Văn mẫu lớp 6 Chân trời sáng tạo bài đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ lục bát Ngắn gọn, Hay nhất

Văn mẫu lớp 6 Chân trời sáng tạo bài đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ lục bát Ngắn gọn, Hay nhất được trình bày khoa học, chi tiết qua đó giúp các bạn có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay và sáng tạo. Các bạn xem và tải về ở bên dưới.

Đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ lục bát Ngắn gọn, Hay nhất
1. Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ lục bát Ngắn nhất (11 mu)
Đoạn văn thhiện cảm xúc về một bài thơ lục bát Siêu ngắn Mẫu 1
Bảo vâng, gọi dạ, con ơi,
Vâng lời sau trước, con thời chớ quên.
Công cha, nghĩa mẹ, khôn đền,
Vào thưa, ra gửi, mới nên con người.
Đó là bài ca dao mà em vô cùng yêu thích. Bài thơ với cách ngắt nhịp gãy gọn, lối
diễn đạt như văn xuôi mang vần điệu đặc trưng của ca dao. Toàn bài thơ như lời
dặn dò trìu mến của bậc cha mẹ dành cho con cái. Lời nói ấy nhắn nhủ tới người
làm con, phải biết kính yêu, trân trọng và hiếu kính với cha mẹ. Công ơn cha mẹ to
hơn trời bể, chẳng gì sánh được. Vì vậy, con càng phải biết yêu thương cha mẹ của
mình nhiều hơn. Những tình cảm thân thuộc ấy, khiến em càng thêm cảm nhận rõ
ràng tình yêu, quan tâm dẫn dắt của cha mẹ dành cho mình. Và càng thêm hiểu
được bổn phận của người làm con.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ lục bát Ngắn nhất Mẫu 2
Trong kho tàng ca dao lục bát, em đặc biệt yêu thích câu thơ:
Nói lời phải giữ lấy lời
Đừng như con bướm đậu rồi lại bay.
Hình ảnh so sánh giữa lời nói và con bướm khiến em rất thích thú. Tác giả dân gian
mượn hình nh con bướm chập chờn, đậu rồi lại bay, không để lại dấu vết gì. Để phê
phán những người chỉ thích nói chứ không thích giữ lời hứa. Lời nói của họ như con
bướm, nói ra rồi lại bay đi mất, chẳng giữ lại được gì, chẳng thực hiện được những
mình nói. Qua hình ảnh ấy, ông cha ta nhấn mạnh với con cháu bài học về chữ
“tín”, nói được thì phải làm được. Bài học giá trị ấy được gói gọn trong hai câu thơ
lục bát, vừa dễ nhớ lại vừa dễ nghe.
Đoạn văn thhiện cảm xúc về một bài thơ lục bát Ngắn gọn mẫu 3
Ông cha thường nói:
Tốt gỗ hơn tốt nước sơn
Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người
Tác giả dân gian đã khéo léo mượn hình ảnh cột nhà với hai bộ phận là gỗ nước
sơn, để nói về phẩm chất con người. Ông cha ta nhấn mạnh, một cây cột đúng nghĩa
thì chất lượng gỗ quan trọng hơn lớp sơn bên ngoài. Từ đó ẩn dụ rằng làm người thì
phẩm chất, tính cách, tài năng bên trong quan trọng hơn vẻ đẹp phù phiếm của ngoại
hình bên ngoài. Ý kiến ấy được tác giả khẳng định qua hình ảnh so sánh câu thơ
thứ hai. Từ so sánh “còn hơn” đã thể hiện sự đánh giá cao tuyệt đối của người xưa
về giá trị nội tại của con người. Từ đó, ông cha khuyên răn chúng ta nên xây dựng
phẩm chất tốt, trau dồi rèn luyện trí tuệ, năng thay vì chỉ đề cao vẻ đẹp ngoại
hình bên ngoài. Cho đến nay, bài học ấy vẫn còn vẹn nguyên giá trị.
2. Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc của em về một bài thơ lục bát lớp 6 Hay nhất
Đon văn ghi li cm xúc ca em về một bài thơ lc bát Mu 1
Trâu ơi ta bảo trâu này:
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cấy cày giữ nghiệp nông gia,
Ta đây trâu đấy, ai quản công.
Bao giờ cây lúa còn bông,
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
“Trâu ơi ta bảo trâu này” bài ca dao em yêu thích nhất. Với thể thơ lục bát
mang vần điệu nhịp nhàng, bài thơ là lời tâm sự của người nông dân với người bạn
nghiệp của mình con trâu. Người nông dân đối xử với con trâu bằng tình yêu
thương, quý mến như người thân của mình. Anh tâm tình thủ thỉ với trâu, gọi trâu đi
cày với mình. Anh không quên nhắn nhủ về những ngày tháng tương lai tốt đẹp phía
trước khi trâu làm việc chăm chỉ. Vừa hứa hẹn rằng, khi mình lúa để ăn thì trâu
cũng sẽ cỏ ngoài đồng. Chi tiết đó cho thấy mối quan hệ gắn kết, yêu thương nhau
giữa người và trâu. Từ đó, bài ca dao khẳng định sự chăm chỉ lao động, tốt bụng và
yêu thương con vật của người nông dân xưa. Hình ảnh người nông dân Việt Nam
xưa đã đi vào thơ ca như thế đó.
Viết đon văn ghi li cm xúc ca em về một bài thơ lc bát Mu 2
Lúc còn bé, em thường được bà dạy cho các bài học ý nghĩa qua các bài ca dao.
Trong đó em nhớ nhất là bài ca dao”
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới đạo con.
Bài ca dao sử dụng thể thơ lục bát với vần điệu nhịp nhàng, đã giúp em nhớ ngay từ
những lần đọc đầu tiên. Công cha và nghĩa mẹ vốn là điều chỉ có thể cảm nhận chứ
không thể sờ hay nắm được. vậy, để cụ thể hóa những điều đó, tác giả dân gian
đã so sánh với hai sự vật hữu hình quen thuộc là núi Thái Sơn và nước trong nguồn.
Hai sự vật ấy đều cùng to lớn, đồ sộbất tận, chẳng sánh được. Từ đó, ẩn dụ
cho công ơn trời bể của mẹ cha dành cho con cái. Hiểu được điều đó, người con cần
phải biết báo đáp công ơn cha mẹ. Lời thơ không nhắc cụ thể về điều người con cần
làm, bởi chính chúng ta sẽ tự hiểu được bản thân mình cần phải làm những gì. Chỉ
cần làm cho cha mẹ vui lòng, hạnh phúc tự hào về chúng ta thì đó chính tròn
đạo hiếu. Bài học đó thấm nhuần vào tư tưởng của em từ khi còn rất bé. Và lúc nào
em cũng tự nhủ mình phải học tập, rèn luyện chăm chỉ để xứng đáng với công lao
của mẹ cha.
Đon văn ghi li cm nghĩ ca em về một bài thơ lc bát Mu 3
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần
Bài thơ trên được viết với thể thơ lục bát với tip Ai ơi quen thuộc, đã nhanh
chóng đi vào tiềm thức của người nghe. Bài thơ bắt đầu bằng cụm từ Ai ơi, đã tạo
nên một hiệu ứng, lôi kéo sự tập trung lắng nghe của người khác về nội dung tiếp đó
của bài thơ. Tuy không từ như, nhưng câu thơ thứ hai đã tự chia thành hai vế
tương xứng, đặt lên bàn cân với vị thế tương đương nhau. Mỗi hạt cơm dẻo thơm,
ngọt bùi, lại ứng với những giọt đắng cay vất vả của người nông dân. Để làm nên
lúa gạo, họ phải bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, vất vả quanh m suốt tháng.
Chính thế, chúng ta phải biết quý trọng, nâng niu lúa gạo, không được phung phí.
Bài học ý nghĩa ấy chính nội dung chính mà tác giả dân gian muốn truyền tải qua
bài ca dao Ai ơi bưng bát cơm đầy.
Viết đon văn ghi li cm nghĩ ca em về một bài thơ lc bát Mu 4
Trong đầm đẹp bằng sen,
xanh, bông trắng lại chen nhị vàng.
Nhị vàng bông trắng xanh,
Gần bùn chẳng hôi tanh mùi bùn
Những câu thơ lục bát ấy, dường như ai ai cũng thuộc, cũng nhớ. Hình ảnh đóa sen
trắng thanh khiết, trong trẻo đã đi sâu vào ức của mọi người. Ngay câu thơ đầu,
tác giả dân gian đã khẳng định vị trí “khó ai sánh bằng” của hoa sen trong đầm. Hình
ảnh hoa sen được miêu tả từ ngoài vào trong, với ba gam màu xanh, trắng, vàng, lần
lượt từ lá, cánh hoa, đến nhị hoa. Đó đều những màu sắc rực rỡ, sáng tươi. Đặc
biệt, câu thơ thứ ba, những chi tiết ấy lại được điệp thêm lần nữa, nhưng với trật
tự đảo ngược. Khiến cho người đọc cảm nhận, được dường như đang được kiểm tra,
soi xét cho thật kĩ, từ ngoài vào trong, từ trong ra ngoài. Sau đó, chắc chắn mà khẳng
định rằng: “gần bùn chẳng hôi tanh mùi bùn”. Thứ hoa ấy, không chỉ xinh đẹp,
còn tinh khiết, tuy sống trong bùn tanh nhưng vẫn thơm hương, trong sạch. Giống
như những con người, dù hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn, như thế nào, vẫn giữ vẹn
nguyên tấm lòng trung trinh, chung thủy, chẳng một dạ hai lòng, hai trở nên xấu xa,
tồi tệ. Phẩm hạnh cao quý, đáng trân trọng ấy của con người Việt Nam, đã được tác
giả dân gian khéo léo thể hiện qua hình ảnh bông sen trong câu ca dao trên.
Đon văn ghi li cm xúc ca em về một bài thơ lc bát Mu 5
Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân
Yêu nhau như thể tay chân
Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy.
Những câu thơ trên đã được người dân ta truyền tai nhau qua bao đời như một câu
hát dân gian. Trong câu thơ, điệp từ “cùng” được lặp lại hai lần, đã khẳng định sự
gắn khăng khít giữa những người anh em. Đặc biệt, tác giả dân gian đã rất tinh tế
khi dùng hình ảnh anh em để so sánh với tay chân. Tay chân hai bộ phận
thể tách rời, nhưng luôn phối hợp nhịp nhàng với nhau để lao động, chống đỡ thể.
Anh em cũng vậy, hai con người khác nhau, nhưng sẽ luôn cạnh, cùng nhau sinh
sống, giúp đỡ, chia sẻ cho nhau. Đó chính là tình cảm ruột thịt vô cùng thiêng liêng,
đáng quý. Với nhịp điệu nhẹ nhàng, tình cảm của thể thơ lục bát, bài thơ là lời nhắn
nhủ nhẹ nhàng, thắm thiết của mẹ cha với các con của mình vtình cảm anh em
thương mến. Giúp người đọc thêm hiểu trân trọng những người anh chị em của
mình.
Đon văn ghi li cm xúc ca em về một bài thơ lc bát Mu 6
Nước non lận đận một mình,
Thân lên thác xuống ghềnh bấy nay.
Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ao kia cạn, cho gầy con?
Bài thơ trên những lời than thân của người nông dân tội nghiệp lam trong
hội xưa. Họ được như những con trắng, với cuộc đời lận đận, bấp bênh, cực.
Chẳng ngày nào mà họ được ngơi nghỉ, bình yên hưởng thụ cả. Thân cò mảnh mai,
yếu ớt, nhưng lại làm những việc nặng nhọc, vất vả. Như người nông dân ốm yếu,
thiếu thốn lại ngày ngày nai lưng ra làm việc, bán mặt cho đất bán lưng cho trời.
Thật đáng thương đắng cay làm sao. Biết đau khổ, vất vả, khốn khó như vậy,
nhưng những người nông dân ấy cũng không biết phải làm sao. Bởi với thân phận
thấp cổ bé họng như vậy thì làm sao có thể chống lại những kẻ xấu xa, độc ác, tham
lam độ ngoài kia chứ. Đến cả chỉ đích danh những kẻ đó, họ còn không thể, chỉ
dám dùng đại từ phiếm chỉ “ai” để gọi thôi. Hình ảnh “cò con” cuối bài thơ,
càng khiến người đọc thêm ám ảnh, về số phận tội nghiệp của những thế hệ mai sau.
Bài thơ với nhịp điệu nhịp nhàng của một lời ru, với nhiều điệp từ gợi lên cảm thức
yêu thương, xót xa cho thân phận tội nghiệp của người nông dân. Hình ảnh “con cò”
xuyên suốt cả bài thơ in sâu vào tâm trí người đọc về nỗi thương cảm với những số
phận bất hạnh, tội nghiệp ấy.
| 1/4

Preview text:

Đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ lục bát Ngắn gọn, Hay nhất
1. Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ lục bát Ngắn nhất (11 mẫu)
Đoạn văn thể hiện cảm xúc về một bài thơ lục bát Siêu ngắn Mẫu 1
Bảo vâng, gọi dạ, con ơi,
Vâng lời sau trước, con thời chớ quên.
Công cha, nghĩa mẹ, khôn đền,
Vào thưa, ra gửi, mới nên con người.
Đó là bài ca dao mà em vô cùng yêu thích. Bài thơ với cách ngắt nhịp gãy gọn, lối
diễn đạt như văn xuôi mang vần điệu đặc trưng của ca dao. Toàn bài thơ như lời
dặn dò trìu mến của bậc cha mẹ dành cho con cái. Lời nói ấy nhắn nhủ tới người
làm con, phải biết kính yêu, trân trọng và hiếu kính với cha mẹ. Công ơn cha mẹ to
hơn trời bể, chẳng gì sánh được. Vì vậy, con càng phải biết yêu thương cha mẹ của
mình nhiều hơn. Những tình cảm thân thuộc ấy, khiến em càng thêm cảm nhận rõ
ràng tình yêu, quan tâm dẫn dắt của cha mẹ dành cho mình. Và càng thêm hiểu
được bổn phận của người làm con.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ lục bát Ngắn nhất Mẫu 2
Trong kho tàng ca dao lục bát, em đặc biệt yêu thích câu thơ:
Nói lời phải giữ lấy lời
Đừng như con bướm đậu rồi lại bay.
Hình ảnh so sánh giữa lời nói và con bướm khiến em rất thích thú. Tác giả dân gian
mượn hình ảnh con bướm chập chờn, đậu rồi lại bay, không để lại dấu vết gì. Để phê
phán những người chỉ thích nói chứ không thích giữ lời hứa. Lời nói của họ như con
bướm, nói ra rồi lại bay đi mất, chẳng giữ lại được gì, chẳng thực hiện được những
gì mình nói. Qua hình ảnh ấy, ông cha ta nhấn mạnh với con cháu bài học về chữ
“tín”, nói được thì phải làm được. Bài học giá trị ấy được gói gọn trong hai câu thơ
lục bát, vừa dễ nhớ lại vừa dễ nghe.
Đoạn văn thể hiện cảm xúc về một bài thơ lục bát Ngắn gọn mẫu 3 Ông cha thường nói:
Tốt gỗ hơn tốt nước sơn
Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người
Tác giả dân gian đã khéo léo mượn hình ảnh cột nhà với hai bộ phận là gỗ và nước
sơn, để nói về phẩm chất con người. Ông cha ta nhấn mạnh, một cây cột đúng nghĩa
thì chất lượng gỗ quan trọng hơn lớp sơn bên ngoài. Từ đó ẩn dụ rằng làm người thì
phẩm chất, tính cách, tài năng bên trong quan trọng hơn vẻ đẹp phù phiếm của ngoại
hình bên ngoài. Ý kiến ấy được tác giả khẳng định qua hình ảnh so sánh ở câu thơ
thứ hai. Từ so sánh “còn hơn” đã thể hiện sự đánh giá cao tuyệt đối của người xưa
về giá trị nội tại của con người. Từ đó, ông cha khuyên răn chúng ta nên xây dựng
phẩm chất tốt, trau dồi và rèn luyện trí tuệ, kĩ năng thay vì chỉ đề cao vẻ đẹp ngoại
hình bên ngoài. Cho đến nay, bài học ấy vẫn còn vẹn nguyên giá trị.
2. Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc của em về một bài thơ lục bát lớp 6 Hay nhất
Đoạn văn ghi lại cảm xúc của em về một bài thơ lục bát Mẫu 1
Trâu ơi ta bảo trâu này:
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cấy cày giữ nghiệp nông gia,
Ta đây trâu đấy, ai mà quản công.
Bao giờ cây lúa còn bông,
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
“Trâu ơi ta bảo trâu này” là bài ca dao mà em yêu thích nhất. Với thể thơ lục bát
mang vần điệu nhịp nhàng, bài thơ là lời tâm sự của người nông dân với người bạn
cơ nghiệp của mình là con trâu. Người nông dân đối xử với con trâu bằng tình yêu
thương, quý mến như người thân của mình. Anh tâm tình thủ thỉ với trâu, gọi trâu đi
cày với mình. Anh không quên nhắn nhủ về những ngày tháng tương lai tốt đẹp phía
trước khi trâu làm việc chăm chỉ. Vừa hứa hẹn rằng, khi mình có lúa để ăn thì trâu
cũng sẽ có cỏ ngoài đồng. Chi tiết đó cho thấy mối quan hệ gắn kết, yêu thương nhau
giữa người và trâu. Từ đó, bài ca dao khẳng định sự chăm chỉ lao động, tốt bụng và
yêu thương con vật của người nông dân xưa. Hình ảnh người nông dân Việt Nam
xưa đã đi vào thơ ca như thế đó.
Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc của em về một bài thơ lục bát Mẫu 2
Lúc còn bé, em thường được bà dạy cho các bài học ý nghĩa qua các bài ca dao.
Trong đó em nhớ nhất là bài ca dao”
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Bài ca dao sử dụng thể thơ lục bát với vần điệu nhịp nhàng, đã giúp em nhớ ngay từ
những lần đọc đầu tiên. Công cha và nghĩa mẹ vốn là điều chỉ có thể cảm nhận chứ
không thể sờ hay nắm được. Vì vậy, để cụ thể hóa những điều đó, tác giả dân gian
đã so sánh với hai sự vật hữu hình quen thuộc là núi Thái Sơn và nước trong nguồn.
Hai sự vật ấy đều vô cùng to lớn, đồ sộ và bất tận, chẳng gì sánh được. Từ đó, ẩn dụ
cho công ơn trời bể của mẹ cha dành cho con cái. Hiểu được điều đó, người con cần
phải biết báo đáp công ơn cha mẹ. Lời thơ không nhắc cụ thể về điều người con cần
làm, bởi chính chúng ta sẽ tự hiểu được bản thân mình cần phải làm những gì. Chỉ
cần làm cho cha mẹ vui lòng, hạnh phúc và tự hào về chúng ta thì đó chính là tròn
đạo hiếu. Bài học đó thấm nhuần vào tư tưởng của em từ khi còn rất bé. Và lúc nào
em cũng tự nhủ mình phải học tập, rèn luyện chăm chỉ để xứng đáng với công lao của mẹ cha.
Đoạn văn ghi lại cảm nghĩ của em về một bài thơ lục bát Mẫu 3
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần
Bài thơ trên được viết với thể thơ lục bát với mô tip Ai ơi quen thuộc, đã nhanh
chóng đi vào tiềm thức của người nghe. Bài thơ bắt đầu bằng cụm từ Ai ơi, đã tạo
nên một hiệu ứng, lôi kéo sự tập trung lắng nghe của người khác về nội dung tiếp đó
của bài thơ. Tuy không có từ như, nhưng câu thơ thứ hai đã tự chia thành hai vế
tương xứng, đặt lên bàn cân với vị thế tương đương nhau. Mỗi hạt cơm dẻo thơm,
ngọt bùi, lại ứng với những giọt đắng cay vất vả của người nông dân. Để làm nên
lúa gạo, họ phải bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, vất vả quanh năm suốt tháng.
Chính vì thế, chúng ta phải biết quý trọng, nâng niu lúa gạo, không được phung phí.
Bài học ý nghĩa ấy chính là nội dung chính mà tác giả dân gian muốn truyền tải qua
bài ca dao Ai ơi bưng bát cơm đầy.
Viết đoạn văn ghi lại cảm nghĩ của em về một bài thơ lục bát Mẫu 4
Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng.
Nhị vàng bông trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn
Những câu thơ lục bát ấy, dường như ai ai cũng thuộc, cũng nhớ. Hình ảnh đóa sen
trắng thanh khiết, trong trẻo đã đi sâu vào kí ức của mọi người. Ngay câu thơ đầu,
tác giả dân gian đã khẳng định vị trí “khó ai sánh bằng” của hoa sen trong đầm. Hình
ảnh hoa sen được miêu tả từ ngoài vào trong, với ba gam màu xanh, trắng, vàng, lần
lượt từ lá, cánh hoa, đến nhị hoa. Đó đều là những màu sắc rực rỡ, sáng tươi. Đặc
biệt, ở câu thơ thứ ba, những chi tiết ấy lại được điệp thêm lần nữa, nhưng với trật
tự đảo ngược. Khiến cho người đọc cảm nhận, được dường như đang được kiểm tra,
soi xét cho thật kĩ, từ ngoài vào trong, từ trong ra ngoài. Sau đó, chắc chắn mà khẳng
định rằng: “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Thứ hoa ấy, không chỉ xinh đẹp,
mà còn tinh khiết, tuy sống trong bùn tanh nhưng vẫn thơm hương, trong sạch. Giống
như những con người, dù hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn, như thế nào, vẫn giữ vẹn
nguyên tấm lòng trung trinh, chung thủy, chẳng một dạ hai lòng, hai trở nên xấu xa,
tồi tệ. Phẩm hạnh cao quý, đáng trân trọng ấy của con người Việt Nam, đã được tác
giả dân gian khéo léo thể hiện qua hình ảnh bông sen trong câu ca dao trên.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc của em về một bài thơ lục bát Mẫu 5
Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân
Yêu nhau như thể tay chân
Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy.
Những câu thơ trên đã được người dân ta truyền tai nhau qua bao đời như một câu
hát dân gian. Trong câu thơ, điệp từ “cùng” được lặp lại hai lần, đã khẳng định sự
gắn bó khăng khít giữa những người anh em. Đặc biệt, tác giả dân gian đã rất tinh tế
khi dùng hình ảnh anh em để so sánh với tay chân. Tay và chân là hai bộ phận cơ
thể tách rời, nhưng luôn phối hợp nhịp nhàng với nhau để lao động, chống đỡ cơ thể.
Anh em cũng vậy, là hai con người khác nhau, nhưng sẽ luôn ở cạnh, cùng nhau sinh
sống, giúp đỡ, chia sẻ cho nhau. Đó chính là tình cảm ruột thịt vô cùng thiêng liêng,
đáng quý. Với nhịp điệu nhẹ nhàng, tình cảm của thể thơ lục bát, bài thơ là lời nhắn
nhủ nhẹ nhàng, thắm thiết của mẹ cha với các con của mình về tình cảm anh em
thương mến. Giúp người đọc thêm hiểu và trân trọng những người anh chị em của mình.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc của em về một bài thơ lục bát Mẫu 6
Nước non lận đận một mình,
Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.
Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?
Bài thơ trên là những lời than thân của người nông dân tội nghiệp lam lũ trong xã
hội xưa. Họ được ví như những con cò trắng, với cuộc đời lận đận, bấp bênh, cơ cực.
Chẳng ngày nào mà họ được ngơi nghỉ, bình yên hưởng thụ cả. Thân cò mảnh mai,
yếu ớt, nhưng lại làm những việc nặng nhọc, vất vả. Như người nông dân ốm yếu,
thiếu thốn lại ngày ngày nai lưng ra làm việc, bán mặt cho đất bán lưng cho trời.
Thật đáng thương đắng cay làm sao. Biết là đau khổ, vất vả, khốn khó như vậy,
nhưng những người nông dân ấy cũng không biết phải làm sao. Bởi với thân phận
thấp cổ bé họng như vậy thì làm sao có thể chống lại những kẻ xấu xa, độc ác, tham
lam vô độ ngoài kia chứ. Đến cả chỉ đích danh những kẻ đó, họ còn không thể, chỉ
dám dùng đại từ phiếm chỉ “ai” để gọi mà thôi. Hình ảnh “cò con” ở cuối bài thơ,
càng khiến người đọc thêm ám ảnh, về số phận tội nghiệp của những thế hệ mai sau.
Bài thơ với nhịp điệu nhịp nhàng của một lời ru, với nhiều điệp từ gợi lên cảm thức
yêu thương, xót xa cho thân phận tội nghiệp của người nông dân. Hình ảnh “con cò”
xuyên suốt cả bài thơ in sâu vào tâm trí người đọc về nỗi thương cảm với những số
phận bất hạnh, tội nghiệp ấy.