Vì sao Điện Biên Phủ được chọn là điểm quyết chiến chiến lược giữa quân và dân ta với thực dân Pháp?

Tài liệu học tập môn Lịch sử Đảng tại trường Học viện Báo chí và Tuyên truyền giúp bạn học tập, ôn luyện và đạt điểm cao!

1. Điện Biên Phủ được chọn là điểm quyết chiến chiến lược giữa quân và dân ta với thực
dân Pháp vì:
1. Đối với ta:
- Cuộc kháng chiến toàn diện của ta phát triển về mọi mặt vào năm 1954, chính quyền
dân chủ nhân dân không ngừng được củng cố, kinh tế kháng chiến không ngừng được
phát triển -> Ta có đủ sức chi viện cho trận quyết chiến chiến lược
- Bộ đội của ta không ngừng trưởng thành cả vchất lượng là số lương, có nh cơ động,
tác chiến cao
- Cuộc kháng chiến của ta dần nhận được sự ủng hộ của quốc tế
- Nằm cô lập giữa núi rừng trùng điệp mênh mông của Tây Bắc và thượng Lào, Điện Biên
Phủ rất xa những căn cứ hậu phương của địch. Mọi việc tăng viện hoặc ếp tế đều do
đường hàng không đảm nhiệm. Nếu đường hàng không bị cắt đứt thì quân Pháp ở đây
sẽ lâm vào thế bị động, phòng ngự trong những điều kiện khó khăn và nếu lâm nguy
cũng khó rút quân được toàn vẹn.
- Bên cạnh đó, địa hình rừng núi vốn rất quen thuộc, thuận lợi trong tác chiến của ta.
Những dãy núi trùng điệp xung quanh thung lũng Điện Biên trở thành vũ khí lợi hại cho
quân đội ta khi đặt pháo ở những sườn núi để khống chế các căn cứ của địch tại cánh
đồng Điện Biên.
Bởi vậy sau 3 chiến dịch vùng Trung du và đồng bằng (chiến dịch Trung du, Đường 18 và Hà
Nam Ninh), Đảng ta quyết định chọn hướng rừng núi Tây Bắc để ến công. Tại Hội nghị của Bộ
Chính trị bàn về nhiệm vụ quân sự Đông Xuân (1953 – 1954), chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
“vớng hoạt động, lấy Tây bắc làm hướng chính, các hướng khác là hướng phối hợp. Hướng
chính hiện nay không thay đổi, nhưng trong hoạt động thì có thể thay đổi, phép dùng binh là
phải thiên biến vạn hóa”.
Do vậy, việc làm chủ được Tây Bắc không những bảo vệ được vững chắc khu đầu não kháng
chiến Việt Bắc, tạo thành thế liên hoàn nối liền một dải hậu phương kháng chiến rộng lớn mà
còn có điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng giao lưu quốc tế, đặc biệt trong việc tăng cường
nh đoàn kết Việt – Lào để cùng chống kẻ thù chung.
2. Đối với Pháp:
- Điện Biên Phủ là cứ điểm có ý nghĩa chiến lược khống chế cả một vùng rộng lớn của Tây
Bắc và Thượng Lào. Tuy nằm ngoài dự kiến ban đầu của Kế hoạch Nava, nhưng các
ớng lĩnh Pháp và Mỹ đã tăng cường lực lượng, xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập
đoàn cứ điểm mạnh. Ở đây tập trung 16.200 quân gồm 21 ểu đoàn trong đó có 17 ểu
đoàn bộ binh, 3 ểu đoàn pháo binh, 1 ểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 phi đội
không quân, 1 đại đội vận tải cơ giới. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được bố trí
thành 3 phân khu Bắc, Trung, Nam với 49 cứ điểm, huy động toàn bộ lính dù và 40% lực
lượng cơ động nh nhuệ nhất của Pháp ở Đông Dương; hai sân bay Mường Thanh và
Hồng Cúm mỗi ngày có thể vận chuyển khoảng 200 đến 300 tấn hàng và thả dù từ 100
đến 150 quân, đảm bảo nguồn ếp viện trong quá trình tác chiến. Tập đoàn cứ đim
Điện Biên Phủ là tập đoàn cứ điểm phòng ngự mạnh nhất của Pháp ở Đông Dương lúc
bấy giờ, như “ một pháo đài không thể công phá”, là nơi thu hút để êu diệt bộ đội chủ
lực của ta và là quyết chiến điểm của Kế hoạch Nava.
- Đế quốc Pháp – Mỹ đánh giá Điện Biên phủ là “một vị trí chiến lược quan trọng chẳng
những đối với chiến trường Đông Dương, mà còn đối với miền Đông Nam Á, là “ ngã tư
chiến lược quan trọng, “cái bàn xoay có thể xoay đi bốn phía Việt Nam, Lào, Miến Điện,
Trung Quốc”, như “chìa khóa” bảo vệ Thượng Lào. Đồng thời từ Điện Biên Phủ có thể
đánh chiếm lại các vùng đã mất ở Tây Bắc Trong những năm 1950 –
1953 và tạo điều kiện để êu diệt quân chủ lực của ta tại đây. Mặt khác đây còn là một
căn cứ không quân, lục quân lợi hại, phục vụ cho chính sách xâm lược của Mỹ ở Đông
Nam Châu Á.
- Nếu khống chế được khu vực này, chúng sẽ mở rộng được địa bàn hoạt động nhằm uy
hiếp, khống chế bên sườn và sau lưng ta, chia cắt liên lạc và sự chi viện của ta với chiến
khu Việt Bắc, Liên khu II và Liên khu IV. Đồng thời từ đây có thể che chở cho Thượng
Lào cùng kinh đô LuôngPhaBăng. Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng xung quanh là
núi đá vôi ở phía Tây Bắc Việt Nam rất lợi hại cho quân phòng ngự. Quân đội Pháp đã
y dựng ở đây nhiều công sự kiên cố liên hoàn, rải trên một diện ch rộng có cả sân
bay, hầm ngầm và lập cầu không vận… với một lực lượng gồm 21 ểu đoàn bộ binh, 3
ểu đoàn pháo (24 khẩu 105mm, 20 khẩu 120mm và 4 khẩu 155mm), một đại đội tăng
10 chiếc, lực lượng không quân chi viện chiến đấu 150 – 250 lần/chiếc/ngày.
Với những nhận định như vậy, quân đội Pháp, đứng đầu là H.Nava đã chọn Điện Biên Phủ
để xây dựng tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương. Sự lựa chọn này của địch đã trở thành
một cơ hội tốt cho chúng ta để êu diệt sinh lực nh nhuệ của địch và kết thúc chiến tranh.
Tháng 12 năm 1953, Bộ chính trị đã hạ quyết tâm mở chiến dịch Điện Biên Phủ.
Sau khi quyết định chọn địa hình Điện Biên Phủ, quân và dân cả ớc đã dốc sức cho chiến dịch
với một quyết tâm cao độ, tạo nên sức mạnh tổng lực đánh thắng kẻ thù trong một thế trn
hiểm hóc, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ.
| 1/3

Preview text:

1. Điện Biên Phủ được chọn là điểm quyết chiến chiến lược giữa quân và dân ta với thực dân Pháp vì: 1. Đối với ta:
- Cuộc kháng chiến toàn diện của ta phát triển về mọi mặt vào năm 1954, chính quyền
dân chủ nhân dân không ngừng được củng cố, kinh tế kháng chiến không ngừng được
phát triển -> Ta có đủ sức chi viện cho trận quyết chiến chiến lược
- Bộ đội của ta không ngừng trưởng thành cả về chất lượng là số lương, có tính cơ động, tác chiến cao
- Cuộc kháng chiến của ta dần nhận được sự ủng hộ của quốc tế
- Nằm cô lập giữa núi rừng trùng điệp mênh mông của Tây Bắc và thượng Lào, Điện Biên
Phủ rất xa những căn cứ hậu phương của địch. Mọi việc tăng viện hoặc tiếp tế đều do
đường hàng không đảm nhiệm. Nếu đường hàng không bị cắt đứt thì quân Pháp ở đây
sẽ lâm vào thế bị động, phòng ngự trong những điều kiện khó khăn và nếu lâm nguy
cũng khó rút quân được toàn vẹn.
- Bên cạnh đó, địa hình rừng núi vốn rất quen thuộc, thuận lợi trong tác chiến của ta.
Những dãy núi trùng điệp xung quanh thung lũng Điện Biên trở thành vũ khí lợi hại cho
quân đội ta khi đặt pháo ở những sườn núi để khống chế các căn cứ của địch tại cánh đồng Điện Biên.
Bởi vậy sau 3 chiến dịch vùng Trung du và đồng bằng (chiến dịch Trung du, Đường 18 và Hà
Nam Ninh), Đảng ta quyết định chọn hướng rừng núi Tây Bắc để tiến công. Tại Hội nghị của Bộ
Chính trị bàn về nhiệm vụ quân sự Đông Xuân (1953 – 1954), chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
“về hướng hoạt động, lấy Tây bắc làm hướng chính, các hướng khác là hướng phối hợp. Hướng
chính hiện nay không thay đổi, nhưng trong hoạt động thì có thể thay đổi, phép dùng binh là
phải thiên biến vạn hóa”.
Do vậy, việc làm chủ được Tây Bắc không những bảo vệ được vững chắc khu đầu não kháng
chiến Việt Bắc, tạo thành thế liên hoàn nối liền một dải hậu phương kháng chiến rộng lớn mà
còn có điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng giao lưu quốc tế, đặc biệt trong việc tăng cường
tình đoàn kết Việt – Lào để cùng chống kẻ thù chung. 2. Đối với Pháp:
- Điện Biên Phủ là cứ điểm có ý nghĩa chiến lược khống chế cả một vùng rộng lớn của Tây
Bắc và Thượng Lào. Tuy nằm ngoài dự kiến ban đầu của Kế hoạch Nava, nhưng các
tướng lĩnh Pháp và Mỹ đã tăng cường lực lượng, xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập
đoàn cứ điểm mạnh. Ở đây tập trung 16.200 quân gồm 21 tiểu đoàn trong đó có 17 tiểu
đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 phi đội
không quân, 1 đại đội vận tải cơ giới. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được bố trí
thành 3 phân khu Bắc, Trung, Nam với 49 cứ điểm, huy động toàn bộ lính dù và 40% lực
lượng cơ động tinh nhuệ nhất của Pháp ở Đông Dương; hai sân bay Mường Thanh và
Hồng Cúm mỗi ngày có thể vận chuyển khoảng 200 đến 300 tấn hàng và thả dù từ 100
đến 150 quân, đảm bảo nguồn tiếp viện trong quá trình tác chiến. Tập đoàn cứ điểm
Điện Biên Phủ là tập đoàn cứ điểm phòng ngự mạnh nhất của Pháp ở Đông Dương lúc
bấy giờ, như “ một pháo đài không thể công phá”, là nơi thu hút để tiêu diệt bộ đội chủ
lực của ta và là quyết chiến điểm của Kế hoạch Nava.
- Đế quốc Pháp – Mỹ đánh giá Điện Biên phủ là “một vị trí chiến lược quan trọng chẳng
những đối với chiến trường Đông Dương, mà còn đối với miền Đông Nam Á”, là “ ngã tư
chiến lược quan trọng”, “cái bàn xoay có thể xoay đi bốn phía Việt Nam, Lào, Miến Điện,
Trung Quốc”, như “chìa khóa” bảo vệ Thượng Lào. Đồng thời từ Điện Biên Phủ có thể
đánh chiếm lại các vùng đã mất ở Tây Bắc Trong những năm 1950 –
1953 và tạo điều kiện để tiêu diệt quân chủ lực của ta tại đây. Mặt khác đây còn là một
căn cứ không quân, lục quân lợi hại, phục vụ cho chính sách xâm lược của Mỹ ở Đông Nam Châu Á.
- Nếu khống chế được khu vực này, chúng sẽ mở rộng được địa bàn hoạt động nhằm uy
hiếp, khống chế bên sườn và sau lưng ta, chia cắt liên lạc và sự chi viện của ta với chiến
khu Việt Bắc, Liên khu II và Liên khu IV. Đồng thời từ đây có thể che chở cho Thượng
Lào cùng kinh đô LuôngPhaBăng. Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng xung quanh là
núi đá vôi ở phía Tây Bắc Việt Nam rất lợi hại cho quân phòng ngự. Quân đội Pháp đã
xây dựng ở đây nhiều công sự kiên cố liên hoàn, rải trên một diện tích rộng có cả sân
bay, hầm ngầm và lập cầu không vận… với một lực lượng gồm 21 tiểu đoàn bộ binh, 3
tiểu đoàn pháo (24 khẩu 105mm, 20 khẩu 120mm và 4 khẩu 155mm), một đại đội tăng
10 chiếc, lực lượng không quân chi viện chiến đấu 150 – 250 lần/chiếc/ngày.
Với những nhận định như vậy, quân đội Pháp, đứng đầu là H.Nava đã chọn Điện Biên Phủ
để xây dựng tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương. Sự lựa chọn này của địch đã trở thành
một cơ hội tốt cho chúng ta để tiêu diệt sinh lực tinh nhuệ của địch và kết thúc chiến tranh.
Tháng 12 năm 1953, Bộ chính trị đã hạ quyết tâm mở chiến dịch Điện Biên Phủ.
Sau khi quyết định chọn địa hình Điện Biên Phủ, quân và dân cả nước đã dốc sức cho chiến dịch
với một quyết tâm cao độ, tạo nên sức mạnh tổng lực đánh thắng kẻ thù trong một thế trận
hiểm hóc, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ.