Văn mẫu lớp 6: Phân tích tác phẩm Cô Tô | Kết nối tri thức
Văn bản Cô Tô là phần cuối của bài kí Cô Tô - tác phẩm ghi lại những ấn tượng về thiên nhiên, về con người lao động của vùng đảo Cô Tô mà nhà văn Nguyễn Tuân thu nhận được trong chuyến đi ra thăm đảo.
Chúng tôi sẽ cung cấp Bài văn mẫu lớp 6: Phân tích tác phẩm Cô Tô, bao gồm dàn ý và 10 bài văn mẫu. Hãy theo dõi ngay sau đây.
Chủ đề: Bài 5: Những nẻo đường xứ sở (KNTT)
Môn: Ngữ Văn 6
Sách: Kết nối tri thức
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Phân tích tác phẩm Cô Tô
Dàn ý phân tích tác phẩm Cô Tô I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Tuân (những nét chính về cuộc đời, phong cách sáng tác…)
- Giới thiệu khái quát về bài văn Cô Tô (xuất xứ, khái quát giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật…) II. Thân bài
1. Cảnh cơn bão ở Cô Tô
Tác giả quan sát và cảm nhận trận bão bằng những giác quan:
- Xúc giác: Mỗi viên cát bắn vào má vào gáy lúc này buốt như một viên đạn mũi kim.
- Thính giác: Gió liên thanh quật lia lịa…, Sóng thúc lẫn nhau mà vào bờ âm âm
rền rền…, Nó rít lên rú lên…
- Thị giác: Sóng cát đánh ra khơi, bể đánh bọt sóng vào, trời đất trắng mù mù toàn
bãi như là kẻ thù bắt đầu thả hơi ngạt; Gác đào ủy nhiều khuôn cửa kính bị gió vây
và dồn, bung hết; Kính bị thứ gió cấp 11 ép, vỡ tung.
=> Cơn bão giống như một kẻ thù đang dàn trận để đánh bại con người.
2. Cảnh Cô Tô sau cơn bão
- Vị trí quan sát: nóc đồn - Cảnh vật sau cơn bão:
Một ngày trong trẻo, sáng sủa.
Cây trên núi đảo lại thêm xanh mượt.
Nước biển lam biếc đậm đà hơn. Cát lại vàng giòn hơn.
Lưới nặng mẻ cá giã đôi.
=> Cảnh vật Cô Tô hiện lên trong trẻo, tinh khiết, tràn đầy sức sống sau cơn bão
3. Cảnh mặt trời lên trên đảo Cô Tô
- Điểm nhìn: từ những hòn đá đầu sư, sát mép nước
- Cảnh mặt trời mọc được miêu tả:
Chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây bụi
Mặt trời nhú lên dần dần
Tròn trĩnh, phúc hậu như một quả trứng thiên nhiên đầy đặn
Quả trứng hồng hào... nước biển ửng hồng Y như một mâm lễ phẩm
=> Hình ảnh mặt trời trên biển huy hoàng, rực rỡ với tài quan sát tinh tế, cảnh mặt
trời mọc ở Cô Tô được thể hiện trong sự giao thoa hân hoan giữa con người với thế giới.
4. Cảnh sinh hoạt buổi sáng của con người trên đảo Cô Tô
- Quanh giếng nước ngọt: vui nhộn như một cái bến và đậm đà mát nhẹ
- Chỗ bãi đá: bao nhiêu là thuyền của hợp tác xã đang mở nắp sạp...
- Thùng và cong và gánh nối tiếp đi đi về về.
- Cuộc sống thanh bình: “Trông chị Châu Hòa Mãn địu con... lũ con hiền lành”.
=> Tác giả thể hiện sự đan quyện cảm xúc giữa người và cảnh, đồng thời thể hiện
tình yêu Cô Tô của riêng Nguyễn Tuân. III. Kết bài
Đánh giá lại tác phẩm Cô Tô của Nguyễn Tuân.
Phân tích tác phẩm Cô Tô - Mẫu 1
Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Ông sáng tác
nhiều về đề tài cuộc sống mới, con người mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc nước ta. “Cô Tô” là một bút ký in trong tập ký cùng tên, xuất
bản năm 1976. Nguyễn Tuân đã ghi lại những ấn tượng tốt đẹp của mình về cảnh
sắc tuyệt vời của quần đảo Cô Tô trong vịnh Bắc Bộ và hình ảnh những ngư dân
cần cù lao động, góp phần làm giàu cho Tổ quốc. Đồng thời thể hiện tình yêu thiên
nhiên và con người đằm thắm, thiết tha của mình qua thiên bút ký này.
Đầu tiên, Nguyễn Tuân đã khắc họa đôi nét cảnh cơn bão ở Cô Tô. Tác giả quan
sát và cảm nhận trận bão bằng những giác quan. Đầu tiên là xúc giác: “Mỗi viên
cát bắn vào má vào gáy lúc này buốt như một viên đạn mũi kim”; Rồi đến thính
giác “Gió liên thanh quật lia lịa…, Sóng thúc lẫn nhau mà vào bờ âm âm rền
rền…, Nó rít lên rú lên…”; Và cả thị giác: “Sóng cát đánh ra khơi, bể đánh bọt
sóng vào, trời đất trắng mù mù toàn bãi như là kẻ thù bắt đầu thả hơi ngạt; Gác đào
ủy nhiều khuôn cửa kính bị gió vây và dồn, bung hết; Kính bị thứ gió cấp 11 ép, vỡ
tung”. Có thể thấy, cơn bão giống như một kẻ thù đang dàn trận để đánh bại con người.
Phong cảnh Cô Tô sau khi cơn bão đi qua hiện lên như một bức tranh tuyệt đẹp.
Trên cái nền là bầu trời xanh tươi sáng và mặt nước màu lam biếc, nổi bật lên màu
xanh mượt của cây, màu vàng giòn của cát và màu trắng của sóng xô dào dạt vào
đảo. Cảnh thiên nhiên được miêu tả từ cao xuống thấp. Từ nóc đồn trên đảo,
Nguyễn Tuân nhìn ra bao la Thái Bình Dương bốn phương tám hướng, quay gót
180 độ mà ngắm cả toàn cảnh đảo Cô Tô. Cảnh đẹp được thu vào tầm mắt khiến
nảy sinh trong lòng nhà văn một cảm xúc mãnh liệt: “càng thấy yêu mến hòn đảo
như bất cứ người chài nào đã từng đẻ ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây”.
Đọc đoạn trích này, người đọc không thể nào quên cảnh mặt trời mọc trên biển
Đông. Đây là một bức tranh lộng lẫy, huy hoàng hiếm có. Cảnh mặt trời mọc được
miêu tả trong một không gian rộng lớn, bao la, trong trẻo, tinh khôi: “Sau trận bão,
chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi”. Tác giả đã dùng hình
ảnh so sánh đặc sắc, ví mặt trời sau khi lên “tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một
quả trứng thiên nhiên đầy đặn, hồng hào”. Còn mặt bể là “một mâm bạc đường
kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng’”.
Tiếp đến là hoạt động trên đảo vừa khẩn trương, tấp nập lại vừa vui vẻ, thanh bình.
Quanh cái giếng nước ngọt đảo Thanh Luân sớm nay có không biết bao nhiêu là
người đến gánh và múc. Người dân chài gánh nước ngọt từ giếng xuống thuyền,
chuẩn bị cho mười tám thuyền lớn nhỏ cùng ra khơi đánh cá hồng, vẻ thanh bình
của cuộc sống còn được thể hiện ở suy ngẫm và liên tưởng của nhà văn trước hình
ảnh: “Chị Châu Hoà Mãn địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển
cả là mẹ hiền móm cá cho lũ con lành”. Nguyễn Tuân cảm nhận rất tinh tế về sắc
thái riêng của cuộc sống ở Cô Tô. Điều đó được thể hiện qua so sánh: “Cái giếng
nước ngọt ở ria một hòn đảo giữa bể, cái sinh hoạt của nó vui như một cái bến và
đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền”. Biển Cô Tô đẹp mê hồn. Sức hấp
dẫn của biển cả và những sản vật mà nó hào phóng ban tặng cho con người đã thu
hút biết bao chàng trai ra biển để làm giàu cho cuộc sống và cho Tổ quốc. Chủ
nhân của vùng đảo tươi đẹp này là những ngư dân ngày đêm bám biển. Họ “ăn
sóng nói gió” và đã quen chịu đựng những khó khăn gian khổ do thời tiết khắc nghiệt gây nên.
Kết thúc bài kí là cảnh đoàn thuyền chuẩn bị ra khơi và chị Châu Hoà Mãn địu con
đứng trên bãi biển tiễn chồng. Đó là những hình ảnh tiêu biểu của cuộc sống lao
động khoẻ khoắn, vui tươi của những ngư dân cần cù, chất phác trên đảo Cô Tô.
Cảnh thiên nhiên, cảnh sinh hoạt của con người trên đảo và vùng biển Cô Tô được
miêu tả trong đoạn trích thật tươi đẹp, trong sáng và đa dạng qua ngòi bút điêu
luyện, giàu cảm xúc của Nguyễn Tuân. Đặc biệt, cảnh mặt trời mọc trên biển là
một bức tranh huy hoàng, lộng lẫy đầy chất thơ.
Đoạn trích trên đây đã giúp người đọc hiểu thêm về một cảnh quan nổi tiếng của
đất nước. Từ đó càng thêm yêu mến, gắn bó và tự hào về Tổ quốc Việt Nam giàu đẹp.
Phân tích tác phẩm Cô Tô - Mẫu 2
Nguyễn Tuân là nhà văn nổi tiếng, có sở trường về thể tuỳ bút và kí. Tác phẩm của
Nguyễn Tuân luôn thể hiện phong cách độc đáo, tài hoa và sự hiểu biết phong phú
nhiều mặt. Bài văn Cô Tô là phần cuối của bài ký cùng tên. Đoạn trích đã phần nào
ghi lại được những ấn tượng về thiên nhiên, con người lao động ở vùng đảo Cô Tô
mà nhà văn thu nhận được trong chuyến ra thăm đảo.
Mở đầu là cảnh Cô Tô trong cơn bão. Tác giả quan sát và cảm nhận trận bão bằng
những giác quan. Đầu tiên là xúc giác: “Mỗi viên cát bắn vào má vào gáy lúc này
buốt như một viên đạn mũi kim”; Rồi đến thính giác “Gió liên thanh quật lia lịa…,
Sóng thúc lẫn nhau mà vào bờ âm âm rền rền…, Nó rít lên rú lên…”; Và cả thị
giác: “Sóng cát đánh ra khơi, bể đánh bọt sóng vào, trời đất trắng mù mù toàn bãi
như là kẻ thù bắt đầu thả hơi ngạt; Gác đào ủy nhiều khuôn cửa kính bị gió vây và
dồn, bung hết; Kính bị thứ gió cấp 11 ép, vỡ tung”.
Tiếp đến nhà văn miêu tả vẻ đẹp của đảo Cô Tô sau cơn bão. Cảnh thiên nhiên
hiện lên thật trong sáng, tinh khôi trong buổi sáng đẹp trời: “Bầu trời trong sáng,
cây thêm xanh mượt, nước biển lại lam biếc, đậm đà hơn hết cả mọi khi, và cát lại
vàng giòn hơn nữa”. Ngỡ như đất trời biển Cô Tô được rửa sạch, được tái tạo để
hoá thành một cảnh sắc trong sáng tuyệt vời. Để “vẽ” được bức tranh toàn cảnh
của đảo Cô Tô sau cơn bão, tác giả phải công phu lắm mới chọn được những hình
ảnh tiêu biểu: bầu trời, nước biển, cây trên đảo, bãi cát, và đi với những hình ảnh
ấy là một loạt tính từ chỉ màu sắc và ánh sáng: Bầu trời thì trong trẻo, sáng sủa, cây
trên biển thì xanh mượt, nước biển lam biếc, cát lại vàng giòn. Có được cảnh sắc
đẹp như vậy là do nhà văn đã chọn được vị trí quan sát từ trên điểm cao trên nóc
đồn để nhìn ra bao la Thái Bình Dương bốn phương tám hướng, quay gót 180 độ
mà ngắm toàn cảnh đảo Cô Tô. Sau cơn bão, thiên nhiên ở đảo Cô Tô hiện lên thật
là đẹp. Phải chăng bức tranh đảo Cô Tô đẹp bởi có tình người của Nguyễn Tuân?
Thật là thiếu sót nếu ta không nói đến cảnh mặt trời mọc trên biển trong bức tranh
thiên nhiên của đảo Cô Tô. Cảnh tượng được Nguyễn Tuân miêu tả hùng vĩ, rực rỡ
và tráng lệ biết bao. Cảnh Cô Tô có cái màu xanh lam biếc của biển buổi chiều, lại
có cái màu đỏ rực rỡ của mặt trời buổi sớm nhô lên biển lúc hừng đông. Nguyễn
Tuân đã thức dậy từ canh tư ra mãi thấu đầu mũi đảo để ngồi rình mặt trời lên.
Đoạn văn này, Nguyễn Tuân đã thực sự mang đến cho người đọc những dòng viết
tài hoa về cảnh tượng vô cùng độc đáo. Sau trận bão, chân trời, ngấn bể sạch như
tấm kính lau hết mây bụi. Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh
phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào,
thăm thẳm và đứng bệ đặt lên một mâm bạc, đường kính mâm rộng bằng cả một
cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng. Những so sánh thật bất ngờ,
những liên tưởng thật thú vị. Nhưng đến liên tưởng tiếp theo thì mới thực sự tài
hoa, mới in đậm phong cách Nguyễn Tuân: “Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ
trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên
muôn thuở biển Đông”. Màu sắc hài hoà giữa đỏ, hồng, bạc, ngọc trai, chi tiết tạo
hình rất độc đáo quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên mâm bạc
khổng lồ; hình ảnh từ ngữ sang trọng: “Mâm lễ phẩm, bạc nén, trường thọ”. Tất cả
tạo nên một vẻ đẹp vừa hùng vĩ đường bệ, vừa phồn thịnh và bất diệt, lại rực rỡ,
tráng lệ làm lên một ấn tượng riêng đặc sắc về trời biển Cô Tô.
Tiếp đến, cuộc sống của người dân trên biển càng làm cho bức tranh đảo Cô Tô
thêm sinh động. Cảnh sinh hoạt và lao động trên đảo trong một buổi sáng được tác
giả tập trung miêu tả vào một địa điểm là cái giếng nước ngọt ở rìa đảo. Tại đây,
những người dân chài gánh nước ngọt từ giếng xuống thuyền. Khung cảnh thật
thanh bình, nhịp điệu của cuộc sống lao động khẩn trương, tấp nập, đông vui: “Cái
giếng nước ngọt của đảo Thanh Luân sớm nay có không biết bao nhiêu là người
đến gánh và múc. Múc nước giếng vào thùng gỗ, vào những cong, những ang gốm
màu da lươn [...] Từ đoàn thuyền sắp ra khơi đến cái giếng ngọt, thùng và cong và
gánh nối tiếp đi đi về về, vẻ thanh bình của cuộc sống còn được thể hiện trong một
hình ảnh mang nét riêng của Cô Tô, lại hàm chứa ý nghĩa Trông chị Châu Hoà
Mẫu địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm
cả cho lũ con lành”. Được chứng kiến cảnh đó, Nguyễn Tuân đã có sự cảm nhận về
sắc thái riêng một cách tinh tế, khi ông so sánh Cái giếng nước ngọt ở ria một hòn
đảo giữa bể, cái sinh hoạt của nó vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi
cái chợ trong đất liền. Vui như một cái bến thì nơi nào cũng có, nhưng đậm đà mát
nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền thì chính là cái sắc thái riêng của không khí
trong lành và tình người đậm đà trên biển Cô Tô.
Cảnh thiên nhiên và sinh hoạt của con người vùng đảo Cô Tô hiện lên thật trong
sáng và tươi đẹp qua ngôn ngữ điêu luyện và sự miêu tả tinh tế, chính xác, giàu
hình ảnh và cảm xúc của Nguyễn Tuân. Bài văn cho ta hiểu biết và yêu mến một
vùng đất của Tổ quốc - quần đảo Cô Tô.
Phân tích tác phẩm Cô Tô - Mẫu 3
Ký là một thể loại văn tự sự có những yêu cầu riêng so với truyện ngắn hoặc tiểu
thuyết. Một trong những đặc trưng khác biệt đó là tính chân thực, khách quan (chứ
không phải là hư cấu, tưởng tượng). Cách ghi chép của bài kí tưởng như đơn giản,
nhưng thực ra không phải thế. Người viết ký phải đem đến cho bạn đọc những bức
tranh, những câu chuyện vốn có thực ở ngoài đời thông qua cách nhìn riêng, cách
cảm nhận riêng. Đó chính là “cái tôi” của tác giả. Bởi thế, có những cảnh, những
người vẫn chung sống quanh ta, nhưng đến một lúc nào đó, có ánh sáng của nghệ
thuật soi vào, thế giới hiện thực ấy bỗng nhiên thức dậy sinh động lạ thường như
có bàn tay của phép lạ. Cô Tô của Nguyễn Tuân là một trường hợp như vậy, một
định nghĩa điển hình về thể kí. Ở bài kí nhỏ này (thực ra là một đoạn trích), ta thấy
được một cái nhìn nghệ sĩ thật tinh tế, tài hoa.
Bức tranh toàn cảnh của Cô Tô được giới thiệu ở phần đầu giống như một cánh
cửa mở ra giúp kẻ lữ hành có một cái nhìn khái quát. Nhưng, dù chỉ khái quát, ấn
tượng mà vùng đất, vùng trời nơi đây để lại khá sâu. Chúng ta có cảm giác như
bước vào một vùng thời gian và không gian không giống như bất cứ nơi nào. Nhà
văn như làm mới lại một cái gì đã cũ. Hình như ở đây, người nghệ sĩ đã có một cái
nhìn xuyên thời gian để nối liền hiện tại với quá khứ, một quá khứ từ trăm năm,
nghìn năm. Câu văn có ba mệnh đề thì hai mệnh đề trước đó như một quy trình của
sự phục sinh. Thì ra cái trong trẻo mà ta có được bây giờ trong cảm nhận đã được
sàng lọc từ lâu, từ khi quần đảo Cô Tô "mang lấy dấu hiệu của sự sống con người",
và phải qua "giông bão". Cái nhìn trải nghiệm vừa có một trầm tích văn hoá lịch sử
xa xôi sâu lắng vừa rất đỗi non tơ. Giữ cho bầu trời Cô Tô trong sáng như hôm nay
là một tâm hồn rất trẻ. Độ tươi trẻ và đằm thắm mặn mà của trời biển Cô Tô cần
đến một sự tinh tế mới phần biệt được màu “xanh mượt" của cây trên núi đảo, với
màu “lam biếc” của nước biển ngoài khơi, cả cái màu “vàng giòn” nhảy múa. Tất
cả như xôn xao, sống dậy sau cơn giông tố dập vùi.
Nâng lên một độ cao hơn nữa, ta có thêm độ rộng, độ rộng của tầm nhìn trước một
“bao la Thái Bình Dương bốn phương tám hướng”, một cái nhìn thoáng đãng, mà
tuyệt không có cảm giác vạng lạnh, cô đơn. Vì càng mở ra độ rộng, ta càng có độ
sâu. Người lữ hành “nhập cuộc” với lòng thương mến vô bờ "như bất cứ người
chài nào đã từng đẻ ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây". Bởi Cô Tô có bao nhiêu
bạn hữu, những Tô Bắc, Tô Trung, Tô Nam... sát cánh cùng nhau, cũng như cái ấm
áp của “Anh em bộ binh và hải quân cùng đóng sát nhau trong cái đồn khố xanh cũ ấy”.
Cảnh mặt trời mọc trên biển Cô Tô thật hoành tráng và rực rỡ lạ thường. Được
chiêm ngưỡng nó, với nhà văn là một hạnh phúc hiếm hoi. Để “rình mặt trời lên”
phải dậy từ canh tư, đi từ còn tối đất, trên con đường lạ lẫm: “những tảng đá đầu
sư”. Nhưng với bao nhiêu háo hức, hồi hộp trong lòng, ông chẳng ngại. Thậm chí
còn như trẻ lại. Và quả nhiên, trời cũng chiều người, nhà văn được chứng kiến một
cảnh tượng kì thú. Mặt trời mọc “tròn trĩnh, phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng
thiên nhiên đầy đặn”. Táo bạo và tài hoa không dừng ở sự so sánh. Hoặc nói đúng
hơn, vẫn là so sánh nhưng mở dần ra theo chiều liên tưởng thú vị liên tiếp bất ngờ.
Nguyễn Tuân đã đặt cái “quả trứng hồng hào” ấy lên một cái mâm bạc, mà đường
kính của nó “rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng”
thì thật là đài các, sang trọng. Rồi nhà văn so sánh cảnh tượng thiên nhiên với mâm
lễ phẩm nhưng không phải để long trọng dâng lên một thứ quyền uy tối thượng nào
(cho phù hợp với cái nghi thức quý phái cao sang) mà đột ngột thân tình: “mừng
cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông”.
Cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân nếu so với những cái gì trước đày (trước 1945), nó
đã đổi chiều. Nhà văn đã tự làm một cuộc cách mạng trong cảm quan của mình trước cuộc sống.
Trung tâm sự sống - sự sống của con người nơi đây là cái giếng nước ngọt của đảo
Thanh Luân. Nếu cảnh mặt trời mọc là cảnh của chiêm bao, của mơ mộng, nó thật
nghệ sĩ, tài hoa thì cái giếng nước ngọt là tiêu biểu cho cái thực thuần phác và đầy
ắp tình người. Cái “thực” ấy được miêu tả theo lối chứng minh cho một cảm nhận
trực giác (lòng giếng vẫn còn rớt lại vài cái lá cam lá quýt), nghĩa là không phải
một thứ giếng tiên trong thần thoại, cổ tích thời nào. Trước hết, cái giếng ấy thân
thuộc biết bao với dân trên đảo. Người ta đến đó để tắm gội, để múc nước mang
về, nghĩa là rất giống một thứ giếng làng có gốc đa, bến nước của chốn quê hương
các vùng châu thổ. Cái cảm giác có thực của nó được nhận biết không phải bằng trí
tưởng tượng mà trên da thịt con người, từ những gầu nước của nó mà nhà văn vừa
đi ngắm cảnh mặt trời mọc trở về đang “dội lên đầu lên cổ lên vai lên lưng”. Còn
những người lao động bình thường thì có thể múc nước đổ vào mọi thứ: vào thùng
gỗ, vào những cong, những ang gốm màu da lươn. Chỉ có một điều khác là cái
giếng nước ngọt ấy do vị trí đặc thù của nó ở rìa một hòn đảo giữa nước mặn mênh
mông, mà sinh hoạt của con người, xung quanh nó “vui như một cái bến và đậm đà
mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền”. Không chỉ thân thuộc, cái giếng ấy còn
như một thứ dòng sữa nuôi người, của mẹ nuôi con. Cảm nhận thứ hai này bất chợt
hiện ra khi người viết tìm được một ý tưởng mới lạ trong cái cử chỉ quen thuộc của
chị Châu Hoà Mãn địu con. Nhìn cử chỉ “dịu dàng yên tâm” như thế nào của người
mẹ, nhà văn mới tìm ra được cái âu yếm nuôi người của biển cả. Hình ảnh người
mẹ dịu con gợi “hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành”. Thì ra biển
cả tuy hung dữ thế mà rất đỗi khoan dung.
Như vậy đoạn trích “Cô Tô” đã khắc họa được khung cảnh thiên nhiên và sinh hoạt
của con người trên vùng đảo Cô Tô thật trong sáng và tươi đẹp.
Phân tích tác phẩm Cô Tô - Mẫu 4
Cô Tô là một trong những bài kí tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Tuân. Khi đọc tác
phẩm này, khung cảnh thiên nhiên và sinh hoạt của con người trên vùng đảo Cô Tô
thật sẽ được khắc họa vô cùng chân thực.
Tác giả quan sát và cảm nhận trận bão bằng những giác quan. Đầu tiên là xúc giác:
“Mỗi viên cát bắn vào má vào gáy lúc này buốt như một viên đạn mũi kim”; Rồi
đến thính giác “Gió liên thanh quật lia lịa…, Sóng thúc lẫn nhau mà vào bờ âm âm
rền rền…, Nó rít lên rú lên…”; Và cả thị giác: “Sóng cát đánh ra khơi, bể đánh bọt
sóng vào, trời đất trắng mù mù toàn bãi như là kẻ thù bắt đầu thả hơi ngạt; Gác đào
ủy nhiều khuôn cửa kính bị gió vây và dồn, bung hết; Kính bị thứ gió cấp 11 ép, vỡ
tung”. Cơn bão hiện lên vô cùng dữ dội.
Quần đảo Cô Tô vừa trải qua cơn bão. Cảnh vật và sự sống như bừng lên, trong
sáng, cây cối trên núi đảo xanh mướt như để thi màu sắc với biển. Nước biển màu
xanh lam lẫn từng đợt sóng vào bãi cát vàng. Theo nhà văn thì những ngày động
biển cá sẽ vắng mặt biệt tích nhưng sau đó thì những mẻ lưới lại nặng thêm, ông kể
việc đi tham quan của mình để giới thiệu rằng Cô Tô có cả Tô Bắc, Tô Trung, Tô
Nam và nếu trèo lên góc đồi thì nhìn ra bao la Thái Bình Dương, bốn phương tám hướng.
Thật là đẹp cái nắng ở Cô Tô. Nắng soi vào người chiếu ánh trắng lên trên hàm
răng. Nắng làm nổi gân cái buồm cánh dơi, nhuộm tươi lại lá buồm nâu cũ. Nhà
thơ dùng lối văn miêu tả so sánh vừa lạ vừa sống động: “Sau trận bão, chân trời,
ngấn bể sạch như tâm kính lau hết bụi… vài chiếc nhạn mùa thu chao đi chao lại
trên mâm bể, sáng dần lên cái chất bạc nén”. Tiếp đến ông quan sát và tả lại màu
nước biển của Cô Tô. Đó là một màu xanh luôn biến đổi, mà các dạng màu xanh
này phải tìm ở vốn tự vị mới hết được.
Nguyễn Tuân đã để cho màu xanh của nước biển có sự biến hóa linh hoạt. Màu
xanh của cỏ cây, núi đồi, không thể đủ phô diễn nhà văn phải so sánh, ví von như
màu xanh của áo thư sinh Kim Trọng, Tư mã Giang Châu… Và ông vẫn chưa thỏa
mãn với những màu xanh ấy mà còn nói: “màu xanh nước biển chiều nay như
trang sử của loài người “nghĩa là như thân tre khi người ta dùng nó để viết… có
những màu xanh chỉ miêu ta do cảm quan của nhà văn làm em không hiểu nổi ví
như “màu xanh dầu xăng của những người thiếu quê hương”.
Đặc biệt nhất là khung cảnh mặt trời mọc được miêu tả tinh tế. Cả một bầu trời,
một chân trời được nhà văn vẽ lên trên giấy: “Quả trứng hồng hào thăm thẳm, và
đường bệ đặt lên mâm bạc đường kính rộng cả bằng một cái chân trời màu ngọc
trai nước biển, ửng hồng”. Sức tưởng tượng của nhà văn vượt ra khỏi tầm nhìn trở
lại trong tâm linh đề minh họa cái bầu trời một buổi sáng kia: “Y như một mâm lễ
phẩm tiến ra từ bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài
lưới trên muôn thuở biển Đông”. Và nhà văn bỗng gặp cả một cảnh kỳ thú tìm thấy
từ trong ngữ của minh hòa vào với thiên nhiên trước mắt. “Vài chiếc nhạn mùa thu
chao đi chao lại trên mâm bể sáng dần lên các chất bạc nến. Một con hải âu bay ngang là là nhịp cánh”.
Nguyễn Tuân đã khắc họa được nét đẹp chân thực của Cô Tô. Tác phẩm đã đem
đến cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.
Phân tích tác phẩm Cô Tô - Mẫu 5
Nguyễn Tuân (1910 - 1987), là một nhà văn nổi tiếng được xếp vào hàng một trong
chín nhà văn tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại, với sở trường chủ
yếu là tùy bút và kí. Trước cách mạng tháng tám các chủ đề của Nguyễn Tuân chủ
yếu xoay quanh những vẻ đẹp “vang bóng một thời” với những tác phẩm khá thành
công như: Vang bóng một thời, Chiếc lư đồng mắt cua, hay Một chuyến đi... Sau
cách mạng, ông tìm đến với chủ đề mới về ngợi ca quê hương đất nước, vẻ đẹp của
con người trong lao động, với các tác phẩm tiêu biểu như tùy bút Sông Đà, tập ký
Cô Tô, Tùy bút kháng chiến... Đoạn trích Cô Tô là phần cuối của tác phẩm ký Cô
Tô, ghi lại những ấn tượng của tác giả về thiên nhiên, con người và cuộc sống lao
động sau một chuyến ra thăm đảo Cô Tô.
Tác giả cảm nhận cảnh cơn bão ở Cô Tô qua nhiều giác quan. Đầu tiên là xúc
giác: “Mỗi viên cát bắn vào má vào gáy lúc này buốt như một viên đạn mũi kim”;
Rồi đến thính giác “Gió liên thanh quật lia lịa…, Sóng thúc lẫn nhau mà vào bờ âm
âm rền rền…, Nó rít lên rú lên…”; Và cả thị giác: “Sóng cát đánh ra khơi, bể đánh
bọt sóng vào, trời đất trắng mù mù toàn bãi như là kẻ thù bắt đầu thả hơi ngạt; Gác
đào ủy nhiều khuôn cửa kính bị gió vây và dồn, bung hết; Kính bị thứ gió cấp 11
ép, vỡ tung”. Cơn bão giống như một kẻ thù đang dàn trận để đánh bại con người.
Tiếp đến, tác giả Nguyễn Tuân đã đi vào miêu tả lại vẻ đẹp trong sáng, tươi trẻ của
đảo Cô Tô sau khi trận bão đi qua. Tác giả đã dùng một loạt các tính từ chỉ màu
sắc và ánh sáng có sức gợi mạnh mẽ để tái hiện dáng vẻ tinh khôi, trong sáng của
đảo Cô Tô sau khi bão tan như: trong trẻo, sáng sủa, xanh mượt, lam biếc, vàng
giòn. Không chỉ đặc sắc ở việc dùng lựa chọn từ ngữ mà tài năng của Nguyễn Tuân
còn bộc lộ ở cách mà tác giả lựa chọn những cảnh sắc tiêu biểu để gợi ra khung
cảnh của Cô Tô như: bầu trời, nước biển, cây trên núi, bãi cát. Đó đều là những
hình tượng tiêu biểu của một vùng đảo, cho người đọc những hình dung cơ bản
nhất về bức tranh mà Nguyễn Tuân định tái hiện - đảo Cô Tô sau bão. Đứng từ một
điểm cao nơi đóng quân của bộ đội, Nguyễn Tuân phóng tầm mắt ra xa mở ra
khung cảnh bao la và vẻ đẹp tươi sáng của đảo bằng hai từ “trong trẻo và sáng
sủa”. Thiên nhiên nơi đây ngập tràn sức sống với hình ảnh “cây trên núi lại thêm
xanh mượt”, gợi ra dáng vẻ sạch sẽ, mướt mát, tinh khiết của cây cối, cùng với đó
là màu “lam biếc” đậm đà của nước biển, và sự “vàng giòn” của cát biển, đem đến
cho chúng ta một bức tranh khoáng đạt, trong trẻo, với những gam màu nhẹ nhàng,
thanh sạch. Bên cạnh đó sự chuyển đổi cảm giác từ thị giác với những gam màu
xanh, vàng sang vị giác với các tính từ “đậm đà”, “giòn” đã bộc lộ những cảm
nhận tinh tế, sâu sắc của Nguyễn Tuân về vẻ đẹp độc đáo, thanh khiết vô cùng nơi
đảo xa. Đồng thời cũng để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả không chỉ
là vẻ đẹp của Cô Tô và còn là nghệ thuật dùng từ ấn tượng, đạt đến trình độ thượng thừa của tác giả.
Sang phần tiếp theo của đoạn trích, hình ảnh đảo Cô Tô lại được tác giả tái hiện
qua quang cảnh mặt trời mọc trên biển - một cảnh tượng tráng lệ, hùng vĩ và tuyệt
đẹp. Ở đoạn này toàn bộ bức tranh tranh trẻo, thanh khiết sau bão đã trở thành nền
tảng để làm nổi bật lên vẻ đẹp rực rỡ của bình minh. Hình ảnh mặt trời mọc được
đặt trong một khung cảnh rộng lớn, khoáng đạt và trong trẻo với hình ảnh so sánh
hết sức độc đáo: “Sau trận bão chân trời, ngấn bể sạch như một tấm kính lau mây
hết bụi”, điều đó dễ dàng khiến khán giả liên tưởng đến hình ảnh một vòm trời cao
rộng, xanh trong không một gợn mây. Cùng với đó là màu nước biển trong tác
phẩm cũng “lam biếc” đậm đà, tạ nên bức phông nền đồng nhất “nước trời một sắc,
phong cảnh ba thu” vô cùng thích hợp để làm nổi bật vẻ tuyệt diệu của cảnh mặt
trời mọc. Cảnh bình minh trong Cô Tô cũng được Nguyễn Tuân miêu tả một cách
đặc biệt: “Mặt trời tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy
đặn. Quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc, đường kính
mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển ửng hồng”. So sánh
thú vị của Nguyễn Tuân khi biến hình ảnh mặt trời thành một loại thức ăn, việc
chuyển đổi cảm giác này mang lại cảm giác chân thực hơn cả, mặt trời trở nên gần
gũi, với vẻ đẹp ấm áp “phúc hậu” và thân thuộc với con người. Hơn thế nữa việc
sử dụng các tính từ “tròn trĩnh”", “phúc hậu”, “đầy đặn”, "hồng hào", “thăm thẳm”
đã đem đến cho người đọc những cảm nhận rõ nét về dáng hình của mặt trời buổi
bình minh. Nó khác xa với những cảnh bình minh trừu tượng, xa xăm trong văn
học xưa và nay. Khi mà ở đó người ta chỉ thấy được vẻ rực rỡ của những tia nắng,
của bầu trời trong xanh, chứ không bao giờ hình dung ra dáng vẻ thật sự của mặt
trời, cũng không nhận biết được thực ra vẻ đẹp của bình minh chân chính phải xuất
phát từ dáng vẻ mặt trời lúc ló rạng. Không chỉ vậy với sự kỳ vĩ tuyệt vời đó
Nguyễn Tuân đã ví sự xuất hiện của mặt trời tựa như một “mâm lễ” quý giá thiêng
liêng, một món quà mà tạo hóa hoan hỉ ban tặng cho con người để mừng sự
“trường thọ”. Tô điểm thêm cho quang cảnh bình minh rực rỡ là sự xuất hiện của
vài “chiếc nhạn”, của cánh hải âu là là, gợi cảm giác thanh bình, chậm rãi nơi biển
khơi. Có thể nói rằng trong Cô Tô, Nguyễn Tuân đã thực sự tinh tế và khéo léo khi
chọn lọc những từ ngữ và hình ảnh so sánh vô cùng chính xác để đặc tả mặt trời, từ
đó làm nổi bật lên vẻ đẹp tráng lệ, rực rỡ và hùng vĩ của bình minh nơi đây.
Với “chủ nghĩa xê dịch” của mình, Nguyễn Tuân luôn đi tìm tòi cái đẹp ở khắp
mọi miền Tổ quốc. và trong việc tìm tòi của mình nhà văn ngoài chú ý đến vẻ đẹp
của thiên nhiên, thì con người với cuộc sống lao động cũng là một đề tài mà tác giả
đặt trọng tâm. Ở Cô Tô cũng không ngoại lệ, sau việc tái hiện vẻ đẹp thiên qua bức
tranh trong trẻo, tinh khiết của đảo sau bão và cảnh bình minh rực rỡ huy hoàng,
thì Nguyễn Tuân bắt đầu đi vào tìm hiểu những vẻ đẹp của con người trong lao
động. Cảnh sinh hoạt được mở ra xoay quanh cái giếng nước ngọt ở rìa đảo rồi mở
rộng ra cảnh con thuyền chuẩn bị ra khơi cùng cảnh dân chài gánh nước ngọt từ
giếng xuống thuyền. Trong cảm nhận của Nguyễn Tuân cảnh sinh hoạt ở giếng
nước ngọt, vui vẻ tấp nập như một cái bến. Tuy nhiên lại “đậm đà mát nhẹ hơn mọi
cái chợ trong đất liền”, nghĩa rằng sự sinh hoạt ở đây luôn mang một sắc thái
phóng khoáng dễ chịu, bớt đi cái ồn ào, kẻ mua người bán tranh giành, cãi vã khiến
người ta khó chịu. Với chỉ một câu như vậy tác giả đã dễ dàng cho người đọc
những hình dung sơ lược về tính cách của người dân đảo Cô Tô, náo nhiệt, sôi
động nhưng hiền hòa, phóng khoáng. Nguyễn Tuân đã chỉ ra sự cảnh lao động vừa
tấp nập, khẩn trương, vừa thanh bình ấy trong nhiều ý văn, ví như cảnh “Cái giếng
nước ngọt đảo Thanh Luân sớm nay không biết có bao nhiêu người đến và múc”,
hay câu “Từ đoàn thuyền sắp ra khơi đến cái giếng ngọt, thùng và cong gánh nối
tiếp nhau đi đi về về”. Những lời tả ấy của tác giả đã tái hiện một khung cảnh con
người chăm chú lao động, miệt mài với công việc không ngừng nghỉ, cũng làm nổi
bật sự đông đúc và dồi dào của giếng nước ngọt với hình ảnh đoàn người nối tiếp
nhau "đi đi về về" múc nước đổ lên thuyền chuẩn bị ra khơi. Bên cạnh dáng vẻ
khẩn trương, tấp nập của những người dân chài thì cảnh sinh hoạt của đảo Cô Tô
còn hiện lên với dáng vẻ thanh bình, chậm rãi trong hình ảnh chị Châu Hòa Mãn
địu con mà tác giả “thấy nó dịu dàng và yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ
hiền mớm cá cho lũ con lành”.
Đoạn trích Cô Tô là một trong những đoạn trích xuất sắc nhất của tập ký cùng tên.
Qua ngòi bút uyên bác, tài hoa lối sử dụng từ ngữ điêu luyện, chính xác và tinh tế
nhà văn Nguyễn Tuân đã tái hiện thật sinh động vẻ đẹp của thiên nhiên đảo Cô Tô
và cảnh sinh hoạt lao động của những con người nơi đây. Thông qua đó bộc lộ tấm
lòng yêu thiên nhiên, tha thiết với những vẻ đẹp kỳ vĩ của đất nước, cũng như tấm
lòng sâu nặng, ngợi ca của tác giả với vẻ đẹp của con người trong công cuộc lao
động đổi mới và xây dựng đất nước.
Phân tích tác phẩm Cô Tô - Mẫu 6
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện
đại. Một trong những sáng tác nổi bật của ông là đoạn trích Cô Tô, Nguyễn Tuân
đã khắc họa lên khung cảnh thiên nhiên và sinh hoạt của con người trên vùng đảo
Cô Tô thật trong sáng và tươi đẹp.
Khung cảnh Cô Tô sau cơn bão được tác giả tóm gọn lại bởi hai từ “trong trẻo,
sáng sủa”. Sau đó nhà văn bắt đầu khắc họa thiên nhiên Cô Tô. Điểm nhìn của
Nguyễn Tuân đã xuất phát từ trên cao xuống dưới thấp. Xuất phát từ nóc đồn trên
đảo, nhà văn đã nhìn ra phía mặt biển rộng lớn để chiêm ngưỡng thiên nhiên của
Cô Tô. Trên cái nền là bầu trời xanh tươi sáng và mặt nước màu lam biếc, nổi bật
lên màu xanh mượt của cây, màu vàng giòn của cát và màu trắng của sóng xô dào
dạt vào đảo. Màu xanh bao trùm lên Cô Tô, nhưng với những sắc thái khác nhau.
Toàn bộ cảnh đẹp được thu vào tầm mắt khiến nhà ăn “càng thấy yêu mến hòn đảo
như bất cứ người chài nào đã từng đẻ ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây”.
Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, khung cảnh Cô Tô còn được khắc họa qua cảnh
mặt trời mọc. Đây là một bức tranh lộng lẫy, huy hoàng hiếm có. Nhà văn đã miêu
tả thật tinh tế: “Sau trận bão, chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây hết
bụi. Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ
một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ
đặt lên một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc
trai nước biển ửng hồng”. Hình ảnh so sánh độc đáo. Cảnh tượng thật hùng vĩ,
đường bệ y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự
trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông.
Cuối cùng, trong nền thiên nhiên ấy, không thể thiếu đi sự xuất hiện của con người.
Hoạt động trên đảo vừa khẩn trương, tấp nập lại vừa vui vẻ, thanh bình. Quanh cái
giếng nước ngọt đảo Thanh Luân sớm nay có không biết bao nhiêu là người đến
gánh và múc... Người dân chài gánh nước ngọt từ giếng xuống thuyền, chuẩn bị
cho mười tám thuyền lớn nhỏ cùng ra khơi đánh cá hồng. Và vẻ đẹp của cuộc sống
còn được thể hiện ở suy ngẫm và liên tưởng của nhà văn trước hình ảnh: “Chị
Châu Hoà Mãn địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ
hiền móm cá cho lũ con lành”. Một hình ảnh cuộc sống rất đỗi đời thường xuất
hiện trong trang văn của Nguyễn Tuân.
Tóm lại, đoạn trích “Cô Tô” đã khắc họa được cho người đọc hình ảnh một Cô Tô
thật sinh động, chân thực. Thiên nhiên và con người nơi đây đẹp đẽ, hiền hòa làm sao.
Phân tích tác phẩm Cô Tô - Mẫu 7
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn trong nền văn học Việt Nam. Đến với đoạn trích
Cô Tô, ông đã khắc họa lên khung cảnh thiên nhiên và sinh hoạt của con người
trên vùng đảo Cô Tô thật trong sáng và tươi đẹp.
Nguyễn Tuân đã miêu tả đôi nét cảnh Cô Tô trong cơn bão. Nhà văn cảm nhận qua
nhiều giác quan: “Mỗi viên cát bắn vào má vào gáy lúc này buốt như một viên đạn
mũi kim”; Rồi đến thính giác “Gió liên thanh quật lia lịa…, Sóng thúc lẫn nhau mà
vào bờ âm âm rền rền…, Nó rít lên rú lên…”; Và cả thị giác: “Sóng cát đánh ra
khơi, bể đánh bọt sóng vào, trời đất trắng mù mù toàn bãi như là kẻ thù bắt đầu thả
hơi ngạt; Gác đào ủy nhiều khuôn cửa kính bị gió vây và dồn, bung hết; Kính bị
thứ gió cấp 11 ép, vỡ tung”. Một cơn bão vô cùng dữ dội, khủng khiếp.
Sau đó, nhà văn miêu tả lại vẻ đẹp trong sáng, tươi trẻ của đảo Cô Tô sau khi trận
bão đi qua. Ông đã dùng một loạt các tính từ chỉ màu sắc và ánh sáng có sức gợi
mạnh mẽ để tái hiện dáng vẻ tinh khôi, trong sáng của đảo Cô Tô sau khi bão tan
như: “trong trẻo, sáng sủa, xanh mượt, lam biếc, vàng giòn”. Cùng với đó, Nguyễn
Tuân đã lựa chọn ra những cảnh sắc tiêu biểu để gợi ra khung cảnh của Cô Tô sau
bão như: “bầu trời, nước biển, cây trên núi, bãi cát”.
Lựa chọn điểm nhìn từ trên cao - ở nơi đóng quân của bộ đội, Nguyễn Tuân phóng
tầm mắt ra xa mở ra khung cảnh bao la và vẻ đẹp tươi sáng của đảo bằng hai từ
“trong trẻo và sáng sủa”. Thiên nhiên nơi đây ngập tràn sức sống với hình ảnh “cây
trên núi lại thêm xanh mượt” gợi ra dáng vẻ sạch sẽ, mướt mát, tinh khiết của cây
cối, cùng với đó là màu “lam biếc” đậm đà của nước biển, và sự “vàng giòn” của
cát biển đem đến cho chúng ta một bức tranh khoáng đạt, trong trẻo, với những
gam màu nhẹ nhàng, thanh sạch. Bên cạnh đó sự chuyển đổi cảm giác từ thị giác
với những gam màu xanh, vàng sang vị giác với các tính từ “đậm đà”, “giòn” đã
bộc lộ những cảm nhận tinh tế, sâu sắc của Nguyễn Tuân về vẻ đẹp độc đáo, thanh
khiết vô cùng nơi đảo xa.
Đặc biệt nhất là đoạn văn miêu tả cảnh mặt trời mọc trên biển, một cảnh tượng
tráng lệ, hùng vĩ và tuyệt đẹp. Hình ảnh mặt trời mọc được đặt trong một khung
cảnh rộng lớn, khoáng đạt và trong trẻo với hình ảnh so sánh hết sức độc đáo “Sau
trận bão chân trời, ngấn bể sạch như một tấm kính lau mây hết bụi”. Cùng với đó
là màu nước biển trong tác phẩm cũng “lam biếc” đậm đà, tạo nên bức phông nền
đồng nhất “nước trời một sắc, phong cảnh ba thu” vô cùng thích hợp để làm nổi bật
vẻ tuyệt diệu của cảnh mặt trời mọc. Câu văn miêu tả của Nguyễn Tuân thật tinh
tế: “Mặt trời tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn.
Quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc, đường kính
mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển ửng hồng”. Hình ảnh
so sánh độc đáo đã cho thấy tài năng của Nguyễn Tuân.
Cuối cùng là khung cảnh sinh hoạt của người dân trên đảo. Trong cảm nhận của
Nguyễn Tuân, cảnh sinh hoạt ở giếng nước ngọt, vui vẻ tấp nập như một cái bến.
Tuy nhiên lại “đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền” nghĩa rằng sự sinh
hoạt ở đây luôn mang một sắc thái phóng khoáng dễ chịu, bớt đi cái ồn ào, kẻ mua
người bán tranh giành, cãi vã khiến người ta khó chịu. Với chỉ một câu như vậy tác
giả đã dễ dàng cho người đọc những hình dung sơ lược về tính cách của người dân
đảo Cô Tô, náo nhiệt, sôi động nhưng hiền hòa, phóng khoáng.
Như vậy, đoạn trích Cô Tô đã thể hiện được tài năng ngôn từ của nhà văn Nguyễn
Tuân. Đây quả là một tác phẩm độc đáo.
Phân tích tác phẩm Cô Tô - Mẫu 8
Bài văn “Cô Tô” là phần cuối của bài kí Cô Tô của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác
phẩm ghi lại những ấn tượng về thiên nhiên, về con người lao động của vùng đảo
Cô Tô mà nhà văn thu nhận được trong chuyến đi ra thăm đảo.
Mở đầu đoạn trích, nhà văn đã khắc họa khung cảnh đảo Cô Tô trong cơn bão. Tác
giả quan sát và cảm nhận trận bão bằng những giác quan. Đầu tiên là xúc giác:
“Mỗi viên cát bắn vào má vào gáy lúc này buốt như một viên đạn mũi kim”; Rồi
đến thính giác “Gió liên thanh quật lia lịa…, Sóng thúc lẫn nhau mà vào bờ âm âm
rền rền…, Nó rít lên rú lên…”; Và cả thị giác: “Sóng cát đánh ra khơi, bể đánh bọt
sóng vào, trời đất trắng mù mù toàn bãi như là kẻ thù bắt đầu thả hơi ngạt; Gác đào
ủy nhiều khuôn cửa kính bị gió vây và dồn, bung hết; Kính bị thứ gió cấp 11 ép, vỡ
tung”. Có thể thấy, cơn bão giống như một kẻ thù đang dàn trận để đánh bại con người.
Nhưng sau cơn bão, đảo Cô Tô hoàn toàn thay đổi. Tác giả tóm gọn khung cảnh
này chỉ bằng hai từ “trong trẻo, sáng sủa”. Nhà văn đã lựa chọn điểm nhìn xuất
phát từ trên cao xuống dưới thấp. Nhà văn đã nhìn ra phía mặt biển rộng lớn để
chiêm ngưỡng thiên nhiên của Cô Tô. Trên cái nền là bầu trời xanh tươi sáng và
mặt nước màu lam biếc, nổi bật lên màu xanh mượt của cây, màu vàng giòn của
cát và màu trắng của sóng xô dào dạt vào đảo. Màu xanh bao trùm lên Cô Tô,
nhưng với những sắc thái khác nhau. Toàn bộ cảnh đẹp được thu vào tầm mắt
khiến nhà ăn “càng thấy yêu mến hòn đảo như bất cứ người chài nào đã từng đẻ ra
và lớn lên theo mùa sóng ở đây”. Bức tranh thiên nhiên hiện lên với nét chân thực nhất.
Đặc sắc hơn cả là đoạn văn miêu tả cảnh mặt trời mọc: “Mặt trời nhú lên dần dần,
rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy
đặn. Quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc đường kính
mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển ửng hồng”. Cách so
sánh độc đáo, cho thấy tài năng sử dụng ngôn ngữ bậc thầy của Nguyễn Tuân.
Đồng thời, vẻ đẹp của Cô Tô hiện lên thật tráng lệ, hùng vĩ và tuyệt đẹp.
Nhưng không dừng lại ở đó, để cho bài văn thêm hấp dẫn hơn, nhà văn đã miêu tả
khung cảnh sinh hoạt của con người. Hoạt động trên đảo vừa khẩn trương, tấp nập
lại vừa vui vẻ, thanh bình. Quanh cái giếng nước ngọt đảo Thanh Luân sớm nay có
không biết bao nhiêu là người đến gánh và múc... Người dân chài gánh nước ngọt
từ giếng xuống thuyền, chuẩn bị cho mười tám thuyền lớn nhỏ cùng ra khơi đánh
cá hồng. Đặc biệt là hình ảnh liên tưởng “Chị Châu Hoà Mãn địu con, thấy nó dịu
dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền móm cá cho lũ con lành”. Khung
cảnh sinh hoạt của Cô Tô khiến cho thiên nhiên Cô Tô trở nên có sức sống hơn.
Như vậy, đoạn trích Cô Tô của Nguyễn Tuân đã khắc họa vẻ đẹp của huyện đảo
Cô Tô thật sinh động, chân thực.
Phân tích tác phẩm Cô Tô - Mẫu 9
Văn bản Cô Tô là phần cuối của bài kí Cô Tô - tác phẩm ghi lại những ấn tượng về
thiên nhiên, về con người lao động của vùng đảo Cô Tô mà nhà văn Nguyễn Tuân
nhu nhận được trong chuyến đi ra thăm đảo.
Những câu văn đầu tiên, tác giả đã miêu tả đôi nét đảo Cô Tô trong cơn bão.
Khung cảnh thiên được nhiên được cảm nhận qua nhiều giác quan. Đầu tiên là xúc
giác: “Mỗi viên cát bắn vào má vào gáy lúc này buốt như một viên đạn mũi kim”;
Thính giác: “Gió liên thanh quật lia lịa…, Sóng thúc lẫn nhau mà vào bờ âm âm
rền rền…, Nó rít lên rú lên…”; Thị giác: “Sóng cát đánh ra khơi, bể đánh bọt sóng
vào, trời đất trắng mù mù toàn bãi như là kẻ thù bắt đầu thả hơi ngạt; Gác đào ủy
nhiều khuôn cửa kính bị gió vây và dồn, bung hết; Kính bị thứ gió cấp 11 ép, vỡ
tung”. Từ đó, cơn bão được hiện lên vô cùng dữ dội.
Sau khi cơn bão đi qua, vẻ đẹp của đảo Cô Tô được hiện lên vô cùng chân thực,
sinh động. Nhà văn đã sử dụng nhiều tính từ chỉ màu sắc và ánh sáng có sức gợi
mạnh mẽ để tái hiện dáng vẻ tinh khôi, trong sáng của đảo Cô Tô như “trong trẻo,
sáng sủa, xanh mượt, lam biếc, vàng giòn”. Đồng thời, ông cũng chọn ra những sự
vật hết sức tiêu biểu để miêu tả “bầu trời, nước biển, cây trên núi, bãi cát”.
Nguyễn Tuân đã nhận xét về vẻ đẹp của Cô Tô lúc này bằng hai từ “trong trẻo và
sáng sủa”. Hình ảnh “cây trên núi lại thêm xanh mượt” gợi ra dáng vẻ sạch sẽ, tươi
mát của cây cối. Màu “lam biếc” đậm đà của nước biển, và sự “vàng giòn” của cát
gợi ra sự khoáng đạt. Cùng với sự chuyển đổi cảm giác từ thị giác với những gam
màu xanh, vàng sang vị giác với các tính từ “đậm đà”, “giòn” đã bộc lộ những cảm
nhận tinh tế, sâu sắc của Nguyễn Tuân về vẻ đẹp độc đáo, thanh khiết vô cùng nơi đảo xa.
Ấn tượng nhất với đoạn văn miêu tả cảnh mặt trời mọc. Bức tranh thiên nhiên nơi
đảo Cô Tô càng trở nên sinh động, rực rỡ hơn bao giờ hết. Những câu văn miêu tả
đầy tinh tế: “Sau trận bão, chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây hết
bụi. Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ
một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ
đặt lên một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc
trai nước biển ửng hồng”. Hình ảnh so sánh độc đáo khiến cho người đọc hình
dung rõ nét hơn về cảnh mặt trời mọc trên đảo Cô Tô. Sức tưởng tượng của nhà
văn còn vượt ra khỏi tầm nhìn trở lại trong tâm linh đề minh họa cái bầu trời một
buổi sáng kia: “Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ bình minh để mừng cho sự
trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông”. Khó mà
nói hết được tài năng trong việc sử dụng từ ngữ của Nguyễn Tuân ở đoạn văn này.
Đoạn cuối cùng, nhà văn khắc họa không khí cuộc sống của người dân trên đảo.
Cảnh sinh hoạt ở giếng nước ngọt, vui vẻ tấp nập như một cái bến. Tuy nhiên lại
“đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền” nghĩa rằng sự sinh hoạt ở đây
luôn mang một sắc thái phóng khoáng dễ chịu, bớt đi cái ồn ào, kẻ mua người bán
tranh giành, cãi vã khiến người ta khó chịu.
Như vậy, văn bản Cô Tô đã khắc họa vẻ đẹp nơi đảo Cô Tô hiện lên đầy chân thực,
sinh động. Từ đó, tài năng sử dụng ngôn từ của Nguyễn Tuân được bộc lộ hơn.
Phân tích tác phẩm Cô Tô - Mẫu 10
Nguyễn Tuân là một bậc thầy về kí. Một trong những bài kí tiêu biểu của ông có
thể kể đến Cô Tô. Đoạn trích Cô Tô trong bài kí khắc họa khung cảnh thiên nhiên
và sinh hoạt của con người trên vùng đảo Cô Tô thật trong sáng và tươi đẹp.
Mở đầu, Nguyễn Tuân đã miêu tả Cô Tô trong cơn bão. Tác giả quan sát qua nhiều
giác quan, từ xúc giác “Mỗi viên cát bắn vào má vào gáy lúc này buốt như một
viên đạn mũi kim” đến thính giác “Gió liên thanh quật lia lịa…, Sóng thúc lẫn
nhau mà vào bờ âm âm rền rền…, Nó rít lên rú lên…” và cả thị giác “Sóng cát
đánh ra khơi, bể đánh bọt sóng vào, trời đất trắng mù mù toàn bãi như là kẻ thù bắt
đầu thả hơi ngạt; Gác đào ủy nhiều khuôn cửa kính bị gió vây và dồn, bung hết;
Kính bị thứ gió cấp 11 ép, vỡ tung”. Cơn bão hiện lên với vẻ dữ dội, khủng khiếp.
Khi cơn bão đi qua, đảo Cô Tô hiện ra với vẻ đẹp trong sáng, tươi trẻ. Nguyễn
Tuân sử dụng các tính từ chỉ màu sắc và ánh sáng có sức gợi mạnh mẽ để tái hiện
dáng vẻ tinh khôi, trong sáng của đảo Cô Tô sau khi bão tan như: “trong trẻo, sáng
sủa, xanh mượt, lam biếc, vàng giòn”. Ông lựa chọn điểm nhìn ở trên cao là nơi
đóng quân của bộ đội, từ đó phóng tầm mắt ra xa mở ra khung cảnh bao la và vẻ
đẹp tươi sáng của đảo bằng hai từ “trong trẻo và sáng sủa”. Thiên nhiên hiện lên
tràn sức sống với hình ảnh “cây trên núi lại thêm xanh mượt” gợi ra dáng vẻ sạch
sẽ, mướt mát, tinh khiết của cây cối, cùng với đó là màu “lam biếc” đậm đà của
nước biển, và sự “vàng giòn” của cát biển đem đến cho chúng ta một bức tranh
khoáng đạt, trong trẻo, với những gam màu nhẹ nhàng, thanh sạch. Biện pháp tu từ
ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được sử dụng khéo léo cho thấy cảm nhận tinh tế, sâu
sắc của Nguyễn Tuân về vẻ đẹp độc đáo, thanh khiết vô cùng nơi đảo xa.
Nhưng ấn tượng nhất là đoạn văn miêu tả cảnh mặt trời mọc trên biển. Hình ảnh
mặt trời mọc được đặt trong một khung cảnh rộng lớn, khoáng đạt và trong trẻo với
hình ảnh so sánh hết sức độc đáo “Sau trận bão chân trời, ngấn bể sạch như một
tấm kính lau mây hết bụi”. Cùng với đó là màu nước biển trong tác phẩm cũng
“lam biếc” đậm đà, tạo nên bức phông nền đồng nhất “nước trời một sắc, phong
cảnh ba thu” vô cùng thích hợp để làm nổi bật vẻ tuyệt diệu của cảnh mặt trời mọc.
Câu văn miêu tả của Nguyễn Tuân thật tinh tế: “Mặt trời tròn trĩnh phúc hậu như
lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào thăm thẳm và
đường bệ đặt lên một mâm bạc, đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời
màu ngọc trai nước biển ửng hồng”. Nguyễn Tuân sử dụng biện pháp tu từ so sánh
kết hợp với nhân hóa khiến cho mặt trời trở nên sinh động, có hồn hơn.
Đoạn trích khép lại với khung cảnh sinh hoạt của người dân Cô Tô. Cảnh sinh hoạt
ở giếng nước ngọt hiện lên với vẻ tấp nập như một cái bến. Cách miêu tả “đậm đà
mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền” cho thấy sự sinh hoạt ở đây luôn mang
một sắc thái phóng khoáng dễ chịu, bớt đi cái ồn ào, kẻ mua người bán tranh giành,
cãi vã khiến người ta khó chịu. Hình ảnh liên tưởng “Chị Châu Hoà Mãn địu con,
thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền móm cá cho lũ con
lành” thật độc đáo, thú vị.
Đoạn trích Cô Tô đã khắc họa vẻ đẹp của đảo Cô Tô đầy sinh động, đồng thời
cũng thể hiện được tài năng ngôn từ của nhà văn Nguyễn Tuân.
Document Outline
- Dàn ý phân tích tác phẩm Cô Tô
- Phân tích tác phẩm Cô Tô - Mẫu 1
- Phân tích tác phẩm Cô Tô - Mẫu 2
- Phân tích tác phẩm Cô Tô - Mẫu 3
- Phân tích tác phẩm Cô Tô - Mẫu 4
- Phân tích tác phẩm Cô Tô - Mẫu 5
- Phân tích tác phẩm Cô Tô - Mẫu 6
- Phân tích tác phẩm Cô Tô - Mẫu 7
- Phân tích tác phẩm Cô Tô - Mẫu 8
- Phân tích tác phẩm Cô Tô - Mẫu 9
- Phân tích tác phẩm Cô Tô - Mẫu 10