-
Thông tin
-
Quiz
Viết bài văn kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích | Văn mẫu 6 Cánh Diều
Vào thời giặc Minh xâm lược nước ta, chúng coi nhân dân ta như cỏ rác, làm nhiều điều bạo ngược. Bấy giờ ở vùng núi Lam Sơn, nghĩa quân nổi dậy chống lại chúng, nhưng buổi đầu thế lực còn non yếu nên nhiều lần thất bại. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Văn mẫu 6 265 tài liệu
Ngữ Văn 6 1.8 K tài liệu
Viết bài văn kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích | Văn mẫu 6 Cánh Diều
Vào thời giặc Minh xâm lược nước ta, chúng coi nhân dân ta như cỏ rác, làm nhiều điều bạo ngược. Bấy giờ ở vùng núi Lam Sơn, nghĩa quân nổi dậy chống lại chúng, nhưng buổi đầu thế lực còn non yếu nên nhiều lần thất bại. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!




















Tài liệu khác của Ngữ Văn 6
Preview text:
Viết bài văn kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích
Kể lại một truyền thuyết - Sự tích Hồ Gươm
Vào thời giặc Minh xâm lược nước ta, chúng coi nhân dân ta như cỏ rác, làm nhiều
điều bạo ngược. Bấy giờ ở vùng núi Lam Sơn, nghĩa quân nổi dậy chống lại chúng,
nhưng buổi đầu thế lực còn non yếu nên nhiều lần thất bại. Thấy vậy, đức Long
Quân quyết định cho nghĩa quân mượn gươm thần để giết giặc.
Hồi ấy, ở Thanh Hóa, có một người làm nghề đánh cá tên là Lê Thận. Một đêm nọ,
Thận thả lưới ở một bến vắng như thường lệ. Đến khi kéo lưới lên thấy nằng nặng,
nghĩ rằng sẽ kéo được mẻ cá to. Nhưng khi thò tay vào bắt cá thì chỉ thấy một thanh
sắt. Chàng vứt xuống sông, rồi lại thả lưới ở chỗ khác. Kì lạ thay, liên tiếp ba lần đều
vớt được thanh sắt nọ. Thận liền đưa thanh sắt lại mồi lửa thì phát hiện ra đó là một thanh gươm.
Về sau, Thận gia nhập vào nghĩa quân Lam Sơn. Một lần nọ, chủ tướng Lê Lợi cùng
tùy tùng đến thăm nhà Thận. Bỗng nhiên thấy phía góc nhà lóe sáng, Lê Lợi tiến
đến gần xem là cầm lên xem là vật thì gì thì thấy hai chữ “Thuận Thiên”. Song lại
không ai nghĩ đó là lưỡi gươm thần.
Một hôm, bị giặc đuổi, Lê Lợi và các tướng rút mỗi người một ngả. Lúc đi ngang qua
một khu rừng, Lê Lợi thấy có ánh sáng trên ngọn cây đa. Ông trèo lên mới biết đó là
một cái chuôi gươm nạm ngọc quý giá. Bỗng nhớ đến lưỡi gươm nhà Lê Thận, ông
mang chuôi về tra vào lưỡi gươm thì vừa như in.
Một năm trôi qua, nhờ có gươm thần giúp sức, nghĩa quân của Lê Lợi đánh đến đâu
thắng đến đó. Thanh thế ngày một vang xa. Quân Minh được dẹp tan. Lê Lợi lên
ngôi vua, lấy niên hiệu là Lê Thái Tổ. Vua cho cưỡi thuyền trên hồ Tả Vọng thì thấy
Rùa Vàng nổi lên đòi lại thanh gươm thần:
- Việc lớn đã thành. Xin bệ hạ trả lại gươm báu cho đức Long Quân.
Sau khi nghe Rùa Vàng nói, Lê Lợi bèn đem gươm báu trả lại rồi nói:
- Xin cảm tạ ngài cùng đức Long Quân đã cho mượn gươm báu để đánh tan quân
giặc, bảo vệ nước nhà.
Nghe xong, Rùa Vàng gật đầu rồi lặn xuống hồ. Từ đó, người dân đổi tên hồ Tả
Vọng thành hồ Gươm hay còn gọi là hồ Hoàn Kiếm.
Kể lại truyền thuyết - Con Rồng cháu Tiên Dàn ý chi tiết 1. Mở bài
Giới thiệu nhân vật Lạc Long Quân và Âu Cơ. 2. Thân bài
● Âu Cơ và Lạc Long Quân gặp nhau, đem lòng yêu thương và trở thành vợ chồng.
● Âu Cơ có mang, sinh ra một cái bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con.
● Lạc Long Quân từ biệt Âu Cơ, đưa năm mươi con trở về biển.
● Âu Cơ đưa năm mươi con lên rừng. Người con trưởng theo Âu Cơ
được tôn làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương. 3. Kết bài
Đánh giá về truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên. Con Rồng cháu Tiên Bài mẫu tham khảo
Ngày xưa, có một người con trai thần Long Nữ, tên là Lạc Long Quân thuộc giống
rồng. Thần có sức khỏe vô địch, lại nhiều phép lạ. Thần giúp dân trừ yêu quái, dạy
dân cách trồng trọt, chăn nuôi và ăn ở. Ở vùng núi cao phương Bắc, có nàng Âu Cơ
thuộc dòng họ Thần Nông, xinh đẹp tuyệt trần. Nàng đến thăm vùng đất Lạc Việt có
nhiều hoa thơm cỏ lạ. Hai người gặp nhau, yêu nhau và trở thành vợ chồng.
Ít lâu sau Âu Cơ mang thai và sinh ra một cái bọc trăn trứng, nở ra trăm người con,
người nào cũng đều hoàn hảo, đẹp lạ thường. Lạc Long Quân vốn quen sống ở
dưới nước, nên thường xuyên trở về dưới thuỷ cung.
Âu Cơ ở lại nuôi đàn con, tháng ngày chờ đợi Lạc Long Quân trở lại, nhưng nỗi nhớ
chồng khiến nàng buồn tủi. Cuối cùng nàng gọi chồng lên than thở:
- Sao chàng đành bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi đàn con nhỏ? Lạc Long Quân nói:
- Ta vốn ở miền nước thẳm, nàng thì ở chốn núi cao. Nhiều điều khác nhau, khó mà
ở cùng nhau một nơi được lâu dài được. Nay ta đưa năm mươi con xuống biển,
nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản các phương. Khi có việc gì cần
giúp đỡ lẫn nhau, đừng quên lời hẹn, đây là giao ước của vợ chồng, con cái.
Âu Cơ ưng thuận. Trước khi đưa năm mươi con lên núi, nàng nói với chồng:
- Thiếp xin nghe lời chàng. Vợ chồng ta đã sống với nhau thắm thiết, nay phải chia
hai, lòng thiếp thật là đau xót.
Lạc Long Quân cũng cố nén nỗi buồn trong buổi chia li, chàng khuyên giải vợ:
- Tuy xa nhau nhưng tình cảm đôi ta không hề phai nhạt, khi nào cần chúng ta lại gặp nhau.
Âu Cơ vẫn quyến luyến, rồi buồn bã nói:
- Thiếp rất nhớ chàng và thương các con, biết đến khi nào chúng ta mới gặp nhau.
Lạc Long Quân nắm chặt tay vợ, an ủi:
- Xa nàng và các con lòng ta cũng đau lắm! Âu cũng là mệnh trời, mong nàng hiểu và cảm thông cùng ta.
Âu Cơ và các con nghe theo lời cùng nhau chia tay lên đường.
Lạc Long Quân và các con về nơi biển cả, Âu Cơ đưa các con về đất Phong Châu.
Người con trưởng được tôn lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là
Văn Lang. Cũng bởi sự tích này mà người Việt Nam ta đều luôn tự hào mình là dòng dõi con Rồng cháu Tiên.
Kể lại truyền thuyết - Sơn Tinh, Thủy Tinh Dàn ý chi tiết 1. Mở bài
Giới thiệu truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh. 2. Thân bài
● Vua Hùng Vương có con gái tên Mị Nương.
● Vua kén rể cho con gái.
● Sơn Tinh, Thủy Tinh đến tranh tài.
● Sơn Tinh đến trước lấy được Mị Nương.
● Thủy Tinh đánh Sơn Tinh. 3. Kết bài
Ý nghĩa câu chuyện: Hiện tượng lũ lụt. Sơn Tinh, Thủy Tinh Bài mẫu tham khảo
Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương. Người đẹp như
hoa, tính nết dịu dàng. Nhà vua hết mực yêu thương nên muốn tìm cho con một
người chồng xứng đáng.
Nghe tin nhà vua muốn kén rể, có hai chàng trai đến cầu hôn. Một người ở vùng núi
Tản Viên có tài lạ: vẫy tay về phía đông phía đông nổi cồn bãi, vẫy tay về phía tây
phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Người ta gọi chàng là Sơn Tinh. Người còn lại tài
năng cũng không hề thua kém: gọi gió gió đến, hô mưa mưa về. Tên của chàng là Thủy Tinh.
Cả hai người đều vô cùng xuất chúng nên vua Hùng không biết chọn ai. Vua bèn ra lệnh:
- Hai người đều vừa ý ta cả. Vậy nên nếu ngày mai ai mang được sính lễ đến trước
sẽ được rước dâu về. Sính lễ gồm có một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh
chưng và voi chín ngà gà chín cựa ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.
Sáng hôm sau, Sơn Tinh mang lễ vật đến trước, lấy được Mị Nương. Thủy Tinh đến
sau không lấy được vợ liền nổi giận, đem theo quân đánh Sơn Tinh. Thủy Tinh hô
mưa, gọi gió làm thành dông bão rung chuyển cả đất trời. Nước ngập khắp các
đồng ruộng nhà cửa, nước dâng lên lưng đồi sườn núi, thành Phong Châu nổi lềnh
bềnh trên một biển nước. Thấy vậy, Sơn Tinh bốc từng quả đồi dời từng dãy núi,
ngăn chặn dòng nước lũ.
Hai bên đánh nhau ròng rã mấy tháng trời, cuối cùng Sơn Tinh vẫn vững vàng mà
sức Thủy Tinh đã cạn kiệt, thần nước đành rút quân. Từ đó càng thêm oán nặng thù
sâu, hằng năm, Thủy Tinh lại dâng nước đánh Sơn Tinh, nhưng lần nào cũng đều thua trận.
Xem thêm: Kể lại truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh
Kể lại truyền thuyết - Thánh Gióng Dàn ý chi tiết 1. Mở bài
Giới thiệu truyền thuyết Thánh Gióng. 2. Thân bài
● Đời vua Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng …
● Giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta.
● Nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả tìm người tài giỏi cứu nước.
● Đứa bé bảo: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con người sắt và một tấm áo giáp sắt”.
● Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng nhiên biến thành tráng sĩ.
● Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre bên đường đánh tan quân giặc.
● Thánh Gióng bay về trời. 3. Kết bài
Truyền thuyết thể hiện tinh thần đoàn kết chống giặc cứu nước. Thánh Gióng Bài mẫu tham khảo
Đời Hùng Vương thứ sáu, ở một làng kia có hai vợ chồng ông lão, chăm chỉ làm ăn
lại có tiếng là phúc đức. Nhưng đến lúc sắp già mà vẫn chứa có lấy một mụn con.
Một ngày kia bà vợ ra đồng trông thấy một bước chân to, bèn đặt chân mình vào
ướm thử. Về nhà bà mang thai. Nhưng không ngờ, khác với người thường, đến
mười hai tháng sau bà mới sinh ra một cậu bé mặt mũi khôi ngô. Cậu bé ra đời là
niềm mơ ước cả đời của hai vợ chồng nên ông bà mừng lắm. Nhưng chẳng biết làm
sao, dù đã ba tuổi nhưng cậu bé vẫn chẳng biết nói, biết cười, cứ đặt đâu nằm đó. Ông bà buồn lắm.
Bấy giờ, giặc Ân sang xâm lược bờ cõi nước ta. Chúng gây bao nhiêu tội ác khiến
dân chúng vô cùng khổ sở. Thế giặc mạnh, nhà vua bèn sai người đi khắp nước cầu
hiền tài. Đi đến đâu sứ giả cũng rao:
- Ai có tài, có sức xin hãy ra giúp vua cứu nước.
Nghe tiếng rao, cậu Gióng đang nằm trên giường bèn cất tiếng:
- Mẹ ơi! Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con.
- Nghe tiếng con, vợ chồng lão nông dân thấy lạ đành mời sứ giả vào nhà. Cậu
Gióng liền yêu cầu sứ giả về chuẩn bị ngay: roi sắt, ngựa sắt, áo giáp sắt để cậu đi phá giặc.
Càng lạ hơn, từ lúc cậu Gióng gặp sứ giả, cậu cứ lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy
cậu cũng không no, áo vừa mặc xong đã sứt chỉ. Vợ chồng ông bà nọ đem hết gạo
ra nuôi mà không đủ bèn nhờ hàng xóm cùng nuôi cậu Gióng. Trong làng ai cũng
mong cậu đi giết giặc cứu nước nên chẳng nề hà gì.
Giặc đã đến sát chân núi Trâu. Người người hoảng sợ. Cũng may đúng lúc đó, sứ
giả mang những thứ cậu Gióng đã đề nghị đến nơi. Cậu bèn vươn vai đứng dậy
như một tráng sĩ, khoác vào áo giáp, cầm roi rồi nhảy lên ngựa phi thẳng tới trận
tiền. Bằng sức mạnh như cả ngàn người cộng lại, chẳng mấy chốc cậu đã khiến lũ
giặc kinh hồn bạt vía. Đang đánh nhau ác liệt thì roi sắt gãy, cậu bèn nhổ ngay từng
bụi tre ở bên đường quật vào lũ giặc. Quân giặc bỏ chạy toán loạn nhưng rồi cũng bị
tiêu diệt không sót một tên.
Dẹp giặc xong, cậu Gióng không quay về kinh để nhận công ban thưởng mà thúc
ngựa đến núi Sóc, bỏ lại áo giáp sắt, một người một ngựa bay thẳng về trời. Nhiều
đời sau người ta còn kể, khi ngựa thét lửa, lửa đã thiêu trụi một làng nay làng ấy gọi
là làng Cháy. Những vết chân ngựa ngày xưa nay đã thành những ao hồ to nhỏ nối tiếp nhau.
Câu chuyện về người anh hùng Thánh Gióng đã không chỉ còn là niềm yêu thích
của riêng em, mà nó đã là niềm say mê của bao thế hệ học trò.
Xem thêm: Kể lại truyền thuyết Thánh Gióng
Kể lại truyền thuyết - Bánh chưng, bánh giầy Dàn ý chi tiết I. Mở bài
Giới thiệu về thời gian, không gian của truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy: Đời
Hùng Vương thứ sáu, nhà vua đã có tuổi nên muốn truyền ngôi cho con. II. Thân bài
1. Điều kiện truyền ngôi của Vua Hùng
- Hoàn cảnh: Hùng Vương lúc về nhà, muốn truyền ngôi nhưng lại có tới hai mươi
người con trai, không biết chọn ai cho xứng đáng
- Điều kiện: “Người nối ngôi ta phải nối được trí ta, không nhất thiết phải là con trưởng.”
- Hình thức: Nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho, có Tiên vương chứng giám.
2. Lang Liêu và các hoàng tử thi nhau tìm kiếm lễ vật dâng nhà vua
- Các lang đua nhau làm cỗ thật hậu, thật ngon đem về lễ Tiên vương.
- Lang Liêu là con thứ mười tám; mẹ chàng trước kia bị vua cha ghẻ lạnh, ốm rồi
chết. So với anh em, chàng thiệt thòi nhất.
- Lang Liêu nằm mơ, được thần mách bảo hãy dùng thứ gạo nếp quen thuộc làm
thành lễ vật dâng vua cha.
- Chàng lấy gạo nếp vo sạch, lấy đậu xanh thịt lợn làm nhân, gói bằng lá dong thành
hình vuông, đem luộc một ngày một đêm. Cũng thứ gạo nếp ấy đồ lên, đem giã
nhuyễn rồi nặn thành hình tròn.
- Đến ngày lễ Tiên vương, các lang mang sơn hào hải vị, nem công chả phượng tới, chẳng thiếu thứ gì.
- Nhà vua xem qua một lượt rồi dừng lại trước chồng bánh của Lang Liêu, rất vừa ý,
bèn gọi lên hỏi. Lang Liêu đem giấc mộng gặp thần ra kể lại.
=> Kết quả: Vua Hùng chọn hai thứ bánh làm lễ, Lang Liêu được truyền ngôi báu.
3. Ý nghĩa và phong tục làm bánh chưng bánh giầy
- Ý nghĩa của bánh chưng, bánh giầy:
● Bánh hình tròn tượng trưng cho trời, được đặt tên là bánh giầy.
● Bánh hình vuông tượng trưng cho đất nên được đặt tên là bánh chưng
● Lá bọc bên ngoài ngụ ý đùm bọc lẫn nhau giống với truyền thống
thương người như thể thương thân của dân tộc ta.
- Tục lệ của dân tộc ta: Hàng năm, mỗi khi Tết đến, bánh chưng bánh giầy là món ăn không thể thiếu. III. Kết bài
Ý nghĩa của truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy. Bài mẫu tham khảo
Hùng Vương thứ sáu muốn truyền ngôi cho một trong số những người con trai nên đã đưa ra điều kiện:
- Không nhất định phải là con trưởng, chỉ cần làm vừa ý vua trong lễ Tiên vương sẽ được truyền ngôi cho.
Các hoàng tử cho người đi đến khắp nơi tìm kiếm những của ngon vật lạ để đem về dâng lên vua cha.
Lang Liêu là con vua, nhưng lại sống giản dị quen với việc chăm lo đồng áng, trồng
lúa trồng khoai. Mẹ của Lang Liêu trước kia bị vua cha ghẻ lạnh, sau đó mất đi để lại
một mình chàng. So với các anh em, chỉ có Lang Liêu là thiệt thòi nhất. Chàng
không biết lấy gì để dâng lên Tiên vương.
Một đêm nọ, Lang Liêu nằm mơ và được thần mách bảo rằng:
- Trong trời đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người.
Hãy lấy gạo mà làm bánh lễ Tiên vương.
Khi tỉnh dậy biết mình được thần báo mộng. Chàng lấy gạo nếp vo sạch, lấy đậu
xanh thịt lợn làm nhân, gói bằng lá dong thành hình vuông, đem luộc một ngày một
đêm. Và cũng thứ gạo nếp ấy, chàng đồ lên, đem giã nhuyễn rồi nặn thành hình
tròn. Bánh hình vuông tượng trưng cho Trời đặt tên là bánh chưng, còn bánh hình
tròn tượng trưng cho Đất đặt tên là bánh giầy.
Đến ngày hẹn, các hoàng tử dâng lên biết bao của ngon vật lạ. Đến lượt Lang Liêu,
chàng đem hai loại bánh dâng lên cúng Tiên vương. Vua Hùng rất hài lòng và quyết
định truyền ngôi cho Lang Liêu. Kể từ đó, hằng năm, cứ mỗi khi Tết đến, bánh
chưng bánh giầy là món ăn không thể thiếu.
Kể lại truyện cổ tích - Tấm Cám
Từ xưa, tôi đã được nghe những câu chuyện cổ tích qua lời kể của bà, của mẹ. Cho
đến bây giờ, tôi vẫn còn yêu thích và nhớ mãi về truyện cổ tích Tấm Cám.
Câu chuyện kể về hai chị em Tấm và Cám. Cha mất sớm, Tấm phải ở cùng với dì
ghẻ. Mọi việc nặng nhọc từ việc nhà đến việc đồng áng đề do một tay Tấm làm hết.
Một hôm, dì ghẻ đưa cho hai chị em mỗi người một cái giỏ và bảo ra đồng bắt con tôm cái tép, hứa rằng:
- Hễ đứa nào bắt được đầy giỏ thì thưởng cho một cái yếm đỏ.
Tấm nhờ mò cua bắt ốc đã quen nên chỉ một buổi là được đầy giỏ vừa cá vừa tép.
Còn Cám thì mải chơi, đến cuối buổi vẫn chưa bắt được gì. Cám liền nói với Tấm:
- Chị Tấm ơi chị Tấm! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về mẹ mắng.
Tấm tin ngay, bèn xuống ao lội ra chỗ sâu tắm rửa. Thừa dịp đó, Cám liền trút hết
tép của Tấm vào giỏ của mình rồi ba chân bốn cẳng về trước để nhận chiếc yếm
đào. Tấm lên bờ thấy giỏ không còn cá, sợ về nhà bị dì ghẻ đánh liền ngồi khóc. Bụt
hiện lên bảo Tấm nhìn vào trong giỏ xem còn gì không, thì trong giỏ còn một con cá
bống. Bụt liền bảo Tấm đem cá về nuôi, khi cho ăn thì gọi: “Bống bống bang bang
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người”
Từ hôm ấy trở đi, cứ sau bữa ăn, Cám lại thấy Tấm để dành một phần cơm. Thấy kì
lạ, Cám mách mẹ. Hai mẹ con rình xem thì phát hiện ra Tấm đang nuôi một con cá
bống. Mỗi lần nghe lời Tấm gọi, bống lại ngoi lên mặt nước đớp những hạt cơm
được ném xuống. Biết chuyện, dì ghẻ gọi Tấm lại rồi bảo chị ta sáng mai dậy sớm đi chăn trâu, và dặn rằng:
- Con ơi con! Làng đã bắt đầu cấm đồng rồi đấy. Mai con đi chăn trâu, phải chăn
đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu.
Tấm không chút nghi ngờ, sáng hôm sau đưa trâu đi ăn thật xa. Ở nhà mẹ con Cám
liền ra giếng, gọi y hệt lời Tấm. Cá bống hiện lên thật, hai mẹ con Cám liền bắt lấy nó rồi đem giết thịt.
Ít lâu sau, nhà vua mở hội luôn mấy đêm ngày. Già trẻ trai gái các làng đều nô nức
đi xem. Hai mẹ Cám cũng sắm sửa quần áo đẹp để đi trẩy hội. Thấy Tấm cũng
muốn đi, dì ghẻ liền lấy một thúng gạo và một thúng thóc với nhau, rồi bảo chị:
- Con hãy nhặt cho xong chỗ gạo này rồi có đi đâu hãy đi, đừng có bỏ dở, về không
có gì để thổi cơm dì đánh đó.
Một thời gian sau, nhà vua hạ lệnh cho rao mời tất cả phụ nữ đi xem hội đến ướm
thử giày. Và hễ ai đi vừa chiếc giày thì vua sẽ lấy làm vợ. Cám cũng đếm thử nhưng
không vừa. Nhìn thấy Tấm từ xa, Cám liền nói với mẹ:
- Mẹ ơi, hình như chị Tấm nhà ta cũng đến thử giày đấy!
Dì ghẻ liền bĩu môi, nói:
- Chuông khánh còn chẳng ăn ai. Nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre.
Nhưng khi Tấm đặt chân vào giày thì vừa như in. Tấm còn lấy ra một chiếc giày
khác giống y hệt. Thế rồi, nàng được vua đón vào cung làm hoàng hậu.
Tuy sống trong hoàng cung, Tấm vẫn không quên ngày giỗ cha. Nhân đó, mụ con Cám bày mưu hại Tấm:
- Trước đây con quen trèo cau, con hãy trèo xé lấy một buồng để cúng bố.
Tấm vâng lời mẹ tôi, trèo lên cây. Thấy cây rung chuyển liền hỏi:
- Dì làm gì dưới gốc thế?
- Gốc cau lắm kiến, dì đuổi kiến cho nó khỏi lên đốt con.
Tấm chưa kịp xé cau thì cây đã đổ, ngã lộn cổ xuống ao và chết. Dì ghẻ liền đưa
Cám vào hoàng cung để thay cho Tấm.
Một hôm, Cám đang ngồi giặt áo cho vua ở giếng, thì có con chim vàng anh ở đâu
bay đến, dừng lại trên một cành cây, kêu lên:
- Phơi áo chồng tao phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao.
Sau đó, chim vàng anh bay thẳng vào cung điện đậu ở cửa sổ, hót lên rất vui tai.
Vua đi đâu, chim bay đến đó. Nhà vua yêu quý vàng anh quên cả ăn ngủ. Cám liền
về nhà mách mẹ. Dì ghẻ bảo cứ bắt chim làm thịt ăn rồi kiếm điều nói dối vua. Trở
lại cung vua, Cám nhân lúc vua đi vắng, bắt chim làm thịt ăn, rồi vứt lông chim ở
ngoài vườn. Thấy mất vàng anh, vua hỏi, Cám trả lời rằng:
- Thiếp có mang thèm ăn thịt chim nên trộm phép bệ hạ đã giết thịt ăn mất rồi.
Nhà vua nghe vậy thì không nói gì cả. Thật kì lạ là ở chỗ lông chim vàng anh mọc
lên một cây xoan đào, cành lá xum xuê, tỏa bóng mát. Vua sai người mắc võng,
ngày ngày nằm ở đó nghỉ ngơi. Cám thấy vậy thì tức lắm, sai thợ chặt cây làm
khung cửi. Khi vua hỏi, tôi lại nói dối:
- Cây bị đổ vì bão, thiếp sai thợ chặt làm khung cửi để dệt áo cho bệ hạ.
Khung cửi đóng xong, Cám vừa ngồi dệt vào dệt thì nghe thấy tiếng kêu: “Cót ca cót két Lấy tranh chồng chị, Chị khoét mắt ra”
Cám sợ hãi lắm, liền về nhà mách mẹ. Dì ghẻ khuyên Cám đốt quách khung cửi rồi
đem tro đi đổ cho rõ xa để được yên tâm. Cám sai người đem đốt khung cửi rồi đổ tro ra thật xa hoàng cung.
Từ chỗ tro tàn mọc lên một cây thị, cả cây chỉ có mỗi một quả thị. Một hôm, một bà
lão đi qua nhìn thấy liền nói:
- Thị ơi thị, rụng vào bị bà, bà đem bà ngửi, chứ bà không ăn.
Quả thị liền rụng xuống rơi vào bị bà. Bà lão vừa dứt lời thì quả thi rơi xuống. Kỳ lạ
là từ đó, cứ mỗi lần đi chợ về, bà lão đều thầy nhà cửa sạch sẽ, cơm nước tinh
tươm. Bà quyết tâm rình xem có điều gì lạ đang xảy ra thì phát hiện thấy một cô gái
chui ra từ quả thị. Bà lão rón rén lại gần rồi xé nát vỏ quả thị. Từ đó, Tấm ở với bà
hàng nước. Một hôm, nhà vua đi qua ghé vào thấy miếng trầu têm cánh phượng
giống của Tấm têm, liền gặng hỏi bà lão. Tấm và nhà vua gặp lại nhau.
Lại nói đến Cám sau khi thấy chị Tấm trở về lại xinh đẹp hơn xưa. Vua ngày càng
yêu quý. Cám liền đến hỏi chị:
- Chị Tấm ơi, chị làm thế nào mà đẹp thế?
Chị Tấm không trả lời chỉ hỏi lại tôi:
- Có muốn đẹp không để chị giúp?
Cám nghe theo lời chị Tấm. Thấy chị sai người đào một cái hố sâu rồi bảo Cám
xuống đó. Cám không chút nghi ngờ, liền xuống dưới và chết bỏng.
Qua truyện Tấm Cám, nhân dân ta đã gửi gắm khát vọng công bằng, cái thiện chiến
thắng cái ác. Cô Tấm hiền lành cuối cùng sống hạnh phúc bên nhà vua, còn mẹ con
Cám độc ác thì bị trừng phạt.
Kể lại truyện cổ tích - Thạch Sanh Dàn ý chi tiết 1. Mở bài
Giới thiệu truyện cổ tích Thạch Sanh. 2. Thân bài
● Ngọc Hoàng sai Thái tử xuống đầu thai làm con.
● Lý thông gạ cùng Thạch Sanh kết nghĩa anh em để lợi dụng.
● Thạch Sanh giết chết chằn tinh, Lý Thông cướp công.
● Thạch Sanh dùng tên bắn bị thương đại bàng, cứu công chúa.
● Khi nghe tiếng đàn văng ra từ trong ngục, công chúa bỗng cười nói vui
vẻ. Vua tìm ra sự thật, kết tội Lý Thông.
● Nhà vua gả công chúa cho Thạch Sanh. Chư hầu đến cầu hôn không được, kéo sang đánh … 3. Kết bài
Ý nghĩa câu chuyện của truyện: “Ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”. Thạch Sanh Bài mẫu tham khảo
Xưa, ở quận Cao Bình có hai vợ chồng, tuổi đã cao mà vẫn chưa có một mụn con.
Ngọc Hoàng thấy họ tốt bụng, liền sai thái tử đầu thai xuống làm con.
Cậu bé sinh ra đã mồ côi cha, một thời gian sau thì người mẹ cũng qua đời. Từ đó,
cậu sống một mình dưới gốc đa, cả gia tài chỉ có lưỡi rìu do người cha để lại. Mọi
người gọi cậu là Thạch Sanh. Đến khi trưởng thành, Ngọc Hoàng sai thiên thần
xuống dạy cho Thạch Sanh nhiều võ nghệ.
Thấy Thạch Sanh có sức khỏe, Lí Thông mới lân la gợi chuyện để hai người kết
nghĩa anh em. Thạch Sanh về ở cùng mẹ con Lí Thông. Bấy giờ, trong vùng có một
con chằn tinh hung dữ, nó bắt dân làng mỗi năm phải nộp cho một mạng người.
Năm ấy đến lượt nhà Lí Thông phải nộp mạng. Lí Thông chờ lúc Thạch Sanh đi
kiếm củi về, dọn một mâm rượu thịt mời ăn, rồi bảo:
- Đêm nay đến lượt anh đi canh miếu thờ, vậy em chịu khó đi thay cho anh một
đêm, đến sáng lại về.
Thạch Sanh chẳng có chút nghi ngờ mà đồng ý đi ngay. Nửa đêm hôm ấy, chàng
đang ngủ thì bỗng nhiên có một con chằn tinh vồ lấy chàng. Thạch Sanh đánh nhau
với con quái vật. Không lâu sau thì lưỡi búa của chàng đã xé xác nó làm đôi. Thạch
Sanh chặt đầu con quái vật đem về. Thấy Thạch Sanh về, mẹ con Lí Thông vô cùng
sợ hãi. Sau khi nghe Thạch Sanh kể lại, Lí Thông liền nói với chàng:
- Đó là con vật nuôi của vua, giết nó là mang tội. Thôi bây giờ nhân trời chưa sáng em hãy trốn ngay đi.
Thạch Sanh không mảy may nghi ngờ, liền trốn đi. Lí Thông nhân cơ hội đó đem
đầu con chằn tinh vào dâng vua. Nhà vua khen ngợi, còn ban thưởng cho Lí Thông.
Lại nói khi đó, công chúa đã đến tuổi lấy chồng. Trong ngày kén rể, công chúa bị
một con đại bàng khổng lồ quắp đi. Thạch Sanh nhìn thấy, liền dùng cung tên bắn
đại bàng. Chàng lần theo vết máu thì tìm ra chỗ ở của đại bàng. Lí Thông được vua
cử đi tìm công chúa. Thạch Sanh kể cho Lí Thông nghe về hang của đại bàng. Sau
đó, hai người cùng đi cứu công chúa. Đến hang Thạch Sanh xin xuống trước.
Chàng đánh nhau với đại bàng, thì cứu được công chúa. Nhưng Lý Thông đã ra
lệnh cho quân sĩ vần đá lớn lấp kín cửa hang lại, rồi kéo nhau về.
Biết mình bị lừa, Thạch Sanh đi khắp hang để tìm lối thoát. Chàng đi đến cuối hang
thì thấy một chàng trai bị nhốt trong cũi sắt. Thạch Sanh dùng cung tên bắn tan cũi
sắt cứu chàng trai. Đó chính là con vua Thủy Tề. Chàng được mời xuống thủy phủ
chơi, tiếp đãi chu đáo rồi đưa trở về nhà. Trước khi trở về, vua Thủy Tề còn tặng
cho chàng một một cây đàn thần.
Thạch Sanh trở về nhưng lại bị hồn của đại bàng và chằn tinh căm thù hãm hại.
Chàng bị bắt giam vào ngục. Về phần công chúa sau khi cứu thoát, trở về cũng thì
bỗng không nói, không cười. Ngự y trong triều đều phải bó tay. Ở trong ngục, Thạch
Sanh lấy cây đàn được vua Thủy Tề tặng ra đánh để bày tỏ nỗi oan khuất. Công
chúa nghe thấy tiếng đàn thì bỗng nhiên nói được, cười được. Vua lấy làm lạ cho
Thạch Sanh đến gặp, chàng kể hết mọi oan khuất. Lí Thông bị trừng trị. Còn Thạch
Sanh được nhà vua gả công chúa cho.
Thấy lễ cưới tưng bừng, hoàng tử các nước chư hầu trước kia bị công chúa từ hôn
đem quân sang đánh. Thạch Sanh đem đàn ra gảy, tiếng đàn của chàng vừa cất lên
đã khiến quân sĩ mười tám nước bủn rủn chân tay xin hàng. Thạch Sanh sai nấu
cơm thiết đãi, quân sĩ ăn mãi không hết niêu cơm liền kéo nhau về nước. Về sau,
vua không có con trai nên đã truyền ngôi cho Thạch Sanh.
Xem thêm: Kể lại truyện Thạch Sanh
Kể lại truyện cổ tích - Sọ Dừa Dàn ý chi tiết 1. Mở bài
Giới thiệu hoàn cảnh gia đình và sự mang thai kì lạ của mẹ Sọ Dừa. 2. Thân bài
● Hình thù kì dị của Sọ Dừa.
● Sọ Dừa đi ở cho nhà phú ông.
● Cô út phát hiện ra Sọ Dừa là một chàng trai tuấn tú.
● Sọ Dừa giục mẹ sang hỏi con gái phú ông.
● Sọ Dừa cưới và sống hạnh phúc cùng cô út. ● Sọ Dừa đi thi.
● Cô út bị hai cô chị hãm hại. 3. Kết bài
Vợ chồng Sọ Dừa gặp nhau. Hai cô chị xấu hổ bỏ đi biệt xứ. Sọ Dừa Bài mẫu tham khảo
Ngày xửa ngày xưa, ở làng nọ, có hai vợ chồng nghèo đi ở cho nhà phú ông. Họ
chăm chỉ, tốt bụng nhưng ngoài năm mươi rồi vẫn chưa có con.
Một lần nọ, người vợ vào rừng lấy củi cho nhà chủ, trời nắng mà khát nước quá,
không tìm thấy suối. Bà nhìn thấy cái sọ dừa bên gốc cây to đựng đầy nước mưa,
liền bưng lên uống. Về nhà thì có mang.
Ít lâu sau, người chống mất. Bà sinh ra một đứa bé không chân, không tay, cứ tròn
như quả dừa. Bà toan vứt đi thì đứa bé bảo:
- Mẹ ơi, con là người. Mẹ đừng vứt đi mà tội nghiệp!
Thương con, bà để lại nuôi, đặt tên cho là Sọ Dừa.
Đến khi lớn lên, Sọ Dừa chẳng khác lúc nhỏ là bao, cứ lăn lông lốc trong nhà, chẳng làm được việc gì.
Một hôm, bà mẹ than phiền:
- Con người ta bảy, tám tuổi đã biết đi chăn bò. Còn mày thì chẳng làm được việc gì.
Nghe vậy, Sọ Dừa liền nói:
- Tưởng việc gì, chăn bò con cũng làm được. Mẹ cứ xin với phú ông cho con đi chăn bò.
Nghe con nói vậy, bà đến thưa chuyện. Phú ông tỏ ra ngần ngại lắm, chẳng biết Sọ
Dừa có chăn nổi bò. Nhưng nghĩ đến việc nuôi cơm chẳng tốn là bao, nên phú ông liền đồng ý.
Sọ Dừa đến ở nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi. Con nào con nấy đều no căng béo
tốt. Phú ông mừng lắm. Đến ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm việc. Ba cô con gái của
phú ông phải thay phiên nhau mang cơm ra cho Sọ Dừa. Nhưng hai cô chị luôn tỏ ra
cay nghiệt, chỉ có cô út là đối xử tử tế.
Một hôm, cô út mang cơm, đến chân đồi thì nghe thấy tiếng sáo. Cô thấy lạ, liền rón
rén bước lại gần thì thấy một chàng trai khôi ngô đang ngồi trên chiếc võng đào mắc
vào hai cành cây, thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Khi nghe tiếng động, chàng trai biến
mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm lăn lóc ở đấy. Cứ nhiều lần như vậy, cô út biết Sọ Dừa
không phải người trần, đem lòng yêu mến.
Hết mùa ở, Sọ Dừa xin mẹ đến hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà mẹ ngạc nhiên lắm,
nhưng thấy con năn nỉ nên đành bằng lòng. Bà chuẩn bị sính lễ, rồi đến nhà phú ông
thưa chuyện. Nghe xong, phú ông tỏ ra khinh bỉ.
- Muốn lấy con gái ta, phải về sắm cho đầy đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa
đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.
Bà mẹ buồn bã trở về nói với Sọ Dừa, cứ nghĩ con sẽ từ bỏ hẳn việc lấy vợ. Không
ngờ, chàng lại bảo mẹ sẽ chuẩn bị đầy đủ các thứ đó. Đúng ngày hẹn, bà mẹ ngạc
nhiên khi thấy trong nhà có bao nhiêu là sính lễ, không thiếu thứ gì. Lại còn cả chục
giai nhân chạy lên khiêng lễ vật sang nhà phú ông. Thế là phú ông phải nói với bà:
- Để ta hỏi xem có đứa nào muốn lấy thằng Sọ Dừa không đã!