Văn mẫu lớp 8: Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) Ngữ Văn 8 | Kết nối tri thức

Văn mẫu lớp 8: Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) Ngữ Văn 8 | Kết nối tri thức. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF bao gồm 12 trang tổng hợp các kiến thức chọn lọc giúp các bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời các bạn đón xem!

1
n mẫu lp 8
Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng)
n ý bài văn phân tích mt tác phm văn học
1. Mi
Gii thiu tác giả, tên bài thơ và hoàn cảnh ra đời (nếu có).
2. Thâni
Tùy theo phương án lựa chn, th trình bày Thân bài theo mt h thng ý
tương đương.
- Phương án 1:
Ý 1: Câu thơ thứ (nêu đối tượng ca tiếng cười trào phúng, phân tích
bin pháp ngh thuật được s dng trong câu thơ đ to ra tiếng cười trào
phúng)
Ý 2: Câu thơ thứ… (nêu đối ng ca tiếng cười trào phúng, phân tích
bin pháp ngh thuật được s dụng trong câu thơ đ to ra tiếng cười trào
phúng)
Ý…
- Phương án 2:
Ý 1: Phân tích ni dung bài thơ ối tượng trào phúng, do khiến đi
ng b phê phán…)
Ý 2: Phânch nét đc sc v ngh thut (hình nh, bin pháp tu t đưc s
dng…)
3. Kết bài
Khái quát ý nga của tiếng cười trào phúng, giá tr ngh thut ca tác phm.
Viết bài văn phân tích mt tác phẩm văn học - Mu 1
Nhà thơ Tú Xương nhiều bài thơ trào png hay. Trong đó, L ng danh
khoa Đinh Dậu mt tác phm khá tiêu biu. Với bài thơ, tác giả đã khắc
2
khc ha khung cảnh trường thi nhốn nháo, để làm bt lên tiếng cười chua chát
v cnh ng mất nước trong buổi đầu ca xã hi thc dân na phong kiến.
L ớng danh khoa Đinh Dậu miêu t l ớng danh khoa thi Hương năm
1897 tại Nam Định. Hai câu đi v nét mi ca khoa thi:
“Nhà nước ba năm mở mt khoa,
Trường Nam thi ln với trường Hà.”
Trước đây, vic thi c do triều đình t chc nhm mục đích n chn nhân tài
ra m quan đ giúp vua, giúp nước. Trong hoàn cnh by gi, nước ta đã b
thc dân Pháp thng tr, vic thi c vn còn thi ch Hán theo l “ba m
m một khoa”. Câu thơ th hai nêu lên tính cht hn tp ca thi này:
“Trường Nam thi ln vi trường ”. Trước đây, Bc vn hai trưng
thi Hương “trường Nam” trường thi Nam Định và “trường Hà” - trường thi
Hà Ni. Nhưng khi thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội, trường thi đây đã b
bãi b. Nên các sĩ tử Hà Ni phi xung thi chung trường Nam Định.
Tiếp đến, hai câu thc miêu t cnh nhập trường xướng danh đc sc
cũng đy ki hài:
“Lôi thôi sĩ t vai đeo l,
m e quan trường miệng thét loa.”
“Sĩ tử” vn những người thuc tng lp trí thc trong hi phong kiến,
theo nghiệp bút nghiên nên mang phong thái nho nhã. Nhưng hình ảnh “sĩ t
đây li hin lên tht lôi thôi, nhếch nhác. Cách s dng bin pháp tu t đảo
ngữ, đưa từ láy “lôi thôi” lên đầu câu thơ đã gây ấn tượng mạnh cho người đc.
Không ch vy, khung cảnh trường thi lúc này không còn chn tôn nghiêm
mà tr nên n ào, chng khác nào cnh hp ch nên quan trường mới “ậm o
“thét loa” - những người coi thi cũng chng n cái phong thái nghiêm
trang, trnh trng vn có.
hai u luận đm bc tranh “L ớng danh khoa Đinh Dậu” bng hai
bc biếm ho v ông Tây và m đầm:
3
“Lng cm rp tri: quan s đến;
Váy lê quét đt, m đm ra.”
Hình ảnh “lọng cm rp trời” gi t cnh đón tiếp dành cho “quan s -
ớp nước đy long trng. Không ch vy, t xưa, chốn trường thi nơi n
nghiêm, l giáo phong kiến vn trng nam khinh n, ph n không được đến.
Vy bây gi li hình ảnh “mụ đm ravi “váy quét đất” càng làm
tăng thêm sự nc cười.
Cui cùng, hai câu tcui bc l mt niềm cay đng, xót xa cho cnh ng đt
c:
“Nhân tài đất Bc nào ai đó?
Ngonh c trông cảnh nước nhà.”
Câu hi tu t “nhân tài đt Bc nào ai đó” như một li thc tnh các t v
ni nhc mất c. K thù xâm lược vẫn còn đó, thì đường công danh này
ý nghĩa gì. Qua đó, tác gi bc l s ti nhục, xót xa trưc thc tại đau đn ca
c nhà.
Như vậy, bài t L ớng danh khoa Đinh Dậu đã khc ha khung cnh
trường thi nhn nháo, để làm bt lên tiếng cười chua chát v cnh ng mt
c.
Viết bài văn phân tích mt tác phẩm văn học - Mu 2
Xương một nhà thơ kni tiếng vi mảng đề tài trào phúng. Trong đó,
bài thơ Thương v là mt tác phm tiêu biểu cho phong cách tcủa ông.
Trong bài thơ, Xương đã đng khía cnh ca một ngưi chng - mt
người đàn ông đ bày t nim cm tng vi những người ph n. Người v
trong thơ Xương không ai khác chính mt nhân vt tht ngoài đi -
bà Tú:
“Quanh năm buôn bán mom sông
Nuôi đ m con với mt chng
4
Ln li thân cò khi quãng vng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Bốn câu thơ đầu đã gii thiu v công vic ca bà - buôn bán vn ng
vic vô ng vt vả, không c nào đưc ngh ngơi. Nhưng bà vẫn tn to sm
m đ “ni đ năm con vi mt chồng - việc tách riêng “một chng”
ờng nth hiện được mt hoàn cnh thật éo le. Người chồng đáng ra phải
ni chèo chng đ ni c gia đình. Vy đây, người v phi mt
mình mưu sinh ni c chng con.
Người ph n trong xã hi xưa phải chịu đng nhng ràng buc phong kiến
nên kng th kêu ca, than th mà ch biết im lng chp nhn, chịu đng qua
từng ngày và coi đó là số phn ca bn thân:
“Mt duyên hai n âu đành phn
Năm nng mười mưa chng qun công
Câu thơ vn dng sáng to thành ng, s dng t phiếm ch va nói lên s vt
v gian lao vừa nói lên đc tính chu thương chu khó, hết lòng chng vì con
ca bà Tú. V chng duyên n, vậy nên cũng “âu đành phn”, nghĩa
đành chấp nhận. khó khăn, nhc nhằn nhưng vn chu đng, chp nhn hy
sinh.
Hai câu thơ cui cùng ging như là một li t vn ca chính nhà thơ:
“Cha mẹ thói đời ăn bc
Có chng h hững cũng như không”
Tiếng “cha mẹ” vang lên sao mà chua t, ging như một li t trách bn thân
dụng đ ri khiến v phi chịu đng kh cc.
Như vậy, vi tình cm thương yêu, quý trng, tác gi đã ghi lại mt cách xúc
động, chân thc hình ảnh người v tn tảo, giàu đức hy sinh qua bài t
Thương v.
Viết bài văn phân tích mt tác phẩm văn học - Mu 3
Lai Tân mt trong những bài thơ thuc tập thơ Nht kí trong - tập thơ vô
cùng ni tiếng ca H Chí Minh.
5
Lai Tân nơi Bác đã trải qua trên con đưng t Thiên Giang đến Liu
Châu thuc Qung Tây (Trung Quc). Trong hoàn cảnh đày, Hồ Chí Minh
đã chng kiến biết bao s tht v xã hi Trung Quc dưới thời Tưởng Gii
Thch.
Tác gi đã khc ha hin thc xã hi Lai Tân lúc by gi:
“Giam phòng ban trưởng thiên thiên đ,
Cảnh trưởng tham thôn gii phm tin;
Huyện trưởng thiêu đăng bin công s,”
(Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc
Gii người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh
Chong đèn huyện trưởng làm công vic)
Bác kng nêu tên gi c th ch đim danh tng chc v gn vi trng
trách xã hi trong b máy công quyn, h phải làm gương cho dân chúng trong
vic thc thi pháp luật. Cách điểm danh và k vic rành mạch tưởng như ai lo
phn nấy, theo đuổi mt cách mn cán. Ba nhân vt xut hiện trong bài thơ là
ban trưởng, cảnh trưởng huyện trưởng. Những tưởng nhng bc quan ph
mu ca dân phải chăm lo công vic quc gia. Nhưng kng, ban trưởng nhà
giam thì ngày ngày đánh bc, cảnh trường thì m cách bóc lt các tù nhân, còn
huyện trưởng thì chìm đm trong thuc phiện. Đó nhng hành vi sai trái,
cho thy mt b mt xã hi vô cùng thi nát, xu xa.
đây, Bác đã s dng phép liệt kê tăng tiến, t chc quan nh cho đến lớn, đ
khẳng định rng b máy chính quyn thi nát t trên xung dưới, chc càng
cao càng h bại. Phép điệp cho thy công vic ca bn h khá nhp nhàng,
rành rch. Nhp sng vn diễn ra nh thường, đều đều. Cái tưởng n bt
thường được lặp đi lp lại a ra bình tng. Cái thi nát đến cực đi tr
thành s thường, thành n nếp quy c hn hoi, h rất khéo léo che đy nên
cuc sng vn yên n. Tiếng cười phê phán châm biếm có chiu sâu trí tu là
đó.
6
Câu thơ kết bình luận, đánh giá sự việc đã được k. Theo mch t s thì câu
thơ cuối mang nội dung phê phán nhưng tác gi kết luận ngược
“Lai Tân y cựu thái bình yên”
(Trời đất Lai Tân vn Thái Bình)
B máy chính quyn thối nát như vy, Lai Tân vẫn “thái bình”. Li nhn
xét tht nh nhàng, nhưng cũng đy châm biếm, ma mai. Cái hi nvy
sao nhìn bên ngoài li tht thái bình. Thế mi thy rằng, bài thơ mang tính
trào png, gi ra tiếng cười ma mai, chua chát.
Bài thơ Lai Tân mang một tiếng cười trào png độc đáo, thú v. H Chí Minh
đã khc ha vô cùng chân thc, sinh đng hin thc b máy chính quyn ca
Trung Quc lúc by gi.
Viết bài văn phân tích mt tác phẩm văn học - Mu 4
L ớng danh khoa Đinh Du là mt trong những bài thơ trào phúng tiêu biu
của nhà thơ Xương.
Bài thơ được ng tác năm 1987, còn có tên gọi khác “Vịnh khoa thi
Hương”. M đu, tác gi đã giới thiệu đôi nét v khoa thi Đinh Dậu:
“Nhà nước ba năm mở mt khoa,
Trường Nam thi ln với trường Hà.”
Trong xã hi phong kiến, vic thi c đưc t chc nhm tuyn chn nhân tài ra
giúp vua. Nhưng trong hoàn cnh thực dân Pháp xâm lưc, nm gi chính
quyn thì vic thi c đã nhiều thay đi. vn còn thi ch Hán theo l
“ba năm mở một khoa” nhưng kì thi li hết sc hn tạp: “Trường Nam thi ln
vi trường Hà”. Bc vn hai trường thi Hương “trường Nam”
trường thi Nam Định và “trường Hà” - trường thi Nội. Nhưng t c thc
dân Pháp nm quyền, trường thi Hà Nội đã bị bỏ. c t Hà Ni phi
xung thi chung trường Nam Định.
Hai câu thực đã miêu t cnh nhập trường xướng danh hin lên vô cùng
khôi hài:
7
“Lôi thôi sĩ t vai đeo l,
m e quan trường miệng thét loa.”
“Sĩ tử” là dùng đ ch tng lp trí thc trong hi phong kiến, đi theo
nghip bút nghiên. H thường phong thái nho nhã, điềm tĩnh. Nhưng hình
ảnh “sĩ ttrong bài tlại được miêu hin lên vi v i thôi, nhếch nhác.
Khung cảnh trường thi vn nơi trang nghiêm mà gi chng khác nào cnh
hp chợ, viên quan coi trường thi thì “ậm o” và “thét loa”.
Hai câu lun tiếp tc đm s nh nhăng của trường thi bng vic khc ha
hình nh quân s và m đm:
“Lng cm rp tri: quan s đến;
Váy lê quét đt, m đm ra.”
Vic tiếp đón nhng k ớp nước chng biết c nào li tr nên trang trng
nhưng khôi hài nvậy. Đặc biệt n cả vic tác gi miêu t hình nh m
đầm. Theo quan đim l giáo phong kiến thì trng nam khinh n. Ph n
không được những nơi trang nghiêm n trường thi. Vy bây gi li
hình ảnh “mụ đầm ra” với “váy lê quét đấtkhiến ta thêm nức cười đó
cũng tht xót xa. Xã hi phong kiến đã suy tàn, thoái hóa đến mc nào.
Hai câu thơ cui li bc tâm trng ca tác gi v cnh ng đất nước lúc by
gi:
“Nhân tài đất Bc nào ai đó?
Ngonh c trông cảnh nước nhà.”
Xương đã sử dng câu hi tu t “nhân tài đt Bắc nào ai đó” nhưng không
nhm mc đích biết câu tr li. Đó một li thc tỉnh các tử v ni nhc
mất nước. K thù xâm lưc vẫn còn đó, thì đường công danh này có ý nghĩa gì.
Bài tL ớng danh khoa Đinh Dậu đã khc khc ha khung cảnh trường
thi nhốn nháo, đ làm bt lên tiếng cười chua chát v cnh ng mất nước trong
buổi đầu ca xã hi thc dân na phong kiến.
Viết bài văn phân tích mt tác phẩm văn học - Mu 5
8
Nhà thơ Xương ni tiếng vi các tác phm trào png. Mt trong s đó
th k đến bài thơ Thương v.
“Thương vợ” bài tcảm đng nht trong s những bài thơ của Tú Xương
viết v bà . Tác gi đã khc ha hình nh mt người ph n tn to, nhn
nhục và giàu đức hy sinh. Nhà thơ đã đng khía cnh ca mt người chng -
một người đàn ông đ bày t nim cm thông vi những người ph n:
“Quanh năm buôn bán mom sông
Nuôi đ m con với mt chng
Ln li thân cò khi quãng vng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Bốn câu thơ đầu đã giới thiu v ng vic ca . “Buôn n” vn là ng
vic vô cùng vt vả, không c nào đưc ngh ngơi. Cụm t “quanh năm” gi
ra rng công vic này din ra hng ngày, lp li hết năm này đến năm khác. Bà
tn to sớm m đ “nuôi đủ năm con vi mt chồng” - vic tách riêng
“mt chồng” dường như th hiện đưc mt hoàn cnh thật éo le. Người chng
đáng ra phải người chèo chng đ nuôi c gia đình. Vậy đây, người v
phi một mình mưu sinh nuôi chng ni con. Điu này m bc l nên tiếng
i ma mai, chua xót ca chính c ga. H kng ch phi chịu đng nhng
ràng buc phong kiến, không th kêu ca, than th ch biết im lng chp
nhn, chịu đựng qua từng ngày: “Năm nắng mười mưa chẳng quản công”.
Đến hai câu thơ cuối cùng đc lên ging nmột li t vn ca chính n
thơ:
“Cha mẹ thói đời ăn bc
Có chng h hững cũng như không”.
Tiếng “cha mẹ” vang lên sao mà chua xót, tiếng chửi thói đời đấy cũng
giống như một li t trách bn thân dụng đ ri khiến người v ca mình
phi chịu đng kh cc.
9
Qua bài tnày,Xương đã khc ha hình ảnh bà Tú cũng chính là hình nh
tiêu biu của người ph n Vit Nam trong hi xưa: những con ni tn
to, chịu khó và giàu đc hy sinh.
Viết bài văn phân tích mt tác phẩm văn học - Mu 6
H Chí Minh không chmt v lãnh t ca dân tc Vit Nam, mà còn là mt
tác gi ln. Mt trong nhng tác phm tiêu biu phi k đến tập thơ “Nhật
trong tù”. Ni bt trong tập thơ là bài Lai Tân.
Lai Tân được Bác sángc trong quá trình chuyn lao t Thiên Giang đến Liu
Châu thuc Qung Tây (Trung Quc). Sng trong hoàn cảnh đày, Bác đã
hiểu hơn những s tht v b máy chính quyn ca Trung Quc lúc by
gi:
Những câu thơ mở đu khc ha b máy chính quyn ca Lai Tân lúc by gi
cùng sinh đng, chân thc:
“Giam phòng ban trưởng thiên thiên đ,
Cảnh trưởng tham thôn gii phm tin;
Huyện trưởng thiêu đăng bin công s,”
(Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc
Gii người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh
Chong đèn huyện trưởng làm công vic)
Tác gi ch đim danh nhng chc v gn vi trng trách xã hi trong b máy
công quyn. H những người thc thi pháp luật, chăm lo cho nhân dân và
đóng vai tgi gìn trt t cho xã hi. Ba nhân vt xut hiện trong bài thơ
“ban trưởng, cảnh trưởng và huyện trưởng”. Mỗi người đu xut hin vi mt
công việc riêng. Tưởng chừng nh phi làm nhng công việc chăm lo cho
nhân dân, đất nước. Nhưng không, ban trưng nhà giam thì ngày ngày đánh
bc, cảnh trường thì tìm cách bóc lt các nhân, còn huyện trưởng tchìm
đắm trong thuc phin. Nhng hành vi xấu xa đã vch b mt tht ca b
máy chính quyn, s thi nát ca xã hi phong kiến Trung Quc.
10
Bác còn s dng phép liệt kê tăng tiến, t chc quan nh cho đến ln, đ
khẳng định rng b máy chính quyn thi nát t trên xung dưới, chc càng
cao càng h bại”. Câu thơ cui là mt li nhận xét nhưng li bc l thái đ đầy
ma mai, châm biếm:
“Lai Tân y cựu thái bình yên”
(Trời đất Lai Tân vn Thái Bình)
B máy chính quyn thối nát nvy, Lai Tân vẫn “thái bình”. Điu này
tht mâu thun. Li nhn xét tht nh nhàng, nhưng cũng đy châm biếm, ma
mai. Cái xã hi như vy mà sao nhìn bên ngoài li thật thái bình. Nhưng đó ch
s bình yên được che đậy khéo léo.. Thế mi thy rằng, bài thơ mang tính
trào png, gi ra tiếng cười ma mai, chua chát.
Lai Tân mang mt tiếng cười trào phúng độc đáo, thú v caH Chí Minh đã
khc ha ng chân thực, sinh đng hin thc b máy chính quyn ca
Trung Quc lúc by gi.
Viết bài văn phân tích mt tác phẩm văn học - Mu 7
Xương một nthơ vi nhiu tác phm ni tiếng. L ng danh khoa
Đinh Dậu là mt trong những bài thơ trào phúng tiêu biu ca tác gi.
M đu, tác gi đã giới thiệu đôi nét v khoa thi Đinh Dậu - tht trong lch
s:
“Nhà nước ba năm mở mt khoa,
Trường Nam thi ln với trường Hà.”
Vic thi c đưc t chc nhm tuyn chn nhân tài ra giúp vua. Nhưng trong
hoàn cnh thực dân Pháp xâm lược, nm gi chính quyn thì vic thi c đã
nhiều thay đi. vn còn thi ch Hán theo l “ba năm mở một khoa
nhưng kì thi li hết sc hn tạp: “Trường Nam thi ln với trường Hà”. Bc
vốn hai trường thi Hương “trường Nam” trường thi Nam Định
“trường Hà” - trường thi Ni. Nhưng thực dân Pháp đã đánh chiếm Hà
11
Ni, cho b trường thi Ni. Các tử Ni phi xung thi chung
trường Nam Định.
Tiếp đến, hai câu thực đã miêu tả cnh nhập trường xướng danh hin lên vô
cùng ki hài:
“Lôi thôi sĩ t vai đeo l,
m e quan trường miệng thét loa.”
“Sĩ tử” vn những người thuc tng lp trí thc trong hi phong kiến,
theo nghiệp bút nghiên nên mang phong thái nho nhã. Nhưng hình ảnh “sĩ t
đây li hin lên tht lôi thôi, nhếch nhác. Cách s dng bin pháp tu t đảo
ngữ, đưa từ láy “lôi thôi” lên đầu câu thơ đã gây ấn tượng mạnh cho người đc.
Không ch vy, khung cảnh trường thi lúc này không còn chn tôn nghiêm
mà tr nên n ào, chng khác nào cnh hp ch nên quan trường mới “ậm o
“thét loa” - những người coi thi cũng chng n cái phong thái nghiêm
trang, trnh trng vn có. Qua chi tiết này, nời đọc cười đấy mà cũng bun
đấy trước tình cảnh đất nước lúc by gi.
“Lng cm rp tri: quan s đến;
Váy lê quét đt, m đm ra.”
Mt kì thi mang tính trọng đại ca đất nước. Nhưng hình nh xut hin đây -
“lng cm rp trờigi t cảnh đón tiếp dành cho “quan s- cướp nước
đầy long trng. Không ch vy, t xưa, chốn trường thi nơi tôn nghiêm, l
giáo phong kiến vn trng nam khinh n, ph n không được đến. Vy mà bây
gi li hình ảnh mụ đầm ravới “váy quét đấtcàng m tăng tm s
nực cười. Qua chi tiết này, chúng ta thấy được s suy thoái ca đất nước c
by gi.
Cui cùng, tác gi đã bc l tâm trạng trước tình cnh của đt nước lúc by
gi:
“Nhân tài đất Bc nào ai đó?
Ngonh c trông cảnh nước nhà.”
12
Câu hi tu t “nhân tài đt Bắc nào ai đónhưng không nhm mục đích biết
câu tr li. Đó là một li thc tỉnh các t v ni nhc mất c. K thù xâm
c vẫn còn đó, thì đường công danh này có ý nghĩa gì.
L ớng danh khoa Đinh Dậu đã khc khc ha khung cảnh trường thi nhn
nháo, đ làm bt lên tiếng cười chua chát v cnh ng mất nước trong buổi đầu
ca xã hi thc dân na phong kiến.
| 1/12

Preview text:

Văn mẫu lớp 8
Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng)
Dàn ý bài văn phân tích một tác phẩm văn học 1. Mở bài
Giới thiệu tác giả, tên bài thơ và hoàn cảnh ra đời (nếu có). 2. Thân bài
Tùy theo phương án lựa chọn, có thể trình bày Thân bài theo một hệ thống ý tương đương. - Phương án 1:
⚫ Ý 1: Câu thơ thứ … (nêu đối tượng của tiếng cười trào phúng, phân tích
biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong câu thơ để tạo ra tiếng cười trào phúng)
⚫ Ý 2: Câu thơ thứ… (nêu đối tượng của tiếng cười trào phúng, phân tích
biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong câu thơ để tạo ra tiếng cười trào phúng) ⚫ Ý… - Phương án 2:
⚫ Ý 1: Phân tích nội dung bài thơ (đối tượng trào phúng, lí do khiến đối tượng bị phê phán…)
⚫ Ý 2: Phân tích nét đặc sắc về nghệ thuật (hình ảnh, biện pháp tu từ được sử dụng…) 3. Kết bài
Khái quát ý nghĩa của tiếng cười trào phúng, giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học - Mẫu 1
Nhà thơ Tú Xương có nhiều bài thơ trào phúng hay. Trong đó, Lễ xướng danh
khoa Đinh Dậu là một tác phẩm khá tiêu biểu. Với bài thơ, tác giả đã khắc 1
khắc họa khung cảnh trường thi nhốn nháo, để làm bật lên tiếng cười chua chát
về cảnh ngộ mất nước trong buổi đầu của xã hội thực dân nửa phong kiến.
Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu miêu tả lễ xướng danh khoa thi Hương năm
1897 tại Nam Định. Hai câu đề nói về nét mới của khoa thi:
“Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.”
Trước đây, việc thi cử do triều đình tổ chức nhằm mục đích kén chọn nhân tài
ra làm quan để giúp vua, giúp nước. Trong hoàn cảnh bấy giờ, nước ta đã bị
thực dân Pháp thống trị, việc thi cử vẫn còn thi chữ Hán theo lộ cũ “ba năm
mở một khoa”. Câu thơ thứ hai nêu lên tính chất hỗn tạp của kì thi này:
“Trường Nam thi lẫn với trường Hà”. Trước đây, ở Bắc Kì vốn có hai trường
thi Hương là “trường Nam” trường thi Nam Định và “trường Hà” - trường thi
ở Hà Nội. Nhưng khi thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội, trường thi ở đây đã bị
bãi bỏ. Nên các sĩ tử Hà Nội phải xuống thi chung ở trường Nam Định.
Tiếp đến, hai câu thực miêu tả cảnh nhập trường và xướng danh đặc sắc mà cũng đầy khôi hài:
“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”
“Sĩ tử” vốn là những người thuộc tầng lớp trí thức trong xã hội phong kiến,
theo nghiệp bút nghiên nên mang phong thái nho nhã. Nhưng hình ảnh “sĩ tử”
ở đây lại hiện lên thật lôi thôi, nhếch nhác. Cách sử dụng biện pháp tu từ đảo
ngữ, đưa từ láy “lôi thôi” lên đầu câu thơ đã gây ấn tượng mạnh cho người đọc.
Không chỉ vậy, khung cảnh trường thi lúc này không còn là chốn tôn nghiêm
mà trở nên ồn ào, chẳng khác nào cảnh họp chợ nên quan trường mới “ậm oẹ”
và “thét loa” - những người coi thi cũng chẳng còn cái phong thái nghiêm
trang, trịnh trọng vốn có.
Ở hai câu luận tô đậm bức tranh “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu” bằng hai
bức biếm hoạ về ông Tây và mụ đầm: 2
“Lọng cắm rợp trời: quan sứ đến;
Váy lê quét đất, mụ đầm ra.”
Hình ảnh “lọng cắm rợp trời” gợi tả cảnh đón tiếp dành cho “quan sứ” - lũ
cướp nước đầy long trọng. Không chỉ vậy, từ xưa, chốn trường thi là nơi tôn
nghiêm, lễ giáo phong kiến vốn trọng nam khinh nữ, phụ nữ không được đến.
Vậy mà bây giờ lại có hình ảnh “mụ đầm ra” với “váy lê quét đất” càng làm
tăng thêm sự nực cười.
Cuối cùng, hai câu thơ cuối bộc lộ một niềm cay đắng, xót xa cho cảnh ngộ đất nước:
“Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.”
Câu hỏi tu từ “nhân tài đất Bắc nào ai đó” như một lời thức tỉnh các sĩ tử về
nỗi nhục mất nước. Kẻ thù xâm lược vẫn còn đó, thì đường công danh này có
ý nghĩa gì. Qua đó, tác giả bộc lộ sự tủi nhục, xót xa trước thực tại đau đớn của nước nhà.
Như vậy, bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu đã khắc họa khung cảnh
trường thi nhốn nháo, để làm bật lên tiếng cười chua chát về cảnh ngộ mất nước.
Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học - Mẫu 2
Tú Xương là một nhà thơ khá nổi tiếng với mảng đề tài trào phúng. Trong đó,
bài thơ Thương vợ là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ của ông.
Trong bài thơ, Tú Xương đã đứng ở khía cạnh của một người chồng - một
người đàn ông để bày tỏ niềm cảm thông với những người phụ nữ. Người vợ
trong thơ Tú Xương không ai khác chính là một nhân vật có thật ở ngoài đời - bà Tú:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng 3
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Bốn câu thơ đầu đã giới thiệu về công việc của bà Tú - buôn bán vốn là công
việc vô cùng vất vả, không lúc nào được nghỉ ngơi. Nhưng bà vẫn tần tảo sớm
hôm để “nuôi đủ năm con với một chồng” - việc tách riêng “một chồng”
dường như thể hiện được một hoàn cảnh thật éo le. Người chồng đáng ra phải
là người chèo chống để nuôi cả gia đình. Vậy mà ở đây, người vợ phải một
mình mưu sinh nuôi cả chồng con.
Người phụ nữ trong xã hội xưa phải chịu đựng những ràng buộc phong kiến
nên không thể kêu ca, than thở mà chỉ biết im lặng chấp nhận, chịu đựng qua
từng ngày và coi đó là số phận của bản thân:
“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa chẳng quản công”
Câu thơ vận dụng sáng tạo thành ngữ, sử dụng từ phiếm chỉ vừa nói lên sự vất
vả gian lao vừa nói lên đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con
của bà Tú. Vợ chồng là duyên nợ, vậy nên cũng “âu đành phận”, có nghĩa là
đành chấp nhận. Dù khó khăn, nhọc nhằn nhưng vẫn chịu đựng, chấp nhận hy sinh.
Hai câu thơ cuối cùng giống như là một lời tự vấn của chính nhà thơ:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
Tiếng “cha mẹ” vang lên sao mà chua xót, giống như một lời tự trách bản thân
vô dụng để rồi khiến vợ phải chịu đựng khổ cực.
Như vậy, với tình cảm thương yêu, quý trọng, tác giả đã ghi lại một cách xúc
động, chân thực hình ảnh người vợ tần tảo, giàu đức hy sinh qua bài thơ Thương vợ.
Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học - Mẫu 3
Lai Tân là một trong những bài thơ thuộc tập thơ Nhật kí trong tù - tập thơ vô
cùng nổi tiếng của Hồ Chí Minh. 4
Lai Tân là nơi mà Bác đã trải qua trên con đường từ Thiên Giang đến Liễu
Châu thuộc Quảng Tây (Trung Quốc). Trong hoàn cảnh tù đày, Hồ Chí Minh
đã chứng kiến biết bao sự thật về xã hội Trung Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch.
Tác giả đã khắc họa hiện thực xã hội Lai Tân lúc bấy giờ:
“Giam phòng ban trưởng thiên thiên đổ,
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền;
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự,”
(Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh
Chong đèn huyện trưởng làm công việc)
Bác không nêu tên gọi cụ thể mà chỉ điểm danh từng chức vụ gắn với trọng
trách xã hội trong bộ máy công quyền, họ phải làm gương cho dân chúng trong
việc thực thi pháp luật. Cách điểm danh và kể việc rành mạch tưởng như ai lo
phận nấy, theo đuổi một cách mẫn cán. Ba nhân vật xuất hiện trong bài thơ là
ban trưởng, cảnh trưởng và huyện trưởng. Những tưởng những bậc quan phụ
mẫu của dân phải chăm lo công việc quốc gia. Nhưng không, ban trưởng nhà
giam thì ngày ngày đánh bạc, cảnh trường thì tìm cách bóc lột các tù nhân, còn
huyện trưởng thì chìm đắm trong thuốc phiện. Đó là những hành vi sai trái,
cho thấy một bộ mặt xã hội vô cùng thối nát, xấu xa.
Ở đây, Bác đã sử dụng phép liệt kê tăng tiến, từ chức quan nhỏ cho đến lớn, để
khẳng định rằng bộ máy chính quyền thối nát từ trên xuống dưới, chức càng
cao càng hủ bại. Phép điệp cho thấy công việc của bọn họ khá nhịp nhàng,
rành rạch. Nhịp sống vẫn diễn ra bình thường, đều đều. Cái tưởng như bất
thường được lặp đi lặp lại hóa ra bình thường. Cái thối nát đến cực đại trở
thành sự thường, thành nề nếp quy củ hẳn hoi, họ rất khéo léo che đậy nên
cuộc sống vẫn yên ổn. Tiếng cười phê phán châm biếm có chiều sâu trí tuệ là ở đó. 5
Câu thơ kết bình luận, đánh giá sự việc đã được kể. Theo mạch tự sự thì câu
thơ cuối mang nội dung phê phán nhưng tác giả kết luận ngược
“Lai Tân y cựu thái bình yên”
(Trời đất Lai Tân vẫn Thái Bình)
Bộ máy chính quyền thối nát như vậy, mà Lai Tân vẫn “thái bình”. Lời nhận
xét thật nhẹ nhàng, nhưng cũng đầy châm biếm, mỉa mai. Cái xã hội như vậy
mà sao nhìn bên ngoài lại thật thái bình. Thế mới thấy rằng, bài thơ mang tính
trào phúng, gợi ra tiếng cười mỉa mai, chua chát.
Bài thơ Lai Tân mang một tiếng cười trào phúng độc đáo, thú vị. Hồ Chí Minh
đã khắc họa vô cùng chân thực, sinh động hiện thực bộ máy chính quyền của
Trung Quốc lúc bấy giờ.
Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học - Mẫu 4
Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu là một trong những bài thơ trào phúng tiêu biểu của nhà thơ Tú Xương.
Bài thơ được sáng tác năm 1987, còn có tên gọi khác là “Vịnh khoa thi
Hương”. Mở đầu, tác giả đã giới thiệu đôi nét về khoa thi Đinh Dậu:
“Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.”
Trong xã hội phong kiến, việc thi cử được tổ chức nhằm tuyển chọn nhân tài ra
giúp vua. Nhưng trong hoàn cảnh thực dân Pháp xâm lược, nắm giữ chính
quyền thì việc thi cử đã có nhiều thay đổi. Dù vẫn còn thi chữ Hán theo lộ cũ
“ba năm mở một khoa” nhưng kì thi lại hết sức hỗn tạp: “Trường Nam thi lẫn
với trường Hà”. Ở Bắc Kì vốn có hai trường thi Hương là “trường Nam”
trường thi Nam Định và “trường Hà” - trường thi ở Hà Nội. Nhưng từ lúc thực
dân Pháp nắm quyền, trường thi ở Hà Nội đã bị bỏ. Các sĩ tử Hà Nội phải
xuống thi chung ở trường Nam Định.
Hai câu thực đã miêu tả cảnh nhập trường và xướng danh hiện lên vô cùng khôi hài: 6
“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”
“Sĩ tử” là tư dùng để chỉ tầng lớp trí thức trong xã hội phong kiến, đi theo
nghiệp bút nghiên. Họ thường có phong thái nho nhã, điềm tĩnh. Nhưng hình
ảnh “sĩ tử” trong bài thơ lại được miêu hiện lên với vẻ lôi thôi, nhếch nhác.
Khung cảnh trường thi vốn là nơi trang nghiêm mà giờ chẳng khác nào cảnh
họp chợ, viên quan coi trường thi thì “ậm oẹ” và “thét loa”.
Hai câu luận tiếp tục tô đậm sự nhố nhăng của trường thi bằng việc khắc họa
hình ảnh quân sự và mụ đầm:
“Lọng cắm rợp trời: quan sứ đến;
Váy lê quét đất, mụ đầm ra.”
Việc tiếp đón những kẻ cướp nước chẳng biết lúc nào lại trở nên trang trọng
nhưng khôi hài như vậy. Đặc biệt hơn cả là việc tác giả miêu tả hình ảnh mụ
đầm. Theo quan điểm lễ giáo phong kiến thì trọng nam khinh nữ. Phụ nữ
không được những nơi trang nghiêm như trường thi. Vậy mà bây giờ lại có
hình ảnh “mụ đầm ra” với “váy lê quét đất” khiến ta thêm nức cười đó mà
cũng thật xót xa. Xã hội phong kiến đã suy tàn, thoái hóa đến mức nào.
Hai câu thơ cuối là lời bộc tâm trạng của tác giả về cảnh ngộ đất nước lúc bấy giờ:
“Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.”
Tú Xương đã sử dụng câu hỏi tu từ “nhân tài đất Bắc nào ai đó” nhưng không
nhằm mục đích biết câu trả lời. Đó là một lời thức tỉnh các sĩ tử về nỗi nhục
mất nước. Kẻ thù xâm lược vẫn còn đó, thì đường công danh này có ý nghĩa gì.
Bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu đã khắc khắc họa khung cảnh trường
thi nhốn nháo, để làm bật lên tiếng cười chua chát về cảnh ngộ mất nước trong
buổi đầu của xã hội thực dân nửa phong kiến.
Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học - Mẫu 5 7
Nhà thơ Tú Xương nổi tiếng với các tác phẩm trào phúng. Một trong số đó có
thể kể đến bài thơ Thương vợ.
“Thương vợ” là bài thơ cảm động nhất trong số những bài thơ của Tú Xương
viết về bà Tú. Tác giả đã khắc họa hình ảnh một người phụ nữ tần tảo, nhẫn
nhục và giàu đức hy sinh. Nhà thơ đã đứng ở khía cạnh của một người chồng -
một người đàn ông để bày tỏ niềm cảm thông với những người phụ nữ:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Bốn câu thơ đầu đã giới thiệu về công việc của bà Tú. “Buôn bán” vốn là công
việc vô cùng vất vả, không lúc nào được nghỉ ngơi. Cụm từ “quanh năm” gợi
ra rằng công việc này diễn ra hằng ngày, lặp lại hết năm này đến năm khác. Bà
Tú tần tảo sớm hôm để “nuôi đủ năm con với một chồng” - việc tách riêng
“một chồng” dường như thể hiện được một hoàn cảnh thật éo le. Người chồng
đáng ra phải là người chèo chống để nuôi cả gia đình. Vậy mà ở đây, người vợ
phải một mình mưu sinh nuôi chồng nuôi con. Điều này làm bộc lộ nên tiếng
cười mỉa mai, chua xót của chính tác gỉa. Họ không chỉ phải chịu đựng những
ràng buộc phong kiến, không thể kêu ca, than thở mà chỉ biết im lặng chấp
nhận, chịu đựng qua từng ngày: “Năm nắng mười mưa chẳng quản công”.
Đến hai câu thơ cuối cùng đọc lên giống như là một lời tự vấn của chính nhà thơ:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”.
Tiếng “cha mẹ” vang lên sao mà chua xót, là tiếng chửi thói đời đấy mà cũng
giống như một lời tự trách bản thân vô dụng để rồi khiến người vợ của mình
phải chịu đựng khổ cực. 8
Qua bài thơ này, Tú Xương đã khắc họa hình ảnh bà Tú cũng chính là hình ảnh
tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa: những con người tần
tảo, chịu khó và giàu đức hy sinh.
Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học - Mẫu 6
Hồ Chí Minh không chỉ là một vị lãnh tụ của dân tộc Việt Nam, mà còn là một
tác giả lớn. Một trong những tác phẩm tiêu biểu phải kể đến tập thơ “Nhật kí
trong tù”. Nổi bật trong tập thơ là bài Lai Tân.
Lai Tân được Bác sáng tác trong quá trình chuyển lao từ Thiên Giang đến Liễu
Châu thuộc Quảng Tây (Trung Quốc). Sống trong hoàn cảnh tù đày, Bác đã
hiểu rõ hơn những sự thật về bộ máy chính quyền của Trung Quốc lúc bấy giờ:
Những câu thơ mở đầu khắc họa bộ máy chính quyền của Lai Tân lúc bấy giờ
vô cùng sinh động, chân thực:
“Giam phòng ban trưởng thiên thiên đổ,
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền;
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự,”
(Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh
Chong đèn huyện trưởng làm công việc)
Tác giả chỉ điểm danh những chức vụ gắn với trọng trách xã hội trong bộ máy
công quyền. Họ là những người thực thi pháp luật, chăm lo cho nhân dân và
đóng vai trò giữ gìn trật tự cho xã hội. Ba nhân vật xuất hiện trong bài thơ là
“ban trưởng, cảnh trưởng và huyện trưởng”. Mỗi người đều xuất hiện với một
công việc riêng. Tưởng chừng như họ phải làm những công việc chăm lo cho
nhân dân, đất nước. Nhưng không, ban trưởng nhà giam thì ngày ngày đánh
bạc, cảnh trường thì tìm cách bóc lột các tù nhân, còn huyện trưởng thì chìm
đắm trong thuốc phiện. Những hành vi xấu xa đã vạch rõ bộ mặt thật của bộ
máy chính quyền, sự thối nát của xã hội phong kiến Trung Quốc. 9
Bác còn sử dụng phép liệt kê tăng tiến, từ chức quan nhỏ cho đến lớn, để
khẳng định rằng bộ máy chính quyền thối nát từ trên xuống dưới, chức càng
cao càng hủ bại”. Câu thơ cuối là một lời nhận xét nhưng lại bộc lộ thái độ đầy mỉa mai, châm biếm:
“Lai Tân y cựu thái bình yên”
(Trời đất Lai Tân vẫn Thái Bình)
Bộ máy chính quyền thối nát như vậy, mà Lai Tân vẫn “thái bình”. Điều này
thật mâu thuẫn. Lời nhận xét thật nhẹ nhàng, nhưng cũng đầy châm biếm, mỉa
mai. Cái xã hội như vậy mà sao nhìn bên ngoài lại thật thái bình. Nhưng đó chỉ
là sự bình yên được che đậy khéo léo.. Thế mới thấy rằng, bài thơ mang tính
trào phúng, gợi ra tiếng cười mỉa mai, chua chát.
Lai Tân mang một tiếng cười trào phúng độc đáo, thú vị củaHồ Chí Minh đã
khắc họa vô cùng chân thực, sinh động hiện thực bộ máy chính quyền của
Trung Quốc lúc bấy giờ.
Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học - Mẫu 7
Tú Xương là một nhà thơ với nhiều tác phẩm nổi tiếng. Lễ xướng danh khoa
Đinh Dậu là một trong những bài thơ trào phúng tiêu biểu của tác giả.
Mở đầu, tác giả đã giới thiệu đôi nét về khoa thi Đinh Dậu - có thật trong lịch sử:
“Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.”
Việc thi cử được tổ chức nhằm tuyển chọn nhân tài ra giúp vua. Nhưng trong
hoàn cảnh thực dân Pháp xâm lược, nắm giữ chính quyền thì việc thi cử đã có
nhiều thay đổi. Dù vẫn còn thi chữ Hán theo lộ cũ “ba năm mở một khoa”
nhưng kì thi lại hết sức hỗn tạp: “Trường Nam thi lẫn với trường Hà”. Ở Bắc
Kì vốn có hai trường thi Hương là “trường Nam” trường thi Nam Định và
“trường Hà” - trường thi ở Hà Nội. Nhưng thực dân Pháp đã đánh chiếm Hà 10
Nội, cho bỏ trường thi ở Hà Nội. Các sĩ tử Hà Nội phải xuống thi chung ở trường Nam Định.
Tiếp đến, hai câu thực đã miêu tả cảnh nhập trường và xướng danh hiện lên vô cùng khôi hài:
“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”
“Sĩ tử” vốn là những người thuộc tầng lớp trí thức trong xã hội phong kiến,
theo nghiệp bút nghiên nên mang phong thái nho nhã. Nhưng hình ảnh “sĩ tử”
ở đây lại hiện lên thật lôi thôi, nhếch nhác. Cách sử dụng biện pháp tu từ đảo
ngữ, đưa từ láy “lôi thôi” lên đầu câu thơ đã gây ấn tượng mạnh cho người đọc.
Không chỉ vậy, khung cảnh trường thi lúc này không còn là chốn tôn nghiêm
mà trở nên ồn ào, chẳng khác nào cảnh họp chợ nên quan trường mới “ậm oẹ”
và “thét loa” - những người coi thi cũng chẳng còn cái phong thái nghiêm
trang, trịnh trọng vốn có. Qua chi tiết này, người đọc cười đấy mà cũng buồn
đấy trước tình cảnh đất nước lúc bấy giờ.
“Lọng cắm rợp trời: quan sứ đến;
Váy lê quét đất, mụ đầm ra.”
Một kì thi mang tính trọng đại của đất nước. Nhưng hình ảnh xuất hiện ở đây -
“lọng cắm rợp trời” gợi tả cảnh đón tiếp dành cho “quan sứ” - lũ cướp nước
đầy long trọng. Không chỉ vậy, từ xưa, chốn trường thi là nơi tôn nghiêm, lễ
giáo phong kiến vốn trọng nam khinh nữ, phụ nữ không được đến. Vậy mà bây
giờ lại có hình ảnh “mụ đầm ra” với “váy lê quét đất” càng làm tăng thêm sự
nực cười. Qua chi tiết này, chúng ta thấy được sự suy thoái của đất nước lúc bấy giờ.
Cuối cùng, tác giả đã bộc lộ tâm trạng trước tình cảnh của đất nước lúc bấy giờ:
“Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.” 11
Câu hỏi tu từ “nhân tài đất Bắc nào ai đó” nhưng không nhằm mục đích biết
câu trả lời. Đó là một lời thức tỉnh các sĩ tử về nỗi nhục mất nước. Kẻ thù xâm
lược vẫn còn đó, thì đường công danh này có ý nghĩa gì.
Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu đã khắc khắc họa khung cảnh trường thi nhốn
nháo, để làm bật lên tiếng cười chua chát về cảnh ngộ mất nước trong buổi đầu
của xã hội thực dân nửa phong kiến. 12