dụ về thực tiễn tiêu chuẩn của chân lý?
1. Tổng quan v thực tiễn chân lý
1.1. Khái niệm về thực tiễn chân
Chân thuộc về vấn đề nhận thức bởi nhiệm vụ của nhận thức phải đạt
đến chân lý, nghĩa đạt đến tri thức nội dung phù hợp với hiện thực
khách quan; nhưng không phải sự nhận thức nói chung, sự nhận
thức đúng về hiện thực khách quan. Chân cũng không phải bản thân hiện
thực khách quan nói chung, chỉ hiện thực khách quan đã được phản
ánh đúng bởi nhận thức của con người. Không thể chân chủ quan, hoặc
chân tồn tại tự một cách trừu tượng thuần túy trong hiện thực khách
quan như quan điểm của triết học duy tâm đã thừa nhận. Hoặc quan điểm
không đúng cho rằng chân thuộc về số đông, tức tưởng đó được
nhiều người thừa nhận hoặc thuộc về những người quyền lực, người
giàu có...
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: chân là những tri
thức phù hợp với hiện thực khách quan được thực tiễn kiểm nghiệm. Chân
bao giờ cũng chân khách quan tức những tri thức nội dung của
không phụ thuộc vào con người. Chân còn tính tuyệt đối tính
tương đối, tính cụ thể. Chân còn một quá trình nhận thức của con
người một quá trình
Còn đối với khái niệm thực tiễn thì theo tiếng Hy Lạp cổ "Practica",
nghĩa đen hoạt động tích cực. Các nhà triết học duy tâm cho hoạt động
nhận thức, hoạt động của ý thức, hoạt động của tinh thần nói chung hoạt
động thực tiễn. Các nhà triết học tôn giáo thì cho hoạt động sáng tạo ra trụ
của thượng đế hoạt động thực tiễn. c nhà triết học duy vật trước triết
học duy vật biện chứng nhiều đóng góp cho quan điểm duy vật về nhận
thức, nhưng chưa một đại biểu nào hiểu đúng được bản chất của thực tiễn
cũng n vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Với việc đưa phạm trù thực
tiễn vào luận nhận thức, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lenin đã
tạo nên một bước chuyển biến cách mạng trong triết học nói chung trong
luận nhận thức nói riêng đã đưa ra quan điểm về thực tiễn như sau:
- Thực tiễn toàn bộ những hoạt động vật chất, mục đích, mang tính lịch
sử - hội của con người nhằm cải biến tự nhiên hội
- Bản chất của hoạt động thực tiễn đó sự tác động qua lại của chủ thể
khác thể
- Hoạt động thực tiễn đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú,
song thể chia ra thành ba nh thức bản đó hoạt động sản xuất vật
chất, hoạt động chính trị hội hoạt động thực nghiệm khoa học
Như vật chân lý một loại tri thức p hợp với khách thể mà phản ánh
được kiểm nghiệm bởi thực tiễn. Theo nghĩa như vậy thì khái niệm chân sẽ
không đồng nhất với khái niệm tri thức, cũng không đồng nhất với khái niệm
giả thuyết, đồng thời chân cũng quá trình: "tư tưởng con người không
nên hình dung chân dưới dạng một sự đứng im, chết cứng, một bức tranh
đơn giản, nhợt nhạt, không khuynh hướng, không vận động".
1.2. Vai trò của chân đối với thực tiễn
Để sinh tồn phát triển, con người phải tiến hành những hoạt động thực tiễn,
đó các hoạt động cải biến môi trường tự nhiên hội, đồng thời cũng
qua đó con người thực hiện một cách tự giác hay không tự giác quá trình
hoàn thiện phát triển chính bản thân mình. Chính quá trình này đã làm
phát sinh phát triển hoạt động nhận thức của con người. Thế nhưng hoạt
động thực tiễn chỉ th thành công hiệu quả khi con người vận dụng
được những tri thức đúng đắn về thực tế khách quan trong chính hoạt động
thực tiễn của mình. vậy, chân một trong những điều kiện tiên quyết
đảm bảo sự thành công nh hiệu quả trong hoạt động thực tiễn
Mối quan h giữa chân hoạt động thực tiễn mối quan hệ song trùng
trong quá trình vận động, phát triển của cả chân thực tiễn: Châ phát
triển nhờ thực tiễn thực tiễn phát triển nhờ vận dụng đúng đắn những
chân con người đã đạt được trong hoạt động thực tiễn. Quan điểm biện
chứng về mối quan h giữa chân thực tiễn đòi hỏi trong hoạt động nhận
thức con người phải xuất phát từ thực tiễn để đạt được chân lý, phải coi chân
cũng một quá trình, đồng thời phải thường xuyên tự giác vận dụng chân
vào trong hoạt động thực tiễn để phát triển thực tiễn, nâng cao hiệu quả
hoạt động cải biến giới tự nhiên hội
Coi trọng tri thức khoa học tích cực vận dụng sáng tạo những tri thức đó
vào trong các hoạt động kinh tế - hội, nâng cao hiệu quả của những hoạt
động đó về thực chất cũng chính phát huy vai trò của chân khoa học
trong thực tiễn hiện nay.
2. Thực tiễn tiêu chuẩn của chân
Tri thức của con người kết quả của quá trình nhận thức, tri thức đó thể
phẩn ánh đúng hoặc không đúng hiện thực khách quan. Không thể lấy tri thức
để kiểm tra tri thức ng không th lấy sự hiển nhiên, hay sự n thành của
số đông hoặc sự lợi, ích để kiểm tra sự đúng, sai của tri thức. Theo triết
học Mác - Lenin, thực tiễn tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm tra
chân lý, bác bỏ sai lầm. Dựa o thực tiễn, người ta thể chứng minh, kiểm
nghiệm chân lý. Bởi lẽ, chỉ thực tiễn mới thể vật chất hóa được tri thức,
hiện thực hóa được tưởng, qua đó mới khẳng định được chân hoặc phủ
định một sai lầm nào đó. C. Mác khẳng định: "Vấn đề tìm hiểu xem duy của
con người thể đạt tới tính chân khách quan không, hoàn toàn không
phải một vấn đề luận một vấn đề thực tiễn",
nhiều hình thức thực tiễn khác nhau, do vậy ng nhiều hình thức kiểm
tra chân khác nhau, thể bằng thực nghiệm khoa học, thể áp dụng
luận hội vào quá trình cải biến hội,... Tuy nhiên, thực tiễn tiêu chuẩn
của chân vừa tính chất tuyệt đối, vừa tính chất tương đối. Tính tuyệt
đối của thực tiễn với cách tiêu chuẩn châm thể hiện chỗ, thực tiễn
tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm ra, khẳng định chân lý, bác bỏ sai
lầm. Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể sẽ chứng minh được châm
lý, bác bỏ được sai lầm. Tính tương đối của thực tiễn với cách tiêu chuẩn
chân thể hiện chỗ, thực tiễn quá trình vận động, biến đổi, phát triển.
Do đó không bao gi thể xác nhận hoặc bác b một cách hoàn toàn một
biểu tượng nào đó của con người, biểu tượng ấy như thế nào đi chăng
nữa
vậy nếu xem xét thực tiễn trong không gian càng rộng, trong thời gian càng
dài, trong chỉnh thể thì càng đâu chân lý, đâu sai lầm. Triết học Mác -
Lenin yêu cầu quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải quan điểm thứ
nhất bản của luận về nhận thức khẳng định "con người chứng
minh bằng thực tiễn của mình sự đóng dấu khách quan của những ý niệm,
khái niệm tri thức của mình, của khoa học."
a. Thực tiễn tiêu chuẩn duy nhất của chân lý
Nhờ thực tiễn, chúng ta phân biệt được chân sai lầm, tức thực tiễn
đóng vai trò tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Thực tiễn hoạt động vật chất
tính tất yếu khách quan, diễn ra độc lập đối với nhận thức, luôn luôn
vận động, phát triển trong lịch sử. Nhờ đó mà thúc đẩy nhận thức cùng
vận động, phát triển. Mọi sự biến đổi của nhận thức suy cho cùng không thể
vượt ra ngoài sự kiểm tra của thực tiễn. thường xuyên chịu sự kiểm
nghiệm trực tiếp của thực tiễn
Chính thực tiễn vai trò làm tiêu chuẩn, thước đo giá trị của những tri thức
đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời nó bổ sung, chỉnh sửa, điều chỉnh,
sửa chữa, phát triển hoàn thiện nhận thức. C.Mác đã viết "vấn đ tìm hiểu
duy của con người th đạt tới chân khách quan hay không, hoàn toàn
không phải vấn đề luận một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn
con người phải chứng minh chân lý"
Nhờ thực tiễn kiểm nghiệm, chứng minh ta xác định đâu cái hợp quy
luật, đâu cái tri thức đúng, đâu sai lầm ng n cái nên làm, cái
không nên làm, đâu cái không hợp với quy luật chân chính cái tri
thức đúng, cái hợp quy luật hay đúng với quy luật
Thực tiễn chẳng những điểm xuất phát của nhận thức, yếu tố đóng vai
trò quyết định đối với sự hình thành phát triển của nhận thức còn là nơi
nhận thức phải luôn luôn hướng tới đ thể nghiệm tính đúng đắn của mình.
thế thực tiễn sở, động lực, mục đích của nhận thức, vừa là tiêu
chuẩn để kiểm tra chân lý. khi nhấn mạng điều này thì VI nin đã viết:
"Quan điểm về đời sống thực tiễn phải quan điểm thứ nhất bản
của luận nhận thức".
Chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực tiễn, quan điểm này yêu
cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên sở thực tiễn, độ
sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, việc nghiên cứu
phải liên hệ với thực tiễn tức "học phải đi đôi với hành". nếu xa rời thực tiễn
sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan
liêu, không xác định được quy luật, không phân biệt được quy luật đó hợp
quy luật hay không tri thức đúng chân lý) hay không nhưng nếu tuyệt đối
hóa thì sẽ rơi vào ch nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa nên đòi hỏi
chúng ta phải cái nhìn đúng đắn thì mới xác định được quy luật hợp chân
Những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan được thực tiễn kiểm
nghiệm chính những tri thức đúng, đúng thời mới phù hợp được với
hiện thực khách quan còn tri thức sai, sai lầm thì không thể p hợp với hiện
thực khách quan được
b. Chân có tính c thể
đặc tính gắn liền phù hợp giữa nội dung phản ánh với một đối tượng
nhất định cùng các điều kiện, hòa cảnh lịch sử cụ thể. Thực tiễn lại tính
phổ biến hiện thực trực tiếp nhờ đó thực tiễn thể vật chất hóa được
tri thức, biến tri thức thành các khách thể vật chất tính xác thực cảm nh.
Mỗi tri thức đúng đắn bao giờ cũng một nội dung nhất định, nội dung đó
luôn gắn liền với đối tượng xác định, diễn ra nên bất kỳ chân nào cũng gắn
liền với những điều kiện lịch sử cụ thể
Việc nắm vững những nguyên tắc về tính cụ thể của chân ý nghĩa
phương pháp luận quan trọng trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động
thực tiễn. Việc xem xét, đánh g mỗi sự vật, hiện tượng, mỗi việc làm phải
dựa trên quan điểm lịch sử - cụ thể để vận dụng vào thực tiễn xác định
được chân
Nhận thức những tri thức về bản chất quy luật của hiện thực, của thực tiên
thực tiễn lại còn sở, động lực mục đích của nhận thức để t đó
giúp con người hiểu biết thêm được về các quy luật, đã quy luật thì
không thể phủ định được sẽ tồn tại chân
c. Tiêu chuẩn thực tiễn
Tiêu chuẩn thực tiễn vừa mang nh tuyệt đối lại vừa mang tính tương đối.
Tuyệt đối tiêu chuẩn khách quan duy nhất, tương đối bản thân thực
tiễn luôn luôn biến đổi, phát triển. Sự biến đổi này dẫn đến chỗ tiếp tục bổ
sung, phát triển những tri thức đã trước đó
Chân cũng khách quan, sự thống nhất giữa hai trình độ, chân tuyệt
đối chân tương đối t đó cũng nghĩa nhận thức phải trải qua một
quá trình đi từ chưa biết đầy đủ đến biết đầy đủ hơn về sự vật, hiện tượng.
thực tiễn sở chủ yếu trực tiếp của nhận thức, mục đích của
nhận thức tiêu chuẩn để kiểm tra độ chuẩn xác trong kết quả nhận thức.
nhận thức một quá trình tính tích cực, ch động sáng tạo của
những hoạt động vật chất tính mục đích, lịch sử - hội của con người
nhằm cải tạo thế giới
Một chân luôn tính đích thực, xác thực luôn được thực tiễn kiểm
nghiệm bởi chân sản phẩm của quá trình nhận thức con người tri thức
đúng. Chính trong thực tiễn con người chứng minh được chân lý, nghĩa
chứng minh hiện thực sức mạnh, tính trần tục của tư duy. Thực tiễn tồn tại
dưới nhiều hình thức khác nhau nên các hình thức kiểm nghiệm bằng thực
tiễn đối với tri thức chân cũng khác nhau, thể tiến hành thực
nghiệm, áp dụng những phát minh vào thực tế thành công.
3. dụ về thực tiễn là tiêu chuẩn của chân
Một số dụ để chứng minh thực tiễn tiêu chuẩn của chân thể kể đến
là: Trái đất quay quanh mặt trời; Không quý hơn độc lậ tự do; Nhà bác
gọc Galile phát minh ra định luật về sức cản của không khí
Thực tiễn tiêu chuẩn của chân chỉ đem những tri thức đã thu nhận
được qua nhận thức đối chiếu với thực tiễn để kiểm tra, kiểm nghiệm mới
khẳng định được tính đúng đắn của nó.
Như vậy trến đây toàn bộ thông tin về dụ về thực tiễn tiêu chuẩn
của chân do Công ty Luật Minh Khuê soạn thảo muốn gửi đến quý khách
mang tính chất tham khảo. Hy vọng rằng những thông tin chúng tôi cung
cấp tại bài viết sẽ giúp ích cho quý khách trong quá trình tìm hiểu các vấn đề
về thực tiễn chân lý.

Preview text:

Ví dụ về thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý?
1. Tổng quan về thực tiễn và chân lý
1.1. Khái niệm về thực tiễn và chân lý
Chân lý thuộc về vấn đề nhận thức bởi vì nhiệm vụ của nhận thức là phải đạt
đến chân lý, nghĩa là đạt đến tri thức có nội dung phù hợp với hiện thực
khách quan; nhưng không phải là sự nhận thức nói chung, mà là sự nhận
thức đúng về hiện thực khách quan. Chân lý cũng không phải bản thân hiện
thực khách quan nói chung, mà chỉ là hiện thực khách quan đã được phản
ánh đúng bởi nhận thức của con người. Không thể có chân lý chủ quan, hoặc
chân lý tồn tại tự nó một cách trừu tượng thuần túy ở trong hiện thực khách
quan như quan điểm của triết học duy tâm đã thừa nhận. Hoặc có quan điểm
không đúng cho rằng chân lý thuộc về số đông, tức là tư tưởng đó được
nhiều người thừa nhận hoặc nó thuộc về những người có quyền lực, người giàu có...
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: chân lý là những tri
thức phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm. Chân
lý bao giờ cũng là chân lý khách quan tức là những tri thức mà nội dung của
nó không phụ thuộc vào con người. Chân lý còn có tính tuyệt đối và tính
tương đối, tính cụ thể. Chân lý còn là một quá trình vì nhận thức của con người là một quá trình
Còn đối với khái niệm thực tiễn thì theo tiếng Hy Lạp cổ là "Practica", có
nghĩa đen là hoạt động tích cực. Các nhà triết học duy tâm cho hoạt động
nhận thức, hoạt động của ý thức, hoạt động của tinh thần nói chung là hoạt
động thực tiễn. Các nhà triết học tôn giáo thì cho hoạt động sáng tạo ra vũ trụ
của thượng đế là hoạt động thực tiễn. Các nhà triết học duy vật trước triết
học duy vật biện chứng có nhiều đóng góp cho quan điểm duy vật về nhận
thức, nhưng chưa có một đại biểu nào hiểu đúng được bản chất của thực tiễn
cũng như vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Với việc đưa phạm trù thực
tiễn vào lý luận nhận thức, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lenin đã
tạo nên một bước chuyển biến cách mạng trong triết học nói chung và trong
lý luận nhận thức nói riêng và đã đưa ra quan điểm về thực tiễn như sau:
- Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất, có mục đích, mang tính lịch
sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội
- Bản chất của hoạt động thực tiễn đó là sự tác động qua lại của chủ thể và khác thể
- Hoạt động thực tiễn đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú,
song có thể chia ra thành ba hình thức cơ bản đó là hoạt động sản xuất vật
chất, hoạt động chính trị xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học
Như vật chân lý là một loại tri thức phù hợp với khách thể mà nó phản ánh và
được kiểm nghiệm bởi thực tiễn. Theo nghĩa như vậy thì khái niệm chân lý sẽ
không đồng nhất với khái niệm tri thức, cũng không đồng nhất với khái niệm
giả thuyết, đồng thời chân lý cũng là quá trình: "tư tưởng con người không
nên hình dung chân lý dưới dạng một sự đứng im, chết cứng, một bức tranh
đơn giản, nhợt nhạt, không khuynh hướng, không vận động".
1.2. Vai trò của chân lý đối với thực tiễn
Để sinh tồn và phát triển, con người phải tiến hành những hoạt động thực tiễn,
đó là các hoạt động cải biến môi trường tự nhiên và xã hội, đồng thời cũng
qua đó con người thực hiện một cách tự giác hay không tự giác quá trình
hoàn thiện và phát triển chính bản thân mình. Chính quá trình này đã làm
phát sinh và phát triển hoạt động nhận thức của con người. Thế nhưng hoạt
động thực tiễn chỉ có thể thành công và có hiệu quả khi con người vận dụng
được những tri thức đúng đắn về thực tế khách quan trong chính hoạt động
thực tiễn của mình. Vì vậy, chân lý là một trong những điều kiện tiên quyết
đảm bảo sự thành công và tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn
Mối quan hệ giữa chân lý và hoạt động thực tiễn là mối quan hệ song trùng
trong quá trình vận động, phát triển của cả chân lý và thực tiễn: Châ lý phát
triển nhờ thực tiễn và thực tiễn phát triển nhờ vận dụng đúng đắn những
chân lý mà con người đã đạt được trong hoạt động thực tiễn. Quan điểm biện
chứng về mối quan hệ giữa chân lý và thực tiễn đòi hỏi trong hoạt động nhận
thức con người phải xuất phát từ thực tiễn để đạt được chân lý, phải coi chân
lý cũng là một quá trình, đồng thời phải thường xuyên tự giác vận dụng chân
lý vào trong hoạt động thực tiễn để phát triển thực tiễn, nâng cao hiệu quả
hoạt động cải biến giới tự nhiên và xã hội
Coi trọng tri thức khoa học và tích cực vận dụng sáng tạo những tri thức đó
vào trong các hoạt động kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu quả của những hoạt
động đó về thực chất cũng chính là phát huy vai trò của chân lý khoa học
trong thực tiễn hiện nay.
2. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Tri thức của con người là kết quả của quá trình nhận thức, tri thức đó có thể
phẩn ánh đúng hoặc không đúng hiện thực khách quan. Không thể lấy tri thức
để kiểm tra tri thức cũng không thể lấy sự hiển nhiên, hay sự tán thành của
số đông hoặc sự có lợi, có ích để kiểm tra sự đúng, sai của tri thức. Theo triết
học Mác - Lenin, thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm tra
chân lý, bác bỏ sai lầm. Dựa vào thực tiễn, người ta có thể chứng minh, kiểm
nghiệm chân lý. Bởi lẽ, chỉ có thực tiễn mới có thể vật chất hóa được tri thức,
hiện thực hóa được tư tưởng, qua đó mới khẳng định được chân lý hoặc phủ
định một sai lầm nào đó. C. Mác khẳng định: "Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của
con người có thể đạt tới tính chân lý khách quan không, hoàn toàn không
phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn",
Có nhiều hình thức thực tiễn khác nhau, do vậy cũng có nhiều hình thức kiểm
tra chân lý khác nhau, có thể bằng thực nghiệm khoa học, có thể áp dụng lý
luận xã hội vào quá trình cải biến xã hội,... Tuy nhiên, thực tiễn là tiêu chuẩn
của chân lý vừa có tính chất tuyệt đối, vừa có tính chất tương đối. Tính tuyệt
đối của thực tiễn với tư cách tiêu chuẩn châm lý thể hiện ở chỗ, thực tiễn là
tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm ra, khẳng định chân lý, bác bỏ sai
lầm. Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể sẽ chứng minh được châm
lý, bác bỏ được sai lầm. Tính tương đối của thực tiễn với tư cách tiêu chuẩn
chân lý thể hiện ở chỗ, thực tiễn có quá trình vận động, biến đổi, phát triển.
Do đó không bao giờ có thể xác nhận hoặc bác bỏ một cách hoàn toàn một
biểu tượng nào đó của con người, dù biểu tượng ấy như thế nào đi chăng nữa
Vì vậy nếu xem xét thực tiễn trong không gian càng rộng, trong thời gian càng
dài, trong chỉnh thể thì càng rõ đâu là chân lý, đâu là sai lầm. Triết học Mác -
Lenin yêu cầu quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ
nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức và khẳng định "con người chứng
minh bằng thực tiễn của mình sự đóng dấu khách quan của những ý niệm,
khái niệm tri thức của mình, của khoa học."
a. Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất của chân lý
Nhờ có thực tiễn, chúng ta phân biệt được chân lý và sai lầm, tức thực tiễn
đóng vai trò là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Thực tiễn là hoạt động vật chất
có tính tất yếu khách quan, diễn ra độc lập đối với nhận thức, nó luôn luôn
vận động, và phát triển trong lịch sử. Nhờ đó mà thúc đẩy nhận thức cùng
vận động, phát triển. Mọi sự biến đổi của nhận thức suy cho cùng không thể
vượt ra ngoài sự kiểm tra của thực tiễn. Nó thường xuyên chịu sự kiểm
nghiệm trực tiếp của thực tiễn
Chính thực tiễn có vai trò làm tiêu chuẩn, thước đo giá trị của những tri thức
đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời nó bổ sung, chỉnh sửa, điều chỉnh,
sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức. C.Mác đã viết "vấn đề tìm hiểu
tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn
không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn
mà con người phải chứng minh chân lý"
Nhờ có thực tiễn kiểm nghiệm, chứng minh mà ta xác định đâu là cái hợp quy
luật, đâu là cái tri thức đúng, đâu là sai lầm cũng như cái gì nên làm, cái gì
không nên làm, đâu là cái không hợp với quy luật mà chân lý chính là cái tri
thức đúng, cái hợp quy luật hay là đúng với quy luật
Thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai
trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi
nhận thức cò phải luôn luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình.
Vì thế mà thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, vừa là tiêu
chuẩn để kiểm tra chân lý. Và khi nhấn mạng điều này thì VI Lê nin đã viết:
"Quan điểm về đời sống và thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản
của lý luận nhận thức".
Chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực tiễn, quan điểm này yêu
cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, độ
sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, việc nghiên cứu
phải liên hệ với thực tiễn tức là "học phải đi đôi với hành". nếu xa rời thực tiễn
sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan
liêu, không xác định được quy luật, không phân biệt được quy luật đó có hợp
quy luật hay không có là tri thức đúng chân lý) hay không nhưng nếu tuyệt đối
hóa thì sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa nên đòi hỏi
chúng ta phải có cái nhìn đúng đắn thì mới xác định được quy luật hợp chân lý
Những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm
nghiệm chính là những tri thức đúng, có đúng thời mới phù hợp được với
hiện thực khách quan còn tri thức sai, sai lầm thì không thể phù hợp với hiện thực khách quan được
b. Chân lý có tính cụ thể
Có đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh với một đối tượng
nhất định cùng các điều kiện, hòa cảnh lịch sử cụ thể. Thực tiễn lại có tính
phổ biến và là hiện thực trực tiếp nhờ đó thực tiễn có thể vật chất hóa được
tri thức, biến tri thức thành các khách thể vật chất có tính xác thực cảm tính.
Mỗi tri thức đúng đắn bao giờ cũng có một nội dung nhất định, nội dung đó
luôn gắn liền với đối tượng xác định, diễn ra nên bất kỳ chân lý nào cũng gắn
liền với những điều kiện lịch sử cụ thể
Việc nắm vững những nguyên tắc về tính cụ thể của chân lý có ý nghĩa
phương pháp luận quan trọng trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động
thực tiễn. Việc xem xét, đánh giá mỗi sự vật, hiện tượng, mỗi việc làm phải
dựa trên quan điểm lịch sử - cụ thể để vận dụng vào thực tiễn và xác định được rõ chân lý
Nhận thức là những tri thức về bản chất quy luật của hiện thực, của thực tiên
mà thực tiễn lại còn là cơ sở, động lực và mục đích của nhận thức để từ đó
giúp con người hiểu và biết thêm được về các quy luật, đã là quy luật thì
không thể phủ định được và sẽ tồn tại và là chân lý
c. Tiêu chuẩn thực tiễn
Tiêu chuẩn thực tiễn vừa mang tính tuyệt đối lại vừa mang tính tương đối.
Tuyệt đối vì nó là tiêu chuẩn khách quan duy nhất, tương đối vì bản thân thực
tiễn luôn luôn biến đổi, phát triển. Sự biến đổi này dẫn đến chỗ tiếp tục bổ
sung, phát triển những tri thức đã có trước đó
Chân lý cũng là khách quan, là sự thống nhất giữa hai trình độ, chân lý tuyệt
đối và chân lý tương đối thì đó cũng có nghĩa là nhận thức phải trải qua một
quá trình đi từ chưa biết đầy đủ đến biết đầy đủ hơn về sự vật, hiện tượng.
Mà thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp của nhận thức, là mục đích của
nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra độ chuẩn xác trong kết quả nhận thức.
Mà nhận thức là một quá trình có tính tích cực, chủ động và sáng tạo của
những hoạt động vật chất có tính mục đích, lịch sử - xã hội của con người
nhằm cải tạo thế giới
Một chân lý luôn có tính đích thực, xác thực và luôn được thực tiễn kiểm
nghiệm bởi chân lý là sản phẩm của quá trình nhận thức con người là tri thức
đúng. Chính trong thực tiễn mà con người chứng minh được chân lý, nghĩa là
chứng minh hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy. Thực tiễn tồn tại
dưới nhiều hình thức khác nhau nên các hình thức kiểm nghiệm bằng thực
tiễn đối với tri thức là chân lý cũng khác nhau, có thể là tiến hành thực
nghiệm, là áp dụng những phát minh vào thực tế thành công.
3. Ví dụ về thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Một số ví dụ để chứng minh thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý có thể kể đến
là: Trái đất quay quanh mặt trời; Không có gì quý hơn độc lậ tự do; Nhà bác
gọc Galile phát minh ra định luật về sức cản của không khí
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vì chỉ có đem những tri thức đã thu nhận
được qua nhận thức đối chiếu với thực tiễn để kiểm tra, kiểm nghiệm mới
khẳng định được tính đúng đắn của nó.
Như vậy trến đây là toàn bộ thông tin về Ví dụ về thực tiễn là tiêu chuẩn
của chân lý
do Công ty Luật Minh Khuê soạn thảo muốn gửi đến quý khách
mang tính chất tham khảo. Hy vọng rằng những thông tin mà chúng tôi cung
cấp tại bài viết sẽ giúp ích cho quý khách trong quá trình tìm hiểu các vấn đề
về thực tiễn và chân lý.
Document Outline

  • Ví dụ về thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý?
    • 1. Tổng quan về thực tiễn và chân lý
      • 1.1. Khái niệm về thực tiễn và chân lý
      • 1.2. Vai trò của chân lý đối với thực tiễn
    • 2. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
    • 3. Ví dụ về thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý