Văn mẫu Viết bài văn kể lại câu chuyện dân gian về một người anh hùng chống ngoại xâm | Kết nối tri thức

Viết bài văn kể lại câu chuyện dân gian về một người anh hùng chống ngoại xâm gồm 2 hay nhất, giúp các em học sinh lớp 4 có thêm nhiều vốn từ, dễ dàng viết bài văn kể lại câu chuyện về Thánh Gióng, An Dương Vương. Qua đó, cũng giúp các em nhanh chóng trả lời câu hỏi tiết Ôn tập giữa học kì 2 Tiết 6, 7 - SGK Tiếng Việt 4 tập 2 Kết nối tri thức với cuộc sống trang 78. 

Đề bài: Viết bài văn kể lại câu chuyện dân gian về một người anh hùng chống
ngoại xâm (Thánh Gióng, An Dương Vương,...).
Viết bài văn kể lại câu chuyện dân gian về một người anh hùng
chống ngoại xâm
Viết bài văn kể lại câu chuyện dân gian về Thánh Gióng
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, làng Gióng hai vợ chồng nổi tiếng
chăm chỉ, hiền lành phúc đức. Hai ông đã lớn tuổi vẫn chưa con.
Một lần, bà ra đồng thì trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân lên ướm
thử xem thua kém bao nhiêu. Đến khi về nhà, lại thụ thai mười hai tháng
sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Kì lạ là, đứa
trẻ lên ba tuổi vẫn chưa biết nói, biết cười, ai đặt đâu thì ngồi đấy.
Lúc bấy giờ, giặc Ân đến xâm lược nước ta. Thế giặc mạnh khiến nhà vua lo sợ.
Vua sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài. Đến làng Gióng, cậu nghe tiếng sứ
giả bỗng cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào, cậu liền bảo:
“Ông về tâu với nhà vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt một
tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan giặc này”. Sứ giả vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ,
liền vội vàng về tâu với nhà vua.
Kể từ sau hôm gặp sứ giả, cậu lớn nhanh như thổi. Cơm ăn bao nhiêu cũng
không no. Hai vợ chồng làm ra không đủ để nuôi con, phải nhờ cậy bà con hàng
xóm. Ai cũng vui vẻ giúp đỡ vì đều mong cậu bé có thể đánh tan lũ giặc.
Lúc bấy giờ, giặc đã đến chân núi Trâu. Thế nước lúc này rất nguy. Vừa lúc đó,
sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Bỗng, chú vùng dậy, vươn vai
thành tráng sĩ. Tráng mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun
lửa, tráng thúc ngựa phi thẳng đến nơi giặc. Giặc bị tiêu diệt hết lớp này
1
đến lớp khác. Bỗng roi sắt gãy, tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật
vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân giẫm lên nhau chạy trốn.
Tráng một mình một ngựa, lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn
ngựa từ từ bay lên trời. Nhà vua nhớ công ơn phong là Phù Đổng Thiên Vương,
cho lập đền thờ quê nhà. Hiện nay vẫn còn đền thờ làng Phù Đổng, tục gọi
làng Gióng. Người ta còn kể rằng những bụi tre huyện Gia Bình ngựa
phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng, còn những vết chân ngựa nay thành
những ao hồ liên tiếp. Người ta còn kể rằng ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy
một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy.
Viết bài văn kể lại câu chuyện dân gian về An Dương Vương
Sau khi nhận được ngôi báu từ 18 đời vua Hùng, An Dương Vương Thục Phán
đã lành đạo nhân dân đánh tan hàng vạn quân xâm lược nhà Tần. Lập tức đổi
tên nước thành Âu Lạc rời thủ đô từ Nghĩa Lĩnh Phong Châu xuống Phong
Khê nay là Đông Anh Hà Nội.
An Dương Vương bắt đầu tiến hành xây thành để bảo vệ kiên cố cho nhân dân
nhưng chỉ điều cứ xây chắc chắn vào buổi sáng thì đến đêm thành lại đổ
xuống thế nên việc xây thành cứ kéo dài mãi không xong. Điều đó khiến
An Dương Vương cùng lo lắng ngài liền sai các quan quân lập đàn cầu xin
bách thần phù trợ. Ngày mồng bảy tháng ba năm ấy từ phía đông xuất hiện một
cụ già râu tóc bạc phơi chống gậy trúc đi đến trước cổng thành than rằng :
“Xây thành thế này biết bao giờ cho xong được!”. An Dương Vương mừng rỡ
liền rước cụ già vào điện ân cần hỏi han : “Ta đắp thành này tốn bao nhiêu công
sức không được cớ sao?”. Cụ già thong thả đáp : Sẽ sứ Thanh
Giang tới cùng nhà vua xây thành thì mới thành công”. Nói rồi cụ già cáo lui.
Đúng như lời cụ già nói sáng hôm saumột con rùa lớn nổi lên trên mặt nước
tự xưng sứ Thanh Giang nói với An Dương Vương rằng nếu muốn xây
2
thành thành công thì phải dẹp hết bè yêu quái hay quấy nhiều. Quả nhiên sau
khi Rùa Vàng giúp nhà vua diệt yêu quái thì thành xây nhanh thoăn thoắt chỉ
trong vòng nửa tháng đã xong cả. Thành hình trôn ốc, rộng hơn ngàn trượng nên
còn được gọi Loa Thành. Rùa Vàng chỉlại 3 năm thì ra đi. Lúc chia tay An
Dương Vương hòi rằng : “Nhờ ơn thần thành xây xong. Nếu sau này
giặc thì lấy chống?”. Rùa Vàng bèn tháo một chiếc vuốt đưa cho nhà vua
và dặn hãy lấy làm lẫy nỏ phòng khi quân giặc kéo đến chỉ cần lấy nỏ ra mà bắn
thì không ai dám đến gần. Dứt lời Rùa Vàng quay trở về biển Đông. Nhà vua
bèn sai một vị tướng quân tên Cao Lỗ ngày đêm chế chiếc vuốt Rùa vàng làm
lẫy. Đặt tên là nỏ thần Kim Quy.
Ít lâu sau Triệu Đà bèn đem quân sang xâm lược Âu Lạc. An Dương Vương lấy
nỏ thần bắn một phát chết hàng vạn tên giặc. Triệu Đà hoảng sợ liền rút quân về
nước. Dân chúng Âu Lạc cùng hân hoan trước chiến công lẫy lừng của vị
Vua tài giỏi.
Biết không thể đánh bại được Âu Lạc, Triệu Đà bèn nghĩ ra một âm mưu hết
sức ngoan độc. Hắn mang con trai Trọng Thủy ra kết thân với Mị Châu, con gái
yêu của An Dương Vương. Chẳng chút hoài nghi nhà vua gả Mị Châu cho
Trọng Thủy và cho ở rể tại Loa Thành.
Nghe lời cha Trọng thủy bèn la khắp nơi nhằm tìm kiếm ra mật của nỏ
thần do An Dương Vương cất giữ. Mị Châu vì tin chồng nên đã dẫn hắn đến nơi
cất giấu nỏ thần. Trọng thủy liền chế ra được một chiếc lẫy nỏ y hệt với chiếc
nỏ thần Kim Quy kia. Xong việc, Trọng Thủy liền nghĩ cách chuồn về nước.
Trước khi đi hắn hỏi vợ : Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa cha
mẹ không thể dứt bỏ. Ta nay trở về thăm cha nếu đến lúc hai nước thất hòa, Bắc
Nam cách biệt ta trở lại tìm nàng thì lấy gì làm dấu?” Mị Châu ngây thơ đáp :
thiếp có chiếc áo lông ngỗng hay mặc, khi gặp biến đi đến đâu thiếp sẽ rắc lông
ngỗng đến ngã ba đường làm dấu mà tìm nhau”.
3
Trọng Thủy mang nỏ thần về đến nhà, Triệu Đà liền đem quân tấn công Âu Lạc.
Trong lúc ấy mặc cho cả hàng chục vạn quân giặc đang tiến gần cửa thành nhà
vua vẫn ung dung đánh cờ nói rằng : “Đà không sợ nỏ thần sao?”. Đến khi
quân giặc tiến sát cửa thành nhà vua mới sai quân lính mang nỏ thần đến bắn
thế nhưng lúc ấy đã không còn linh nghiệm nữa.
An Dương Vương bèn cưỡi ngựa mang theo con gái yêu chạy về phía Nam.
Nhưng ngặt nỗi đi đến đâu quân giặc cũng đuổi theo đến đó. Tới sát biển An
Dương Vương cùng đường kêu lớn : Sứ Thanh Giang đâu mau đến cứu
ta”. Lúc bấy giờ Rùa Vàng mới từ mặt nước hiện lên nói rằng : “kẻ thù
ngay đằng sau người kia”. An Dương Vương tức giận liền tuốt gươm chém chết
Mị Châu rồi nhảy xuống biển theo Rùa Vàng. Cùng lúc đó Triệu Thủy cũng
chạy đến nơi nhìn thấy xác vợ nằm trên vũng máu Trọng thủy khóc lên đau đớn
rồi cầm đao tự kết liễu đời mình.
4
| 1/4

Preview text:

Đề bài: Viết bài văn kể lại câu chuyện dân gian về một người anh hùng chống
ngoại xâm (Thánh Gióng, An Dương Vương,...).
Viết bài văn kể lại câu chuyện dân gian về một người anh hùng chống ngoại xâm
Viết bài văn kể lại câu chuyện dân gian về Thánh Gióng
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng nổi tiếng là
chăm chỉ, hiền lành và phúc đức. Hai ông bà đã lớn tuổi mà vẫn chưa có con.
Một lần, bà ra đồng thì trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân lên ướm
thử xem thua kém bao nhiêu. Đến khi về nhà, bà lại thụ thai và mười hai tháng
sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Kì lạ là, đứa
trẻ lên ba tuổi vẫn chưa biết nói, biết cười, ai đặt đâu thì ngồi đấy.
Lúc bấy giờ, giặc Ân đến xâm lược nước ta. Thế giặc mạnh khiến nhà vua lo sợ.
Vua sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài. Đến làng Gióng, cậu bé nghe tiếng sứ
giả bỗng cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào, cậu liền bảo:
“Ông về tâu với nhà vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một
tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này”. Sứ giả vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ,
liền vội vàng về tâu với nhà vua.
Kể từ sau hôm gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn bao nhiêu cũng
không no. Hai vợ chồng làm ra không đủ để nuôi con, phải nhờ cậy bà con hàng
xóm. Ai cũng vui vẻ giúp đỡ vì đều mong cậu bé có thể đánh tan lũ giặc.
Lúc bấy giờ, giặc đã đến chân núi Trâu. Thế nước lúc này rất nguy. Vừa lúc đó,
sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Bỗng, chú bé vùng dậy, vươn vai
thành tráng sĩ. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun
lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc. Giặc bị tiêu diệt hết lớp này 1
đến lớp khác. Bỗng roi sắt gãy, tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật
vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân giẫm lên nhau chạy trốn.
Tráng sĩ một mình một ngựa, lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn
ngựa từ từ bay lên trời. Nhà vua nhớ công ơn phong là Phù Đổng Thiên Vương,
cho lập đền thờ ở quê nhà. Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi
là làng Gióng. Người ta còn kể rằng những bụi tre ở huyện Gia Bình vì ngựa
phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng, còn những vết chân ngựa nay thành
những ao hồ liên tiếp. Người ta còn kể rằng ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy
một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy.
Viết bài văn kể lại câu chuyện dân gian về An Dương Vương
Sau khi nhận được ngôi báu từ 18 đời vua Hùng, An Dương Vương Thục Phán
đã lành đạo nhân dân đánh tan hàng vạn quân xâm lược nhà Tần. Lập tức đổi
tên nước thành Âu Lạc và rời thủ đô từ Nghĩa Lĩnh Phong Châu xuống Phong
Khê nay là Đông Anh Hà Nội.
An Dương Vương bắt đầu tiến hành xây thành để bảo vệ kiên cố cho nhân dân
nhưng chỉ có điều cứ xây chắc chắn vào buổi sáng thì đến đêm thành lại đổ
xuống vì thế nên việc xây thành cứ kéo dài mãi mà không xong. Điều đó khiến
An Dương Vương vô cùng lo lắng ngài liền sai các quan quân lập đàn cầu xin
bách thần phù trợ. Ngày mồng bảy tháng ba năm ấy từ phía đông xuất hiện một
cụ già râu tóc bạc phơi chống gậy trúc đi đến trước cổng thành mà than rằng :
“Xây thành thế này biết bao giờ cho xong được!”. An Dương Vương mừng rỡ
liền rước cụ già vào điện ân cần hỏi han : “Ta đắp thành này tốn bao nhiêu công
sức mà không được là cớ vì sao?”. Cụ già thong thả đáp : “ Sẽ có sứ Thanh
Giang tới cùng nhà vua xây thành thì mới thành công”. Nói rồi cụ già cáo lui.
Đúng như lời cụ già nói sáng hôm sau có một con rùa lớn nổi lên trên mặt nước
tự xưng là sứ Thanh Giang và nói với An Dương Vương rằng nếu muốn xây 2
thành thành công thì phải dẹp hết bè lũ yêu quái hay quấy nhiều. Quả nhiên sau
khi Rùa Vàng giúp nhà vua diệt yêu quái thì thành xây nhanh thoăn thoắt chỉ
trong vòng nửa tháng đã xong cả. Thành hình trôn ốc, rộng hơn ngàn trượng nên
còn được gọi là Loa Thành. Rùa Vàng chỉ ở lại 3 năm thì ra đi. Lúc chia tay An
Dương Vương có hòi rằng : “Nhờ ơn thần mà thành xây xong. Nếu sau này có
giặc thì lấy gì mà chống?”. Rùa Vàng bèn tháo một chiếc vuốt đưa cho nhà vua
và dặn hãy lấy làm lẫy nỏ phòng khi quân giặc kéo đến chỉ cần lấy nỏ ra mà bắn
thì không ai dám đến gần. Dứt lời Rùa Vàng quay trở về biển Đông. Nhà vua
bèn sai một vị tướng quân tên Cao Lỗ ngày đêm chế chiếc vuốt Rùa vàng làm
lẫy. Đặt tên là nỏ thần Kim Quy.
Ít lâu sau Triệu Đà bèn đem quân sang xâm lược Âu Lạc. An Dương Vương lấy
nỏ thần bắn một phát chết hàng vạn tên giặc. Triệu Đà hoảng sợ liền rút quân về
nước. Dân chúng Âu Lạc vô cùng hân hoan trước chiến công lẫy lừng của vị Vua tài giỏi.
Biết không thể đánh bại được Âu Lạc, Triệu Đà bèn nghĩ ra một âm mưu hết
sức ngoan độc. Hắn mang con trai Trọng Thủy ra kết thân với Mị Châu, con gái
yêu của An Dương Vương. Chẳng chút hoài nghi nhà vua gả Mị Châu cho
Trọng Thủy và cho ở rể tại Loa Thành.
Nghe lời cha Trọng thủy bèn dò la khắp nơi nhằm tìm kiếm ra bí mật của nỏ
thần do An Dương Vương cất giữ. Mị Châu vì tin chồng nên đã dẫn hắn đến nơi
cất giấu nỏ thần. Trọng thủy liền chế ra được một chiếc lẫy nỏ y hệt với chiếc
nỏ thần Kim Quy kia. Xong việc, Trọng Thủy liền nghĩ cách chuồn về nước.
Trước khi đi hắn có hỏi vợ : “ Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa cha
mẹ không thể dứt bỏ. Ta nay trở về thăm cha nếu đến lúc hai nước thất hòa, Bắc
Nam cách biệt ta trở lại tìm nàng thì lấy gì làm dấu?” Mị Châu ngây thơ đáp : “
thiếp có chiếc áo lông ngỗng hay mặc, khi gặp biến đi đến đâu thiếp sẽ rắc lông
ngỗng đến ngã ba đường làm dấu mà tìm nhau”. 3
Trọng Thủy mang nỏ thần về đến nhà, Triệu Đà liền đem quân tấn công Âu Lạc.
Trong lúc ấy mặc cho cả hàng chục vạn quân giặc đang tiến gần cửa thành nhà
vua vẫn ung dung đánh cờ mà nói rằng : “Đà không sợ nỏ thần sao?”. Đến khi
quân giặc tiến sát cửa thành nhà vua mới sai quân lính mang nỏ thần đến bắn
thế nhưng lúc ấy đã không còn linh nghiệm nữa.
An Dương Vương bèn cưỡi ngựa mang theo con gái yêu chạy về phía Nam.
Nhưng ngặt nỗi đi đến đâu quân giặc cũng đuổi theo đến đó. Tới sát biển An
Dương Vương cùng đường mà kêu lớn : “ Sứ Thanh Giang ở đâu mau đến cứu
ta”. Lúc bấy giờ Rùa Vàng mới từ mặt nước hiện lên mà nói rằng : “kẻ thù ở
ngay đằng sau người kia”. An Dương Vương tức giận liền tuốt gươm chém chết
Mị Châu rồi nhảy xuống biển theo Rùa Vàng. Cùng lúc đó Triệu Thủy cũng
chạy đến nơi nhìn thấy xác vợ nằm trên vũng máu Trọng thủy khóc lên đau đớn
rồi cầm đao tự kết liễu đời mình. 4
Document Outline

  • Viết bài văn kể lại câu chuyện dân gian về một người anh hùng chống ngoại xâm
  • Viết bài văn kể lại câu chuyện dân gian về Thánh Gióng
  • Viết bài văn kể lại câu chuyện dân gian về An Dương Vương