



















Preview text:
Dàn ý kể lại một truyện cổ tích Dàn ý chi tiết 1. Mở bài
Dẫn dắt, giới thiệu về truyện cổ tích mà em sẽ kể.
Gợi ý: Kho tàng truyện cổ tích có rất nhiều truyện đặc sắc. Một trong những câu
chuyện hay, là truyện cổ tích Sọ Dừa. 2. Thân bài
Kể lại diễn biến của câu chuyện với các sự việc lần lượt xảy ra như sau: Gợi ý:
- Ở làng nọ, có hai vợ chồng đi ở cho nhà phú ông. Họ tốt bụng, chăm chỉ nhưng
ngoài năm mươi vẫn chưa có con.
- Một hôm, bà vợ vào rừng lấy củi, khát quá mà không tìm thấy suối. Bà nhìn thấy
cái sọ dừa bên gốc cây đựng đầy nước mưa liền bưng lên uống.
- Về nhà bà có mang. Chẳng bao lâu người chồng qua đời. Bà sinh ra một đứa bé
không chân không tay tròn như một quả dừa. Bà toan vứt đi thì đứa con bảo mình là
người. Thương con, bà giữ lại nuôi và đặt tên nó là Sọ Dừa.
- Lớn lên, Sọ Dừa chẳng khác gì lúc nhỏ. Thấy mẹ than phiền chẳng giúp được việc
gì, Sọ Dừa liền xin đi chăn bò thuê ở nhà phú ông.
- Đến mùa gặt, tôi tớ ra đồng làm cả. Ba cô con gái nhà phú ông thay phiên nhau
đưa cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị tỏ ra coi thường, chỉ có cô em út là đối đãi tử tế với Sọ Dừa.
- Cuối mùa ở, Sọ Dừa xin mẹ đem sính lễ sang hỏi cưới con gái phú ông.
- Phú ông thách cưới rất nặng, bà mẹ về nói với con, nghĩ con sẽ thôi hẳn việc đòi
lấy vợ. Nhưng Sọ Dừa dặn mẹ cứ yên tâm.
- Đúng ngày hẹn, bà mẹ vô cùng ngạc nhiên khi trong nhà có đầy đủ lễ vật mà phú ông yêu cầu.
- Trong đám cưới, mọi người không thấy Sọ Dừa đâu. Một chàng trai khôi ngô tuấn
tú xuất hiện. Ai nấy đều sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc nuối vừa ghen tức.
- Sọ Dừa và vợ sống rất hạnh phúc. Nhờ học hành chăm chỉ, chàng đỗ trạng
nguyên và được vua cử đi sứ.
- Trước khi chia tay, Sọ Dừa đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả
trứng gà, dặn phải luôn mang trong người phòng khi cần dùng đến.
- Nhân cơ hội, họ bày mưu, rủ em gái chèo thuyền ra biển chơi, rồi đẩy em xuống
nước. Nhờ có những vật mà Sọ Dừa đưa cho, cô út thoát chết, sống trên đảo hoang.
- Hai vợ chồng Sọ Dừa gặp lại nhau, trở về sống hạnh phúc. Còn hai cô chị thì trốn đi biệt sứ. 3. Kết bài
Khẳng định lại ý nghĩa của truyện cổ tích vừa kể.
Gợi ý: Truyện Sọ Dừa đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về một
chàng Sọ Dừa thông minh, tốt bụng. Qua đó, truyện còn thể hiện tấm lòng nhân ái
với những con người hiền lành, tốt bụng và niềm thương cảm với những con người bất hạnh.
Kể lại một truyện cổ tích - Sọ Dừa Bài văn mẫu số 1
Ở làng nọ có hai vợ chồng nghèo. Họ chăm chỉ, tốt bụng nhưng ngoài năm mươi rồi vẫn chưa có con.
Một hôm, người vợ vào rừng lấy củi. Trời nắng lại khát nước nhưng không tìm thấy
suối, người vợ nhìn thấy cái sọ dừa bên gốc cây to đựng đầy nước mưa, bà liền
bưng lên uống. Khi về nhà, bà có mang.
Ít lâu sau, người chống mất. Người vợ sinh ra một đứa bé không chân, không tay,
cứ tròn như quả dừa. Bà toan vứt đi thì đứa bé bảo:
- Mẹ ơi, con là người. Mẹ đừng vứt đi mà tội nghiệp!
Nghĩa thấy thương bà, bà quyết định giữ lại nuôi, đặt tên cho là Sọ Dừa. Lớn lên, Sọ
Dừa cứ lăn lông lốc trong nhà, chẳng làm được việc gì. Người mẹ thấy vậy liền than thở:
- Con người ta bảy, tám tuổi đã biết đi chăn bò. Còn mày thì chẳng làm được việc gì.
Nghe mẹ nói vậy, Sọ Dừa nói:
- Tưởng việc gì, chăn bò con cũng làm được. Mẹ cứ xin với phú ông cho con đi chăn bò.
Nghe con nói vậy, bà liền đến xin phú ông. Lúc đầu, phú ông lo ngại, chẳng biết Sọ
Dừa có chăn nổi bò. Nhưng nghĩ đến việc nuôi cơm chẳng tốn là bao, nên phú ông
liền đồng ý. Vậy là Sọ Dừa đến ở nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi. Con nào con
nấy đều no căng béo tốt. Phú ông mừng lắm.
Đến ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm việc. Ba cô con gái của phú ông phải thay phiên
nhau mang cơm ra cho Sọ Dừa. Nhưng hai cô chị luôn tỏ ra cay nghiệt, chỉ có cô út
là đối xử tử tế với Sọ Dừa. Một hôm nọ, đến lượt cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Đi
đến chân đồi, cô út nghe thấy tiếng sáo, lấy làm lạ liền rón rén bước lại gần thì thấy
một chàng trai khôi ngô đang ngồi trên chiếc võng đào mắc vào hai cành cây, thổi
sáo cho đàn bò gặm cỏ. Nghe tiếng động, chàng trai biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm
lăn lóc ở đấy. Nhiều lần như vậy, cô út biết Sọ Dừa không phải người trần, đem lòng yêu mến.
Cuối mùa, Sọ Dừa đòi mẹ đến hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà mẹ ngạc nhiên lắm,
nhưng thấy con năn nỉ nên đành bằng lòng. Bà chuẩn bị sính lễ, rồi đến nhà phú ông
thưa chuyện. Nghe xong, phú ông tỏ ra khinh bỉ.
- Muốn lấy con gái ta, phải về sắm cho đầy đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa
đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.
Người mẹ về nói với Sọ Dừa. Bà nghĩ con nghe xong sẽ từ bỏ ý định lấy vợ. Không
ngờ, Sọ Dừa lại bảo mẹ sẽ chuẩn bị đầy đủ các thứ đó. Đúng ngày hẹn, bà ngạc
nhiên khi thấy trong nhà có bao nhiêu là sính lễ, không thiếu thứ gì. Lại còn cả chục
giai nhân chạy lên khiêng lễ vật sang nhà phú ông. Thế là phú ông phải nói với bà:
- Để ta hỏi xem có đứa nào muốn lấy thằng Sọ Dừa không đã!
Phú ông gọi ba cô con gái ra hỏi ý kiến. Hai cô chị bĩu môi coi thường, còn cô út thì
đồng ý. Phú ông đành phải gả con gái cho Sọ Dừa.
Đến ngày cưới, nhà Sọ Dừa bày cỗ linh đình. Kẻ hầu người hạ ra vào tấp nập. Lúc
rước dâu, không ai thấy Sọ Dừa đâu cả. Chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú
cùng cô út đi ra. Mọi người đều mừng rỡ, chỉ có hai cô chị là ghen tức.
Vợ chồng Sọ Dừa sống với nhau hạnh phúc. Sọ Dừa đều chăm chỉ đèn sách, đỗ
trạng nguyên, được vua cử đi sứ. Trước khi chia tay, quan trạng đưa cho vợ một
hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải giắt luôn trong người phòng khi dùng đến.
Nhân cơ hội quan trạng đi vắng, hai cô chị bày kế hãm hại em gái. Họ sang nhà, rủ
em chèo thuyền ra biển, rồi đẩy em xuống nước. Một con cá kình nuốt cô em vào
bụng. Nhưng sẵn có con dao, cô em đâm chết cá, xác cá nổi lềnh bềnh trên mặt
biển, rồi dạt vào một hòn đảo. Cô khoét bụng cá để ra ngoài, lấy hai hòn đá cọ mạnh
vào nhau, bật lửa lên, rồi xẻo thịt cá nướng ăn, sống qua ngày. Hai quả trứng nở
thành đôi gà, làm bạn với cô.
Một hôm có chiếc thuyền ngang qua. Con gà trống nhìn thấy, gáy to ba lần:
- Ó… ó… o… Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Vợ chồng gặp lại nhau, vô cùng mừng rỡ. Quan trạng đưa vợ về nhà nhưng giấu
kín, không cho ai biết. Hai cô chị thấy quan trạng về, mừng thầm vì sắp được thay
cô em làm bà trạng. Họ thay nhau kể chuyện em gái gặp nạn, khóc lóc thương tiếc.
Đến khi tiệc xong, quan trạng mời vợ ra. Hai cô chị xấu hổ trốn đi biệt xứ. Bài văn mẫu số 2
Tại một làng nọ, có hai vợ chồng nghèo đi ở cho nhà phú ông. Họ chăm chỉ làm
lụng, lại tốt bụng. Nhưng tuổi đã cao mà vẫn chưa có con.
Một lần, người vợ vào rừng lấy củi cho nhà chủ. Trời nắng mà khát nước quá,
không tìm thấy suối. Bà nhìn thấy cái sọ dừa bên gốc cây to đựng đầy nước mưa,
liền bưng lên uống. Đến khi về nhà, bà có mang.
Ít lâu sau, người chống mất. Bà sinh ra một đứa bé không chân, không tay, cứ tròn
như quả dừa. Bà toan vứt đi thì đứa bé bảo:
- Mẹ ơi, con là người. Mẹ đừng vứt đi mà tội nghiệp!
Nghĩ bụng thương con, bà để lại nuôi, đặt tên cho là Sọ Dừa.
Đến khi lớn lên, Sọ Dừa chẳng khác lúc nhỏ là bao, cứ lăn lông lốc trong nhà, chẳng làm được việc gì. Một hôm, bà than phiền:
- Con người ta bảy, tám tuổi đã biết đi chăn bò. Còn mày thì chẳng làm được việc gì.
Nghe thấy vậy, Sọ Dừa liền nói:
- Tưởng việc gì, chăn bò con cũng làm được. Mẹ cứ xin với phú ông cho con đi chăn bò.
Lúc đầu, bà ngạc nhiên lắm. Nhưng thấy Sọ Dừa quả quết, bà liền đến xin phú ông.
Phú ông nghe xong, tỏ ra ngần ngại lắm, chẳng biết Sọ Dừa có chăn nổi bò. Nhưng
lại nghĩ đến việc nuôi cơm chẳng tốn là bao, nên phú ông liền đồng ý.
Từ đó, Sọ Dừa đến ở nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi. Con nào con nấy đều no
căng béo tốt. Phú ông lấy làm mừng lắm. Đến ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm việc. Ba
cô con gái của phú ông phải thay phiên nhau mang cơm ra cho Sọ Dừa. Hai cô chị
luôn tỏ ra khinh ghét, chỉ có cô út là đối xử với Sọ Dừa tử tế.
Một hôm, cô út mang cơm, đi đến chân đồi thì nghe thấy tiếng sáo. Cô thấy lạ, liền
rón rén bước lại gần thì thấy một chàng trai khôi ngô đang ngồi trên chiếc võng đào
mắc vào hai cành cây, thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Khi nghe tiếng động, chàng trai
biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm lăn lóc ở đấy.
Hết mùa ở, Sọ Dừa xin mẹ đến hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà ngạc nhiên lắm
nhưng vẫn chuẩn bị sính lễ, rồi đến nhà phú ông thưa chuyện. Nghe xong, phú ông liền nói:
- Muốn lấy con gái ta, phải về sắm cho đầy đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa
đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.
Bà buồn bã trở về nói với con, cứ nghĩ con sẽ từ bỏ hẳn việc lấy vợ. Không ngờ, Sọ
Dừa bảo mẹ hãy yên tâm. Đúng ngày hẹn, bà ngạc nhiên vô cùng khi thấy trong nhà
có bao nhiêu là sính lễ, không thiếu thứ gì. Lại còn cả chục giai nhân chạy lên
khiêng lễ vật sang nhà phú ông. Khi thấy sính lễ đầy đủ, phú ống đành phải thương lượng:
- Để ta hỏi xem có đứa nào muốn lấy thằng Sọ Dừa không đã!
Phú ông cho gọi ba cô con gái ra, hai cô chị bĩu môi coi thường, còn cô út thì đồng
ý. Phú ông đành phải gả con gái cho Sọ Dừa.
Đến ngày cưới, nhà Sọ Dừa bày cỗ linh đình. Lúc rước dâu, không ai thấy Sọ Dừa
đâu cả. Một chàng trai khôi ngô tuấn tú cùng cô út đi ra. Mọi người đều ngạc nhiên
và mừng rỡ. Hai cô chị tỏ ra ghen tức với em.
Từ đó, vợ chồng Sọ Dừa sống với nhau hạnh phúc. Sọ Dừa đều chăm chỉ đèn
sách. Chàng đã đỗ trạng nguyên, được vua cử đi sứ. Trước khi chia tay, quan trạng
đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải giắt luôn
trong người phòng khi dùng đến.
Nhân lúc quan trạng đi vắng, hai cô chị liền bày mưu hãm hại em gái. Họ sang nhà,
rủ cô út đi chèo thuyền ra biển, rồi nhân lúc cô không để ý, đẩy xuống nước. Một
con cá kình nuốt cô út vào bụng. Sẵn có con dao, cô út đâm chết cá, xác cá nổi lềnh
bềnh trên mặt biển, dạt vào một hòn đảo. Cô út khoét bụng cá để ra ngoài, lấy hai
hòn đá cọ mạnh vào nhau, bật lửa lên, rồi xẻo thịt cá nướng ăn, sống qua ngày. Hai
quả trứng nở thành đôi gà, làm bạn với cô.
Một hôm có chiếc thuyền ngang qua. Con gà trống nhìn thấy, gáy to ba lần:
- Ó… ó… o… Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Vợ chồng quan trạng gặp lại nhau mừng rỡ vô cùng. Khi trở về, Sọ Dừa cho mở tiệc
linh đình, nhưng không cho vợ xuất hiện.
Hai cô chị không biết gì, vội chạy đến kể chuyện em gái gặp nạn, khóc lóc thương
tiếc. Tiệc xong xuôi, quan trạng cho gọi vợ ra. Lúc này, hai người chị mới xấu hổ, bỏ trốn đi biệt tích.
Kể lại một truyện cổ tích - Tấm Cám Bài văn mẫu số 1
Từ xưa, tôi đã được nghe những câu chuyện cổ tích qua lời kể của bà, của mẹ. Cho
đến bây giờ, tôi vẫn còn yêu thích và nhớ mãi về truyện cổ tích Tấm Cám.
Câu chuyện kể về hai chị em Tấm và Cám. Cha mất sớm, Tấm phải ở cùng với dì
ghẻ. Mọi việc nặng nhọc từ việc nhà đến việc đồng áng đề do một tay Tấm làm hết.
Một hôm, dì ghẻ đưa cho hai chị em mỗi người một cái giỏ và bảo ra đồng bắt con tôm cái tép, hứa rằng:
- Hễ đứa nào bắt được đầy giỏ thì thưởng cho một cái yếm đỏ.
Tấm nhờ mò cua bắt ốc đã quen nên chỉ một buổi là được đầy giỏ vừa cá vừa tép.
Còn Cám thì mải chơi, đến cuối buổi vẫn chưa bắt được gì. Cám liền nói với Tấm:
- Chị Tấm ơi chị Tấm! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về mẹ mắng.
Tấm tin ngay, bèn xuống ao lội ra chỗ sâu tắm rửa. Thừa dịp đó, Cám liền trút hết
tép của Tấm vào giỏ của mình rồi ba chân bốn cẳng về trước để nhận chiếc yếm
đào. Tấm lên bờ thấy giỏ không còn cá, sợ về nhà bị dì ghẻ đánh liền ngồi khóc. Bụt
hiện lên bảo Tấm nhìn vào trong giỏ xem còn gì không, thì trong giỏ còn một con cá
bống. Bụt liền bảo Tấm đem cá về nuôi, khi cho ăn thì gọi:
“Bống bống bang bang
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người”
Từ hôm ấy trở đi, cứ sau bữa ăn, Cám lại thấy Tấm để dành một phần cơm. Thấy kì
lạ, Cám mách mẹ. Hai mẹ con rình xem thì phát hiện ra Tấm đang nuôi một con cá
bống. Mỗi lần nghe lời Tấm gọi, bống lại ngoi lên mặt nước đớp những hạt cơm
được ném xuống. Biết chuyện, dì ghẻ gọi Tấm lại rồi bảo chị ta sáng mai dậy sớm đi
chăn trâu, và dặn rằng:
- Con ơi con! Làng đã bắt đầu cấm đồng rồi đấy. Mai con đi chăn trâu, phải chăn
đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu.
Tấm không chút nghi ngờ, sáng hôm sau đưa trâu đi ăn thật xa. Ở nhà mẹ con Cám
liền ra giếng, gọi y hệt lời Tấm. Cá bống hiện lên thật, hai mẹ con Cám liền bắt lấy nó rồi đem giết thịt.
Ít lâu sau, nhà vua mở hội luôn mấy đêm ngày. Già trẻ trai gái các làng đều nô nức
đi xem. Hai mẹ Cám cũng sắm sửa quần áo đẹp để đi trẩy hội. Thấy Tấm cũng
muốn đi, dì ghẻ liền lấy một thúng gạo và một thúng thóc với nhau, rồi bảo chị:
- Con hãy nhặt cho xong chỗ gạo này rồi có đi đâu hãy đi, đừng có bỏ dở, về không
có gì để thổi cơm dì đánh đó.
Một thời gian sau, nhà vua hạ lệnh cho rao mời tất cả phụ nữ đi xem hội đến ướm
thử giày. Và hễ ai đi vừa chiếc giày thì vua sẽ lấy làm vợ. Cám cũng đếm thử nhưng
không vừa. Nhìn thấy Tấm từ xa, Cám liền nói với mẹ:
- Mẹ ơi, hình như chị Tấm nhà ta cũng đến thử giày đấy!
Dì ghẻ liền bĩu môi, nói:
- Chuông khánh còn chẳng ăn ai. Nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre.
Nhưng khi Tấm đặt chân vào giày thì vừa như in. Tấm còn lấy ra một chiếc giày
khác giống y hệt. Thế rồi, nàng được vua đón vào cung làm hoàng hậu.
Tuy sống trong hoàng cung, Tấm vẫn không quên ngày giỗ cha. Nhân đó, mụ con Cám bày mưu hại Tấm:
- Trước đây con quen trèo cau, con hãy trèo xé lấy một buồng để cúng bố.
Tấm vâng lời mẹ tôi, trèo lên cây. Thấy cây rung chuyển liền hỏi:
- Dì làm gì dưới gốc thế?
- Gốc cau lắm kiến, dì đuổi kiến cho nó khỏi lên đốt con.
Tấm chưa kịp xé cau thì cây đã đổ, ngã lộn cổ xuống ao và chết. Dì ghẻ liền đưa
Cám vào hoàng cung để thay cho Tấm.
Một hôm, Cám đang ngồi giặt áo cho vua ở giếng, thì có con chim vàng anh ở đâu
bay đến, dừng lại trên một cành cây, kêu lên:
- Phơi áo chồng tao phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao.
Sau đó, chim vàng anh bay thẳng vào cung điện đậu ở cửa sổ, hót lên rất vui tai.
Vua đi đâu, chim bay đến đó. Nhà vua yêu quý vàng anh quên cả ăn ngủ. Cám liền
về nhà mách mẹ. Dì ghẻ bảo cứ bắt chim làm thịt ăn rồi kiếm điều nói dối vua. Trở
lại cung vua, Cám nhân lúc vua đi vắng, bắt chim làm thịt ăn, rồi vứt lông chim ở
ngoài vườn. Thấy mất vàng anh, vua hỏi, Cám trả lời rằng:
- Thiếp có mang thèm ăn thịt chim nên trộm phép bệ hạ đã giết thịt ăn mất rồi.
Nhà vua nghe vậy thì không nói gì cả. Thật kì lạ là ở chỗ lông chim vàng anh mọc
lên một cây xoan đào, cành lá xum xuê, tỏa bóng mát. Vua sai người mắc võng,
ngày ngày nằm ở đó nghỉ ngơi. Cám thấy vậy thì tức lắm, sai thợ chặt cây làm
khung cửi. Khi vua hỏi, tôi lại nói dối:
- Cây bị đổ vì bão, thiếp sai thợ chặt làm khung cửi để dệt áo cho bệ hạ.
Khung cửi đóng xong, Cám vừa ngồi dệt vào dệt thì nghe thấy tiếng kêu: “Cót ca cót két Lấy tranh chồng chị, Chị khoét mắt ra”
Cám sợ hãi lắm, liền về nhà mách mẹ. Dì ghẻ khuyên Cám đốt quách khung cửi rồi
đem tro đi đổ cho rõ xa để được yên tâm. Cám sai người đem đốt khung cửi rồi đổ tro ra thật xa hoàng cung.
Từ chỗ tro tàn mọc lên một cây thị, cả cây chỉ có mỗi một quả thị. Một hôm, một bà
lão đi qua nhìn thấy liền nói:
- Thị ơi thị, rụng vào bị bà, bà đem bà ngửi, chứ bà không ăn.
Quả thị liền rụng xuống rơi vào bị bà. Bà lão vừa dứt lời thì quả thi rơi xuống. Kỳ lạ
là từ đó, cứ mỗi lần đi chợ về, bà lão đều thầy nhà cửa sạch sẽ, cơm nước tinh
tươm. Bà quyết tâm rình xem có điều gì lạ đang xảy ra thì phát hiện thấy một cô gái
chui ra từ quả thị. Bà lão rón rén lại gần rồi xé nát vỏ quả thị. Từ đó, Tấm ở với bà
hàng nước. Một hôm, nhà vua đi qua ghé vào thấy miếng trầu têm cánh phượng
giống của Tấm têm, liền gặng hỏi bà lão. Tấm và nhà vua gặp lại nhau.
Lại nói đến Cám sau khi thấy chị Tấm trở về lại xinh đẹp hơn xưa. Vua ngày càng
yêu quý. Cám liền đến hỏi chị:
- Chị Tấm ơi, chị làm thế nào mà đẹp thế?
Chị Tấm không trả lời chỉ hỏi lại tôi:
- Có muốn đẹp không để chị giúp?
Cám nghe theo lời chị Tấm. Thấy chị sai người đào một cái hố sâu rồi bảo Cám
xuống đó. Cám không chút nghi ngờ, liền xuống dưới và chết bỏng.
Qua truyện Tấm Cám, nhân dân ta đã gửi gắm khát vọng công bằng, cái thiện chiến
thắng cái ác. Cô Tấm hiền lành cuối cùng sống hạnh phúc bên nhà vua, còn mẹ con
Cám độc ác thì bị trừng phạt. Bài văn mẫu số 2
Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Vốn được mẹ nuông chiều, Cám
chẳng phải động tay đến một công việc nào. Còn Tấm phải làm lụng từ sáng đến tối
mà vẫn không hết việc.
Một hôm, mẹ gọi cả hai chị em đến rồi đưa cho mỗi đứa một cái giỏ và bảo:
- Hai con nếu ai bắt được đầy tôm tép sẽ được thưởng một chiếc yếm đào.
Hai chị em đi ra đồng. Tấm chăm chỉ lại quen tay nên chẳng mấy chốc giỏ đã đầy
tôm tép. Còn Cám , vì mải chơi mà đến cuối buổi chẳng bắt được gì. Chợt Cảm chạy lại và bảo Tấm:
- Chị Tấm ơi! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu kẻo về mẹ mắng.
Tấm tin thật, liền hụp xuống ao sâu tắm rửa sạch sẽ. Cám liền trút hết tôm tép ở giỏ
của Tấm sang giỏ của mình, rồi chạy về gặp mẹ để lấy yếm đào. Còn Tấm ở dưới
ao lên, nhìn vào giỏ không còn gì, liền ngồi khóc. Bụt liền hiện lên và bảo Tấm nhìn
vào trong giỏ xem còn gì không. Tấm nhìn vào thì thấy một chú cá bống nhỏ. Bụt
bảo chị đem cá bống về thả xuống giếng, hàng ngày cho ăn. Mỗi lần cho ăn lại gọi:
“Bống bống bang bang
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người”
Từ hôm đó, Tấm thường giấu một phần cơm mang ra giếng. Thấy kỳ lạ, Cám bèn
rình xem rồi về mách mẹ. Dì ghẻ lấy lý do làng đã bắt đầu cấm đồng để bắt Tấm
chăn trâu ở đồng xa. Còn ở nhà, mẹ con Cám bắt cá bống đem đi giết thịt để nấu
ăn. Về đến nhà, như mọi ngày Tấm lại đem cơm ra giếng nhưng gọi mãi không thấy
cá bống đâu. Tấm lại ngồi khóc. Bụt hiện lên bảo Tấm hãy đi tìm xương cho vào bốn
chiếc lọ rồi đem chôn ở bốn chân giường. Nhờ sự giúp đỡ của gà trống, Tấm tìm được xương cá bống.
Ít lâu sau, nhà vua mở hội cho người dân khắp nơi đến dự. Mẹ con Cám cũng sắm
sửa quần áo mới để đi dự hội. Tấm thưa với dì ghẻ muốn đi. Nhưng dì ghẻ lại trộn
một đấu gạo với một đấu thóc bắt Tấm ở nhà nhặt cho xong. Nói xong, hai mẹ con
xúng xính trong quần áo đẹp lên đường đến kinh đô. Tấm tủi thần ngồi khóc. Bụt lại
hiện lên sai đàn chim sẻ đến giúp. Sau đó, bụt còn bảo chị đào bốn lọ xương cá
bống lên sẽ có điều kỳ lạ. Khi Tấm đào lên bốn cái lọ biến ra một bộ quần áo đẹp,
một đôi hài đẹp và một con ngựa để chị đi dự hội. Ít lâu sau, nghe đồn rằng nhà vua
đi qua con sông thấy ngựa không chịu đi liền sai người xuống sông xem có điều gì
lạ thì vớt được một chiếc hài. Vua nhìn thấy liền đem lòng yêu mến người đi hài, ra
lệnh ai mang vừa sẽ được làm vợ vua. Mẹ con Cám cũng kéo nhau đến thử nhưng
chẳng đi vừa. Đến lượt Tấm ướm thử thì vừa như in. Tấm được vua rước vào cung làm hoàng hậu.
Đến ngày giỗ cha, Tấm về ăn giỗ. Dì ghẻ bảo chị Tấm trèo cây cau, hái cau cúng
cha. Nhân lúc nàng không để ý mà ở dưới chặt đổ cây cau. Tấm ngã xuống ao chết
đuối. Mẹ con dì ghẻ vào cung khóc lóc kể lể sự tình và xin cho Cám ở lại thay Tấm hầu hạ vua.
Một hôm, có một con chim vàng anh ở đâu bay đến đang lúc Cám giặt quần áo cho
vua. Vàng anh kêu lên: “ Phơi áo chồng tao phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách
áo chồng tao”. Rồi chim vàng anh bay vào cung vua, ngày ngày quấn quýt khiến nhà
vua không thèm ngó ngàng đến tôi. Cám tức lắm, tìm cách giết chết vàng anh, đem
lông chim vứt ngoài vườn. Khi vua hỏi thì Cám nói dối là mình có mang thèm ăn thịt
chim nên vua không hỏi gì nữa. Từ chỗ lông chim vàng anh, một cây xoan đào mọc
lên, cành lá xum xuê tỏa bóng mát. Vua sai người mắc võng nằm nghỉ ở đây. Cám
thấy vậy thì về nhà liền mách mẹ. Cám làm theo lời mẹ sai người chặt cây làm
thành khung cửi. Vua có hỏi thì Cám lại nói dối là do cây bị đổ vì bão, sai thợ chặt
làm khung cửi để dệt áo cho vua. Nhưng lúc Cám ngồi dệt, bỗng vang lên một giọng nói: "Cót ca cót két
Lấy tranh chồng chị,
Chị khoét mắt ra."
Cám sợ quá, về nhà mách mẹ. Dì ghẻ cho người đến đốt khung cửi đi, đổ ra xa khỏi hoàng cung.
Từ chỗ tro tàn mọc lên một cây thị, cả cây chỉ có mỗi một quả thị. Một hôm, một bà
lão đi qua nhìn thấy liền nói:
- Thị ơi thị, rụng vào bị bà, bà đem bà ngửi, chứ bà không ăn.
Quả thị liền rụng xuống rơi vào bị bà. Bà lão vừa dứt lời thì quả thi rơi xuống. Kỳ lạ
là từ đó, cứ mỗi lần đi chợ về, bà lão đều thầy nhà cửa sạch sẽ, cơm nước tinh
tươm. Bà quyết tâm rình xem có điều gì lạ đang xảy ra thì phát hiện thấy một cô gái
chui ra từ quả thị. Bà lão rón rén lại gần rồi xé nát vỏ quả thị. Từ đó, Tấm ở với bà
hàng nước. Một hôm, nhà vua đi qua ghé vào thấy miếng trầu têm cánh phượng
giống của Tấm têm, liền gặng hỏi bà lão. Tấm và nhà vua gặp lại nhau.
Tấm theo nhà vua về cung. Lại nói đến Cám sau khi thấy Tấm trở về lại xinh đẹp
hơn xưa. Vua ngày càng yêu quý. Cám liền đến hỏi chị:
- Chị Tấm ơi, chị làm thế nào mà đẹp thế?
Chị Tấm không trả lời chỉ hỏi lại tôi:
- Có muốn đẹp không để chị giúp?
Cám nghe theo lời chị Tấm. Thấy chị sai người đào một cái hố sâu rồi bảo Cám
xuống đó. Cám không chút nghi ngờ, liền xuống dưới và chết bỏng.
Kể lại một truyện cổ tích - Em bé thông minh Bài văn mẫu số 1
Ngày xưa, có ông vua nọ muốn tìm người tài giúp nước, liền sai viên quan đi khắp
nơi. Một hôm, viên quan đi đến một làng nọ thấy hai cha con đang cày bừa, liền đến
gần. Viên quan hỏi người cha:
- Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?
Người cha chưa biết trả lời thế nào, thì cậu bé chỉ khoảng bảy, tám tuổi đã hỏi lại:
- Nếu ông trả lời đúng ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông
biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.
Viên quan vô cùng sửng sốt không biết trả lời ra sao. Ông mừng lắm, nghĩ thầm đã
tìm được người tài, liền trở về bẩm báo với nhà vua.
Một hôm, nhà vua ban cho làng của cậu bé ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực, ra
lệnh làm sao phải nuôi cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải đem
nộp đủ, nếu không thì cả làng phải tội.
Cả làng lo lắng. Biết chuyện, cậu bé nói với cha hãy bảo dân làng giết thịt hai con
trâu và đồ hai thúng gạo nếp lên để mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn
một con trâu và một thúng gạo nếp bán đi lấy tiền làm lộ phí cho hai cha con trẩy
kinh lo liệu việc của làng.
Dân làng nghe vậy, tuy có ngờ vực nhưng vẫn làm theo, còn bắt họ viết giấy cam
đoan. Sau đó, hai cha con cậu bé sửa soạn lên đường. Đến hoàng cung, người cha
đứng đợi ở ngoài, còn cậu bé thì nhân lúc mấy người lính canh sơ ý, lẻn vào sân
rồng khóc lóc. Nhà vua nghe thấy liền sai lính điệu cậu vào, phán hỏi:
- Cậu bé kia, sao lại đến đây mà khóc?
Lúc đó, cậu bé mới trả lời:
- Tâu đức vua, mẹ con chết sớm mà cha con không chịu đẻ em bé để chơi với con
cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.
Nghe cậu bé nói thế, vua và các triều thần đều bật cười. Vua nói:
- Muốn có em thì phải bảo cha lấy vợ khác, chứ đàn ông làm sao mà để con được?
Nghe vậy, cậu bé liền thưa với vua:
- Thế sao vua lại bắt làng chúng con nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để
nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ!
Lúc đó, vua cười và bảo: “
- Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra thịt mà ăn với nhau à?
Em bé thưa với vua rằng làng biết đó là lộc của vua ban nên đã làm cỗ ăn mừng với
nhau rồi. Nghe nói vậy, nhà vua chỉ cười.
Một hôm, khi hai cha con đang ăn cơm ở công quán, bỗng có sứ giả nhà vua mang
đến một con chim sẻ, với lệnh cho em bé phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Cậu bé đưa
cho sứ giả một cái kim rồi nói:
- Ông cầm cái kim này về tâu với vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim.
Sau hôm đó, nhà vua cho gọi cha con vào và ban thưởng cho rất hậu. Hồi đó, có
một nước láng giềng lăm le muốn chiếm nước ta. Để dò xem nước ta có nhân tài
hay không, họ sai sứ thần nước họ đưa sang một cái vỏ ốc vặn rất dài, rỗng hai đầu,
đố làm sao xâu một sợi chỉ mảnh xuyên qua đường ruột ốc.
Các đại thần nước ta đều vò đầu suy nghĩ. Mọi người dùng nhiều cách nhưng vô
hiệu. Cuối cùng triều đình đành mời sứ thần ra ở công quán đế kéo dài thời gian tìm người giải câu đố.
Một hôm, cậu bé đang đùa nghịch ở sau nhà thì có chỉ dụ của vua. Nghe viên quan
nói đầu đuôi câu chuyện, cậu hiểu ra và bày cho viên quan cách xâu chỉ qua mây câu hát sau:
“Tang tình tang! Tính tình tang
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang Tang tình tang...”
Viên quan sung sướng trở về triều đình và thực hiện như lời cậu bé nói. Nhờ vậy,
sợi chỉ xâu xuyên qua ruột con ốc xoắn một cách dễ dàng. Nghe vậy, sứ giả nước
láng giềng nghe được câu trả lời thì vô cùng thán phục. Về sau, nhà vua còn phong
cho em bé thông minh làm trạng nguyên, đón vào cung vua để học hành. Bài văn mẫu số 2
Ngày xưa, có hai cha con nọ cùng nhau bình yên ở một ngôi làng nọ. Một hôm, em
bé đang phụ cha cày bừa cho vụ mùa mới thì thấy có một viên quan từ đâu tới. Khi
đến gần, viên quan ấy mới cất tiếng hỏi:
- Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?
Người cha chưa biết trả lời thế nào, cậu bé mới nhanh miệng hỏi vặn lại quan rằng:
- Thế xin hỏi ông câu này đã. Nếu ông trả lời được ngựa của ông đi một ngày được
mấy bước tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.
Viên quan nghe hỏi lại như thế thì lộ ra vẻ sửng sốt. Sau đó ông ta hỏi tên họ làng
xã quê quán của hai cha con rồi phi ngựa một mạch đi.
Một thời gian sau, nhà vua sai ban cho làng ba thúng gạo nếp với ba con trâu đực,
ra lệnh phải nuôi làm sao cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải
đem nộp đủ, nếu không thì cả làng phải tội.
Nhận lệnh vua, cả làng đều lo lắng. Cậu bé nghe chuyện liền bảo với cha:
- Chả mấy khi được lộc vua ban, bố cứ thưa với làng làm thịt hai trâu và đồ hai
thúng gạo nếp để mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một trâu và một
thúng gạo, ta sẽ xin làng làm phí tổn cho bố con ta trẩy kinh lo việc đó.
Ngày hôm sau, người cha vội ra đình trình bày câu chuyện. Cả làng nghe nói ban
đầu vô cùng ngờ vực, bắt cha con họ phải làm giấy cam đoan, mới dám ngả trâu đánh chén.
Sau đó mấy hôm, hai cha con cậu bé khăn gói tìm đường tiến kinh. Đến hoàng
cung, cậu bảo cha đứng ở ngoài, còn mình thì lẻn vào sân rồng khóc um lên. Vua
sai lính điệu cậu bé vào, phán hỏi nguyên nhân.
- Tâu đức vua con đá mẹ con chết sớm mà cha con thì không chịu đẻ em bé để chơi
với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.
Nghe nói, vua và các triều thần đều bật cười. Vua phán:
- Muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho bố mày, chứ bố mày là giống đực, làm sao mà đẻ được!
Thấy mọi chuyện đều đúng như dự đoán, em bé tươi tỉnh đáp:
- Thế sao làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín
con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được kia chứ! Vua cười bảo:
- Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra thịt mà ăn với nhau à?
- Tâu đức vua, làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp, biết là lộc của
đức vua, cho nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi.
Vua và đình thần gật gù rồi sai người đưa hai cha con đi sắp xếp chỗ ăn ở. Qua
hôm sau, bỗng có sứ nhà vua mang tới cho một con chim sẻ, với lệnh bắt họ phải
dọn thành ba cỗ thức ăn. Nhanh chóng suy nghĩ, em bé liền bảo cha lấy cho mình
một cái kim may rồi đưa cho sứ giả, bảo:
- Phiền ông cầm lấy cái này về tâu đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim.
Lập tức, vua cho gọi cả hai cha con cậu bé vào, ban thưởng rất hậu. Bấy giờ, có
nước láng giềng lúc nào cũng lăm le xâm lược đất nước ta. Họ cử viên viên sứ giả
sang thăm dò xem nước ta có nhân tài nào không. Viên sứ giả đến mang theo một
con ốc vặn dài, rỗng hai đầu và một sợi chỉ mảnh, đố các quan trong triều làm thế
nào để xâu được sợi chỉ qua ruột ốc. Các quan làm đủ mọi cách: người thì dùng
miệng hút, người bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để dễ xâu. Nhưng tất cả đều vô hiệu.
Vua bèn mời sứ giả ở lại cùng nghỉ ngơi vài ngày, kéo dài thời gian cho người đi hỏi
ý kiến cậu bé. Nghe chuyện, cậu bé chỉ liền hát một câu:
“Tang tính tang! Tính tình tang
Bắt con kiến càng, buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng,
Bên thời bôi mỡ kiến mừng kiến sang.
Tang tình tang! Tính tình tang!”
Viên quan hiểu ra, mừng rỡ quay về bẩm báo lên nhà vua. Vua cho người làm theo
lời cậu bé. Quả nhiên con kiến đã mang sợi chỉ xuyên qua vỏ ốc trước cặp mắt thán
phục của sứ giả láng giềng. Sau đó, nhà vua liền gọi hai cha con cậu bé vào cung,
phong làm trạng nguyên, còn sai người xây dinh thự ngay trong hoàng cung để tiện hỏi thăm.
Kể lại một truyện cổ tích - Thạch Sanh Bài văn mẫu số 1
Xưa, ở quận Cao Bình có hai vợ chồng đã lớn tuổi mà vẫn chưa có một mụn con.
Mặc dù nhà nghèo, nhưng họ vẫn thường xuyên giúp đỡ mọi người. Ngọc Hoàng
thấy họ tốt bụng, bèn sai thái tử đầu thai xuống làm con. Từ đó, người vợ có mang
nhưng mấy nay không thấy sinh nở. Người chồng lâm bệnh nặng rồi qua đời. Mãi về
sau, người vợ mới sinh ra được một cậu con trai.
Khi cậu bé vừa khôn lớn thì người mẹ cũng mất. Từ đó, cậu sống lủi thủi trong một
túp lều dựng dưới gốc đa, cả gia tài chỉ có lưỡi búa cha để lại. Người ta gọi cậu là
Thạch Sanh. Năm Thạch Sanh bắt đầu biết dùng búa, Ngọc Hoàng sai thiên thần
xuống dạy cho đủ loại võ nghệ, các phép thần thông.
Một lần nọ, có người hàng rượu là Lí Thông tình cờ đi qua. Thấy Thạch Sanh gánh
một bó củi lớn, hằn thầm nghĩ: “Người này khỏe mạnh, nếu về ở cùng sẽ có lợi biết
bao!”. Rồi Lí Thông lân la gợi chuyện, gạ Thạch Sanh kết nghĩa anh em. Vốn mồ côi
cha mẹ, nay lại có người săn sóc đến mình, Thạch Sanh cảm động, vui vẻ nhận lời.
Sau đó, Thạch Sanh dọn về sống cùng mẹ con Lí Thông.
Bấy giờ, trong vùng có con chằn tinh có nhiều phép lạ, thường ăn thịt người. Quan
quân nhiều lần vây bắt, nhưng đều thất bại. Kể từ đó, dân phải lập miếu thờ, hằng
năm nộp cho chằn tinh một mạng người để nó đỡ phá phách. Băm ấy, đến lượt nhà
Lý Thông. Mẹ con hắn nghĩ kế để lừa Thạch Sanh đi thay. Chiều hôm đó, Thạch
Sanh đi kiếm củi trở về, Lí Thông dọn một mâm rượu thịt, rồi bảo với Thạch Sanh:
- Đêm nay, đến lượt anh đi cánh miếu thời. Ngặt còn mẻ rượu chưa xong, vậy em
chịu khó thay anh, sáng mai lại về.
Thạch Sanh thật thà, nhận lời đi ngay. Nửa đêm hôm ấy, chàng đang lim dim ngủ thì
chằn tinh xuất hiện, giơ nanh vuốt định vồ lấy chàng. Thạch Sanh lấy búa đánh nhau
với con quái vật. Chỉ một lúc, lưỡi búa của chàng đã xả xác con quái vật làm hai.
Chằn tinh hiện nguyên hình là một con trăn khổng lồ, nó chết để lại một bộ cung tên
bằng vàng. Thạch Sanh chặt đầu con quái vật mang về. Mẹ con Lí Thông đang ngủ,
nghe tiếng gọi cửa, ngỡ là Thạch Sanh trở về báo thù. Mẹ con hắn hoảng sợ, van
lạy rối rít. Đến khi Thạch Sanh vào nhà kể rõ mọi chuyện, họ mới hoàn hồn. Lí
Thông liền nghĩ ra kế khác, bảo với Thạch Sanh:
- Con trăn ấy nhà vua nuôi đã lâu. Nay em giết nó là mang tội. Thôi bây giờ nhân
trời chưa sáng em hãy trốn ngay đi. Mọi chuyện đã có anh lo liệu.
Thạch Sanh không mảy may nghi ngờ. Chàng vội vàng từ giã mẹ con Lí Thông, trở
về gốc đa cũ, lại kiếm củi để nuôi thân. Còn Lí Thông nhân cơ hội đó đem đầu con
chằn tinh vào dâng vua. Nhà vua khen ngợi, còn phong hắn làm Quận công.
Nhà vua có công chúa đến tuổi lấy chồng. Hoàng tử nhiều nước sai sứ đến hỏi vợ
nhưng nàng không vừa ý. Nhà vua phải mở một hội lớn, mời các hoàng từ và con
trai trong thiên hạ đến dự, để công chúa đứng trên lầu cao ném quả cầu may. Hễ
quả cầu rơi trúng người nào, công chúa sẽ lấy người đó làm chồng. Khi công chúa
sắp ném quả cầu, nàng bỗng bị một con đại bàng khổng lồ quắp đi. Nó bị thương
nhưng vẫn gắng sức bay về hang. Thạch Sanh lần theo vết máu, tìm được hang của đại bàng.
Từ ngày công chúa bị mất tích, nhà vua vô cùng lo lắng. Vua liền sai Lí Thông đi tìm
công chúa, hứa sẽ gả công chúa và truyền ngôi cho. Lí Thông bèn cho mở hội hát
xướng để nghe ngóng. Nhiều ngày trôi qua vẫn không có tin tức. Đến ngày thứ
mười, Lí Thông gặp Thạch Sanh đi xem hội. Nghe Lí Thông kể đến việc đi tìm công
chúa, Thạch Sanh kể lại chuyện bắn trúng đại bàng. Lí Thông mừng rỡ nhờ Thạch
Sanh đến hang của đại bàng.