




Preview text:
Các ví dụ thực tế về quy định thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
1. Vụ Vinasun kiện Grab liên quan đến vấn đề cạnh tranh trong kinh doanh.
Vào năm 2020, “TAND TP.HCM và TAND cấp cao tại TP.HCM đã tuyên buộc Grab phải bồi thường
cho Vinasun 4,8 tỉ đồng. Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm đều cho rằng cách thức kinh doanh của Grab
không phải là cung cấp kết nối hành khách và lái xe theo đề án 24, mà là kinh doanh vận tải taxi. Grab đã
cung cấp một loại hình kinh doanh mới, kinh tế chia sẻ, tận dụng xe nhàn rỗi, người lao động có thêm thu
nhập, người tiêu dùng có thêm sự lựa chọn. Tuy nhiên, mô hình này đang gây ra nhiều hệ lụy cho doanh
nghiệp vận tải nói riêng, các doanh nghiệp taxi truyền thống nói chung. Lý do là Grab không phải đóng
các loại thuế như các doanh nghiệp vận tải, không phải chịu điều kiện kinh doanh như taxi, không phải gắn logo…”
Link:https://tuoitre.vn/quyet-dinh-thi-hanh-an-buoc-grab-boi-thuong-4-8-ti-dong-cho-vinasun- 20200619114058507.htm
2. Heineken thoả thuận với Tiger
“Heineken thỏa thuận với Tiger để ngăn cản DN khác kinh doanh bia tại khu vực miền Trung những năm
qua cũng được cơ quan quản lý cạnh tranh phát hiện và xử lý. Cụ thể, cơ quan quản lý cạnh tranh đã tiếp
nhận khiếu nại của nhà sản xuất Laser Beer, nhãn hiệu bia tươi đóng chai đầu tiên của Việt Nam về việc 2
nhà sản xuất bia nước ngoài Heineken, Tiger có hành vi gây sức ép với các cửa hàng bán lẻ và quán bia
để ký các hợp đồng độc quyền với điều khoản ngăn cản đối thủ cạnh tranh được bán và tiếp thị sản phẩm
ở những địa điểm tiêu dùng bia chính. Sau khi cơ quan quản lý cạnh tranh vào cuộc đã xử lý hành vi cạnh
tranh không lành mạnh của Heineken và Tiger, và trả lại thị trường cho các nhà sản xuất bia khác cùng tham gia phân phối.”
3. Vụ việc Công ty Xăng dầu hàng không Việt Nam (Vinapco) lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
“Vụ việc Công ty Xăng dầu hàng không Việt Nam (Vinapco) lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí
kinh doanh độc quyền để làm khó các DN hàng không. Đây là vụ hạn chế cạnh tranh đầu tiên được điều
tra và xử lý vào tháng 4-2008 khi Vinapco (một công ty con của Vietnam Airlines) là DN độc quyền cung
cấp xăng dầu hàng không, đã từ chối cung cấp nhiên liệu bay cho Jetstar Pacific. Hệ quả của hành động
phi cạnh tranh này là nhiều chuyến bay của Jetstar Pacific bị ngưng trệ, phải hủy chuyến.
Trước thực trạng này, Cục Quản lý cạnh tranh đã vào cuộc điều tra và xử phạt Vinapco 3 tỷ đồng. Đồng
thời, yêu cầu Vinapco tách độc lập khỏi sự kiểm soát của Vietnam Airlines để phá thế độc quyền kinh doanh.”
Link: https://dttc.sggp.org.vn/so-vu-vi-pham-luat-canh-tranh-bi-xu-ly-qua-it-post49004.html
4. Vụ việc về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong ký hợp đồng độc quyền rửa ảnh nhằm loại
bỏ các doanh nghiệp khác ra khỏi thị trường xảy ra tại An Giang.
Năm 1993, Câu lạc bộ Nhiếp ảnh Núi Sam được thành lập, giúp cho hoạt động của các anh em phó nháy
khu di tích chùa Bà Chúa Xứ núi Sam (An Giang) vào nề nếp. Ít lâu sau, câu lạc bộ đổi tên thành Đội
Nhiếp ảnh thị xã Châu Đốc. Từ khi thành lập cho đến năm 2007, bốn tiệm rửa ảnh là Ảnh màu Th., O1.,
O2. và Đ. thống nhất với câu lạc bộ việc tráng rọi ảnh sẽ được xoay vòng, mỗi ngày rửa tại một tiệm.
Công việc thú vị này có khoảng 200 thợ ảnh tham gia, mỗi ngày hàng ngàn bức ảnh được rửa ra.
Đầu năm 2008, giá vật liệu phục vụ tráng rọi ảnh tăng cao, cả bốn tiệm đã đàm phán với đội nhiếp ảnh
tăng giá rửa ảnh. Trong khi các bên chưa ngã ngũ giá cả thế nào thì bỗng dưng Phòng Văn hóa-Thông tin
thị xã Châu Đốc (tên gọi lúc bấy giờ) ký hợp đồng rọi ảnh độc quyền với Ảnh màu Th., một phó phòng
của phòng này đã ký tên chứng thực vào hợp đồng. Theo đó, gần 200 thợ chụp ảnh trong đội sẽ chia thành
sáu tổ, trực luân phiên, tập hợp toàn bộ số ảnh chụp trong ca trực đem lại tiệm Th. rọi, không được rọi ở các tiệm khác.”
Bị mất “nồi cơm”, các tiệm rửa ảnh khác phản ứng. Ngay sau đó, hợp đồng trên được thanh lý. Tuy nhiên,
được một thời gian, đội nhiếp ảnh lại tái ký hợp đồng rửa ảnh với Ảnh màu Th., có chứng thực của phòng
công chứng. Kể từ đó, có ba tiệm rọi ảnh còn lại chính thức bị… loại khỏi cuộc chơi.
Bức xúc trước chuyện này, các tiệm trên đã gửi đơn khiếu nại nhưng kết quả không như ý. Thế rồi thiệt
hại ngày càng nặng do vắng khách hàng, ba chủ tiệm ảnh đã nộp đơn kiện Ban Quản lý Đội Nhiếp ảnh thị
xã Châu Đốc và Ảnh màu Th. yêu cầu tòa hủy hợp đồng và buộc bị đơn phải bồi thường thiệt hại.
Cuối năm 2009, TAND thị xã Châu Đốc xử sơ thẩm đã bác đơn kiện của các nguyên đơn. Tòa cho rằng
hai hợp đồng rửa ảnh trên không sai. Bởi ban quản lý đội nhiếp ảnh không phải là cá nhân hay tổ chức
kinh doanh nên không phải là đối tượng điều chỉnh của Luật Cạnh tranh. Nhưng dù vậy, ban này vẫn có
quyền làm đại diện cho các nhiếp ảnh viên để giao dịch và ký hợp đồng với Ảnh màu Th.
Khác với quan điểm của cấp sơ thẩm, ngày 12-3, xử phúc thẩm, TAND tỉnh An Giang đã chấp nhận yêu
cầu khởi kiện. Tòa cho rằng hợp đồng trên nhằm loại bỏ các tiệm rửa ảnh khác là không công bằng, vi
phạm Luật Cạnh tranh. Chưa kể hợp đồng cũng không rõ ràng, không công khai giá rọi ảnh… Dựa vào
các chứng từ, hóa đơn của cơ quan thuế, tòa xác định các nguyên đơn bị thiệt hại tổng cộng hơn 330 triệu
đồng. Các bị đơn phải bồi thường cho các nguyên đơn số tiền này.”
Link: https://plo.vn/doc-quyen-rua-anh-post157574.html
Một số ưu và nhược điểm của hệ thống pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Ưu điểm
1. Mở rộng phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng.
- Khác với luật cạnh tranh 2004, đã có thay đổi phạm vi áp dụng ở luật cạnh tranh 2018. Bất cứ
một hành vi, một thỏa thuận hay một giao dịch nào xảy ra ở bất cứ nơi đâu, kể cả trong lãnh thổ
VN hay ngoài lãnh thổ VN nhưng có khả năng tác động gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể
tới thị trường VN thì đều thuộc phạm vi điều chỉnh của bộ luật này.
2. Luật đã sửa đổi, bổ sung và làm rõ những hành vi bị cấm đối với cơ quan nhà nước
- Ở luật cạnh tranh 2018, đã có quy định về mức xử phạt đối với UBND các tỉnh, sở, các cơ quan
quản lý nhà nước các bộ, ngành ban hành những văn bản có những tác động bất lợi và có sự phân
biệt đối xử và tạo những tác động hạn chế cạnh tranh trên thị trường,
3. Bổ sung tiêu chí xác định sức mạnh thị trường.
- Ngoài tiêu thị phần trên thị trường chiếm trên 30% để xác định sự thống lĩnh thị trường của doanh
nghiệp, luật Cạnh tranh 2018 đã bổ sung thêm yếu tố khác ngoài yếu tố thị phần để xác định
doanh nghiệp và nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường. Đối với những
doanh nghiệp có thị phần dưới 30% thì cơ quan cạnh tranh sẽ đánh giá hoặc bản thân doanh
nghiệp cũng có thể đánh giá theo các quy định rất cụ thể trong Luật Cạnh tranh 2018 để xem rằng
liệu doanh nghiệp có vị trí sức mạnh thị trường hay không. ➟ việc xác định doanh nghiệp có vị trí
như thế nào trên thị trường là điều kiện tiên quyết để xem xét các hành vi lạm dụng của doanh nghiệp.
- Ngoài ra, Luật Cạnh tranh 2018 cũng quy định thêm các nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh
trên thị trường. Luật Cạnh tranh 2004 chỉ quy định đến nhóm bốn doanh nghiệp nhưng Luật Cạnh
tranh 2018 đã quy định đến nhóm năm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trên thị trường. Nhưng
có một điểm đáng lưu ý là những doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trên thị trường, trong đó
không có doanh nghiệp nào có thị phần dưới 10%. Có nghĩa là một nhóm doanh nghiệp thống
lĩnh thị trường nhưng có một doanh nghiệp có thị phần dưới 10% thì nhóm đó không bị coi là
nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trên thị trường.
4. Luật đã hoàn thiện quy định về kiểm soát hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
- Để đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật, luật không tiếp tục quy định một số hành vi
cạnh tranh không lành mạnh đã được quy định trong một số luật khác và khẳng định nguyên tắc
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã được quy định tại các luật khác được thực hiện theo
pháp luật từng ngành đó.
- Điểm mới bổ sung đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh là các doanh nghiệp cần lưu ý
đó là quy định về hành vi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ mà nhằm dẫn
đến loại bỏ doanh nghiệp khác cùng kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó.
Link: https://luatminhkhue.vn/nhung-diem-moi-cua-luat-canh-tranh-nam-2018.aspx Nhược điểm
1. Quy định về thỏa thuận ấn định giá chưa được ghi nhận một cách rõ ràng
Khoản 1 Điều 11 Luật Cạnh tranh năm 2018 quy định “Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp” là một trong các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
➡ Vấn đề đặt ra là phải giải thích quy định trên như thế nào cho hợp lý. Bởi việc sử dụng từ ngữ
tại quy định này đang tạo ra nhiều cách hiểu không thống nhất.
- Có quan điểm cho rằng việc xác định thỏa thuận ấn định giá một cách trực tiếp hay gián tiếp
trong trường hợp trên sẽ căn cứ vào hàng hóa, dịch vụ. Khi thỏa thuận ấn định giá một cách trực
tiếp thì giá của hàng hóa, dịch vụ sẽ được giảm ngay so với giá đã ấn định trước đó. Còn khi giảm
giá một cách gián tiếp, thì giá của hàng hóa, dịch vụ sẽ không đổi. Tuy nhiên, thông qua một số
công cụ như chiết khấu, khuyến mãi, khách hàng sẽ nhận được một số lợi ích đền bù và trường
hợp này giá ban đầu của hàng hóa, dịch vụ sẽ được xem như là đã được giảm.
- Một số tác giả cho rằng việc xác định thỏa thuận ấn định giá một cách trực tiếp hoặc gián tiếp sẽ
căn cứ vào chủ thể thực hiện việc ấn định giá. Cụ thể, khi chủ thể thỏa thuận ấn định giá tự mình
thực hiện hành vi trên thì đây được xem là ấn định giá một cách trực tiếp. Còn khi những người
này không tự mình thực hiện mà ấn định giá thông qua một hoặc một số trung gian khác thì hành
vi này sẽ được xem như đã ấn định giá một cách gián tiếp. Dẫu vậy, cách xác định này chỉ có thể
được áp dụng trong trường hợp giá hàng hóa, dịch vụ đã thay đổi một cách rõ ràng.
➨ Việc cùng một quy định nhưng lại tạo ra nhiều cách hiểu không thống nhất sẽ làm giảm tính khả
thi của văn bản quy phạm pháp luật, từ đó, tạo ra nhiều khó khăn trong công tác áp dụng pháp
luật trên thực tế
2. Quy định về quyết định miễn hoặc giảm mức xử phạt theo chính sách khoan hồng còn gây nhầm lẫn
Tại Điều 112. Cụ thể, khoản 1 Điều này có quy định “Doanh nghiệp tự nguyện khai báo giúp Ủy ban
Cạnh tranh quốc gia phát hiện, điều tra và xử lý hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm quy định
tại Điều 12 của Luật này được miễn hoặc giảm mức xử phạt theo chính sách khoan hồng”.
→ Câu hỏi đặt ra xoay quanh quy định này là việc miễn hoặc giảm mức xử phạt phải được hiểu như
thế nào cho hợp lý.
- Bởi, căn cứ theo quy định Nghị định số 75/2019/NĐ-CP thì khi một chủ thể có thực hiện hành vi
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm họ sẽ bị áp dụng cả ba hình thức xử lý là phạt tiền, xử phạt
bổ sung và buộc khắc phục hậu quả.
- Nếu xem xét kỹ quy định tại Điều 112, ta chỉ thấy có ghi nhận duy nhất cách thức áp dụng đối với biện pháp phạt tiền.
➨ Phải chăng, nhà làm luật chỉ muốn giới hạn phạm vi miễn, giảm trách nhiệm cho bên vi phạm
trong phạm vi biện pháp xử lý này?
3. Việc giới hạn lại số lượng doanh nghiệp được hưởng chính sách khoan hồng là chưa phù hợp
- Căn cứ quy định khoản 5 Điều 112 Luật Cạnh tranh năm 2018, hiện nay việc miễn hoặc giảm
mức xử phạt trong thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chỉ được giới hạn trong phạm vi ba doanh
nghiệp đầu tiên nộp đơn xin đến Uỷ ban Cạnh tranh quốc gia.
→ quy định này là hoàn toàn không hợp lý. Do mục đích chính của việc áp dụng chính sách
khoan hồng là nhằm thúc giục các bên tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh tiến hành khai báo
hành vi vi phạm của mình và các chủ thể có liên quan. Việc giới hạn số lượng này sẽ chỉ có hiệu
quả áp dụng đối với ba doanh nghiệp, còn những doanh nghiệp khác không được hưởng chính
sách khoan hồng thì mặc nhiên họ sẽ không bị tác động quá nhiều trong việc thực hiện khai báo.
- Một số ý kiến nêu quan điểm rằng số lượng doanh nghiệp khai báo được hưởng khoan hồng sẽ
được giữ bí mật để các chủ thể khác không biết được và họ sẽ luôn nghĩ rằng bản thân chính là
doanh nghiệp khai báo đầu tiên. Điều này là hoàn toàn phi thực tế.
➨ Khi doanh nghiệp thứ tư khai báo nhưng lại bị xử lý và không được miễn, giảm chế tài theo
chính sách khoan hồng sẽ gây nên một sự tác động tiêu cực đến hoạt động kinh doanh trong nước.
Link: https://lsvn.vn/hoan-thien-quy-dinh-ve-thoa-thuan-han-che-canh-tranh-trong-luat-canh-tranh-nam- 2018-1680495031.html