



Preview text:
Vì sao thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc
địa lần thứ hai ở Việt Nam?
1. Nội dung cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Việt Nam
Sau khi đã bình định được cơ bản Việt Nam, năm 1897, thực dân Pháp cử
Pôn Đu-me sang làm Toàn quyền Đông Dương để hoàn thiện bộ máy thống
trị và tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa lần thức nhất lên các nước
thuộc địa, trong đó có Việt Nam (1897 - 1914). Cuộc khai thác thuộc địa lần
thứ hai ở Việt Nam được thể hiện rõ qua một số vấn đề như sau: Về nông nghiệp:
- Pháp tăng cường đầu tư vào Việt Nam, bỏ vốn nhiều nhất vào nông nghiệp
(chủ yếu là đồn điền cao su) và khai mỏ (chủ yếu là mỏ than), vì cao su và
than là hai mặt hàng thị trường Pháp và thế giới có nhu cầu lớn.
- Pháp tiến hành cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền. Trong cuộc khai thác
này, có rất nhiều tên thực dân đã chiếm hàng ngàn, hàng vạn hecta đất để
lập các đồn điền trồng lúa, trồng cà phê, chè hay cao su. Ép triều đình nhà
Nguyễn khai khẩn đất hoang cho chúng.
- Năm 1927, số vốn đầu tư vào nông nghiệp lên tới 400 triệu phrăng, gấp
nhiều lần vào thời kì trước chiến tranh. Diện tích trồng cao su tăng từ 15 ngàn
héc ta năm 1918 lên 120 nghìn héc ta năm 1930. Về công nghiệp:
- Thực dân Pháp tập trung và khai thác mỏ để vơ vét nguồn khoáng sản giàu
có ở Việt Nam, đặc biệt là các mỏ than đá, thiếc, kẽm ở Hòn Gai, Thái
Nguyên, Tuyên Quang, Tất cả khoáng sản mà chúng vơ vét được đều được
đưa về Pháp. Phần lớn các xí nghiệp khai thác mỏ đều nằm trong tay các tập
đoàn tư bản pháp, đồng thời, chúng còn tận dụng nguồn nhân công lao động
rẻ mạt tại Việt Nam để tiến vào các hầm mỏ làm việc cho chúng.
- Nhiều công ty cao su lớn ra đời : Công ty Đốt Đỏ, Công ty Mi-sơ-lanh, Công
ty Cây nhiệt đới... Pháp tăng cường vào khai mỏ. Các công ty than có từ
trước đều được bỏ thêm vốn và hoạt động vững mạnh.
- Nhiều công ty than mới được ra đời như: Công ty than Hạ Long - Đồng
Đăng, công ty than và kim khí Đông Dương;… Tư bản Pháp mở thêm một số
cơ sở công nghiệp như các nhà máy sợi Hải Phòng, Nam Định; các nhà máy
rượu Hà Nội, Nam Định, Hà Đông; các nhà máy diêm Hà Nôi, Hàm Rồng
(Thanh Hoá), Bến Thuỷ (Vinh); nhà máy đường Tuy Hoà (Phú Yên); nhà máy xay xát gạo Chợ Lớn… Về thương nghiệp:
- Thương nghiệp cũng phát triển hơn trước thời kì chiến tranh. Để nắm chặt
thị trường Việt Nam và Đông Dương, tư bản độc quyền Pháp đánh thuế nặng
hàng hoá các nước nhập vào nước ta, chủ yếu là của Trung Quốc và Nhật
Bản. Nhờ đó, hàng hoá của Pháp nhập vào Việt Nam tăng lên rất nhanh.
Về giao thông vận tải:
Những đoạn đường sắt ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ được xây dựng ngày càng
nhiều. Tính đến năm 1912, tổng chiều dài đường sắt đã làm xong ở Việt Nam
là 2.059 km, đường bộ được mở rộng đến các khu hầm mỏ, đồn điền, bến
cảng và các đường biên giới trọng yếu.
Các cây cầu, cảng biển, các tuyế đường biển ngày càng được xây dựng
nhiều và vươn ra nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, mục đích xây dựng
hệ thống giao thông của Pháp nhằm phục vụ cho mục đích khai thác lâu dài
là chủ yếu, đồng thời góp phần hỗ trợ trong việc bóc lột nhân dân ta một cách dễ dàng.
Ngân hàng Đông Dương, đại diện thế lực của tư bản tài chính Pháp, có cổ
phần trong hầu hết các công tí và xí nghiệp lớn, đã nắm quyền chỉ huy các
ngành kinh tế ở Đông Dương.
Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp không thay đối: hạn chế
công nghiệp phát triển, đặc biệt là công nghiệp nặng; tăng cường thủ đoạn
bóc lột, vơ vét tiền của của nhân dân ta bằng cách đánh thuế nặng (thuế
ruộng đất, thuế thân, thuế rượu, thuế muối, thuế thuốc phiện và hàng trăm thứ thuế khác).
Tất cả các chính sách của Pháp đối với kinh tế Việt Nam đều nhằm mục đích
bóc lột nền kinh tế Việt Nam, mang lại lợi ích kinh tế cho tư bản Pháp, nhằm
phục hồi nền kinh tế Pháp sau chiến tranh thế giới thứ nhất.
2. Vì sao thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Việt Nam?
Kết thúc chiến tranh thế giới thứ nhất, Pháp tuy là nước thắng trận nhưng đất
nước bị tàn phá nặng nề, nền kinh tế kiệt quệ. Sau chiến tanh thế giới lần thứ
nhất ước Pháp bị thiệt hại nặng nề nhất: Với hơn 1,4 triệu người chết và thiệt
hại vật chất lên đến gần 200 tỉ phrăng. Chính vì thế, Pháp phải tiến hành cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919 - 1929) để bù đắp thiệt hại do Chiến
tranh thế giới thứ nhất gây ra.
Đặc biệt, nước Việt Nam nằm ở phía rìa đông của bán đảo Đông Dương, gần
trung tâm của khu vực Đông Nam Á. Phía Bắc giáp Trung Quốc. Phía Tây
giáp Lào và Campuchia. Phía Đông và phía Nam giáp biển Đông. Vùng biển
nước ta tiếp giáp với vùng biển các nước Trung Quốc, Campuchia, Philippin,
Malaixia, Brunây, Inđônêxia, Thái Lan. Vị trí địa lý của Việt Nam hết sức
thuận lợi làm bàn đạp cho âm mưu xâm chiếm các nước có lãnh thổ tiếp giáp với Việt Nam.
Tất cả các chính sách của Pháp đối với kinh tế Việt Nam đều nhằm mục đích
bóc lột nền kinh tế Việt Nam, mang lại lợi ích kinh tế cho tư bản Pháp, nhằm
phục hồi nền kinh tế Pháp sau chiến tranh thế giới thứ nhất.
3. Tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai đối với nền kinh tế Việt Nam Về kinh tế:
- Tác động tích cực:
+ Cuộc khai thác của Pháp làm xuất hiện nền công nghiệp thuộc địa mang yếu tố thực dân
+ Thành thị theo hướng hiện đại ra đời, bước đầu làm xuất hiện nền kinh tế
hàng hoá, tính chất tự cung tự cấp của nền kinh tế cũ bị phá vỡ.
+ Xây dựng được hệ thống giao thông vận tải.
- Tác động tiêu cực: Một trong những mục tiêu của công cuộc khai thác là vơ
vét sức người, sức của ( Vật chất lẫn tinh thần ) Vì vậy:
+ Tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cùng kiệt
+ Nông nghiệp lạc hậu, dậm chân tại chỗ
+ Công nghiệp phát triển nhỏ giọt, mất cân đối, thiếu hẳn công nghiệp nặng.
=> Nền kinh tế Việt Nam cơ bản vẫn là nền sản xuất nhỏ, lạc hậu và phụ
thuộc vào nền kinh tế chính quốc. Về xã hội:
Bên cạnh các giai cấp cũ không ngừng bị phân hoá, xã hội Việt Nam đã xuất
hiện thêm những giai cấp, tầng lớp mới:
- Giai cấp địa chủ phong kiến: đầu hàng, làm tay sai cho thực dân Pháp. Tuy
nhiên, có một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ có tinh thần yêu nước.
- Giai cấp nông dân: có số lượng đông đảo, bị áp bức bóc lột nặng nề. Họ
sẵn sàng hưởng ứng, tham gia cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.
- Tầng lớp tư sản: có nguồn gốc từ các nhà thầu khoán, chủ xí nghiệp, xưởng
thủ công, chủ hãng buôn,.. Bị kìm hãm, chèn ép, chưa có tinh thần cách mạng.
- Tiểu tư sản thành thị: bao gồm chủ các xưởng thủ công nhỏ, viên chức cấp
thấp và những người làm nghề tự do.
Đó là những người có trình độ học vấn, nhạy bén với thời cuộc nên đã sớm
giác ngộ và tích cực tham gia vào cuộc vận động cứu nước đầu thế kỉ XX.
- Công nhân: xuất thân từ nông dân, làm việc trong các đồn điền, hầm mỏ,
nhà máy, xí nghiệp,… đời sống khổ cực. Mặc dù ra đời và phát triển trong xã
hội thuộc địa nửa phong kiến nên ngoài những đặc điểm của giai cấp công
nhân quốc tế như đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất, có ý thức
tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần cách mạng triệt để… thì giai cấp công nhân
Việt Nam lại có những đặc điểm riêng như chịu 3 tầng áp bức bóc lột nặng nề
(đế quốc, phong kiến, tư bản bản xứ), xuất thân từ giai cấp nông dân lại sinh
ra trong 1 dân tộc có truyền thống đấu tranh anh hùng bất khuất, tinh thần
đấu tranh mạnh mẽ chống giới chủ nhằm cải thiện đời sống.
- Đời sống nhân dân khổ cực, mâu thuẫn xã hội sâu sắc
Document Outline
- Vì sao thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa- 1. Nội dung cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai ở
- 2. Vì sao thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc
- 3. Tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ h
 
