Văn mẫu lớp 6: Phân tích tác phẩm Cây tre Việt Nam | Kết nối tri thức
Tác phẩm Cây tre Việt Nam được học trong chương trình Ngữ văn 6. Chính vì vậy, chúng tôi sẽ cung cấp tài liệu Bài văn mẫu lớp 6: Phân tích tác phẩm Cây tre Việt Nam.
Hy vọng với dàn ý và 6 bài văn mẫu lớp 6 dưới đây, học sinh sẽ có thêm ý tưởng để hoàn thiện bài viết này.
Chủ đề: Bài 4: Quê hương yêu dấu (KNTT)
Môn: Ngữ Văn 6
Sách: Kết nối tri thức
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Phân tích tác phẩm Cây tre Việt Nam
Dàn ý phân tích tác phẩm Cây tre Việt Nam I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Thép Mới (những nét chính về cuộc đời, các sáng tác của ông…).
- Giới thiệu về văn bản “Cây tre Việt Nam” (xuất xứ, khái quát giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật…) II. Thân bài
1. Giới thiệu khái quát về cây tre
- Là người bạn thân của nông dân, nhân dân Việt Nam.
- Đặc điểm của cây tre:
Vào đâu tre cũng sống, cũng xanh tốt.
Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn.
Tre lớn lên, cứng cáp, dẻo dai, vững chắc.
=> Tre thanh cao, giản dị, chí khí như con người.
2. Sự gắn bó của cây tre với con người trong lao động sản xuất và trong chiến đấu
- Trong lao động, sản xuất:
Tre trùm lên âu yếm bản làng, xóm, thôn.
Dưới bóng tre, giữ gìn một nền văn hóa lâu đời, con người dựng nhà,
dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang.
Tre là cánh tay của người nông dân.
Tre vất vả mãi với người: cối xay tre nặng nề quay.
Tre là người nhà, khăng khít với đời sống hằng ngày.
Tre buộc chặt những tình cảm chân quê.
Tre là niềm vui của tuổi thơ, của người già. Tre chung thủy...
- Trong chiến đấu: tre là tất cả, tre là vũ khí - tre xung phong vào xe tăng, đại
bác, tre giữ làng, giữ nước, tre hi sinh để bảo vệ con người.
=> Tre gần gũi, gắn bó với đời sống con người.
3. Vị trí của tre đối với đất nước trong tương lai
- Tre vẫn còn nguyên vị trí trong tương lai khi đất nước đi vào công nghiệp hóa:
tre vẫn là bóng mát, tre mang khúc nhạc tâm tình…
- Tre mang những đức tính của người hiền, là tượng trưng cao quý của dân tộc Việt Nam. III. Kết bài
- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản.
- Cảm nhận của bản thân về cây tre: yêu, trân trọng, gắn với kỉ niệm tuổi thơ…
Phân tích tác phẩm Cây tre Việt Nam - Mẫu 1
Cây tre là biểu tượng cho con người, dân tộc Việt Nam. Khi viết về vẻ đẹp mộc
mạc, giản dị của cây tre chúng ta không thể không nhắc đến tác phẩm “Cây tre
Việt Nam” của nhà văn Thép Mới. Tác phẩm được viết làm lời bình cho một bộ
phim điện ảnh Ba Lan. Thông qua hình ảnh cây tre, tác phẩm đã cho thấy vẻ
đẹp của con người, đất nước Việt Nam, đồng thời ca ngợi cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp của dân tộc ta.
Ngay từ những câu văn mở đầu tác giả đã khẳng định tre là người “bạn thân của
nông dân Việt Nam, của nhân dân Việt Nam”. Câu văn như một lời khẳng định
chắc nịch về mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, lâu bền của tre với con người. Để
làm nổi bật vai trò, ý nghĩa của tre, tác giả đã đặt nó trong muôn ngàn cây cối
khác nhau, nhưng tre luôn giữa một vị trí đặc biệt quan trọng: “Nước Việt Nam
xanh muôn ngàn cây lá khác nhau. Cây nào cũng đẹp, cây nào cũng quý, nhưng
thân thuộc nhất vẫn là tre nứa”. Cũng bởi vậy mà tre có mặt ở khắp mọi nơi:
“Tre Đồng Nai, nứa Việt Bắc, tre ngút ngàn Điện Biên Phủ, lũy tre thân mật
làng tôi… đâu đâu ta cũng có nứa tre làm bạn” . Câu văn nhịp nhàng kết hợp
với biện pháp liệt kê đã cho thấy sự thân thuộc, gần gũi của tre với đời sống con người.
Tiếp ngay sau đó, Thép Mới khẳng định những vẻ đẹp phẩm chất của tre: “mọc
thẳng, ở đâu tre cũng xanh tốt, dáng tre mộc mạc, màu tre nhũn nhặn, cứng cáp,
dẻo dai, vững chắc…” được diễn đạt bằng lời văn nhịp nhàng, cân đối tựa như
một lời hát. Và vẻ đẹp, khí chất của tre được tác giả so sánh: “Tre trông thanh
cao, giản dị, chí khí như người”. Câu văn như một lời ngầm khẳng định cây tre
chính là biểu tượng cho con người Việt Nam.
Ngay từ phần mở đầu của bài viết, Thép Mới đã khẳng định sự gắn bó khăng
khít và bền chặt của tre với người. Để minh chứng cho nhận định, ông đã sử
dụng hàng loạt các dẫn chứng khác nhau để làm sáng tỏ vấn đề đó. Không chỉ
mang những phẩm chất đẹp đẽ của dân tộc Việt Nam, tre còn gắn liền với đời
sống dân tộc Việt. Tác giả bắt đầu sự gắn bó đó bằng việc trích dẫn câu thơ của
Tố Hữu: “Bóng tre trùm mát rượi”. Đây là cầu nối, khơi gợi sự gắn bó khăng
khít giữa người và tre. Tre bao bọc, che chở con người, dưới bóng tre xanh dân
ta vỡ ruộng, khai hoang, làm ăn sinh sống. Điệp ngữ “bóng tre”, “dưới bóng tre”
được điệp lại càng khẳng định hơn nữa sự gắn bó thủy chung của tre với con
người. Tre cứ thế gắn bó trong lao động, trong đời sống văn hóa, tâm linh của
dân tộc Việt. Không chỉ vậy, tre còn gắn bó với người từ thuở lọt lòng với chiếc
nôi tre cùng lời ru ngọt ngào của bà của mẹ, những năm tháng tuổi thơ cây sáo
với nhạc điệu du dương trầm bổng hay bộ chắt bằng tre làm bạn, tuổi già lấy
điếu thuốc lào làm vui, và khi nhắm mắt xuôi tay tre cũng ở bên cạnh con người.
Chưa dừng lại ở đó, những năm tháng chiến tranh gian nan và ác liệt, tre cũng là
đồng chí, người bạn đồng hành của nhân dân Việt Nam. Cảm hứng chính của
đoạn văn được khơi dậy từ hình ảnh: “Như tre mọc thẳng, con người không chịu
khuất” một mặt tô đậm đặc điểm của tre nhưng đằng sau đó là lời ca ngợi ý chí
kiên cường, bất khuất của dân tộc ta. Trước mưa bom, bão đạn của kẻ thù, cả tre
và người không chịu khuất phục, tre giúp sức người: “gậy tre, chông tre chống
lại sắt thép quân thù”. Trong đoạn văn tác giả đã sử dụng hàng loạt biện pháp
nhân hóa: “tre là đồng chí, tre giữ làng, tre hi sinh…” vừa tôn vinh giá trị của
tre vừa làm sống dậy những năm tháng chiến tranh ác liệt mà hào hùng của dân tộc.
Kết lại bài viết là hình ảnh tre của hiện tại. Khi cuộc sống con người đã trở nên
hiện đại hơn, sắt thép xi măng đã dần thay thế cho tre. Nhưng không vì thế mà
tre mất đi vị thế của mình. Tre vẫn xuất hiện trên phù hiệu ở ngực thiếu nhi,
được tác giả diễn đạt thật tinh tế qua hình ảnh “măng mọc” , tiếng sáo diều vi
vút… Lời kết vút lên như một lần nữa ca ngợi sự gắn bó thủy chung, son sắt của tre với con người.
Bài ký sử dụng lớp ngôn ngữ giàu chất thơ với nhịp điệu phong phú, biến hóa
linh hoạt, phù hợp với nội dung bài viết. Hệ thống điệp từ, điệp ngữ, chia làm
nhiều câu văn ngắn tạo nên không khí sục sôi, hào hùng trong những năm tháng
kháng chiến chống Pháp. Không chỉ vậy, góp phần tạo nên sự thành công cho
văn bản còn phải kể đến những lời bình giàu hình ảnh, gợi ra khung cảnh làng
quê êm đềm. Giọng điệu dịu dàng kết hợp với các câu văn trữ tình (ca dao, câu
thơ) hòa quyện với nhau tựa như một khúc hát ru tha thiết. Tất cả đã góp phần
tạo nên sự thành công cho tác phẩm.
Với những chi tiết, hình ảnh được chọn lọc kỹ càng, giọng điệu tha thiết tác giả
đã khẳng định sự gắn bó, thủy chung của cây tre với đời sống người dân Việt
Nam. Cây tre với những phẩm chất tốt đẹp quý báu chính là biểu tượng của đất
nước, dân tộc Việt Nam.
Phân tích tác phẩm Cây tre Việt Nam - Mẫu 2
Cây tre Việt Nam được Thép Mới viết để làm lời thuyết minh cho bộ phim cùng
tên của các nhà điện ảnh Ba Lan. Thông qua hình ảnh cây tre, bộ phim đã thể
hiện đất nước và con người Việt Nam, ca ngợi cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp của dân tộc ta. Lời thuyết minh đã góp phần làm lên giá trị của bộ phim,
nó được coi như là một bài tuỳ bút đặc sắc, một bài thơ - văn xuôi đẹp của nhà báo, nhà văn Thép Mới.
Câu mở đầu Thép Mới viết: “Cây tre là người bạn thân của nông dân Việt Nam,
bạn thân của nhân dân Việt Nam”. Phải chăng tác giả đã xác lập mối quan hệ
gắn bó lâu đời, đặc biệt giữa tre với người Việt Nam - nông dân Việt Nam?
Chính vì thế mà tre có mặt khắp nơi trên đất nước: Tre Đồng Nai, nứa Việt Bắc,
tre ngút ngàn Điện Biên Phủ, luỹ tre thân mật làng tôi... đâu đâu cũng có tre nứa
làm bạn. Chỉ có một câu văn thôi mà đã gợi lên được tre ở mọi miền Tổ quốc.
Hình ảnh đối xứng nhịp nhàng, câu văn có nhạc tính, đọc lên nghe rất thích thú.
Tiếp ngay sau đó, nhà văn ca ngợi những đức tính đáng quý của tre: “Vào đâu
tre cũng sống, ở đâu tre cũng xanh tươi. Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi
nhũn nhặn. Sức sống bền vững, dẻo dai; dáng vẻ thanh cao, giản dị của tre một
lần nữa được nói lên trong những câu văn giàu nhạc tính, cân xứng nhịp nhàng.
Đọc đến câu: “Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người” thì ta bỗng hiểu
ra cái ý vị sâu sắc: cây tre chính là con người Việt Nam - là tượng trưng cho dân
tộc Việt Nam và những phẩm chất cao quý của tre cũng là những đức tính đẹp đẽ của con người.
Nhận định tre là người bạn thân của nông dân Việt Nam, bạn thân của nhân dân
Việt Nam là tư tưởng xuyên suốt bài văn. Để chứng minh cho nhận định này,
tác giả đã đưa ra một hệ thống luận điểm với nhiều dẫn chứng. Luận điểm thứ
nhất như đã nói ở phần mở đầu, sự gắn bó của cây tre với con người Việt Nam.
Cây tre có mặt ở khắp nơi trên đất nước. Hơn thế nữa, tre ăn ở với người đời đời
kiếp kiếp. Đã từ lâu đời, dưới bóng tre xanh con người Việt Nam đã làm ăn sinh
sống và gìn giữ một nét văn hoá cổ truyền. Tre còn giúp người trăm nghìn công
việc khác nhau như là cánh tay của người nông dân:
“Cánh đồng ta năm đôi ba vụ
Tre với người vất vả quanh năm”
Trong cuộc sống đời thường, tre gắn bó với con người thuộc mọi lứa tuổi: với
tuổi thơ, tre là nguồn vui - các bạn nhỏ chơi chuyền đánh chắt bằng tre; với lứa
đôi nam nữ thì dưới bóng tre là nơi hò hẹn tâm tình; với tuổi già hút thuốc làm
vui thì có chiếc điếu cày... Suốt một đời người, từ thuở lọt lòng trong chiếc nôi
tre, đến khi nhắm mắt xuôi tay, nấm trèn giường tre, tre với mình sống có nhau, chết có nhau, chung thuỷ.
Trong cuộc chiến đấu bảo vệ quê hương đất nước, tre cũng gắn bó cùng dân tộc:
“Ta kháng chiến, tre lại là đồng chí chiến đấu của ta... Gậy tre, chông tre chống
lại sắt thép của quân thù... Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng
lúa chín. Tre hy sinh để bảo vệ con người”. Chính trong hoàn cảnh chiến đấu,
tre bộc lộ nhiều phẩm chất cao quý khác thẳng thắn, bất khuất: “Trúc dẫu cháy,
đốt ngay vẫn thẳng”. Tre lại vì ta mà cùng ta đánh giặc. Trong lịch sử kháng
chiến chống ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc, cây tre càng gắn bó khăng khít, chặt
chẽ hơn với con người Việt Nam. Từ truyền thuyết cây tre đằng ngà cùng anh
hùng làng Gióng đánh tan giặc Ân, đến câu ca dao: “Trồng tre nên gậy, gặp đâu
đánh què!”. Cho tới cuộc kháng chiến chống Pháp... cây tre rất xứng danh anh
hùng bất khuất, như dân tộc Việt Nam bất khuất anh hùng.
Đế tổng kết vai trò lớn lao của cây tre đối với đời sống con người và dân tộc
Việt Nam, tác giả đã khái quát: “Tre, anh hùng lao động! Tre, anh hùng chiến
đấu”. Cây tre tiếp tục gắn bó thân thiết với dân tộc Việt Nam trong hiện tại và
mãi mãi sau này. Phần kết của bài kí, tác giả đặt ra một vấn đề có ý nghĩa: vai
trò của cây tre khi đất nước bước vào thời kỳ mới (Công nghiệp hoá - hiện đại
hoá) trong giai đoạn hiện tại và tương lai, khẳng định tre mãi mãi là người bạn
chia bùi, sẻ ngọt với con người. Để đưa người đọc đến vấn đề này, tác giả bắt
đầu từ hình ảnh nhạc của trúc, của tre, hình ảnh sáo tre, sáo trúc biểu lộ tâm tình
của con người Việt Nam. Những câu văn viết về nhạc của trúc, của tre thiết tha
bay bổng như một đoạn thơ - văn xuôi giàu nhạc tính. Sau đó, tác giả lấy câu tục
ngữ tre già măng mọc và hình ảnh măng non trên phù hiệu đội viên thiếu nhi
làm phương tiện chuyển ý rất tự nhiên để khẳng định vị trí của cây tre trong
tương lai của đất nước: “Nứa tre... còn mãi với dân tộc Việt Nam, chia ngọt sẻ
bùi của những ngày mai tươi hát... Ngày mai, trên đất nước này, sắt thép có thể
nhiều hơn tre nứa. Nhưng trên đường đời ta dấn bước, tre xanh mãi là bóng mát.
Tre vẫn mang khúc nhạc tâm tình…”. Nghĩa là cây tre với những phẩm chất quý
báu của nó lưu giữ biết bao giá trị lịch sử, giá trị văn hoá, tượng trưng cao quý
của dân tộc Việt Nam vẫn còn mãi với các thế hệ Việt Nam hôm nay và mai
sau, với bao niềm tự hào và kiêu hãnh: “Mai sau, Mai sau, Mai sau…
Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh…” (Nguyễn Duy, Tre Việt Nam)
Bài “Cây tre Việt Nam” với nhiều chi tiết, hình ảnh chọn lọc mang ý nghĩa biểu
tượng, phép nhân hoá sử dụng thành công, lời văn giàu cảm xúc và nhịp điệu,
Thép Mới đã đem đến cho người đọc vẻ đẹp bình dị và những phẩm chất cao
quý của cây tre. Cây tre đã trở thành một biểu tượng của đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam.
Phân tích tác phẩm Cây tre Việt Nam - Mẫu 3
Qua Cây tre Việt Nam, nhà văn Thép Mới đã khẳng định cây tre là người bạn
thân thiết lâu đời của người nông dân và nhân dân Việt Nam.
Văn bản bắt đầu bằng một nhận xét bao trùm, có sức khái quát cho toàn bài:
“Cây tre là người bạn thân của nông dân Việt Nam, bạn thân của nhân dân Việt
Nam”, rồi ngay sau đó để chứng minh, người viết đi vào luận điểm đầu tiên:
“Cây tre Việt Nam là loài cây độc đáo nhất trong các loài cây”. Ý thức khẳng
định bằng phép so sánh này đã có một cách làm trực tiếp: “đặt cây tre vào vùng
thiên nhiên nhiệt đới của “muôn ngàn cây lá khác nhau”. Chỉ với ba câu văn, tác
giả đã thuyết phục được chúng ta ở sự trân trọng, nâng niu (cây nào cũng đẹp,
cây nào cũng quý) nhưng là nhằm nhấn mạnh về quan hệ “thân thuộc nhất” với
con người thì không gì bằng nứa bằng tre. Để tránh sự ngộ nhận, chủ quan, tác
giả đã trưng bày một hệ thống hình ảnh trùng điệp, liên hoàn có ấn tượng thị
giác rất cao: “Tre Đồng Nai, nứa Việt Bắc, tre ngút ngàn Điện Biên Phủ, luỹ tre
thân mật làng tôi…”. Nếu hình dung cách viết này như một thứ ống kính quay
phim, ta có một cái nhìn ở hai cấp độ viễn cảnh và cận cảnh, từ xa đến gần.
Riêng hình ảnh cận cảnh (luỹ tre thân mật làng tôi) làm chúng ta không khỏi bồi
hồi. Ấy là chưa nói sự cất cánh của lời văn bằng nhạc, một giai điệu say sưa ở sự cân đối, hài hoà.
Nếu tách nhịp, chúng ta có kết cấu 3 - 3, 6 - 6. Ngôn ngữ ấy, nhạc điệu ấy - từ
cảm xúc vang lên như những bài thơ. Mạch cảm hứng dồi dào còn vắt xuống ý
tiếp theo để đi vào phẩm chất. Vẫn với phương pháp so sánh, vẫn với lối văn
trùng điệp, vẫn những nhịp điệu hài hoà, ta thấy hình tượng cây tre độc áo hiện
ra với lòng ham sống và sức sống dồi dào: “Vào đâu tre cũng sống, ở đâu tre
cũng xanh tốt”, và từ cái gốc ấy, nó tự vun trồng những nét đặc trưng: mộc mạc,
nhũn nhặn, cứng cáp, dẻo dai, thanh cao, chí khí. Quen thuộc với con người, lại
“chí khí” như người, cây tre còn độc đáo ở sự hoá thân. Nó là cốt cách người và
chỉ con người Việt Nam mới có. Đọc câu văn ấy ta bỗng giật mình: đường biên
phân định giữa cây tre với con người không còn chia tách rạch ròi được nữa.
Ý tưởng “Cây tre là người bạn thân của nông dân Việt Nam, của nhân dân Việt
Nam” từ đoạn hai trở đi mới rõ. Dưới “Bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản,
xóm, thôn”, hiện ra toàn bộ đời sống con người từ ăn, ờ, lam làm, tập quán,
phong tục, buồn vui, từ dựng nhà dựng cửa, lấy vợ lấy chồng (hai trong ba việc
hệ trọng: tậu trâu, cưới vợ, làm nhà), sinh ra và mất đi, “tre với mình, sống có
nhau, chết có nhau chung thuỷ”. Trong đoạn văn quan trọng này, về cấu trúc có
sự kết hợp đan cài giữa chiều ngang và chiều dọc về chiều ngang, ta nhận ra
thấp thoáng mái chùa cổ kính, nền văn hoá nông tang, những công việc hằng
ngày, cả những nhọc nhằn giần sàng, xay, giã. Tre chẻ lạt gói bánh chưng mỗi
lần tết đến, niềm vui của trẻ thơ, phút khoan khoái của tuổi già, tre đã chia sẻ
với người khăng khít, thuỷ chung. Còn về chiều đọc, nhằm gắn kết, gia cố sự
bền chặt, tác giả đã nhấn mạnh yếu tố thời gian: “mái đình cổ kính”, “nền văn
hoá lâu đời”, “đã từ lâu”, “đời đời, kiếp kiếp”, “đã mấy nghìn năm” Đó chính là
chiều dài bốn nghìn năm lịch sử. Riêng về yếu tố văn hoá, nếu nghĩ cho sâu, nó
không chỉ thể hiện bằng chất liệu vật thể mà còn có cả nền văn hoá phi vật thể.
Đó là những câu hát, những tâm sự, cách so sánh ví von. Đoạn hai của bài có ba
câu thơ thì bắt đầu bằng câu thơ của thời đại mới.
Sau đó, hình như để xâu chuỗi với tâm hồn dân tộc thì một câu thơ là tâm sự
mùa màng, còn một câu nữa là khúc hát giao duyên. Câu thứ nhất, tâm sự cùng
tre làm ta nhớ đến nỗi niềm của người nông dân với con trâu quen thuộc: “Trâu
ơi ta bảo trâu này”. Còn chất nhạc nếu là ưu điểm nổi bật của bài văn, thì ở đoạn
này hiện ra rất rõ. Đó là cách nói có vần và nhịp điệu, nhất là nhịp điệu, chẳng
hạn câu: “Giang chẻ lạt, buộc mềm, khít chặt như những mối tình quê cái thuở
ban đầu thường nỉ non dưới bóng tre, bóng nứa”. Nhất là câu: “Cối xay tre nặng
nề quay, từ nghìn đời nay, xay nắm thóc”. Có thể nói, ít có đoạn nào mà bao
nhiêu tâm sự, nỗi niềm của người viết đã gửi gắm tài hoa và chắt lọc vào từng
câu, từng chữ như ở đoạn này.
Đến đoạn tiếp theo, Thép Mời tiếp tục khẳng định vị trí của cây tre trong công
cuộc giữ nước. Vì sự bất khuất, can trường vốn cũng là một thuộc tính của tre.
Tác giả có nhắc tới ý của người xưa: “Trúc dẫu cháy, đốt ngay vẫn thẳng”.
Đúng, ngay thẳng vốn là khí tiết, là cách ứng xử của trúc, của tre: “Tre xung
phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng
lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ con người”. Tư thế của tre là lăn xả vào cái ác dù
cái ác mạnh đến chừng nào để giữ gìn non sông, đạo lí và cũng là để chung thuỷ
với phẩm chất của tre. Yếu tố trữ tình một lần nữa lại được phát huy. Nhưng ở
đoạn này nó còn gắn liền với tính chính luận. Để liên kết với đoạn trên cũng là
để làm hiện lên một chân dung nguyên khối của cây tre, người viết luôn luôn
lưu ý: “Ta kháng chiến, tre lại là đồng chí chiến đấu của ta. Tre vốn cùng ta làm
ăn, lại vì ta mà cùng ta đánh giặc”. Và kì lạ thay, nếu ở đoạn trên, chiếc cối xay
tre là biểu tượng về cuộc đời lam lũ, sự chịu đựng đến mức bền bỉ, dẻo dai thì
đến đày, vẫn là cây tre nhũn nhặn ấy, nó nhọn hoắt mũi tầm vông với sức mạnh
của Thánh Gióng năm nào đuổi giặc Ân cứu nước.
Đoạn cuối của bài văn là một phác thảo về cây tre trên con đường đi tới để liên
kết giữa hiện tại, quá khứ với tương lai. Đây mới là những dự cảm. Và, tuy mới
chỉ là dự cảm, nhưng vì nói đến tương lai, nó thật là náo nức: “Nhạc của trúc,
nhạc của tre là khúc nhạc của đồng quê. Nhớ một buổi trưa nào, nồm nam cơn gió thổi…”.
Về nghệ thuật, trước hết người đọc dễ dàng nhận ra: “Cây tre Việt Nam” có
phẩm chất văn chương hơn báo chí dù tác giả của nó là nhà báo hơn một nhà
văn. Phẩm chất văn chương biểu hiện cái nền của cảm xúc dồi dào, tình yêu
nồng nhiệt trước con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam mà cây tre là biểu
tượng tuyệt vời. Tình cảm ấy cộng với những tri thức văn hoá, văn chương đã
tìm đến những hình ảnh, những nhạc điệu như một thi nhân để thổ lộ, giãi bày,
diễn tả. Tuy nhiên, là một tuỳ bút chính luận, dù muốn dù không, bài văn có
một tổ chức phân đoạn, phân ý rõ ràng. Cái khéo của nhà văn là tạo được mối
liên kết cả bên ngoài và cả bên trong của nó. Bài văn có được sự liền mạch câu
nọ nối liền câu kia, ý trên với ý dưới như dòng chảy một con sông. Đây là một
chỉnh thể nghệ thuật. Cùng với nội dung, giá trị nghệ thuật chủ yếu của bài văn
là chất thơ văn xuôi của nó. Chất thơ ấy thể hiện trên hai mặt, một là những
hình ảnh táo bạo, phong phú và hai là nhạc điệu đặc biệt của câu về hình ảnh
độc đáo, người viết tạo ra bằng biện pháp nhân hoá trong nhiều trường hợp.
Cây tre Việt Nam là một tác phẩm ngắn gọn nhưng lại chứa đựng ý nghĩa sâu
sắc. Đó là khẳng định mối quan hệ giữa con người và cây tre.
Phân tích tác phẩm Cây tre Việt Nam - Mẫu 4
Đã từ lâu, cây tre trở thành một hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống của con
người. Chính vì vậy, Thép Mới đã khắc họa sự gắn bó qua tác phẩm “Cây tre Việt Nam”.
Trong thế giới thiên nhiên rộng lớn, cây cối xanh tươi, giữa muôn ngàn những
màu xanh cây lá, tre vẫn giữ một vị trí vô cùng nổi bật với sự thân thuộc mà nó
mang đến: “Nước Việt Nam xanh muôn ngàn cây lá khác nhau. Cây nào cũng
đẹp, cây nào cũng quý, nhưng thân thuộc nhất vẫn là tre nứa”. Tre cũng là loài
cây chẳng kén đất sống hay ngại thời tiết nắng gió nhọc nhằn. Dù ở bất kì nơi
đâu, tre vẫn vươn thẳng mình phía trước, sống xanh tốt, dẫu cho đó là chốn đất
cằn đá sỏi hay nơi màu mỡ tốt tươi. Cũng chính bởi thế mà khắp mọi miền đất
nước, đâu đâu cũng thấy bóng dáng tre xanh: “Tre Đồng Nai, nứa Việt Bắc, tre
ngút ngàn Điện Biên Phủ, lũy tre thân mật làng tôi... đâu đâu ta cũng có nứa tre
làm bạn”. Những câu văn đầu như lời giới thiệu đầy nhẹ nhàng mà bộc bạch
tình cảm thắm thiết, chân thành của tác giả dành cho cây tre.
Tre càng gần gũi với con người hơn bao giờ hết bởi những phẩm chất đáng quý
của nó đều gắn với những đức tính tốt đẹp của con người: “Tre, nứa, trúc, mai,
vầu mấy chục loại khác nhau, nhưng cùng một mầm non măng mọc thẳng. Vào
đâu tre cũng sống, ở đâu tre cũng xanh tốt…”. Những phẩm chất dẻo dai, thích
nghi với hoàn cảnh, ngay thẳng, bản lĩnh cứng cáp được trẻ hun đúc từ thế hệ
này sang thế hệ khác đáng ngưỡng mộ biết bao. Không chỉ vậy, trẻ còn mang
khí chất đầy hấp dẫn, thu hút. Chỉ với vài câu văn ngắn mà tác giả đã khẳng
định được vẻ đẹp cả về sức vóc và phẩm chất của tre đầy đúng đắn, thể hiện
được sự tinh tế trong cách quan sát và cảm nhận của tác giả, tre trở thành một
đại diện cho vẻ đẹp, những phẩm chất đầy cao quý của dân tộc Việt Nam.
Trong đời sống con người, trẻ luôn bên cạnh, gắn liền với nhân dân từ xưa tới
nay: “Bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thôn. Dưới bóng tre của ngàn
xưa, thấp thoáng mái đình mái chùa cổ kính. Dưới bóng tre xanh, ta gìn giữ một
nền văn hoá lâu đời. Dưới bóng tre xanh, đã từ lâu đời, người dân cày Việt Nam
dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang. Tre ăn ở với người, đời đời, kiếp
kiếp. Tre, nứa, mai, vầu giúp người trăm nghìn công việc khác nhau. Tre là cánh
tay của người nông dân”. Điệp ngữ “bóng tre”, “dưới bóng tre”, “tre” được lặp
đi lặp lại càng làm rõ sự khăng khít, gắn bó bên nhau giữa trẻ và người.
Tre gắn bó với con người trong cuộc đời như một điều gì khó có thể chia cắt
được. Từ tuổi ấu thơ, tre là nguồn vui trong mỗi trò chơi dân gian chơi chuyền,
đánh thẻ. Lúc trưởng thành, tre bên cạnh con người vào ruộng, ra nương, khi về
già, tre lại là bạn tâm giao trong chiếc điếu cày khoan khoái. Tre chung thủy với
người như dân làng thủy chung, gắn bó với quê hương mình vậy.
Không chỉ vậy, tre còn gắn bó trong chiến đấu. Tre cũng mang trong mình
những phẩm chất của một người hùng bất khuất, kiên cường: “Như tre mọc
thẳng, con người không chịu khuất”. Tre vào chiến trận cũng gan dạ, kiên
cường oanh liệt, lấy thân mình giữ làng nước quê hương: “Gậy tre, chông tre
chống lại sắt thép của quân thù. Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ
làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ con
người. Tre, anh hùng lao động! Tre, anh hùng chiến đấu!”. Tre - người hùng
chiến trận, lời tác giả viết đều chân thực, dựa trên lịch sử và thực tế vì vậy mỗi
từ, mỗi chữ đều lay động tâm hồn người đọc.
Đoạn kết bài là hình ảnh của tre trong cuộc sống hiện đại. Khi mà những xi
măng, cốt sắt ngày càng nhiều thì tre vẫn giữ một vị trí đặc biệt: “Ngày mai,
trên đất nước này, sắt, thép có thể nhiều hơn tre, nứa. Nhưng, trên đường trường
ta dấn bước, tre xanh vẫn là bóng mát. Tre vẫn mang khúc nhạc tâm tình. Tre sẽ
càng tươi những cổng chào thắng lợi. Những chiếc đu tre vẫn dướn lên bay
bổng. Tiếng sáo diều tre cao vút mãi”.
Lời khẳng định đầy thiết tha ấy đã cho thấy một sức sống trường tồn, vĩnh cửu
của tre trong đời sống dân tộc Việt Nam. Tác phẩm với ngôn ngữ mộc mạc,
chân tình, lối viết giản đơn nhưng đã mang lại cho người đọc những tình cảm
tốt đẹp. Có lẽ phải trân quý và yêu lắm cây tre Việt Nam tác giả mới viết nên
những dòng văn thấm đẫm cảm xúc như thế.
Phân tích tác phẩm Cây tre Việt Nam - Mẫu 5
Cây tre từ lâu đã vô cùng gắn bó với cuộc sống của người dân Việt Nam. Khi
đến với tác phẩm “Cây tre Việt Nam”, Thép Mới đã cho người đọc thấy được sự
gắn bó của cây tre trong cuộc sống của con người Việt Nam.
Trước hết, cây tre có mặt ở mọi nơi trên đất nước ta và có những phẩm chất
đáng quý. Tre là người bạn thân của nông dân, nhân dân Việt Nam. Nhà văn đã
khắc họa những đặc điểm của cây tre: “Vào đâu tre cũng sống, cũng xanh tốt”,
“Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn”. Khi lớn lên, cứng cáp, dẻo
dai, vững chắc. Qua đó thấy được, cây tre mang vẻ đẹp thanh cao, giản dị, chí khí như con người.
Không chỉ vậy, tre còn gắn bó với con người trong cuộc sống hàng ngày và
trong lao động. Sự gắn bó đó được nhà văn khắc họa vô cùng cụ thể. Tre trùm
lên âu yếm bản làng, xóm, thôn. Dưới bóng tre, giữ gìn một nền văn hóa lâu
đời, con người dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang. Tre là cánh tay của
người nông dân. Cây tre vất vả mãi với người cối xay tre nặng nề quay. Tre là
người nhà, khăng khít với đời sống hằng ngày. Tre buộc chặt những tình cảm
chân quê. Tre là niềm vui của tuổi thơ, của người già. Những hình ảnh nhân hóa
đã làm tăng thêm tính gần gũi, thân quen của trẻ với nhân dân. Đồng thời là
phẩm chất ngay thẳng, cống hiến hết mình của tre đối với nhân dân, đất nước.
Tre còn sát cánh trong cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Nhân dân ta đã dùng tre
làm vũ khí đánh giặc. Trong quá khứ, chúng ta không thể quên được hình ảnh
Thánh Gióng đã nhổ bụi tre để đánh đuổi giặc Ân. Ở hiện tại, tre xung phong
vào xe tăng, đại bác. Tre đã giúp nhân dân ta giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà
tranh. Thậm chí tre còn “hy sinh để bảo vệ con người”. Cuối cùng, tre là người
bạn của dân tộc ta. Tre vẫn còn nguyên vị trí trong tương lai khi đất nước đi vào
công nghiệp hóa: tre vẫn là bóng mát, tre mang khúc nhạc tâm tình. Tre mang
những đức tính của người hiền, là tượng trưng cao quý của dân tộc Việt Nam.
Đến đoạn cuối cùng, nhà văn đã khẳng định vị trí của cây tre khi đất nước bước
vào thời kỳ công nghiệp hóa: khi mà sắt, thép và xi măng cốt sắt sẽ dần dần trở
nên quen thuộc, sẽ thay thế một phần cho tre nứa. “Nhưng tre nữa sẽ vẫn còn
mãi. Nứa tre vẫn làm bóng mát, làm cổng chào, và hóa thân vào âm nhạc, vào
nét văn hóa trong chiếc đu ngày xuân dướn lên bay bổng”.
Để khắc họa được hình ảnh cây tre Việt Nam, Thép Mới đã sử dụng nhiều chi
tiết, hình ảnh chọn lọc mang ý nghĩa biểu tượng, sử dụng biện pháp tu từ nhân
hóa, lời văn giàu cảm xúc và nhịp điệu…
Như vậy, tác phẩm “Cây tre Việt Nam” đã khắc họa được hình ảnh cây tre với
sự gắn bó mật thiết trong cuộc sống của con người Việt Nam. Tre đã trở thành
biểu tượng cho sức mạnh và con người Việt Nam.
Document Outline
- Dàn ý phân tích tác phẩm Cây tre Việt Nam
- Phân tích tác phẩm Cây tre Việt Nam - Mẫu 1
- Phân tích tác phẩm Cây tre Việt Nam - Mẫu 2
- Phân tích tác phẩm Cây tre Việt Nam - Mẫu 3
- Phân tích tác phẩm Cây tre Việt Nam - Mẫu 4
- Phân tích tác phẩm Cây tre Việt Nam - Mẫu 5