của một người con gái vốn e dè, ngại
ngùng, nhưng vẫn thể hiện được sự dũng cảm trong tình yêu:
"Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Của biển lớn tình yêu
Để ngàn năm vẫn vỗ"
Một con sóng thôi làm sao thể làm nên đại dương bao la, con sóng ấy phải
hoà cùng nhịp điệu của biển sóng, của muôn ngàn con sóng mãnh liệt, vỗ bờ đến
biển lớn. Sóng được hoà mình du ngoạn giữa đại dương để mãi mãi trường tồn, bất
tử, ngàn năm sóng vẫn vỗ, vẫn đến bên bờ. Cũng như tình yêu của em dành cho
anh, không thể giữ cho riêng mình được, phải tình yêu lớn như biển cả kia, mênh
mông như đại dương kia, phải tình yêu của hai ta, của nhân loại, của người người
trên thế gian. Đó không chỉ biển của thiên nhiên còn biển của tình yêu,
đại dương của tình yêu tình yêu ấy mãi mãi trường tồn, bất tử, không hữu hạn
như đời người, kiếp người. Một khát khao yêu thật cao đẹp đầy phi thường. Tình
yêu dường như một khát vọng vĩnh hằng, rất đỗi mãnh liệt, thổn thức trong trái tim
mỗi con người, trong trái tim tuổi trẻ.
Xuân Diệu cũng như thế, ông càng lo sợ thời gian, càng nhận ra đời người ngắn
ngủi, hữu hạn lại càng cuống quýt, hối hả, thúc giục con người sống vội hơn để chạy
đua với thời gian, để tận hưởng những tinh túy, tươi đẹp của đất trời. Để tận hưởng
hương sắc tuyệt mỹ của cuộc đời. Đó khát khao được thực hiện những điều lạ,
những ước muốn lạ lùng để giữ trọn vẹn nhất vẻ đẹp của tạo hóa để nắng không thể
tàn hương hoa chẳng vội mất đi:
Bài làm mẫu 2
Xuân Diệu Xuân Quỳnh được làm hai trong số các nhà thơ nổi bật của thơ ca
hiện đại. Nếu Xuân Diệu được mệnh danh ông hoàng thơ tình thì Xuân Quỳnh
được mệnh danh chúa thơ tình yêu. hai hồn thơ này ta bắt gặp hơi thở tình
yêu dạt dào lòng ham sống mạnh mẽ.
Xuân Diệu từ lâu đã được xem một trong ba đỉnh cao của phong trào Thơ mới giai
đoạn năm 1932 1945. Ông được đánh già “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ
Mới” cách sử dụng ngôn từ cũng như cảm hứng thi ca. Khác với những nhà thơ
trong cùng giai đoạn thơ của Xuân Diệu không tuân theo cảm hứng dân tộc theo
cảm hứng lạng mạn. Ông tập trung thể hiện cái tôi nhân lòng ham sống.
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa gió lượn.
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
non nước, cây, cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no thanh sắc của thời tươi.”
tôi mãnh liệt của tác giả được thể hiện ràng qua cụm từ “ta muốn”. Ta đại từ
thể hiện cái tôi nhân khẳng định chủ thể khác biệt hoàn toàn với chúng tôi, chúng
ta đang thịnh hành. Đoạn thơ được xem một tuyên ngôn sống của tác giả tự xác
định thái độ sống gấp muốn tận hưởng cảm nhận cái hữu hạn của cuộc đời.
Xuận Diệu muốn ôm từ “sự sống mới bắt đầu mơn mởn” những thứ nhỏ nhất
như hạt mầm. “riết” những thứ siêu nhiên “mấy đưa gió lượn”. Tiếp theo
say trong những “cánh bướm với tình yêu” “một cái hôn nhiều”. tất cả “non
nước, cây, cỏ rạng” những thứ trên mặt đất đang tồn tại. Để cho thể chếnh
choáng mùi thơm cho đã đầy ánh sáng cho no thanh sắc của thời tươi. Với
hàng loạt các động từ mạnh như “ôm”, “riết”. “thâu”, “say”. “chếnh choáng”, “no nê”
đủ thấy lòng ham muốn chiếm lĩnh sự sống của tác giả lớn như thế nào. Qua đoạn
thơ này cho thấy Xuân Diệu không chỉ muốn sống một cách thông thường muốn
sống nhanh sống gấp sống làm sao tận hưởng được hết những mật ngọt của sự
sống.
Một nhà thơ nữa tiêu biểu cho cảm hứng lãng mạn lòng ham sống của con người
đó Xuân Quỳnh. Nhà thơ nữ hiếm hoi gương mặt tiêu biểu cho thế hệ thơ trẻ
của thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Thơ của Xuân Quỳnh mang đậm vẻ đẹp nữ tính,
vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu nhạy cảm. Đoạn thơ trích trong tác phẩm
“Sóng” dưới đây thể hiện nhất phong cách thơ của bà:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.”
Đối với Xuân Quỳnh thì tình yêu được xem lẽ sống. Nhưng tình cảm không chỉ
hữu hạn trong cái tôi nhỏ còn được hòa mình vào biển lớn tình yêu của nhân
loại. ước mong:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ”
Từ “trăm con sóng nhỏ” này hòa mình vào với “biển lớn tình yêu” đấy cách biến
tình yêu trở thành bất tử. tình yêu thương từ đó sẽ lan tỏa đến mọi nơi trên thế
giới mang đến cho con người một thế giới bình yên hòa bình cho nhân loại.
Thông qua việc phân tích hai đoạn thơ trên của hai tác giả Xuân Diệu Xuân
Quỳnh ta thấy cả hai đều bộc lộ cảm xúc mãnh liệt những suy ngẫm trước cuộc
đời rộng lớn. Họ đều thể hiện lòng ham sống mạnh mẽ muốn được hòa mình vào
cuộc sống chung của nhân loại.
Nhưng điểm khác biệt nếu như thì nằm cách thể hiện cái tôi nhân. Nếu
Xuân Diệu ta thấy sự mạnh mẽ nam tính thì Xuân Quỳnh ta lại thấy sự nhẹ nhàng,
nữ tính. Những câu thơ của Xuân Diệu đọc lên cảm nhận được cái tôi mãnh liệt
muốn khẳng định ước mướn lòng ham sống của bản thân. Thì những câu thơ của
Xuân Quỳnh lại rất nhẹ nhàng đầy thủ thỉ, tâm tình.
Xuân Diệu chọn cách sống gấp gáp để hưởng thụ được hết những hoa thơm trái
ngọt trên cuộc đời. Còn Xuân Quỳnh thì lại ước muốn được hòa mình vào đời
sống chung của nhân loại. Từ cái tôi nhỏ tiến đến cái ta ngoài biển lớn tình yêu.
Thông qua hai đoạn thơ trên đây chúng ta cảm nhận được lòng ham sống cái tôi
cùng lãng mạn của Xuân Diệu Xuân Quỳnh. Mặc dù, họ sinh ra hai thời
điểm, hai thế hệ khác nhau nhưng họ đều chung một cái tôi lãng mạn lòng tin
yêu mãnh liệt đối với cuộc đời.
4. So sánh 2 tác phẩm Sóng Vội vàng
Bài làm mẫu 1
Trong muôn lời thơ tiếng hát của “cây đàn muôn điệu” về đề tài tình yêu, nền văn
học Việt Nam ta may mắn được hai đại biểu thơ tình xuất sắc: Một Xuân Diệu
đại diện cho sự khát khao mãnh liệt, sôi nổi- ồn ào, vồ vập đắm say một Xuân
Quỳnh đại diện cho những tình cảm đôn hậu, đằm thắm, đầy nữ tính nhưng cũng
không kém phần mãnh liệt. Giá trị thơ tình Xuân Diệu, Xuân Quỳnh đã được khẳng
định qua thời gian qua những người yêu thơ. mọi thời đại, thơ tình Xuân Diệu,
Xuân Quỳnh đều được đông đảo bạn đọc đón nhận, đặc biệt giới trẻ, những
người biết yêu biết trân trọng tình yêu. Hai đoạn thơ sau đây trong hai thi phẩm
“Vội vàng” “Sóng” sẽ giúp ta nhận ra những giá trị ấy.
Xuân Quỳnh một trong số những nhà thơ nữ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà
thơ trẻ trong thời kháng chiến chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh tiếng lòng của một
tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn vừa chân thành đằm thắm
luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. “Sóng” bài thơ tình
yêu đặc sắc của Xuân Quỳnh, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”.
Xuân Diệu “nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ Mới” (Hoài Thanh). Ông được
giới trẻ tấn phong “Ông hoàng của thi ca tình yêu”. Ông mang đến cho thơ ca
đương thời một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, thể hiện một quan niệm
sống mới mẻ cùng với những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo. Ông nhà thơ của
tình yêu, của mùa xuân tuổi trẻ với giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời thắm thiết.
“Vội vàng” được trích trong tập “Thơ Thơ” một trong những bài thơ hay nhất của
Xuân Diệu trước cách mạng.
Đoạn thơ trong bài Sóng của Xuân Quỳnh thể hiện cái tôi đầy những âu lo, trắc ẩn
nhưng cũng dồn chứa bao khát vọng tình yêu “bồi hồi trong ngực trẻ”: Nhà phê bình
Chu Văn Sơn khi nghiên cứu về thơ Xuân Quỳnh đã nhận định tinh tế: “Ở đó, trái
tim thơ Xuân Quỳnh cánh chuồn báo bão cứ chao đi chao về, mệt nhoài giữa biến
động yên định, bão tố bình yên, chiến tranh hòa bình,…”. Quả thật như thế,
mới khổ thơ trước chị viết với tất cả niềm tin yêu bến bờ với những cảm xúc
tình yêu nồng nàn trong sự dào dạt của sóng bờ nỗi nhớ người mình yêu tràn
| 1/30

Preview text:

1. Dàn ý so sánh bài thơ Sóng và Vội vàng I. Mở bài:
- Xuân Quỳnh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ thời chống
Mĩ cứu nước. Thơ Xuân Quỳnh in đậm vẻ đẹp nữ tính, vẻ đẹp tâm hồn người phụ
nữ nhiều trắc ẩn, hồn nhiên, chân thành, đằm thắm, da diết trong khát vọng đời thường.
Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967, trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm
Điền (Thái Bình), là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh.
- Xuân Diệu - một trong ba đỉnh cao của phong trào Thơ Mới 1932 - 1945. Ông được
đánh giá là "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ Mới" bởi những cách tân cả về tư
tưởng và bút pháp nghệ thuật.
"Vội vàng" là bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám, được coi
là tuyên ngôn sống, tuyên ngôn nghệ thuật của nhà thơ.
- Cả 2 đoạn thơ trên đều là đoạn kết của hai tác phẩm, thể hiện những khát vọng mãnh liệt. II. Thân bài:
1. Đoạn thơ trong bài Vội vàng của Xuân Diệu:
- Đoạn thơ thể hiện “cái tôi” ham sống, muốn tận hưởng cuộc đời mãnh liệt. Như
một tuyên ngôn của lòng mình, nhà thơ tự xác định một thái độ sống gấp, tận hưởng
vì cảm nhận cái hữu hạn của cuộc đời (Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm); ý
thức chiếm lĩnh, tận hưởng cuộc sống ở mức độ cao nhất (chếnh choáng, đã đầy,
no nê ) những gì tươi đẹp nhất (mùi thơm, ánh sáng, thời tươi ).
- Các yếu tố nghệ thuật như điệp từ, điệp cấu trúc câu, động từ mạnh.. góp phần thể
hiện cái hối hả, gấp gáp, cuống quýt của tâm trạng, khiến nhịp điệu đoạn thơ sôi nổi, cuồng nhiệt.
2. Đoạn thơ trong bài Sóng của Xuân Quỳnh:
- Đoạn thơ thể hiện khát vọng lớn lao, cao cả trong tình yêu: ước mong được tan
hòa cái tôi nhỏ bé-con sóng cá thể, thành cái ta chung rộng lớn- “trăm con sóng”
giữa biển cả mênh mông. Những câu thơ có tính chất tự nhủ mình gợi cách sống,
tình yêu mãnh liệt, hết mình: mong muốn được tan hòa vào tình yêu lớn lao của
cuộc đời. Đó là cách để tình yêu trở thành bất tử.
- Thể thơ năm chữ với hình tượng “sóng”vừa ẩn dụ vừa giàu tính thẩm mĩ khiến
đoạn thơ sâu sắc, giàu nữ tính. 3. So sánh:
- Điểm tương đồng: Hai đoạn thơ đều bộc lộ cảm xúc mãnh liệt, những suy ngẫm
trước cuộc đời. Đây là hai đoạn thơ có sự kết hợp giữa cảm xúc-triết lí.
- Điểm khác biệt: không chỉ nằm ở phong cách thơ (Xuân Diệu sôi nổi, mãnh liệt đầy
nam tính, xuân Quỳnh thủ thỉ, tâm tình đầy nữ tính) mà còn trong cách “ứng xử” của
mỗi nhà thơ: trước sự “chảy trôi” của thời gian, Xuân Diệu chọn cách sống gấp gáp,
tận hưởng, Xuân Quỳnh lại thể hiện khát vọng muốn được tan hòa cái riêng vào cái
chung để tình yêu trở thành bất tử … III. Kết bài:
Kết luận lại giá trị nội dung và nghệ thuật của hai đoạn thơ trên. Kết luận lại giá trị
nội dung và nghệ thuật của hai đoạn thơ trên.
2. So sánh bài thơ Sóng và Vội vàng (2 Mẫu) Bài làm mẫu 1
“Sống và khát vọng” là lí tưởng cao đẹp của thanh niên thời hiện đại. Tuổi trẻ nên
biết tận hưởng và cống hiến sức mình cho đời. Đó có lẽ là biểu hiện niềm ham sống
mãnh liệt, hay là nỗi khao khát hòa mình vào tình yêu chung của nhân loại. Xuân
Diệu và Xuân Quỳnh – những nhà thơ của tuổi trẻ – đã thể hiện quan niệm sống
mới mẻ này qua hai tác phẩm tiêu biểu là “Sóng” và “Vội vàng” mà tiêu biểu là hai đoạn thơ sau:
"Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ"
(Sóng – Xuân Quỳnh)
"Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi"
(Vội vàng – Xuân Diệu)
Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ thời
chống Mỹ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng người phụ nữ khi yêu, nhiều trắc ẩn – vừa
hồn nhiên, tươi tắn lại vừa đằm thắm, chân thành. Nhân vật trữ tình trong thơ Xuân
Quỳnh đều là những người phụ nữ mạnh mẽ, luôn da diết khát vọng hạnh phúc đời
thường. Bài thơ “Sóng” ra đời trong chuyến đi thực tế ở biển Diêm Điền (Thái Bình).
Đây là thi phẩm đặc sắc, đậm chất phong cách thơ Xuân Quỳnh. Bài thơ được in
trong tập “Hoa dọc chiến hào”.
Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Ông đã đem
đến cho thi ca đương thời một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới cùng những
cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo. Cũng như Xuân Quỳnh, Xuân Diệu là nhà thơ của
tình yêu và tuổi trẻ với giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời thắm thiết. Từ sau cách
mạng, thơ Xuân Diệu gắn liền với đất nước và rất giàu tính thời sự. Bài thơ “Vội
vàng” là một trong số những thi phẩm về lòng yêu cuộc sống của người trẻ, được in trong tập “Thơ Thơ”.
“Tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại” (Xuân Diệu). Vì thế, sống và để yêu thương và khát
vọng luôn song hành cùng tuổi trẻ. Đó là tính quy luật muôn đời.
Trước hết, ta sẽ tìm hiểu khát vọng mà nữ sĩ Xuân Quỳnh đã đề cập đến trong
“Sóng”. Tuổi trẻ sinh ra là để được yêu và tình yêu đóng vai trò đặc biệt đối với tuổi
thanh xuân của mỗi người. Bởi lẽ:
"Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ không thương một kẻ nào." (Xuân Diệu)
Tình yêu trong “Sóng” của Xuân Quỳnh không chỉ có những cung bậc cảm xúc đời
thường của người phụ nữ khi yêu mà nó còn ẩn chứa lí tưởng cao đẹp của tình yêu hiện đại:
"Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ."
Người trẻ yêu rất say đắm, rất mãnh liệt, họ luôn khát vọng tình yêu, luôn “bồi hồi
trong ngực trẻ”. Chính vì vậy, mà họ sẵn sàng hi sinh, hiến dâng cho hạnh phúc của
mình. Chỉ với bốn câu thơ, nữ tác giả đã bộc lộ cái tôi bản thân cũng như suy nghĩ
của thế hệ trẻ. Hai chữ “làm sao” thật giàu cảm xúc. Là nỗi băn khoăn, trăn trở của
Xuân Quỳnh. Đó chính là nỗi khát khao được “tan thành trăm con sóng nhỏ”. Vì sao
vậy, vì nhà thơ bằng trực cảm của mình đã nhận ra tình yêu không thuộc về vĩnh viễn. Nó giống như:
"Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa"
Cuộc đời tuy dài nhưng không ngăn nổi tháng năm của tuổi trẻ sẽ đi qua. Biển dẫu
đến vô cùng vẫn không thể nào giữ nổi một đám mây bay về cuối chân trời. Vì vậy
mới sinh ra khát vọng của thi nhân. Khát vọng được hóa thân thành sóng là khát
vọng được cho đi, được dâng hiến. Bởi vì, có một nghịch lí trong tình yêu là “hạnh
phúc thật sự chỉ đến khi bạn biết mạnh dạn cho đi chứ không phải nắm giữ thật
chặt” (Christopher Hoare). Con sóng lớn là tổng hòa của “Trăm con sóng nhỏ” để
hòa vào đại dương mênh mông sâu thẳm. Trong bao la vô tận ấy, sóng sẽ mãi mãi
vỗ muôn điệu yêu thương mà không bao giờ lo âu vì tình yêu trong biển rộng trời
cao ấy chẳng bao giờ vơi cạn. Bên cạnh đó, có thể thấy rằng, Xuân Quỳnh đang
ngầm so sánh cuộc đời tựa hồ như biển lớn tình yêu được tạo nên từ những con
sóng nhỏ. Sóng chẳng thể tồn tại nếu nó không còn là một phần của biển khơi.
Cũng như tình yêu của muôn người, nếu tách khỏi cộng đồng thì chỉ mãi là một tình
yêu lẻ loi, vị kỉ. Từ đó, người đọc cảm nhận được khao khát bất tử hóa tình yêu của nhà thơ:
"Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ."
Những con sóng đó quyện mình vào đại dương bao la, cùng vỗ nhịp yêu thương
đến ngàn đời sau tượng trưng cho tình yêu vĩnh hằng. Tình yêu cá nhân cần phải
hòa mình vào tình yêu chung của nhân loại thì mới trường tồn, vĩnh cửu. Bởi một lẽ
“giọt nước chỉ không thể cạn khi nó hòa vào biển cả”. Hơn nữa, bài thơ được ra đời
vào năm 1968, trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn ác liệt của cuộc
chiến tranh chống Mỹ xâm lược. Thanh niên nam nữ đều xông pha mặt trận, chiến
trường khói lửa bom đạn. Biết bao nhiêu cuộc chia li màu đỏ giữa các cặp gái trai
diễn ra vào thời điểm đó. Nghĩ đến điều này, ta lại càng thấm thía hơn về lý tưởng
tình yêu của con người thời đại ấy. Nói tóm lại, thông qua khổ cuối của bài thơ
“Sóng”, Xuân Quỳnh đã gửi đến độc giả thông điệp nhân văn về tình yêu: yêu là hiến
dâng và tình yêu cá nhân không thể và cũng không thể tách rời bể lớn tình yêu nhân loại.
Xuân Quỳnh đã rất khéo léo khi chọn viết “Sóng” bằng thể thơ ngũ ngôn, giàu nhịp
điệu. Nhịp điệu của sóng, nhịp điệu của tâm hồn giúp cho nhà thơ phần nào truyền
tải ý nghĩa nhân văn của mình đến người đọc một cách sâu sắc và xúc động nhất.
Cách so sánh “em” với “sóng” độc đáo, cùng những hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ
những con sóng tựa như tâm hồn trắc ẩn của người phụ nữ đang yêu đã tạo nên thành công cho bài thơ.
Chẳng những yêu hết mình, yêu chân thành mà tuổi trẻ còn có một niềm ham sống
mãnh liệt. Không ai khác ngoài Xuân Diệu có thể bộc lộ cái tôi sôi nổi, giàu khát
vọng ấy của đời thanh niên:
"Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi."
Bốn câu thơ trên là lời mở đầu cho thi phẩm “Vội vàng”. Đặc biệt thay, chỉ những
câu thơ này được viết bằng thể ngũ ngôn. Với nhịp ngắn, nhanh, giàu nhạc điệu, thì
đây là thể thơ thích hợp nhất để bộc lộ cái tôi đầy khát vọng mãnh liệt và táo bạo
của nhà thơ. Nhân vật trữ tình trong “Vội vàng” có một khao khát được “tắt nắng”
cho màu hoa đừng phai, được “buộc gió” cho “hương đừng bay đi”. Nắng và gió,
hương và hoa ở đây là mùa xuân của đất trời. Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm
với bạt ngàn hoa thơm, cỏ lạ, với không khí ấm áp, muôn chim hội tụ. Đó là “đồng
nội xa rì”, là “lá cành tơ phơ phất” và còn là “của yến anh này đây khúc tình si”. Mùa
xuân qua “cặp mắt xanh non biếc rờn” của nhà thơ càng trở nên thanh tân, quyến rũ
đến lạ lùng: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.
Nhưng ẩn sâu trong vẻ đẹp diệu kì ấy của mùa xuân là vòng quay không ngừng của
thời gian. Thời gian có sức mạnh ghê gớm, nó bào mòn mọi thứ, kể cả tuổi thanh
xuân của con người. Vì vậy mà Xuân Diệu luôn lo sợ về tình yêu, về tuổi già trước
mắt: Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.
Nỗi sợ vô hình ấy cứ ám ảnh nhà thơ mãi không thôi. Chính vì lẽ đó mà Xuân Diệu
đã khát vọng chiếm đoạt quyền năng của tạo hóa, buộc vũ trụ ngừng quay, thời gian
dừng lại. Từ đó, thi nhân được hưởng trọn vẹn những phút giây đẹp nhất của đời
người. Khát khao ấy nghe có vẻ ngông cuồng, điên rồ nhưng lại rất hợp lí. Có người
từng bảo rằng: “Tuổi trẻ như một cơn mưa rào, cho dù bị cảm, vẫn muốn quay lại để
được ướt thêm một lần nữa”. Tuổi thanh xuân, là quãng thời gian mà con người
cảm thấy mình đẹp nhất, sung sức nhất. Nhà thơ muốn được níu giữ, được tận
hưởng thời trẻ, điều đó cũng không quá khó hiểu. Đây chính là khát vọng đầy chất
nhân văn của tác giả. Xuân Diệu, qua đó, cũng nhắc nhở người đọc: “Mau đi thôi,
mùa chưa ngả chiều hôm”. Nghĩa là ta phải nhanh lên để tình non chẳng chóng già,
để một mai ngẫm lại ta không hối tiếc vì đã “chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
Tác giả sử dụng thể thơ ngũ ngôn giàu nhịp điệu, lột tả chân thực khát vọng mãnh
liệt của bản thân cũng như làm tăng sức truyền cảm đối với độc giả. Chỉ vỏn vẹn
bốn câu thơ mở đầu, mà các động từ mạnh “tắt”, “buộc”,… cùng với điệp ngữ “Tôi
muốn” đồng loạt xuất hiện, góp phần nhấn mạnh nội dung của thi phẩm, đồng thời
tạo nên cái hay cho đoạn thơ, mang đậm phong cách thơ Xuân Diệu.
Dễ dàng nhận thấy, cả Xuân Quỳnh lẫn Xuân Diệu đều sử dụng thể thơ ngũ ngôn,
giàu nhịp điệu nhằm tăng tính biểu cảm khi truyền tải ý nghĩa nhân văn đến người
đọc. Ngoài ra, hai khổ thơ trên đều bộc lộ cái tôi khát vọng với đời vô cùng cháy
bỏng của thế hệ trẻ thời hiện đại. Tuy nhiên, khát vọng trong “Sóng” là khát vọng
tình yêu lứa đôi, là khao khát được tận hiến, được hi sinh cho một tình yêu đẹp,
giữa “biển lớn ngàn năm sóng vỗ”. Còn trong “Vội vàng”, ấy lại là một quan niệm
nhân sinh về lẽ sống: sống vội vàng , giục giã để tận hưởng những giá trị của cuộc sống.
Người ta nói: “Tuổi trẻ là tuổi không ngại ngùng gì và không nghi ngờ gì”. Tuổi thanh
xuân của đời người trôi qua nhanh lắm. Vậy nên, đừng ngại ngùng, hãy yêu hết
mình, sống vội vàng với cả nhiệt huyết của người trẻ như Xuân Diệu và Xuân
Quỳnh. Chỉ có thế, ta mới vươn tới được hạnh phúc vĩnh hằng và hưởng thụ lấy
những tinh hoa, những khoảnh khắc tươi đẹp của cuộc đời này. Bài làm mẫu 2
“Thơ dù viết về ai, cái gì, xét đến cùng vẫn là sự bộc lộ cái tôi nhà thơ.” (Thanh
Thảo). Tiếng nói trữ tình trong thơ bao giờ cũng thuộc về ngôi thứ nhất, là tiếng nói
bên trong của một cái tôi cá nhân, cá thể của nỗi niềm, tâm trạng. Vì vậy, cùng nói
về khát vọng tình yêu, Xuân Quỳnh nói: “Làm sao được tan ra...Để ngàn năm còn
vỗ” (Sóng) còn Xuân Diệu trong bài thơ “Vội vàng” lại từng bộc bạch: “Ta muốn
ôm...Cho no nê thanh sắc của thời tươi”
Tình yêu vốn là một đề tài quen thuộc đi về trong thơ ca muôn đời. Ta từng thổn
thức trước nỗi nhớ của người con gái trong “Khăn thương nhớ ai”, ta từng đau lòng
cho mối tình chớm nở của Kim – Kiều, ta từng xót xa cho sự chờ đợi vò võ canh
khuya của người chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm”. Và có lẽ, gắn với tình yêu là
muôn ngàn suy ngẫm, muôn ngàn cách nghĩ, muôn vàn khát vọng. Với Xuân Quỳnh
– một người phụ nữ với trái tim luôn rực cháy lòng yêu, chị tin vào tình yêu chân
chính, chị thể hiện một cái tôi đầy nữ tính, duyên dáng và ý nhị đối với tình cảm
thiêng liêng của loài người. Còn với thi sĩ Xuân Diệu, một người nghệ sĩ suốt đời đi
tìm “lầu thơ trên mặt đất”, ông khao khát có một tình yêu trọn vẹn và cháy bỏng,
muốn đem hết thảy cái dào dạt, mãnh liệt của tâm hồn để chiếm đoạt lấy tình yêu
của tạo hóa. Đi về trong hai sáng tác nổi bật là hai cách viết, hai cách thể hiện,
mang đậm dấu ấn cá nhân của mỗi người nghệ sĩ, tạo cho thế giới thơ ca những
xúc cảm không ngờ, là những “tự truyện của một khát vọng” (J.M.Maulpoix).
“Sóng” là sản phẩm của chuyến đi thực tế về vùng biển Diêm Điền của nữ sĩ. Trước
sự ào ạt của sóng bể và ngọn gió của muôn trùng biển khơi, nhà thơ đã không nén
nổi lòng mình cất lên tiếng hát của nỗi lòng. Để lại trong bài thơ không chỉ có tình
yêu, đó còn là khát vọng, là khao khát của một trái tim yêu nồng nàn, mãnh liệt:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.”
Hình ảnh sóng hòa vào khát vọng được dâng hiến, hòa mình vào biển lớn tình yêu.
Hai chữ “tan ra” thể hiện khát vọng được hóa thân vào sóng để tồn tại trong cái
không gian vô tận của biển cả vĩnh hằng. Con sóng lớn ấy muốn hóa thân mình
thành trăm ngàn con sóng nhỏ hơn để được hòa mình vào biển khơi vô tận, để trải
lòng mình, để quyện hòa và hiến dâng tất cả cho người tình biển khơi. Khát vọng ấy
là khát vọng dâng hiến trong tình yêu, muốn dùng tình yêu để nối dài cái hữu hạn,
ngắn ngủi của cuộc đời. Khát vọng xem chừng đầy hi sinh đó khiến người đọc nhớ
về chuyện nàng tiên cá đã biến mình thành bọt biển. Sự hóa thân ấy dù đau lòng
nhưng đó là biểu hiện của sự hi sinh, thà để bản thân tan biến chỉ để cho người
mình yêu được hạnh phúc. Phải chăng liên tưởng ấy đã hé mở hình ảnh một người
con gái giàu khát vọng hi sinh, sẵn sàng hi sinh tất cả cho tình yêu chân chính? Mục
đích của cô gái ấy là gì, phải chăng là:
“Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
Sự hóa thân ấy không phải là vô nghĩa, sự hóa thân ấy cũng không phải sự tan biến
vĩnh viễn. Sóng sẵn sàng tan ra thành ngàn con sóng nhỏ hơn để hòa mình vào
muôn trùng sóng bể, để ngàn năm trôi đi thì những lớp sóng ấy vẫn kéo dài mãi mãi.
Những dòng thơ kết lại tác phẩm vẫn mang nhịp đập thổn thức của một trái tim yêu
tha thiết và mãnh liệt. Vì vậy, “Sóng” đã trở thành một trong những bản tình ca đẹp
nhất trong văn học Việt Nam hiện đại.
Trước Xuân Quỳnh, từng có một nhà thơ đã có khao khát mãnh liệt như thế, một
nhà thơ Mới với cách viết mới, suy nghĩ mới khiến nhà phê bình Chu Văn Sơn từng
phải thốt lên: “Trong bầu khí quyển của tinh thần Xuân Diệu, thời gian chỉ có hai
mùa: mùa xuân là mùa của tuổi trẻ, tình yêu, sự sống, còn mùa thu là màu lá úa, tàn
phai, rơi rụng. Cảm nhận thời gian của Xuân Diệu chỉ có hai thì: thì tươi và thì phai”.
Khát vọng yêu đương của Xuân Diệu đã từng khắc ghi trong tâm hồn người đọc với
những câu thơ giàu khao khát: “Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn;
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi”
Đại từ “ta” được sử dụng nhiều lần như một cách tác giả bày tỏ cái tôi riêng tư của
chính mình. Câu thơ như tái hiện lại một cách tay đang ham muốn ôm trọn đất trời,
khát khao tận hưởng xuân sắc xuân thì của tạo hóa. Điệp từ “ta muốn” lặp lại kết
hợp với các động từ mạnh “ôm, riết, say, thâu” càng thể hiện đậm nét khát khao yêu
đương mãnh liệt của “ông hoàng thơ tình” Xuân Diệu. Có lẽ vì quá đam mê trước
cảnh sắc thiên nhiên với sự sống mơn mởn mới chớm nở trên từng cành cây kẽ lá,
quá say đắm với mây và gió trời, quá yêu chiều với cánh bướm dập dờn trước gió,
cho nên thi sĩ muốn “thâu trong một cái hôn nhiều”. Ông khát khao giao cảm, khát
khao chiếm trọn lấy đất trời và cảnh sắc thiên nhiên, để tận hưởng trọn vẹn chúng,
để “chếnh choáng” trong hương mật cuộc đời và để ‘đã đầy” trước ánh sáng của tạo
hóa ban cho. Đối với Xuân Diệu, không có một tình yêu nào là tình yêu hời hợt. Đã
yêu, đã thương, đã say thì phải giao cảm tuyệt đối, phải thực sự quyện hòa vào
nhau để được đã đầy và no nê trong hơi men cuộc sống. Nàng Xuân với sắc đẹp và
sự trẻ trung của mình đã thu hút được trái tim khao khát của người thi sĩ, khiến ông
muốn thâu tóm cả “trời đất, và cây, và cỏ rạng” – sự lặp lại tưởng chừng như thừa
thãi đó lại là một màn kết tuyệt đẹp trong khát vọng yêu được mãnh liệt của nhà thơ.
Và đúng như Khrapchenko từng nói: “Điều còn lại của nhà văn là cái giọng của riêng
mình” – Xuân Diệu, thi sĩ của những nỗi niềm tình cảm mãnh liệt, đã gieo vào lòng
người những xúc cảm rất mực dào dạt như thế, đã khắc vào lòng người một dấu
triện rất riêng. Và rồi lầu thơ của ông cứ cao lên mãi, bởi nó được xây dựng từ khao
khát yêu đương và giao cảm, và khao khát đó chưa bao giờ thôi bùng cháy.
Tuy văn chương là lĩnh vực của sự sáng tạo, nó không cho phép có sự lặp lại, giống
nhau nhưng kì lạ thay giữa những người nghệ sĩ lại có một sự đồng điệu giao cảm.
Cả “Sóng” và “Vội vàng” đều là tiếng nói của một cái tôi giàu cảm xúc với khát khao
giao cảm với đời, với người. Cùng với đó là khát vọng yêu đương cháy bỏng của
những trái tim giàu khao khát yêu đương với cuộc đời, những xúc cảm dào dạt và
bùng cháy. Và “không khó lối đi nào chung cho hai nhà thơ cả” – mỗi bài thơ đều
mang theo những thông điệp độc đáo, mang đậm dấu ấn cá nhân người nghệ sĩ.
Nếu như “Sóng” thể hiện một tình yêu đầy nữ tính, khát khao dâng hiến, tận hiến và
bất tử hóa với tình yêu thì “Vội vàng” lại đưa ta đến một quan niệm sống rất hiện đại:
sống vội vàng, sống cuống quýt để tận hưởng hết thảy mọi vẻ đẹp trên đời và bởi vì
tuổi trẻ chẳng có cơ hội thắm lại lần hai. Có thể nói rằng “Sóng” như một bản giao
hưởng tình yêu còn “Vội vàng” là khúc vĩ thanh về khát vọng sống vội vã với cuộc đời tươi đẹp.
Chẳng hẹn mà gặp, hai người nghệ sĩ đã thổi hồn mình vào những trang thơ với xúc
cảm dào dạt và mãnh liệt. Một Xuân Quỳnh với trái tim yêu đầy nữ tính, một Xuân
Diệu với sự hối hả và mãnh liệt trong cảm xúc – mỗi người đều đã ghi tên mình vào
dòng chảy của thời gian, của lòng người. Những áng thơ của họ sẽ còn sống mãi với thời gian. Bài làm mẫu 3
Qua tiếng hát anh nhận ra người hát.
Qua nét khắc anh nhận ra người thợ bạc”
(“Dagestan của tôi”)
Như những dấu vân tay duy nhất, mỗi người nghệ sĩ đều có cho mình một “vân chữ”
độc nhất, không giống bất cứ ai. Vì thế, dẫu cùng dưới một bầu trời, hít một bầu
không khí, dẫu chung một đề tài thì cuộc sống dưới con mắt của những người nghệ
sĩ cũng không bao giờ là trùng lặp. Có thể thấy điều đó trong cái nhìn về tình yêu
qua con mắt của Xuân Quỳnh:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ” (“Sóng”) Vơi Xuân Diệu lại là: “Tôi muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Thơ ca, với Xuân Quỳnh, gắn liền với sự sống, tình yêu; làm thơ là nữ sĩ được sống
với chính mình, sống đủ đầy trọn vẹn là mình. Mỗi bài thơ đều là tiếng nói chân
thành nhất của một tâm hồn phụ nữ giàu trắc ẩn, vừa âu lo vừa da diết trong khát
vọng hạnh phúc đời thường. Bài thơ “Sóng” là kết quả của chuyến đi thực tế ở vùng
biển Diêm Điền – Thái Bình cuối năm 1967, được đưa vào tập thơ “Hoa dọc chiến
hào” (1968). “Sóng” với “em”, hai mà như một, một trong hai, song hành cùng nhau
để thể hiện sâu sắc nhất cảm xúc của chủ thể trữ tình.
Trong tình yêu, người con gái cũng có lúc âu lo: “Cuộc đời tuy dài thế/ Mây vẫn bay
về xa” nhưng cuối cùng vẫn chọn cách tin tưởng:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
“Tan ra”- đó là khát vọng được hóa thân vào sóng để được tồn tại trong không gian
rộng lớn của biển cả và cái vĩnh hằng của thời gian. Đó là khát vọng vĩnh viễn hóa
tình yêu, dùng tình yêu để nối dài cuộc đời ngắn ngủi của con người. Khát vọng ấy
lại làm ta nhớ tới câu chuyện nàng tiên cá hóa thân làm bọt biển để người mình yêu
được hạnh phúc trọn vẹn. Câu hỏi “Làm sao...” như một sự khắc khoải khôn nguôi
trong lòng người phụ nữ. Đến hai câu thơ sau, từ con sông buổi nào, người phụ nữ
đã tìm được biển lớn của đời mình. Nhưng phải làm sao để giữa biển lớn tình yêu
ấy, em vẫn có thể thấy được con sóng tính yêu của chúng ta? Ước vọng được hóa
thân, được níu giữ vĩnh viễn tình yêu tươi đẹp càng trở nên thiết tha. Phải chăng đó
là bản tính hi sinh và dâng hiến của người phụ nữ?
Mở đầu bài thơ là sự mạnh mẽ, chủ động tìm đến hạnh phúc, kết thúc lại bằng sự hi
sinh, yêu thương vô bờ. Mở đầu bài thơ là khát vọng được làm rõ mình, kết thúc lại
bằng khát vọng được hòa mình của người phụ nữ. Mở đầu bài thơ là ước vọng về
hạnh phúc đến cuối bài thơ chính là hành động để tạo dựng và gìn giữ hạnh phúc
ấy. Sự song hành hình tượng sóng và em đã khắc họa vẻ đẹp vừa dịu dàng, tinh tế
vừa chủ động, mãnh liệt, vừa truyền thống vừa hiện đại của một tình yêu chân
thành. Đó là một quá trình biến đổi hết sức tự nhiên và cũng đầy can đảm, cao đẹp
trong phẩm chất, vẻ đẹp của người phụ nữ. Từ đó, cũng tạo nên sự khác biệt trong
giọng điệu: từ những câu thơ ngắt nhịp nhanh, giọng thơ tự tin, dứt khoát đến
những câu thơ nhẹ nhàng, du dương như tiếng đại dương rì rào sóng vỗ, không
nghe rõ thanh âm những vang vọng đến mãi về sau. Với Xuân Quỳnh, thơ là sống,
sống là thơ. Nếu nói thơ là chuyện “rút ruột rút gan mình” mà viết, Xuân Quỳnh
chính là người như thế. Cứ hết mình sống, hồn nhiên viết, trút trọn vẹn cái tôi của
mình vào mỗi thi phẩm, thi tứ, mỗi thi ảnh, thi điều đó là cách thơ Xuân Quỳnh.
Không mặt nạ, không son phấn, không vay mượn, không lên gân, Xuân Quỳnh đã gửi mình vào thơ. Với Xuân Diệu, lại là: “Tôi muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Đoạn thơ tám chữ bỗng gây chú ý, độc đáo với câu thơ ba chữ: “Tôi muốn ôm”
khiến cho giọng thơ trở nên đanh lại, mạnh mẽ, biểu đạt mong muốn, yêu cầu được
thực hiện hành động. Từ cái “tôi” cô đơn mà cũng kiêu hãnh ở dòng trên đã chuyển
thành cái “ta”. Trong cái “ta” vẫn là cái “tôi” kiêu hùng của nhà thơ nhưng còn là biết
bao cái “tôi” của mỗi độc giả. Đúng thế. Đừng trước “sự sống mới bắt đầu mơn
mởn” nhưng lại nhận thức được “Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua”, “Xuân còn
non nghĩa là xuân sẽ già” sao khỏi những nuối tiếc, xót xa. Tuổi trẻ phải là yêu, là
sống hết mình để níu giữ thời gian, để tận hưởng sự sống tràn đầy này. Cấu trúc “Ta
muốn” cùng với một loạt những động từ mạnh: “ôm, say, thâu, cắn” đã thể hiện
được ước muốn, sự tận hưởng trọn vẹn ấy. Giọng thơ nhanh để theo kịp với những
ước muốn kia với một loạt các biện pháp liệt kê. Tưởng như ta càng tận hưởng,
càng tiếp nhận ta lại càng cảm thấy được cuộc sống càng tươi đẹp và ý nghĩa hơn.
Đến cuối cùng là câu cảm thán: “- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!” Lần đầu
tiên, xuân hồng lại được hữu hình hóa để có thể “cắn” được. Động từ “cắn” đã thể
hiện cao nhất ước muốn được giao hòa với thiên nhiên của Xuân Diệu. Với Xuân
Diệu, tất cả không được mơ hồ, phải là cảm giác chân thực. Bởi thế, Thế Lữ mới
viết về ông là “Con người của trần thế. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một
tấm lòng trần gian”. Trong câu thơ, ông Tây tân kì Xuân Diệu cũng đã vận dụng
phép tương giao giữa các giác quan- thủ pháp tiêu biểu của các nhà thơ Tượng trưng Pháp.
Với Xuân Diệu, cuộc sống thực tại mới là tươi đẹp và đáng sống nhất. Ông đón
nhận cuộc sống bằng tất cả tình yêu, sự nồng nhiệt nhất. Nhưng nhận ra quy luật
nghiệt ngã của thời gian, ông sống tận hưởng hết mình, yêu hết mình. Đó mới chính
là Xuân Diệu, luôn thiết tha, rạo rực, băn khoăn.
Đối với tình yêu, cả Xuân Quỳnh và Xuân Diệu luôn chân thành và nồng thắm nhất,
có khát vọng được vĩnh viễn hóa tình yêu. Nhưng hướng tới tình yêu đôi lứa, Xuân
Quỳnh lựa chọn dâng hiến hết mình, hòa mình để có thể vĩnh hằng tình yêu đẹp ấy.
Đó chính là đức tính hy sinh, là thiên tính nữ trong thơ nữ sĩ, là vẻ đẹp muôn đời của
những áng thơ nữ Việt Nam. Còn với tình yêu cuộc sống, Xuân Diệu chọn cách tận
hưởng hết mình để vĩnh viễn hóa tuổi trẻ tươi đẹp một đi không trở lại. Đó chính là
cách ứng xử của phương Tây dành cho cuộc sống, cho tình yêu. Mỗi cách ứng xử
khác nhau với tình yêu, chúng ta lại thêm được những cảm nhận và tình cảm khác nhau.
Đến với mỗi trang viết là một thế giới mở ra, không lặp lại, không giản đơn. Điều đó
làm cho văn học dẫu ra đời từ thời của Homere, Kinh thi nhưng sẽ tồn tại với ta đến
ngày tận thế, dù là vật không thể mua cũng chẳng thể bán nhưng lại là thứ không
thể thiếu trong đời sống con người để ta sống tốt, sống đẹp hơn.
3. So sánh Sóng và Vội vàng (2 Mẫu) Bài làm mẫu 1
Tình yêu và khát vọng luôn là những "nguyên tố" cần thiết trong cuộc đời mỗi con
người. Bởi chỉ khi khao khát yêu và được yêu, khát khao khát sống và trân quý cuộc
sống thì đó mới chính làm nên giá trị của cuộc sống. Và có lẽ vì vậy, hơn ai hết, mỗi
nhà thơ, những con người thiết tha với cuộc đời và nhạy cảm trước thời cuộc lại
càng hiểu rõ hơn điều đó. Bởi vậy, mà có những vần thơ được viết ra như thay lời
muốn nói cho bao kiếp người, bao tình cảm thiết tha và mãnh liệt của con người
muốn được thể hiện. "Sóng" và "Vội vàng" là những bài thơ như thế, những bài thơ
của khát vọng tình yêu, khát vọng sống và cống hiến.
Cả Xuân Quỳnh và Xuân Diệu đều ý thức rất lớn về sự chảy trôi của thời gian, dù
muốn nhưng vẫn không thể ngưng lại sự chảy trôi ấy.
"Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi quá"
Cuộc đời có dài thật, nhưng thời gian nào có chậm, vẫn lặng lẽ vụt qua rút ngắn cái
hữu hạn của đời người. Đó là nỗi lo âu trước thời gian, nỗi ngậm ngùi trước năm
tháng cuộc đời, vừa lo sợ, lại vừa luyến tiếc.
"Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa"
Biển kia có rộng và bao la vô tận cũng không thể ngăn cản được mây bay, cả hai
vẫn chẳng thể nào gặp gỡ. Và Xuân Diệu cũng thế, cũng lo sợ trước thời gian, cũng vội vàng, cuống quýt:
"Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,"
Ông lo sợ trước tuổi trẻ rồi sẽ dần qua đi, sau tất thảy còn lại sự luyến tiếc, ngậm
ngùi mà thôi. Thời gian vốn vẫn vậy, cứ chảy dài, mùa xuân vẫn vậy, cứ tuần hoàn,
tới rồi đi, để rồi người chợt nhận ra thanh xuân không còn mãi, tuổi tác ngày một lớn
thêm và khi xuân hết nghĩa là tôi cũng mất. Càng nhận ra thời gian không chờ đợi ai,
càng nhận ra sự ngắn ngủi của cuộc đời của tuổi trẻ. Tác giả lại càng ý thức được
việc sống của mình hơn, lại càng khát khao yêu và khát khao sống để không phải
hối tiếc cuộc đời, hối tiếc về những năm tháng đã qua. Xuân Quỳnh mang mối tình
đằm thắm, chân thành, một mối tình mãnh liệt của một người con gái vốn e dè, ngại
ngùng, nhưng vẫn thể hiện được sự dũng cảm trong tình yêu:
"Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Của biển lớn tình yêu
Để ngàn năm vẫn vỗ"
Một con sóng thôi làm sao có thể làm nên đại dương bao la, mà con sóng ấy phải
hoà cùng nhịp điệu của biển sóng, của muôn ngàn con sóng mãnh liệt, vỗ bờ đến
biển lớn. Sóng được hoà mình du ngoạn giữa đại dương để mãi mãi trường tồn, bất
tử, ngàn năm sóng vẫn vỗ, vẫn đến bên bờ. Cũng như tình yêu của em dành cho
anh, không thể giữ cho riêng mình được, phải là tình yêu lớn như biển cả kia, mênh
mông như đại dương kia, phải là tình yêu của hai ta, của nhân loại, của người người
trên thế gian. Đó không chỉ là biển của thiên nhiên mà còn là biển của tình yêu, là
đại dương của tình yêu và tình yêu ấy mãi mãi trường tồn, bất tử, không hữu hạn
như đời người, kiếp người. Một khát khao yêu thật cao đẹp và đầy phi thường. Tình
yêu dường như là một khát vọng vĩnh hằng, rất đỗi mãnh liệt, thổn thức trong trái tim
mỗi con người, trong trái tim tuổi trẻ.
Và Xuân Diệu cũng như thế, ông càng lo sợ thời gian, càng nhận ra đời người ngắn
ngủi, hữu hạn lại càng cuống quýt, hối hả, thúc giục con người sống vội hơn để chạy
đua với thời gian, để tận hưởng những tinh túy, tươi đẹp của đất trời. Để tận hưởng
hương sắc tuyệt mỹ của cuộc đời. Đó là khát khao được thực hiện những điều kì lạ,
những ước muốn lạ lùng để giữ trọn vẹn nhất vẻ đẹp của tạo hóa để nắng không thể
tàn và hương hoa chẳng vội mất đi: Bài làm mẫu 2
Xuân Diệu và Xuân Quỳnh được làm là hai trong số các nhà thơ nổi bật của thơ ca
hiện đại. Nếu Xuân Diệu được mệnh danh là ông hoàng thơ tình thì Xuân Quỳnh
được mệnh danh là bà chúa thơ tình yêu. Ở hai hồn thơ này ta bắt gặp hơi thở tình
yêu dạt dào và lòng ham sống mạnh mẽ.
Xuân Diệu từ lâu đã được xem là một trong ba đỉnh cao của phong trào Thơ mới giai
đoạn năm 1932 – 1945. Ông được đánh già là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ
Mới” vì cách sử dụng ngôn từ cũng như cảm hứng thi ca. Khác với những nhà thơ
trong cùng giai đoạn thơ của Xuân Diệu không tuân theo cảm hứng dân tộc mà theo
cảm hứng lạng mạn. Ông tập trung thể hiện cái tôi cá nhân và lòng ham sống. “Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn.
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi.”
Cá tôi mãnh liệt của tác giả được thể hiện rõ ràng qua cụm từ “ta muốn”. Ta là đại từ
thể hiện cái tôi cá nhân khẳng định chủ thể khác biệt hoàn toàn với chúng tôi, chúng
ta đang thịnh hành. Đoạn thơ được xem là một tuyên ngôn sống của tác giả tự xác
định thái độ sống gấp muốn tận hưởng và cảm nhận cái hữu hạn của cuộc đời.
Xuận Diệu muốn ôm từ “sự sống mới bắt đầu mơn mởn” là những thứ nhỏ bé nhất
như hạt mầm. Và “riết” những thứ siêu nhiên là “mấy đưa và gió lượn”. Tiếp theo là
say trong những “cánh bướm với tình yêu” và “một cái hôn nhiều”. Và tất cả “non
nước, cây, cỏ rạng” những thứ trên mặt đất đang tồn tại. Để cho cơ thể chếnh
choáng mùi thơm cho đã đầy ánh sáng và cho no nê thanh sắc của thời tươi. Với
hàng loạt các động từ mạnh như “ôm”, “riết”. “thâu”, “say”. “chếnh choáng”, “no nê”
đủ thấy lòng ham muốn chiếm lĩnh sự sống của tác giả lớn như thế nào. Qua đoạn
thơ này cho thấy Xuân Diệu không chỉ muốn sống một cách thông thường mà muốn
sống nhanh sống gấp sống làm sao tận hưởng được hết những mật ngọt của sự sống.
Một nhà thơ nữa tiêu biểu cho cảm hứng lãng mạn và lòng ham sống của con người
đó là Xuân Quỳnh. Nhà thơ nữ hiếm hoi là gương mặt tiêu biểu cho thế hệ thơ trẻ
của thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Thơ của Xuân Quỳnh mang đậm vẻ đẹp nữ tính,
vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu nhạy cảm. Đoạn thơ trích trong tác phẩm
“Sóng” dưới đây thể hiện rõ nhất phong cách thơ của bà:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.”
Đối với Xuân Quỳnh thì tình yêu được xem là lẽ sống. Nhưng tình cảm không chỉ
hữu hạn trong cái tôi nhỏ bé mà còn được hòa mình vào biển lớn tình yêu của nhân loại. Bà ước mong:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ”
Từ “trăm con sóng nhỏ” này hòa mình vào với “biển lớn tình yêu” đấy là cách biến
tình yêu trở thành bất tử. Và tình yêu thương từ đó sẽ lan tỏa đến mọi nơi trên thế
giới mang đến cho con người một thế giới bình yên và hòa bình cho nhân loại.
Thông qua việc phân tích hai đoạn thơ trên của hai tác giả Xuân Diệu và Xuân
Quỳnh ta thấy cả hai đều bộc lộ cảm xúc mãnh liệt và những suy ngẫm trước cuộc
đời rộng lớn. Họ đều thể hiện lòng ham sống mạnh mẽ muốn được hòa mình vào
cuộc sống chung của nhân loại.
Nhưng điểm khác biệt là nếu như thì nằm ở cách thể hiện cái tôi cá nhân. Nếu ở
Xuân Diệu ta thấy sự mạnh mẽ nam tính thì ở Xuân Quỳnh ta lại thấy sự nhẹ nhàng,
nữ tính. Những câu thơ của Xuân Diệu đọc lên cảm nhận được cái tôi mãnh liệt
muốn khẳng định ước mướn lòng ham sống của bản thân. Thì những câu thơ của
Xuân Quỳnh lại rất nhẹ nhàng đầy thủ thỉ, tâm tình.
Xuân Diệu chọn cách sống gấp gáp để hưởng thụ được hết những hoa thơm trái
ngọt trên cuộc đời. Còn Xuân Quỳnh thì lại có ước muốn được hòa mình vào đời
sống chung của nhân loại. Từ cái tôi nhỏ bé tiến đến cái ta ngoài biển lớn tình yêu.
Thông qua hai đoạn thơ trên đây chúng ta cảm nhận được lòng ham sống và cái tôi
vô cùng lãng mạn của Xuân Diệu và Xuân Quỳnh. Mặc dù, họ sinh ra ở hai thời
điểm, hai thế hệ khác nhau nhưng họ đều có chung một cái tôi lãng mạn và lòng tin
yêu mãnh liệt đối với cuộc đời.
4. So sánh 2 tác phẩm Sóng và Vội vàng Bài làm mẫu 1
Trong muôn lời thơ tiếng hát của “cây đàn muôn điệu” về đề tài tình yêu, nền văn
học Việt Nam ta may mắn có được hai đại biểu thơ tình xuất sắc: Một Xuân Diệu –
đại diện cho sự khát khao mãnh liệt, sôi nổi- ồn ào, vồ vập – đắm say và một Xuân
Quỳnh – đại diện cho những tình cảm đôn hậu, đằm thắm, đầy nữ tính nhưng cũng
không kém phần mãnh liệt. Giá trị thơ tình Xuân Diệu, Xuân Quỳnh đã được khẳng
định qua thời gian và qua những người yêu thơ. Ở mọi thời đại, thơ tình Xuân Diệu,
Xuân Quỳnh đều được đông đảo bạn đọc đón nhận, đặc biệt là giới trẻ, những
người biết yêu và biết trân trọng tình yêu. Hai đoạn thơ sau đây trong hai thi phẩm
“Vội vàng” và “Sóng” sẽ giúp ta nhận ra những giá trị ấy.
Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ nữ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà
thơ trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một
tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn vừa chân thành đằm thắm và
luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. “Sóng” là bài thơ tình
yêu đặc sắc của Xuân Quỳnh, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”.
Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ Mới” (Hoài Thanh). Ông được
giới trẻ tấn phong là “Ông hoàng của thi ca tình yêu”. Ông mang đến cho thơ ca
đương thời một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, thể hiện một quan niệm
sống mới mẻ cùng với những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo. Ông là nhà thơ của
tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ với giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời thắm thiết.
“Vội vàng” được trích trong tập “Thơ Thơ” là một trong những bài thơ hay nhất của
Xuân Diệu trước cách mạng.
Đoạn thơ trong bài Sóng của Xuân Quỳnh thể hiện cái tôi đầy những âu lo, trắc ẩn
nhưng cũng dồn chứa bao khát vọng tình yêu “bồi hồi trong ngực trẻ”: Nhà phê bình
Chu Văn Sơn khi nghiên cứu về thơ Xuân Quỳnh đã có nhận định tinh tế: “Ở đó, trái
tim thơ Xuân Quỳnh là cánh chuồn báo bão cứ chao đi chao về, mệt nhoài giữa biến
động và yên định, bão tố và bình yên, chiến tranh và hòa bình,…”. Quả thật như thế,
mới ở khổ thơ trước chị viết với tất cả niềm tin yêu vô bến bờ với những cảm xúc
tình yêu nồng nàn trong sự dào dạt của sóng xô bờ và nỗi nhớ người mình yêu tràn