Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ 4 chữ hoặc
5 chữ ngắn gọn
Đến với tác phẩm “Lời của cây”, người đọc đã cảm nhận được một thông điệp ý
nghĩa. Bài thơ giống như một cuốn nhật kí ghi lại hành trình phát triển của cây, từ khi
còn là hạt mầm đến khi trở thành cây. Giọng thơ nhẹ nhàng giống như một lời tâm
tình, trò chuyện với cây. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh, từ ngữ đặc sắc mà tác
giả đã sử dụng trong bài thơ để miêu tả quá trình từ hạt thành cây: nằm lặng thinh,
nảy mầm, nhú lên giọt sữa, thì thầm, mầm mở mắt, đón tia nắng hồng, nở vài lá bé.
Chúng ta có thể cảm nhận được cây cũng có tâm hồn, giống như con người. Và
giữa cây với nhân vật trữ tình trong bài có một mối giao cảm, thấu hiểu đến kì lạ. Từ
đây, người đọc nhận ra thông điệp mà nhà thơ gửi gắm. Con người cần biết lắng
nghe để thấu hiểu và biết trân trọng những mầm xanh của sự sống.
Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ bốn chữ
hoặc năm chữ
Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ
Dàn ý ngắn gọn ghi lại cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc
năm chữ
1. Mở đoạn: giới thiệu nhan đề bài thơ, tên tác giả và nêu cảm xúc chung về bài thơ
bốn chữ hoặc năm chữ mà em đã chọn.
2. Thân đoạn: trình bày các chi tiết thể hiện cảm xúc của em về bài thơ.
3. Kết đoạn: khẳng định cảm xúc của bài thơ và ý nghĩa của nó đối với bản thân.
Sơ đồ tư duy cảm xúc về bài thơ bốn năm chữ
Dàn ý chi tiết ghi lại cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc
năm chữ
1. Mở bài
Dẫn dắt, giới thiệu về tác giả, tác phẩm và cảm xúc chung về bài thơ.
Gợi ý: Đến với bài thơ “Con chim chiền chiện” của Huy Cận, người đọc đã cảm nhận
tình yêu thiên nhiên.
2. Thân bài
- Nêu cảm xúc về nội dung của bài thơ:
Ý nghĩa nhan đề trong việc thể hiện nội dung của bài thơ (nếu có)
Chủ đề của bài thơ
Phân tích một số từ ngữ, hình ảnh trong bài thơ mà người viết cảm thấy
ấn tượng.
Ấn tượng về tình cảm, cảm xúc mà nhân vật trữ tình bộc lộ trong bài
thơ.
Nội dung tư tưởng, tình cảm mà tác giả muốn gửi gắm.
- Nêu cảm xúc về nghệ thuật của bài thơ
Thể thơ bốn chữ hoặc năm chữ ngắn gọn, hàm súc.
Các biện pháp tu từ được sử dụng và hiệu quả nghệ thuật.
Cách gieo vần, giọng điệu và nhịp thơ có gì đặc sắc?
Các yếu tố miêu tả, tự sự được sử dụng như thế nào?
3. Kết bài
Khẳng định lại cảm xúc với bài thơ cũng như nêu được giá trị của bài thơ.
Gợi ý: Có thể khẳng định rằng, bài thơ Con chim chiền chiện đã giúp em cảm nhận
được vẻ đẹp của thiên nhiên, cũng như thêm yêu và gắn bó với thiên nhiên, vạn vật
nhiều hơn.
Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ lớp 7
Cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ - Tiếng gà
trưa
Đoạn văn mẫu số 1
Xuân Quỳnh có nhiều tác phẩm hay, trong đó bài Tiếng gà trưa đã để cho tôi nhiều
ấn tượng sâu sắc. Khi đọc bài thơ, dường như mỗi người đều sẽ cảm thấy được
quay về những năm tháng tuổi thơ. Nhân vật trữ tình được nhà thơ khắc họa là một
người chiến sĩ đã xa nhà nhiều năm, trên đường hành quân xa xôi, anh dừng chân
lại bên xóm nhỏ. Bất ngờ, tiếng gà vang lên: “Cục... cục tác... cục ta” đã khiến anh
nhớ lại những kỉ niệm của tuổi thơ. Hình ảnh về những ổ rơm hồng đầy trứng, con
gà mái mơ hay con gà mái vàng chắc hẳn đã quá quen thuộc với bất cứ đứa trẻ
sống ở thôn quê. Thú vị nhất có lẽ phải nhắc đến kỉ niệm về một lần xem trộm gà đẻ
trứng, bị bà mắng. Lời trách của bà giúp tôi cảm nhận rõ hơn về sự quan tâm, lo
lắng và yêu thương của bà dành cho cháu. Nhưng tiếng gà trưa không chỉ gợi lại
cho người chiến sĩ về kỉ niệm tuổi thơ, mà còn là hình ảnh người bà. Xuân Quỳnh đã
khắc họa một người bà tần tảo, chịu khó và giàu đức hi sinh. Những câu thơ đọc lên
mà thật xúc động nghẹn ngào. Bà luôn lo lắng trời làm sương muối khiến đàn gà đổ
bệnh. Bởi vậy bà mong sao cho mưa thuận gió hòa, thời tiết thuận lợi để đàn gà có
thể lớn lên khỏe mạnh. Cuối năm bà sẽ bán đàn gà đi để mua cho cháu một bộ
quần áo mới để đón Tết. Với người cháu, hạnh phúc chẳng hiện hữu ngay ở những
điều bình dị, giản đơn nhất trong cuộc sống đời thường. Ở khổ thơ cuối, người cháu
đã khẳng định rõ ràng mục đích chiến đấu. Chúng ta thấy được tình yêu quê hương,
đất nước và hơn hết là tình yêu dành cho bà của người chiến sĩ. Tiếng gọi “Bà ơi”
vang lên thật trìu mến, yêu thương. Cháu chiến đấu cũng vì mong muốn có thể đem
lại cuộc sống hòa bình cho bà. Điều này gợi cho chúng ta những ấn tượng thật tốt
đẹp về hình ảnh người chiến sĩ. Có thể khẳng định rằng, với ngôn ngữ giản dị, hình
ảnh gần gũi, bài thơ Tiếng gà trưa đã giúp người đọc cảm nhận được tình bà cháu
thật đẹp đẽ.
Đoạn văn mẫu số 2
Bài thơ “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh đã gợi nhắc cho người đọc những kỉ niệm
đẹp đẽ của tuổi thơ, cũng như tình cảm bà cháu đầy sâu sắc. Nhân vật trữ tình trong
bài là một người chiến sĩ đã xa nhà nhiều năm, trên đường hành quân xa xôi, anh
được dừng chân bên xóm nhỏ để nghỉ ngơi, nghe thấy tiếng gà trưa mà nhớ về
những kỉ niệm tuổi thơ. Người chiến sĩ đã nhớ về hình ảnh của những ổ rơm hồng
đầy trứng, hình ảnh của gà mái mơ, gà mái vàng với những màu sắc rất riêng, độc
đáo. Thú vị nhất có lẽ phải nhắc đến kỉ niệm về một lần xem trộm gà đẻ trứng, bị bà
mắng. Lời trách của bà giúp tôi cảm nhận rõ hơn về sự quan tâm, lo lắng của bà
dành cho cháu. Tiếng gà trưa không chỉ gợi lại cho người chiến sĩ về kỉ niệm tuổi
thơ, mà còn là hình ảnh người bà tần tảo, hy sinh. Bà mang những phẩm chất đẹp
đẽ của người Việt Nam. Hình ảnh đôi bàn tay chai sần của bà hiện lên thật đẹp. Bà
luôn lo lắng trời làm sương muối khiến đàn gà đổ bệnh. Bởi vậy bà mong sao cho
mưa thuận gió hòa, thời tiết thuận lợi để đàn gà có thể lớn lên khỏe mạnh, cuối năm
bà có thể bán chúng đi để mua cho cháu một bộ quần áo mới để đón Tết. Tiếng gà
trưa còn gợi cho cháu những giấc mơ về hạnh phúc. Có lẽ, với cháu, hạnh phúc
chẳng hiện hữu ngay ở những điều bình dị, giản đơn nhất trong cuộc sống đời
thường. Khi trưởng thành, cháu tham gia chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Trước hết đó là
vì lòng yêu đất nước - “vì lòng yêu Tổ quốc”, sau đó là vì tình yêu quê hương - “yêu
xóm làng thân thuộc”. Và hơn hết đó còn là vì bà - “Bà ơi, cũng vì bà”. Tiếng gọi “Bà
ơi” vang lên thật trìu mến, yêu thương. Cháu chiến đấu cũng vì mong muốn có thể
đem lại cuộc sống hòa bình cho bà. Có thể khẳng định, “Tiếng gà trưa” với ngôn ngữ
giản dị, hình ảnh gần gũi đã giúp người đọc cảm nhận được tình bà cháu thật đẹp
đẽ. Qua đó, chúng ta cũng hiểu hơn về vẻ đẹp của người chiến sĩ trong chiến tranh.
Cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ - Ngàn sao
làm việc
Đoạn văn mẫu số 1
“Ngàn sao làm việc” là một bài thơ hay của nhà thơ Võ Quảng. Tác giả khắc họa
khung cảnh cảnh bầu trời về đêm thật đẹp đẽ. Những hình ảnh thiên nhiên hiện lên
thật sự sinh động, chân thực. Những ngôi sao được nhân hóa càng thêm gần gũi.
Sao Thần Nông biết tỏa rộng chiếc vó lọng vàng, sao Hôm như một ngọn đuốc soi
cá, nhóm Đại Hùng tinh biết buông gầu tát nước. Cả một dòng sông Ngân Hà đang
chảy trên bầu trời. Thật là một tưởng tượng thú vị và độc đáo. Những ngôi sao đang
làm công việc của mình, cùng chung sức đã làm nên vẻ đẹp huyền diệu của trời
đêm. Qua bài thơ, ta cũng học được bài học giá trị về ý nghĩa của việc lao động và
biết đoàn kết, yêu thương.
Đoạn văn mẫu số 2
Bài thơ “Ngàn sao làm việc” của Võ Quảng đã để lại cho tôi nhiều ấn tượng sâu sắc.
Nhà thơ đã khắc họa khung cảnh bầu trời đẹp lộng lẫy khi về đêm. Những hình ảnh
tưởng chừng như rất gần gũi lại được miêu tả sống động, chân thực. Dòng sông
ngân hà biết chảy giữa trời lồng lộng, sao Thần Nông biết tỏa rộng chiếc vó lọng
vàng, sao Hôm như một ngọn đuốc soi cá, nhóm Đại Hùng tinh biết buông gầu tát
nước. Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa biến các sự vật trở nên có linh
hồn, sức sống. Hình ảnh ngàn sao cùng làm việc, cùng chung sức đã làm nên vẻ
đẹp huyền diệu của trời đêm. Qua đó, chúng ta nhận ra được bài học về giá trị của
lao động và biết đoàn kết, yêu thương đã làm cho vạn vật trở nên đẹp đẽ, đáng yêu.
Đoạn văn mẫu số 3
Võ Quảng là một nhà thơ viết khá nhiều cho thiếu nhi, Ngàn sao làm việc là một
trong số đó. Trong bài thơ, bầu trời đêm hiện lên thật mênh mông và thơ mộng trong
trí tưởng tượng phong phú của nhân vật trữ tình. Các hình ảnh như dòng sông Ngân
Hà chảy giữa trời, sao Thần Nông tỏa rộng một chiếc vó bằng vàng như tôm cua bơi
lội, sao Hôm như đuốc đèn soi cá, cả nhóm Đại Hùng Tinh buông gàu bên sông
Ngân… được nhân hóa trở nên sinh động hơn, gần gũi hơn. Muôn ngàn sao đang
làm việc, chung sức để làm nên vẻ đẹp của bầu trời lúc đêm xuống. Từ đó, chúng ta
cũng nhận ra được bài học về giá trị của lao động, cũng như tinh thần đoàn kết,
chung sức để xây dựng mọi thứ trở nên đẹp đẽ hơn.
Đoạn văn mẫu số 4
Ngàn sao làm việc của Võ Quảng là một bài thơ mà tôi cảm thấy yêu thích. Nhà thơ
đã khắc họa khung cảnh bầu trời về đêm hiện lên vô cùng lung linh, đẹp đẽ. Những
sự vật tự nhiên được nhân hóa trở nên sinh động, hấp dẫn hơn. Dòng sông ngân hà
giống như biết nhảy giữa trời lồng lộng, sao Thần Nông biết tỏa rộng chiếc vó lọng
vàng, sao Hôm như một ngọn đuốc soi cá, nhóm Đại Hùng tinh biết buông gầu tát
nước. Các sự vật được nhân hóa trở nên có hồn hơn. Đặc biệt, tôi ấn tượng nhất
với hình ảnh ngàn sao cùng làm việc, cùng chung sức đã làm nên vẻ đẹp huyền
diệu của trời đêm. Bài thơ không chỉ thú vị, hấp dẫn mà còn gửi gắm bài học ý nghĩa
về cuộc sống.
Cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ - Nắng hồng
Đoạn văn mẫu số 1
Khi đọc bài thơ Nắng hồng của tác giả Bảo Ngọc, tôi đã có những cảm nhận về mùa
đông. Tác giả đã miêu tả khung cảnh mùa đông với những nét đặc trưng. Thời tiết
trở nên lạnh giá hơn. Mọi vật đều lười biếng. Hình ảnh nhân hóa khiến cho vạn vật
trở nên gần gũi với con người. Mặt trời “trốn đi đâu”, cây cối “khoác tấm áo nâu”, “áo
trời xám ngắt”, chim sẻ “giấu tiếng hát núp trong mái nhà”, ngay cả “chị ong chăm
chỉ cũng không đến vườn hoa”. Những cơn mưa phùn, hay màn sương mờ ảo bao
trùm lấy xóm làng là hình ảnh thường thấy mỗi khi đông về. Và ở cuối bài thơ, hình
ảnh người mẹ xuất hiện đã làm bừng sáng bức tranh mùa đông. Mẹ trở về sau buổi
chợ xa, mặc chiếc áo choàng đỏ được tác giả so sánh với “đốm nắng đang trôi”. Mẹ
đã mang theo “nắng hồng” trong nụ cười - gợi ra sự ấm áp, tươi sáng.
Đoạn văn mẫu số 2
Bài thơ Nắng hồng của tác giả Bảo Ngọc đã khắc họa vẻ đẹp của mùa đông. Khi
mùa đông tới, tiết trời trở nên lạnh giá. Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa
khiến cho các sự vật thiên nhiên trở nên thật sinh động, gần gũi. Mặt trời “trốn đi
đâu”, cây cối “khoác tấm áo nâu”, “áo trời xám ngắt”. Các loài vật cũng trở nên lười
biếng hơn như sẻ giấu tiếng hát núp trong mái nhà, ngay cả chị ong chăm chỉ cũng
không đến vườn hoa. Đặc biệt là hình ảnh người mẹ xuất hiện như làm sáng bừng
cảnh vật. Mẹ mặc chiếc áo choàng đỏ được tác giả so sánh với “đốm nắng đang
trôi”. Và khi mẹ bước chân đến cửa, mẹ đã mang theo ánh nắng, mang theo vạt
nắng hồng trong nụ cười hiền dịu. Bài thơ đã mang đến những cảm xúc tuyệt vời
trong lòng người đọc.
Đoạn văn mẫu số 3
Bài thơ Nắng hồng của Bảo Ngọc đã gợi cho tôi nhiều cảm xúc đẹp đẽ. Tác giả đã
khắc họa khung cảnh mùa đông hiện lên với những nét đặc trưng, nhưng cũng rất
đẹp đẽ. Khi mùa đông tới, tiết trời trở nên lạnh giá. Thiên nhiên cũng trở nên lười
biếng hơn. Nhà thơ sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa để diễn tả sinh động các sự
vật như mặt trời “trốn đi đâu”, cây cối “khoác tấm áo nâu”, “áo trời xám ngắt”, chim
sẻ “giấu tiếng hát núp trong mái nhà”, ngay cả “chị ong chăm chỉ cũng không đến
vườn hoa”. Những cơn mưa phùn, hay màn sương mờ ảo bao trùm lấy xóm làng.
Trong khung cảnh đó, hình ảnh người mẹ xuất hiện như làm bừng sáng bức tranh
mùa đông. Mẹ trở về sau buổi chợ xa, mặc chiếc áo choàng đỏ được tác giả so
sánh với “đốm nắng đang trôi”. Khi bước chân đến cửa, mẹ đã mang theo “nắng
hồng” trong nụ cười - gợi ra sự ấm áp, tươi sáng. Và mùa xuân như đến theo nụ
cười của mẹ vậy.
Đoạn văn mẫu số 4
Nắng hồng của tác giả Bảo Ngọc đem đến cho tôi nhiều ấn tượng. Nội dung của bài
thơ đã khắc họa vẻ đẹp của mùa đông. Khi mùa đông tới, thời tiết lạnh giá. Mọi vật
có nhiều thay đổi. Các sự vật thiên nhiên trong bài được nhân hóa vô cùng thật sinh
động, gần gũi. Mặt trời thì “trốn đi đâu”, cây cối cũng “khoác tấm áo nâu”, “áo trời
xám ngắt”. Các loài vật bỗng nhiên trở nên lười biếng hơn. Sẻ giấu tiếng hát núp
trong mái nhà, chị ong chăm chỉ cũng không đến vườn hoa. Nhưng hình ảnh ấn
tượng nhất có lẽ là người mẹ xuất hiện như làm sáng bừng cảnh vật. Mẹ mặc chiếc
áo choàng đỏ được tác giả so sánh với “đốm nắng đang trôi”. Khi người bước chân
đến cửa, mẹ đã mang theo ánh nắng, mang theo vạt nắng hồng trong nụ cười hiền
dịu. Thật tuyệt vời biết bao!
Xem thêm: Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ Nắng hồng
Cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ - Mẹ
Đoạn văn mẫu số 1
Một trong những tác phẩm hay viết về người mẹ phải kể đến “Mẹ” của Đỗ Trung Lai.
Khi đọc bài thơ, người đọc có thể cảm nhận được đây là lời của người con đang bày
tỏ cảm xúc về người mẹ của mình. Tác giả đã sử dụng hình ảnh cây cau vốn gần
gũi và quen thuộc, để bộc lộ nỗi xót xa khi mẹ ngày càng già đi. Những hình ảnh đối
lập như “Lưng mẹ còng rồi - Cau thì vẫn thẳng”, “Cau - ngọn xanh rờn, Mẹ - đầu bạc
trắng” đã gợi ra sự liên tưởng về tuổi già của mẹ. Cùng với đó, nhà thơ còn sử dụng
biện pháp tu từ so sánh “Một miếng cau khô – Khô gầy như mẹ” cho thấy sự già nua
héo hắt của người mẹ. Trước hiện thực khắc nghiệt đó, người con đã bộc lộ cảm
xúc một cách trực tiếp: “Con nâng trên tay/Không cầm được lệ” - đó là nỗi đau đớn,
xót xa. Tất cả được dồn nén để rồi người con tự hỏi chính mình: “Ngẩng đầu hỏi
giờ/Sao mẹ ta già?”. Câu hỏi không nhận được lời đáp. Không ai trả lời được vì sao
mẹ già, cũng không ai ngăn được guồng quay của thời gian tàn nhẫn. Hình ảnh
“mây bay về xa” cũng giống như mái tóc mẹ bạc hòa cùng với mây trắng trên cao
thể hiện một niềm xót xa, tiếc nuối. Qua bài thơ, người đọc cũng hiểu được thông
điệp mà tác giả muốn gửi gắm đó là hãy trân trọng những giây phút được ở bên
cạnh người mẹ, biết yêu thương và trân trọng người mẹ của mình.
Đoạn văn mẫu số 2
“Mẹ” của Đỗ Trung Lai là một tác phẩm đem đến nhiều cảm xúc cho người đọc. Bài
thơ là lời của người con bộc lộ nỗi xót xa, thương cảm khi thấy mẹ ngày một già đi.
Cuộc đời của mẹ từng trải qua biết bao nỗi vất vả, nhọc nhằn. Tác giả đã mượn
hình ảnh cây cau để nói về mẹ. Sự đối lập giữa mẹ và cau: “Lưng mẹ còng rồi - Cau
thì vẫn thẳng” và “Cau - ngọn xanh rờn, Mẹ - đầu bạc trắng”, “Cau gần với giời - Mẹ
thì gần đất” đã tạo ra một ám ảnh cho tiếng thơ tiếng lòng quặn bao nỗi thắt. Đặc
biệt, hình ảnh “Một miếng cau khô - Khô gầy như mẹ” càng làm nổi bật sự giàu nua,
héo hon của người mẹ. Điều đó khiến cho “Con nâng trên tay - Không cầm được lệ”.
Hai chữ “nâng” và “cầm” đều chỉ động thái của tình cảm. Nếu “nâng” trang trọng kính
trọng biết bao thì “cầm” lại nén bao đắng cay bấy nhiêu. Từng cặp biểu cảm được
song hành tạo ra bao chất chứa, lời ít mà vọng xa. Chính đây cũng là sự vận động
cảm xúc để cuối bài nhân vật trữ tình đã tự hỏi: “Ngẩng hỏi giời vậy - Sao mẹ ta già”.
Câu hỏi tu từ không nhận được lời đáp, để lại sự cô đơn, trống vắng. Không ai trả
lời được vì sao mẹ già, cũng không ai ngăn được guồng quay của thời gian tàn
nhẫn. Hình ảnh “mây bay về xa” cũng giống như mái tóc mẹ bạc hòa cùng với mây
trắng trên cao thể hiện một niềm xót xa, tiếc nuối. Bài thơ thật cảm động, bộc lộ nỗi
xót xa thưởng cảm của người con trước hình ảnh già nua của mẹ theo năm tháng.
Đoạn văn mẫu số 3
Bài thơ Mẹ của Đỗ Trung Lai là một trong những tác phẩm hay viết về người mẹ.
Nhà thơ đã sử dụng hình ảnh cây cau - vốn rất quen thuộc ở mỗi làng quê Việt Nam
để đối chiếu với hình ảnh người mẹ. Sự đối lập giữa mẹ và cau được thể hiện qua
các cụm từ “Lưng mẹ còng rồi - Cau thì vẫn thẳng”, “Cau - ngọn xanh rờn, Mẹ - đầu
bạc trắng”, “Cau gần với trời - Mẹ thì gần đất”. Từ đó, tác giả muốn nhấn mạnh vào
sự thay đổi của người mẹ trước thời gian về tuổi tác, ngoại hình. Đặc biệt, hình ảnh
so sánh “Một miếng cau khô - Khô gầy như mẹ” trong khổ thơ tiếp theo càng làm nổi
bật sự giàu nua, héo hon của người mẹ. Từ “nâng” và “cầm” trong câu thơ tiếp theo
đã thể hiện được tình cảm của người con dành cho mẹ. Càng yêu thương, trân
trọng bao nhiêu, con lại cảm thấy xót xa bấy nhiêu. Cảm xúc dồn nén lại tuôn chảy
thành những giọt nước mắt. Câu hỏi tu từ không nhận được lời đáp, để lại sự cô
đơn, trống vắng. Không ai trả lời được vì sao mẹ già, cũng không ai ngăn được
guồng quay của thời gian tàn nhẫn. Hình ảnh “mây bay về xa” cũng giống như mái
tóc mẹ bạc hòa cùng với mây trắng trên cao thể hiện một niềm xót xa, tiếc nuối. Tôi
cảm thấy rất xúc động khi đọc bài thơ này.
Đoạn văn mẫu số 4
“Mẹ” của Đỗ Trung Lai là một trong những tác phẩm hay viết về người mẹ. Bài thơ là
lời của người con đang bày tỏ cảm xúc về người mẹ của mình. Tác giả sử dụng
hình ảnh cây cau - vốn đã rất gần gũi và quen thuộc, bộc lộ nỗi xót xa khi mẹ ngày
càng già đi. Những câu thơ giàu hình ảnh, khéo léo gửi gắm tâm trạng của nhân vật
trữ tình: “Lưng mẹ còng rồi/Cau thì vẫn thẳng”, “Cau - ngọn xanh rờn/Mẹ - đầu bạc
trắng”. Nhà thơ còn sử dụng biện pháp tu từ so sánh “Một miếng cau khô/Khô gầy
như mẹ” để giúp người đọc hình dung rõ hơn về sự già nua héo hắt của người mẹ.
Và thực tế đó, người con đã bộc lộ cảm xúc một cách trực tiếp: “Con nâng trên
tay/Không cầm được lệ. Nỗi xót xa, đau đớn được dồn nén để rồi người con tự hỏi
chính mình: “Ngẩng hỏi giờ vậy/Sao mẹ ta già?”. Nhưng không ai trả lời được vì sao
mẹ già, cũng không ai ngăn được guồng quay của thời gian tàn nhẫn. Hình ảnh
“mây bay về xa” cũng giống như mái tóc mẹ bạc hòa cùng với mây trắng trên cao
thể hiện một niềm xót xa, tiếc nuối. Bài thơ giúp tôi hiểu được thông điệp mà tác giả
muốn gửi gắm đó là hãy trân trọng những giây phút được ở bên cạnh người mẹ,
biết yêu thương và trân trọng người mẹ của mình.
Xem thêm: Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ Mẹ
Cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ - Sang thu
Đoạn văn mẫu số 1
Vẻ đẹp thiên nhiên lúc chuyển mùa được Hữu Thỉnh khắc họa đầy tinh tế qua bài
thơ Sang thu. Nhà thơ đã cảm nhận tín hiệu của mùa thu qua từng giác quan với
khứu giác (hương ổi), xúc giác (gió se), thị giác (sương chùng chình qua ngõ). Từng
câu thơ giúp người đọc hình dung về một sự chuyển biến của vạn vật lúc giao mùa.
Dưới mặt đất, dòng chảy của con sông trở nên chậm hơn, không cuồn cuộn như lúc
hè về. Trên bầu trời, từng đàn chim sải cánh bay bắt đầu trở nên vội vã, âu lo tìm về
phương nam tránh cái lạnh. Ấn tượng nhất phải kể đến chi tiết đám mây “vắt nửa
mình sang thu”, dường như đám mây cũng đang phân vân, nửa đang nghiêng về
mùa hạ nửa muốn ngả về mùa thu. Đọc đến khổ thơ cuối, dòng cảm xúc của tác giả
bắt đầu chuyển sang suy tư, triết lí. Các hiện tượng tự nhiên “nắng”, “mưa”, “sấm” là
biểu tượng cho những biến cố xảy đến với con người trong cuộc sống. Còn “hàng
cây đứng tuổi” chính là hình ảnh của những con người đã từng trải, đã bước qua
thời tuổi trẻ. Bài thơ “Sang thu” đã gợi lên những cảm nhận tinh tế về sự chuyển
biến của đất trời từ cuối hạ sang đầu thu, để lại cho người đọc nhiều cảm xúc.
Đoạn văn mẫu số 2
Bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh giúp người đọc thấy được sự biến chuyển đầy tinh
tế của cảnh vật trong không gian cuối hạ đầu thu. Mùa thu được nhà thơ cảm nhận
qua từng giác quan như khứu giác (hương ổi), xúc giác (gió se), thị giác (sương
chùng chình). Từ đó, những tín hiệu đặc trưng nhất của mùa thu cũng lần lượt xuất
hiện. Dưới mặt đất, dòng chảy của con sông trở nên chậm hơn, không cuồn cuộn
như lúc hè về. Trên bầu trời, từng đàn chim sải cánh bay bắt đầu trở nên vội vã, âu
lo tìm về phương nam tránh cái lạnh. Đám mây của mùa hạ nay đã “vắt nửa mình
sang thu”, nửa nghiêng về mùa hạ, nửa lại nghiêng về mùa thu. Dường như, những
sự vật thiên nhiên trong bài thơ đã được tác giả thổi vào đó những hành động của
con người. Ở hai khổ thơ đầu, tác giả bộc lộ cảm xúc trước vẻ đẹp thiên nhiên. Thì
đến khổ thơ cuối, dòng cảm xúc ấy chuyển sang suy tư, triết lý. Những hiện tượng
thiên nhiên như “nắng”, “mưa”, “sấm” là biểu tượng cho những biến cố xảy đến với
con người trong cuộc sống. Còn “hàng cây đứng tuổi” chính là hình ảnh của những
con người đã từng trải, đã bước qua thời tuổi trẻ. Triết lí mà nhà thơ muốn gửi gắm
là những con người từng trải khi gặp phải sóng gió sẽ biết cách đối diện, đương đầu
một cách bình thản, trưởng thành hơn. Như vậy, bài thơ đã gợi lên những cảm nhận
tinh tế về sự chuyển biến của đất trời từ cuối hạ sang đầu thu. Và từ những tín hiệu
của mùa thu đến khung cảnh thiên nhiên lúc vào thu, tác giả đã có những suy tư sâu
sắc về cuộc đời.
Đoạn văn mẫu số 3
Đến với “Sang thu” của nhà thơ Hữu Thỉnh, người đọc đã cảm nhận được những
chuyến biển đầy tinh tế của đất trời từ cuối hạ sang đầu thu. Ở hai khổ thơ đầu, tác
giả đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên lúc vào thu. Những sự vật trong bài thơ đã
được tác giả thổi vào đó những hành động của con người. Từ đó, thiên nhiên
dường như cũng có xúc cảm, tâm hồn. Sang thu, nhịp sống dường như chậm lại, tất
cả trở nên thư thái, nhẹ nhàng hơn. Nếu hai khổ thơ đầu là xúc cảm của nhà thơ
trước vẻ đẹp thiên nhiên thì đến khổ thơ cuối, dòng cảm xúc ấy chuyển sang suy tư,
triết lý. Thông qua cảnh sắc thiên nhiên đất trời khoảnh khắc giao mùa, nhà thơ đã
bày tỏ những suy nghĩ về triết lý nhân sinh. Khi bước sang nửa bên kia con dốc
cuộc đời, con người ta sẽ trở nên bản lĩnh hơn, bình tĩnh hơn trước những biến cố,
bất ngờ của cuộc sống. Những hiện tượng thiên nhiên như “nắng”, “mưa”, “sấm” là
biểu tượng cho những biến cố xảy đến với con người trong cuộc sống. “Hàng cây
đứng tuổi” chính là hình ảnh của những con người đã từng trải, đã bước qua thời
tuổi trẻ. Bài thơ là một trong những tác phẩm đặc sắc viết về mùa thu.
Đoạn văn mẫu số 4
Bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh đã miêu tả tinh tế những biến chuyển của thiên
nhiên lúc sang thu. Mùa thu đến kéo theo hương ổi thoang thoảng trong không gian.
“Sương chùng chình qua ngõ” như cố ý nán lại, tiếc nuối níu kéo mùa hạ. Dòng chảy
của sông cũng như chậm lại, thong thả hơn. Cánh chim thì có chút vội vã vì đang
trên hành trình bay về phương Nam tránh rét. Đặc biệt hơn cả là hình ảnh đám mây
mùa hạ “vắt nửa mình sang thu” gợi ra hình ảnh đám mây nửa nghiêng về mùa hạ,
lại nửa nghiêng về mùa thu. Thu sang thực sự đã khiến cho nhịp sống trở nên chậm
lại. Những hình ảnh trên đã thể hiện sự quan sát nhạy bén, tinh tế của nhà thơ trước
những chuyển động dù khẽ khàng của thiên nhiên. Ở hai khổ thơ đầu, tác giả bộc lộ
xúc cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên. Đến khổ thơ cuối, dòng cảm xúc ấy chuyển sang
suy tư, triết lý. Cảnh sắc thiên nhiên lúc giao mùa được sử dụng để bày tỏ những
suy nghĩ về triết lý nhân sinh. Hiện tượng tự nhiên “nắng”, “mưa”, “sấm” chính là
biểu tượng cho những biến cố xảy đến với con người trong cuộc sống. Còn “hàng
cây đứng tuổi” chính là hình ảnh của những con người đã từng trải, đã bước qua
thời tuổi trẻ. Trải qua thời gian, con người sẽ trưởng thành, vững vàng hơn khi đối
mặt với những khó khăn, biến cố. Một bài học nhân văn mà chúng ta có thể cảm
nhận được. Bài thơ đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng về thiên nhiên
lúc giao mùa.
Xem thêm Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ Sang thu
Cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ - Con chim
chiền chiện
Đoạn văn mẫu số 1
Trong số những sáng tác của Huy Cận, bài thơ “Con chim chiền chiện” đã để lại cho
tôi nhiều ấn tượng và cảm xúc. Tác giả đã khắc họa hình ảnh trung tâm của bài thơ
- con chim chiền chiện thật chân thực và sáng tạo. Cánh chim bay giữa trời bao la
cùng với tiếng hót được so sánh rất độc đáo - giống như cành sương chói, làm xanh
thêm bầu trời khiến cho người lòng người thêm bối rối. Tiếng hót còn trong veo như
“tiếng ngọc” gửi gắm mong ước về một cuộc sống ấm no, đủ đầy với những năm
tháng bình yên tươi đẹp. Có thể thấy, hình ảnh cánh chiền chiện tuy bé nhỏ nhưng
không mờ nhạt trước không gian rộng lớn mà trở thành trung tâm của cảnh vật.
Tiếng của của con chim như làm bừng sáng mọi vật, khiến lòng người thêm tưng
bừng, vui tươi hơn. Bài thơ gửi gắm đến người bạn bài đọc thông điệp con người
cần sống giao hòa, gắn bó với thiên nhiên để cảm nhận được vẻ đẹp của thiên
nhiên, đồng thời thêm yêu mến, trân trọng thiên nhiên hơn.
Đoạn văn mẫu số 2
Bài thơ “Con chim chiền chiện” của Huy Cận đã đem đến cho tôi nhiều cảm nhận.
Hình ảnh trung tâm của bài thơ - con chim chiền chiện được nhà thơ khắc họa thật
chân thực và sống động. Cánh chim bay vút trên trời, với tiếng hót long lanh giống
như cành sương chói, hình ảnh so sánh kết hợp với ẩn dụ chuyển đổi cảm giác.
Tiếng hót giờ đây không chỉ được cảm nhận bằng thính giác mà còn có thể nhìn
thấy bằng thị giác - đầy long lanh, giống như hình ảnh giọt sương trên cành cây
được nắng chiếu sáng. Những câu thơ tiếp theo khiến chúng ta có cảm thấy dường
như chim chiền chiện đang trò chuyện với con người. Chúng đang làm tốt nhiệm vụ
của mình, gieo những niềm vui đến với thế gian, cánh chim bay mãi đến trời xanh
dường như không biết mệt mỏi. Với những dòng thơ trong trẻo, đẹp đẽ của mình,
nhà thơ cũng muốn gửi gắm một bức thông điệp ý nghĩa rằng con người cần có giao
hòa, gắn bó với thiên nhiên để cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, đồng thời
thêm yêu mến, trân trọng thiên nhiên.
Đoạn văn mẫu số 3
Đến với bài thơ “Con chim chiền chiện” của Huy Cận, người đọc đã cảm nhận tình
yêu thiên nhiên. Chim chiền chiện hiện lên với những hình ảnh độc đáo, mang vẻ
sống động và chân thực. Tiếng chim vang vọng khắp không gian, được cảm nhận
đầy tinh tế. Không chỉ vậy, tác giả còn sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa, khiến cho
chim chiền chiện giống như một người bạn đang trò chuyện với con người. Chúng
cũng đang làm tốt nhiệm vụ của mình, gieo những niềm vui đến với thế gian, cánh
chim bay mãi đến trời xanh dường như không biết mệt mỏi. Qua những dòng thơ
bốn chữ ngắn gọn, tác giả muốn gửi gắm đến bạn đọc bức thông điệp rằng con
người cần phải sống giao hòa với thiên nhiên, cũng như trân trọng thiên nhiên.
Đoạn văn mẫu số 4
Bài thơ “Con chim chiền chiện” của Huy Cận là một tác phẩm giàu cảm xúc. Tác giả
đã khắc họa hình ảnh chú chim chiền chiện nhỏ bé, đang vỗ cánh bay giữa không
gian rộng lớn. Dù dưới bầu trời cao rộng hay trên cánh đồng bát ngát, chim chiền
chiện vẫn sải đôi cánh, cất lên những khúc hát ngọt ngào, trong trẻo. Tác giả đã thật
tinh tế khi ví tiếng hót như cành sương chói long lanh rực rỡ, làm lòng người vừa bối
rối vừa vui sướng. Tiếng chim của con chim chiền chiện còn giống như hạt ngọc
trong veo, góp vui cho đời, làm xanh mây trời, làm đẹp hồn quê, làm cây lúa thêm
tròn bụng sữa. Với hình ảnh con chim chiền chiện, Huy Cận ca ngợi vẻ đẹp thiên
nhiên đất trời. Ở đó, cả thiên nhiên và con người giao cảm, vun đắp những tươi đẹp
của cuộc sống. Có thể khẳng định rằng, bài thơ Con chim chiền chiện đã giúp em
cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, cũng như thêm yêu và gắn bó với thiên
nhiên, vạn vật nhiều hơn.
Xem thêm Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ Con chim chiền chiện
Cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ - Lời của cây
Đoạn văn mẫu số 1
Bài thơ Lời của cây do Trần Hữu Thung sáng tác đã gửi gắm nhiều thông điệp ý
nghĩa. Với thể thơ bốn chữ ngắn gọn, tác giả đã khắc họa quá trình phát triển của
một mầm cây. Trong khổ thơ đầu, khi cây vẫn còn là hạt mầm, chỉ biết nằm lặng
thinh. Nhưng điều kì diệu là khi hạt nảy mầm lại có thể cất tiếng nói thì thầm. Dần
dần, hạt phát triển thì chiếc vỏ của hạt lúc này như chiếc nôi xinh xắn ôm ấp mầm
cây. Cách miêu tả mà tác giả sử dụng khiến người đọc liên tưởng đến quá trình
trưởng thành của một em bé. Và khi mầm cây phát triển, dường như chúng ta còn
lắng nghe được tiếng “bập bẹ” của lá. Kết thúc bài thơ là hình ảnh cây đã phát triển,
với một ngày mai tràn đầy màu xanh tươi mới của cây gợi lên một sự sống trường
tồn, bất diệt. Bài thơ sử dụng những từ ngữ độc đáo, hình ảnh thú vị đã gợi mở cho
người đọc cảm xúc thật đẹp đẽ.
Đoạn văn mẫu số 2
Lời của cây là một bài thơ mang đậm phong cách sáng tác của nhà thơ Trần Hữu
Thông. Quá trình phát triển của một mầm cây được tác giả khắc họa thật sinh động.
Ở khổ thơ thứ nhất, cây vẫn còn là hạt mầm nằm lặng thinh. Đến khi hạt bắt đầu nảy
mầm xanh, đã có thể cất tiếng nói thì thầm. Khi hạt phát triển thì chiếc vỏ của hạt lúc
này như chiếc nôi xinh xắn ôm ấp mầm cây. Cách viết này gợi liên tưởng mầm cây
giống như một em bé đang được chăm sóc ân cần. Đến khi mầm cây đã phát triển,
người đọc dường như lắng nghe được tiếng “bập bẹ” của lá. Từ láy “bập bẹ” khiến
ta liên tưởng đến giai đoạn tập nói của một đứa trẻ. Kết thúc bài thơ là hình ảnh cây
đã phát triển, với một ngày mai tràn đầy màu xanh tươi mới của cây gợi lên một sự
sống trường tồn, bất diệt. Bài thơ không chỉ thú vị ở lời thơ, hình ảnh trong bài mà
còn là thông điệp mà tác giả muốn gửi đến người đọc rằng hãy biết yêu và bảo vệ
cây xanh bởi chúng đã tạo nên một cuộc sống tươi mới, tràn đầy sức sống.
Đoạn văn mẫu số 3
Đến với tác phẩm “Lời của cây”, người đọc đã cảm nhận được một thông điệp ý
nghĩa. Bài thơ giống như một cuốn nhật kí ghi lại hành trình phát triển của cây, từ khi
còn là hạt mầm đến khi trở thành cây. Giọng thơ nhẹ nhàng giống như một lời tâm
tình, trò chuyện với cây. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh, từ ngữ đặc sắc mà tác
giả đã sử dụng trong bài thơ để miêu tả quá trình từ hạt thành cây: nằm lặng thinh,
nảy mầm, nhú lên giọt sữa, thì thầm, mầm mở mắt, đón tia nắng hồng, nở vài lá bé.
Chúng ta có thể cảm nhận được cây cũng có tâm hồn, giống như con người. Và
giữa cây với nhân vật trữ tình trong bài có một mối giao cảm, thấu hiểu đến kì lạ. Từ
đây, người đọc nhận ra thông điệp mà nhà thơ gửi gắm. Con người cần biết lắng
nghe để thấu hiểu và biết trân trọng những mầm xanh của sự sống.
Đoạn văn mẫu số 4
Bài thơ “Lời của cây” được tác giả Trần Hữu Thung sáng tác gửi gắm đến bạn đọc
thông điệp ý nghĩa. Với thể thơ bốn chữ ngắn gọn, hình ảnh thơ gần gũi, bài thơ ghi
lại một cách sinh động quá trình hạt phát triển thành cây: nằm lặng thinh, nảy mầm,
nhú lên giọt sữa, thì thầm, mầm mở mắt, đón tia nắng hồng, nở vài lá bé. Mầm cây
được nhân hóa giống như một con người, có sức sống mãnh liệt. Qua đó, nhà thơ
muốn thể hiện thái độ nâng niu, trân trọng mà nhân vật trữ tình dành cho mầm cây.
Bức thông điệp mà bài thơ đã gửi gắm đến bạn đọc: “Hãy yêu cây xanh, trân trọng
sự sống của cây, bởi cây làm nên một phần cuộc sống xinh đẹp, đáng yêu này”.
Xem thêm Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ Lời của cây
Cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ - Ông đồ
Đoạn văn mẫu số 1
Ông đồ là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Vũ Đình Liên. Bài thơ
khiến tôi cảm thấy thực sự yêu thích và ấn tượng. Theo như tìm hiểu, ông đồ vốn là
những người có học thức, tài năng và được trọng vọng. Hình ảnh ông đồ xuất hiện
trong xã hội xưa, thường vào dịp Tết cổ truyền. Ông đồ xuất hiện trên phố với hoa
đào, với mực tàu giấy đỏ và viết câu đối mà như người biểu diễn thư pháp: “Hoa tay
thảo những nét/Như phượng múa rồng bay” khiến mọi người xem tấm tắc khen
ngợi: “Hoa tay thảo những nét/Như phượng mùa rồng bay”. Nhưng một thời vàng
son đã không còn, mỗi năm mỗi vắng, người ta không còn quan tâm đến ông đồ
nữa. Những hình ảnh nhân hóa như “giấy đỏ buồn không thắm”, “mực đọng trong
nghiên sầu” gợi ra nỗi buồn của chính người nghệ sĩ khi không còn được biết đến.
Để rồi năm nay đào lại nở, nhưng không còn thấy ông đồ nữa. Và câu hỏi tu từ vang
lên như một lời than trách cho số phận của ông đồ: “Những người muôn năm
cũ/Hồn ở đâu bây giờ”. Bài thơ đã giúp tôi hiểu hơn về ông đồ, về một quá khứ đẹp
đẽ của dân tộc.
Đoạn văn mẫu số 2
“Ông đồ” của Vũ Đình Liên là tác phẩm đã để lại cho em ấn tượng sâu sắc. Tác giả
đã khắc họa hình ảnh ông đồ từ quá khứ đến hiện tại. Trong quá khứ, ông đồ xuất
hiện trên phố với hoa đào, với mực tàu giấy đỏ và viết câu đối mà như người biểu
diễn thư pháp: “Hoa tay thảo những nét/Như phượng múa rồng bay” khiến mọi
người xem tấm tắc khen ngợi: “Hoa tay thảo những nét/Như phượng mùa rồng bay”.
Đó là một thời vàng son khi ông đồ được trân trọng. Nhưng một thời vàng son đã
không còn, mỗi năm mỗi vắng, người ta không còn quan tâm đến ông đồ nữa. Hình
ảnh nhân hóa “giấy đỏ buồn không thắm”, “mực đọng trong nghiên sầu” gợi ra nỗi
buồn của chính người nghệ sĩ khi không còn được biết đến. Để rồi năm nay đào lại
nở, nhưng không còn thấy ông đồ nữa. Câu hỏi tu từ ở cuối bài giống như một lời
than trách cho số phận. Bài thơ đã thể hiện tình cảnh đáng thương của ông đồ
nhưng qua đó toát lên niềm cảm thương trước một lớp người đang tàn tạ và nỗi tiếc
nhớ cảnh cũ người xưa của nhà thơ.
Đoạn văn mẫu số 3
Đến với bài thơ “Ông đồ”, Vũ Đình Liên đã để lại cho người đọc nhiều suy tư. Hình
ảnh ông đồ vốn rất đỗi quen thuộc trong xã hội xưa, họ là những người có học thức,
tài năng. Trong quá khứ, mỗi năm Tết đến, ông đồ lại bày mực, tàu giấy đỏ bên phố
đông người để viết câu đối. Ông viết câu đối mà như người biểu diễn thư pháp:
“Hoa tay thảo những nét/ Như phượng múa rồng bay” khiến người xem tấm tắc
khen ngợi, trân trọng: “Hoa tay thảo những nét/Như phượng mùa rồng bay”. Nhưng
thời gian trôi qua, cùng với sự phát triển của xã hội, ông đồ vẫn ngồi đấy, nhưng
không có ai hay. Những vật dụng quen thuộc như “giấy đỏ buồn không thắm”, “mực
đọng trong nghiên sầu” được tác giả nhân hóa nhằm gợi ra nỗi buồn của chính
người nghệ sĩ khi không còn được biết đến. Ở cuối bài thơ, câu hỏi tu từ “Những
người muôn năm cũ/Hồn ở đâu bây giờ?” giống như một lời than trách cho số phận
của ông đồ trước sự mai một của những giá trị truyền thống. Đây là một trong tác
phẩm mà em yêu thích nhất của nhà thơ Vũ Đình Liên.
Đoạn văn mẫu số 4
Ông đồ là một bài thơ hay của Vũ Đình Liên. Bài thơ được viết theo thể thơ năm
chữ rất hàm súc. Ông đồ được biết đến là những người có học thức, tài năng trong
xã hội xưa. Vào mỗi dịp Tết, hình ảnh ông đồ bày giấy đỏ, nghiên mực để viết câu
đối rất quen thuộc. Tài năng của ông được mọi người đến xem tấm tắc khen ngợi:
“Hoa tay thảo những nét/Như phượng mùa rồng bay”. Nhưng ở hiện tại, quá khứ
một thời vàng son đã không còn. Cứ mỗi năm mỗi vắng, người ta không còn quan
tâm đến ông đồ cũng như phong tục chơi chữ không còn phổ biến nữa. Những hình

Preview text:

Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ 4 chữ hoặc 5 chữ ngắn gọn
Đến với tác phẩm “Lời của cây”, người đọc đã cảm nhận được một thông điệp ý
nghĩa. Bài thơ giống như một cuốn nhật kí ghi lại hành trình phát triển của cây, từ khi
còn là hạt mầm đến khi trở thành cây. Giọng thơ nhẹ nhàng giống như một lời tâm
tình, trò chuyện với cây. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh, từ ngữ đặc sắc mà tác
giả đã sử dụng trong bài thơ để miêu tả quá trình từ hạt thành cây: nằm lặng thinh,
nảy mầm, nhú lên giọt sữa, thì thầm, mầm mở mắt, đón tia nắng hồng, nở vài lá bé.
Chúng ta có thể cảm nhận được cây cũng có tâm hồn, giống như con người. Và
giữa cây với nhân vật trữ tình trong bài có một mối giao cảm, thấu hiểu đến kì lạ. Từ
đây, người đọc nhận ra thông điệp mà nhà thơ gửi gắm. Con người cần biết lắng
nghe để thấu hiểu và biết trân trọng những mầm xanh của sự sống.
Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ
Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ
Dàn ý ngắn gọn ghi lại cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ
1. Mở đoạn: giới thiệu nhan đề bài thơ, tên tác giả và nêu cảm xúc chung về bài thơ
bốn chữ hoặc năm chữ mà em đã chọn.
2. Thân đoạn: trình bày các chi tiết thể hiện cảm xúc của em về bài thơ.
3. Kết đoạn: khẳng định cảm xúc của bài thơ và ý nghĩa của nó đối với bản thân.
Sơ đồ tư duy cảm xúc về bài thơ bốn năm chữ
Dàn ý chi tiết ghi lại cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ 1. Mở bài
Dẫn dắt, giới thiệu về tác giả, tác phẩm và cảm xúc chung về bài thơ.
Gợi ý: Đến với bài thơ “Con chim chiền chiện” của Huy Cận, người đọc đã cảm nhận tình yêu thiên nhiên. 2. Thân bài
- Nêu cảm xúc về nội dung của bài thơ:
● Ý nghĩa nhan đề trong việc thể hiện nội dung của bài thơ (nếu có)
● Chủ đề của bài thơ
● Phân tích một số từ ngữ, hình ảnh trong bài thơ mà người viết cảm thấy ấn tượng.
● Ấn tượng về tình cảm, cảm xúc mà nhân vật trữ tình bộc lộ trong bài thơ.
● Nội dung tư tưởng, tình cảm mà tác giả muốn gửi gắm.
- Nêu cảm xúc về nghệ thuật của bài thơ
● Thể thơ bốn chữ hoặc năm chữ ngắn gọn, hàm súc.
● Các biện pháp tu từ được sử dụng và hiệu quả nghệ thuật.
● Cách gieo vần, giọng điệu và nhịp thơ có gì đặc sắc?
● Các yếu tố miêu tả, tự sự được sử dụng như thế nào? 3. Kết bài
Khẳng định lại cảm xúc với bài thơ cũng như nêu được giá trị của bài thơ.
Gợi ý: Có thể khẳng định rằng, bài thơ Con chim chiền chiện đã giúp em cảm nhận
được vẻ đẹp của thiên nhiên, cũng như thêm yêu và gắn bó với thiên nhiên, vạn vật nhiều hơn.
Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ lớp 7
Cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ - Tiếng gà trưa
Đoạn văn mẫu số 1
Xuân Quỳnh có nhiều tác phẩm hay, trong đó bài Tiếng gà trưa đã để cho tôi nhiều
ấn tượng sâu sắc. Khi đọc bài thơ, dường như mỗi người đều sẽ cảm thấy được
quay về những năm tháng tuổi thơ. Nhân vật trữ tình được nhà thơ khắc họa là một
người chiến sĩ đã xa nhà nhiều năm, trên đường hành quân xa xôi, anh dừng chân
lại bên xóm nhỏ. Bất ngờ, tiếng gà vang lên: “Cục... cục tác... cục ta” đã khiến anh
nhớ lại những kỉ niệm của tuổi thơ. Hình ảnh về những ổ rơm hồng đầy trứng, con
gà mái mơ hay con gà mái vàng chắc hẳn đã quá quen thuộc với bất cứ đứa trẻ
sống ở thôn quê. Thú vị nhất có lẽ phải nhắc đến kỉ niệm về một lần xem trộm gà đẻ
trứng, bị bà mắng. Lời trách của bà giúp tôi cảm nhận rõ hơn về sự quan tâm, lo
lắng và yêu thương của bà dành cho cháu. Nhưng tiếng gà trưa không chỉ gợi lại
cho người chiến sĩ về kỉ niệm tuổi thơ, mà còn là hình ảnh người bà. Xuân Quỳnh đã
khắc họa một người bà tần tảo, chịu khó và giàu đức hi sinh. Những câu thơ đọc lên
mà thật xúc động nghẹn ngào. Bà luôn lo lắng trời làm sương muối khiến đàn gà đổ
bệnh. Bởi vậy bà mong sao cho mưa thuận gió hòa, thời tiết thuận lợi để đàn gà có
thể lớn lên khỏe mạnh. Cuối năm bà sẽ bán đàn gà đi để mua cho cháu một bộ
quần áo mới để đón Tết. Với người cháu, hạnh phúc chẳng hiện hữu ngay ở những
điều bình dị, giản đơn nhất trong cuộc sống đời thường. Ở khổ thơ cuối, người cháu
đã khẳng định rõ ràng mục đích chiến đấu. Chúng ta thấy được tình yêu quê hương,
đất nước và hơn hết là tình yêu dành cho bà của người chiến sĩ. Tiếng gọi “Bà ơi”
vang lên thật trìu mến, yêu thương. Cháu chiến đấu cũng vì mong muốn có thể đem
lại cuộc sống hòa bình cho bà. Điều này gợi cho chúng ta những ấn tượng thật tốt
đẹp về hình ảnh người chiến sĩ. Có thể khẳng định rằng, với ngôn ngữ giản dị, hình
ảnh gần gũi, bài thơ Tiếng gà trưa đã giúp người đọc cảm nhận được tình bà cháu thật đẹp đẽ.
Đoạn văn mẫu số 2
Bài thơ “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh đã gợi nhắc cho người đọc những kỉ niệm
đẹp đẽ của tuổi thơ, cũng như tình cảm bà cháu đầy sâu sắc. Nhân vật trữ tình trong
bài là một người chiến sĩ đã xa nhà nhiều năm, trên đường hành quân xa xôi, anh
được dừng chân bên xóm nhỏ để nghỉ ngơi, nghe thấy tiếng gà trưa mà nhớ về
những kỉ niệm tuổi thơ. Người chiến sĩ đã nhớ về hình ảnh của những ổ rơm hồng
đầy trứng, hình ảnh của gà mái mơ, gà mái vàng với những màu sắc rất riêng, độc
đáo. Thú vị nhất có lẽ phải nhắc đến kỉ niệm về một lần xem trộm gà đẻ trứng, bị bà
mắng. Lời trách của bà giúp tôi cảm nhận rõ hơn về sự quan tâm, lo lắng của bà
dành cho cháu. Tiếng gà trưa không chỉ gợi lại cho người chiến sĩ về kỉ niệm tuổi
thơ, mà còn là hình ảnh người bà tần tảo, hy sinh. Bà mang những phẩm chất đẹp
đẽ của người Việt Nam. Hình ảnh đôi bàn tay chai sần của bà hiện lên thật đẹp. Bà
luôn lo lắng trời làm sương muối khiến đàn gà đổ bệnh. Bởi vậy bà mong sao cho
mưa thuận gió hòa, thời tiết thuận lợi để đàn gà có thể lớn lên khỏe mạnh, cuối năm
bà có thể bán chúng đi để mua cho cháu một bộ quần áo mới để đón Tết. Tiếng gà
trưa còn gợi cho cháu những giấc mơ về hạnh phúc. Có lẽ, với cháu, hạnh phúc
chẳng hiện hữu ngay ở những điều bình dị, giản đơn nhất trong cuộc sống đời
thường. Khi trưởng thành, cháu tham gia chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Trước hết đó là
vì lòng yêu đất nước - “vì lòng yêu Tổ quốc”, sau đó là vì tình yêu quê hương - “yêu
xóm làng thân thuộc”. Và hơn hết đó còn là vì bà - “Bà ơi, cũng vì bà”. Tiếng gọi “Bà
ơi” vang lên thật trìu mến, yêu thương. Cháu chiến đấu cũng vì mong muốn có thể
đem lại cuộc sống hòa bình cho bà. Có thể khẳng định, “Tiếng gà trưa” với ngôn ngữ
giản dị, hình ảnh gần gũi đã giúp người đọc cảm nhận được tình bà cháu thật đẹp
đẽ. Qua đó, chúng ta cũng hiểu hơn về vẻ đẹp của người chiến sĩ trong chiến tranh.
Cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ - Ngàn sao làm việc
Đoạn văn mẫu số 1
“Ngàn sao làm việc” là một bài thơ hay của nhà thơ Võ Quảng. Tác giả khắc họa
khung cảnh cảnh bầu trời về đêm thật đẹp đẽ. Những hình ảnh thiên nhiên hiện lên
thật sự sinh động, chân thực. Những ngôi sao được nhân hóa càng thêm gần gũi.
Sao Thần Nông biết tỏa rộng chiếc vó lọng vàng, sao Hôm như một ngọn đuốc soi
cá, nhóm Đại Hùng tinh biết buông gầu tát nước. Cả một dòng sông Ngân Hà đang
chảy trên bầu trời. Thật là một tưởng tượng thú vị và độc đáo. Những ngôi sao đang
làm công việc của mình, cùng chung sức đã làm nên vẻ đẹp huyền diệu của trời
đêm. Qua bài thơ, ta cũng học được bài học giá trị về ý nghĩa của việc lao động và
biết đoàn kết, yêu thương.
Đoạn văn mẫu số 2
Bài thơ “Ngàn sao làm việc” của Võ Quảng đã để lại cho tôi nhiều ấn tượng sâu sắc.
Nhà thơ đã khắc họa khung cảnh bầu trời đẹp lộng lẫy khi về đêm. Những hình ảnh
tưởng chừng như rất gần gũi lại được miêu tả sống động, chân thực. Dòng sông
ngân hà biết chảy giữa trời lồng lộng, sao Thần Nông biết tỏa rộng chiếc vó lọng
vàng, sao Hôm như một ngọn đuốc soi cá, nhóm Đại Hùng tinh biết buông gầu tát
nước. Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa biến các sự vật trở nên có linh
hồn, sức sống. Hình ảnh ngàn sao cùng làm việc, cùng chung sức đã làm nên vẻ
đẹp huyền diệu của trời đêm. Qua đó, chúng ta nhận ra được bài học về giá trị của
lao động và biết đoàn kết, yêu thương đã làm cho vạn vật trở nên đẹp đẽ, đáng yêu.
Đoạn văn mẫu số 3
Võ Quảng là một nhà thơ viết khá nhiều cho thiếu nhi, Ngàn sao làm việc là một
trong số đó. Trong bài thơ, bầu trời đêm hiện lên thật mênh mông và thơ mộng trong
trí tưởng tượng phong phú của nhân vật trữ tình. Các hình ảnh như dòng sông Ngân
Hà chảy giữa trời, sao Thần Nông tỏa rộng một chiếc vó bằng vàng như tôm cua bơi
lội, sao Hôm như đuốc đèn soi cá, cả nhóm Đại Hùng Tinh buông gàu bên sông
Ngân… được nhân hóa trở nên sinh động hơn, gần gũi hơn. Muôn ngàn sao đang
làm việc, chung sức để làm nên vẻ đẹp của bầu trời lúc đêm xuống. Từ đó, chúng ta
cũng nhận ra được bài học về giá trị của lao động, cũng như tinh thần đoàn kết,
chung sức để xây dựng mọi thứ trở nên đẹp đẽ hơn.
Đoạn văn mẫu số 4
Ngàn sao làm việc của Võ Quảng là một bài thơ mà tôi cảm thấy yêu thích. Nhà thơ
đã khắc họa khung cảnh bầu trời về đêm hiện lên vô cùng lung linh, đẹp đẽ. Những
sự vật tự nhiên được nhân hóa trở nên sinh động, hấp dẫn hơn. Dòng sông ngân hà
giống như biết nhảy giữa trời lồng lộng, sao Thần Nông biết tỏa rộng chiếc vó lọng
vàng, sao Hôm như một ngọn đuốc soi cá, nhóm Đại Hùng tinh biết buông gầu tát
nước. Các sự vật được nhân hóa trở nên có hồn hơn. Đặc biệt, tôi ấn tượng nhất
với hình ảnh ngàn sao cùng làm việc, cùng chung sức đã làm nên vẻ đẹp huyền
diệu của trời đêm. Bài thơ không chỉ thú vị, hấp dẫn mà còn gửi gắm bài học ý nghĩa về cuộc sống.
Cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ - Nắng hồng
Đoạn văn mẫu số 1
Khi đọc bài thơ Nắng hồng của tác giả Bảo Ngọc, tôi đã có những cảm nhận về mùa
đông. Tác giả đã miêu tả khung cảnh mùa đông với những nét đặc trưng. Thời tiết
trở nên lạnh giá hơn. Mọi vật đều lười biếng. Hình ảnh nhân hóa khiến cho vạn vật
trở nên gần gũi với con người. Mặt trời “trốn đi đâu”, cây cối “khoác tấm áo nâu”, “áo
trời xám ngắt”, chim sẻ “giấu tiếng hát núp trong mái nhà”, ngay cả “chị ong chăm
chỉ cũng không đến vườn hoa”. Những cơn mưa phùn, hay màn sương mờ ảo bao
trùm lấy xóm làng là hình ảnh thường thấy mỗi khi đông về. Và ở cuối bài thơ, hình
ảnh người mẹ xuất hiện đã làm bừng sáng bức tranh mùa đông. Mẹ trở về sau buổi
chợ xa, mặc chiếc áo choàng đỏ được tác giả so sánh với “đốm nắng đang trôi”. Mẹ
đã mang theo “nắng hồng” trong nụ cười - gợi ra sự ấm áp, tươi sáng.
Đoạn văn mẫu số 2
Bài thơ Nắng hồng của tác giả Bảo Ngọc đã khắc họa vẻ đẹp của mùa đông. Khi
mùa đông tới, tiết trời trở nên lạnh giá. Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa
khiến cho các sự vật thiên nhiên trở nên thật sinh động, gần gũi. Mặt trời “trốn đi
đâu”, cây cối “khoác tấm áo nâu”, “áo trời xám ngắt”. Các loài vật cũng trở nên lười
biếng hơn như sẻ giấu tiếng hát núp trong mái nhà, ngay cả chị ong chăm chỉ cũng
không đến vườn hoa. Đặc biệt là hình ảnh người mẹ xuất hiện như làm sáng bừng
cảnh vật. Mẹ mặc chiếc áo choàng đỏ được tác giả so sánh với “đốm nắng đang
trôi”. Và khi mẹ bước chân đến cửa, mẹ đã mang theo ánh nắng, mang theo vạt
nắng hồng trong nụ cười hiền dịu. Bài thơ đã mang đến những cảm xúc tuyệt vời trong lòng người đọc.
Đoạn văn mẫu số 3
Bài thơ Nắng hồng của Bảo Ngọc đã gợi cho tôi nhiều cảm xúc đẹp đẽ. Tác giả đã
khắc họa khung cảnh mùa đông hiện lên với những nét đặc trưng, nhưng cũng rất
đẹp đẽ. Khi mùa đông tới, tiết trời trở nên lạnh giá. Thiên nhiên cũng trở nên lười
biếng hơn. Nhà thơ sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa để diễn tả sinh động các sự
vật như mặt trời “trốn đi đâu”, cây cối “khoác tấm áo nâu”, “áo trời xám ngắt”, chim
sẻ “giấu tiếng hát núp trong mái nhà”, ngay cả “chị ong chăm chỉ cũng không đến
vườn hoa”. Những cơn mưa phùn, hay màn sương mờ ảo bao trùm lấy xóm làng.
Trong khung cảnh đó, hình ảnh người mẹ xuất hiện như làm bừng sáng bức tranh
mùa đông. Mẹ trở về sau buổi chợ xa, mặc chiếc áo choàng đỏ được tác giả so
sánh với “đốm nắng đang trôi”. Khi bước chân đến cửa, mẹ đã mang theo “nắng
hồng” trong nụ cười - gợi ra sự ấm áp, tươi sáng. Và mùa xuân như đến theo nụ cười của mẹ vậy.
Đoạn văn mẫu số 4
Nắng hồng của tác giả Bảo Ngọc đem đến cho tôi nhiều ấn tượng. Nội dung của bài
thơ đã khắc họa vẻ đẹp của mùa đông. Khi mùa đông tới, thời tiết lạnh giá. Mọi vật
có nhiều thay đổi. Các sự vật thiên nhiên trong bài được nhân hóa vô cùng thật sinh
động, gần gũi. Mặt trời thì “trốn đi đâu”, cây cối cũng “khoác tấm áo nâu”, “áo trời
xám ngắt”. Các loài vật bỗng nhiên trở nên lười biếng hơn. Sẻ giấu tiếng hát núp
trong mái nhà, chị ong chăm chỉ cũng không đến vườn hoa. Nhưng hình ảnh ấn
tượng nhất có lẽ là người mẹ xuất hiện như làm sáng bừng cảnh vật. Mẹ mặc chiếc
áo choàng đỏ được tác giả so sánh với “đốm nắng đang trôi”. Khi người bước chân
đến cửa, mẹ đã mang theo ánh nắng, mang theo vạt nắng hồng trong nụ cười hiền
dịu. Thật tuyệt vời biết bao!
Xem thêm: Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ Nắng hồng
Cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ - Mẹ
Đoạn văn mẫu số 1
Một trong những tác phẩm hay viết về người mẹ phải kể đến “Mẹ” của Đỗ Trung Lai.
Khi đọc bài thơ, người đọc có thể cảm nhận được đây là lời của người con đang bày
tỏ cảm xúc về người mẹ của mình. Tác giả đã sử dụng hình ảnh cây cau vốn gần
gũi và quen thuộc, để bộc lộ nỗi xót xa khi mẹ ngày càng già đi. Những hình ảnh đối
lập như “Lưng mẹ còng rồi - Cau thì vẫn thẳng”, “Cau - ngọn xanh rờn, Mẹ - đầu bạc
trắng” đã gợi ra sự liên tưởng về tuổi già của mẹ. Cùng với đó, nhà thơ còn sử dụng
biện pháp tu từ so sánh “Một miếng cau khô – Khô gầy như mẹ” cho thấy sự già nua
héo hắt của người mẹ. Trước hiện thực khắc nghiệt đó, người con đã bộc lộ cảm
xúc một cách trực tiếp: “Con nâng trên tay/Không cầm được lệ” - đó là nỗi đau đớn,
xót xa. Tất cả được dồn nén để rồi người con tự hỏi chính mình: “Ngẩng đầu hỏi
giờ/Sao mẹ ta già?”. Câu hỏi không nhận được lời đáp. Không ai trả lời được vì sao
mẹ già, cũng không ai ngăn được guồng quay của thời gian tàn nhẫn. Hình ảnh
“mây bay về xa” cũng giống như mái tóc mẹ bạc hòa cùng với mây trắng trên cao
thể hiện một niềm xót xa, tiếc nuối. Qua bài thơ, người đọc cũng hiểu được thông
điệp mà tác giả muốn gửi gắm đó là hãy trân trọng những giây phút được ở bên
cạnh người mẹ, biết yêu thương và trân trọng người mẹ của mình.
Đoạn văn mẫu số 2
“Mẹ” của Đỗ Trung Lai là một tác phẩm đem đến nhiều cảm xúc cho người đọc. Bài
thơ là lời của người con bộc lộ nỗi xót xa, thương cảm khi thấy mẹ ngày một già đi.
Cuộc đời của mẹ từng trải qua biết bao nỗi vất vả, nhọc nhằn. Tác giả đã mượn
hình ảnh cây cau để nói về mẹ. Sự đối lập giữa mẹ và cau: “Lưng mẹ còng rồi - Cau
thì vẫn thẳng” và “Cau - ngọn xanh rờn, Mẹ - đầu bạc trắng”, “Cau gần với giời - Mẹ
thì gần đất” đã tạo ra một ám ảnh cho tiếng thơ tiếng lòng quặn bao nỗi thắt. Đặc
biệt, hình ảnh “Một miếng cau khô - Khô gầy như mẹ” càng làm nổi bật sự giàu nua,
héo hon của người mẹ. Điều đó khiến cho “Con nâng trên tay - Không cầm được lệ”.
Hai chữ “nâng” và “cầm” đều chỉ động thái của tình cảm. Nếu “nâng” trang trọng kính
trọng biết bao thì “cầm” lại nén bao đắng cay bấy nhiêu. Từng cặp biểu cảm được
song hành tạo ra bao chất chứa, lời ít mà vọng xa. Chính đây cũng là sự vận động
cảm xúc để cuối bài nhân vật trữ tình đã tự hỏi: “Ngẩng hỏi giời vậy - Sao mẹ ta già”.
Câu hỏi tu từ không nhận được lời đáp, để lại sự cô đơn, trống vắng. Không ai trả
lời được vì sao mẹ già, cũng không ai ngăn được guồng quay của thời gian tàn
nhẫn. Hình ảnh “mây bay về xa” cũng giống như mái tóc mẹ bạc hòa cùng với mây
trắng trên cao thể hiện một niềm xót xa, tiếc nuối. Bài thơ thật cảm động, bộc lộ nỗi
xót xa thưởng cảm của người con trước hình ảnh già nua của mẹ theo năm tháng.
Đoạn văn mẫu số 3
Bài thơ Mẹ của Đỗ Trung Lai là một trong những tác phẩm hay viết về người mẹ.
Nhà thơ đã sử dụng hình ảnh cây cau - vốn rất quen thuộc ở mỗi làng quê Việt Nam
để đối chiếu với hình ảnh người mẹ. Sự đối lập giữa mẹ và cau được thể hiện qua
các cụm từ “Lưng mẹ còng rồi - Cau thì vẫn thẳng”, “Cau - ngọn xanh rờn, Mẹ - đầu
bạc trắng”, “Cau gần với trời - Mẹ thì gần đất”. Từ đó, tác giả muốn nhấn mạnh vào
sự thay đổi của người mẹ trước thời gian về tuổi tác, ngoại hình. Đặc biệt, hình ảnh
so sánh “Một miếng cau khô - Khô gầy như mẹ” trong khổ thơ tiếp theo càng làm nổi
bật sự giàu nua, héo hon của người mẹ. Từ “nâng” và “cầm” trong câu thơ tiếp theo
đã thể hiện được tình cảm của người con dành cho mẹ. Càng yêu thương, trân
trọng bao nhiêu, con lại cảm thấy xót xa bấy nhiêu. Cảm xúc dồn nén lại tuôn chảy
thành những giọt nước mắt. Câu hỏi tu từ không nhận được lời đáp, để lại sự cô
đơn, trống vắng. Không ai trả lời được vì sao mẹ già, cũng không ai ngăn được
guồng quay của thời gian tàn nhẫn. Hình ảnh “mây bay về xa” cũng giống như mái
tóc mẹ bạc hòa cùng với mây trắng trên cao thể hiện một niềm xót xa, tiếc nuối. Tôi
cảm thấy rất xúc động khi đọc bài thơ này.
Đoạn văn mẫu số 4
“Mẹ” của Đỗ Trung Lai là một trong những tác phẩm hay viết về người mẹ. Bài thơ là
lời của người con đang bày tỏ cảm xúc về người mẹ của mình. Tác giả sử dụng
hình ảnh cây cau - vốn đã rất gần gũi và quen thuộc, bộc lộ nỗi xót xa khi mẹ ngày
càng già đi. Những câu thơ giàu hình ảnh, khéo léo gửi gắm tâm trạng của nhân vật
trữ tình: “Lưng mẹ còng rồi/Cau thì vẫn thẳng”, “Cau - ngọn xanh rờn/Mẹ - đầu bạc
trắng”. Nhà thơ còn sử dụng biện pháp tu từ so sánh “Một miếng cau khô/Khô gầy
như mẹ” để giúp người đọc hình dung rõ hơn về sự già nua héo hắt của người mẹ.
Và thực tế đó, người con đã bộc lộ cảm xúc một cách trực tiếp: “Con nâng trên
tay/Không cầm được lệ. Nỗi xót xa, đau đớn được dồn nén để rồi người con tự hỏi
chính mình: “Ngẩng hỏi giờ vậy/Sao mẹ ta già?”. Nhưng không ai trả lời được vì sao
mẹ già, cũng không ai ngăn được guồng quay của thời gian tàn nhẫn. Hình ảnh
“mây bay về xa” cũng giống như mái tóc mẹ bạc hòa cùng với mây trắng trên cao
thể hiện một niềm xót xa, tiếc nuối. Bài thơ giúp tôi hiểu được thông điệp mà tác giả
muốn gửi gắm đó là hãy trân trọng những giây phút được ở bên cạnh người mẹ,
biết yêu thương và trân trọng người mẹ của mình.
Xem thêm: Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ Mẹ
Cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ - Sang thu
Đoạn văn mẫu số 1
Vẻ đẹp thiên nhiên lúc chuyển mùa được Hữu Thỉnh khắc họa đầy tinh tế qua bài
thơ Sang thu. Nhà thơ đã cảm nhận tín hiệu của mùa thu qua từng giác quan với
khứu giác (hương ổi), xúc giác (gió se), thị giác (sương chùng chình qua ngõ). Từng
câu thơ giúp người đọc hình dung về một sự chuyển biến của vạn vật lúc giao mùa.
Dưới mặt đất, dòng chảy của con sông trở nên chậm hơn, không cuồn cuộn như lúc
hè về. Trên bầu trời, từng đàn chim sải cánh bay bắt đầu trở nên vội vã, âu lo tìm về
phương nam tránh cái lạnh. Ấn tượng nhất phải kể đến chi tiết đám mây “vắt nửa
mình sang thu”, dường như đám mây cũng đang phân vân, nửa đang nghiêng về
mùa hạ nửa muốn ngả về mùa thu. Đọc đến khổ thơ cuối, dòng cảm xúc của tác giả
bắt đầu chuyển sang suy tư, triết lí. Các hiện tượng tự nhiên “nắng”, “mưa”, “sấm” là
biểu tượng cho những biến cố xảy đến với con người trong cuộc sống. Còn “hàng
cây đứng tuổi” chính là hình ảnh của những con người đã từng trải, đã bước qua
thời tuổi trẻ. Bài thơ “Sang thu” đã gợi lên những cảm nhận tinh tế về sự chuyển
biến của đất trời từ cuối hạ sang đầu thu, để lại cho người đọc nhiều cảm xúc.
Đoạn văn mẫu số 2
Bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh giúp người đọc thấy được sự biến chuyển đầy tinh
tế của cảnh vật trong không gian cuối hạ đầu thu. Mùa thu được nhà thơ cảm nhận
qua từng giác quan như khứu giác (hương ổi), xúc giác (gió se), thị giác (sương
chùng chình). Từ đó, những tín hiệu đặc trưng nhất của mùa thu cũng lần lượt xuất
hiện. Dưới mặt đất, dòng chảy của con sông trở nên chậm hơn, không cuồn cuộn
như lúc hè về. Trên bầu trời, từng đàn chim sải cánh bay bắt đầu trở nên vội vã, âu
lo tìm về phương nam tránh cái lạnh. Đám mây của mùa hạ nay đã “vắt nửa mình
sang thu”, nửa nghiêng về mùa hạ, nửa lại nghiêng về mùa thu. Dường như, những
sự vật thiên nhiên trong bài thơ đã được tác giả thổi vào đó những hành động của
con người. Ở hai khổ thơ đầu, tác giả bộc lộ cảm xúc trước vẻ đẹp thiên nhiên. Thì
đến khổ thơ cuối, dòng cảm xúc ấy chuyển sang suy tư, triết lý. Những hiện tượng
thiên nhiên như “nắng”, “mưa”, “sấm” là biểu tượng cho những biến cố xảy đến với
con người trong cuộc sống. Còn “hàng cây đứng tuổi” chính là hình ảnh của những
con người đã từng trải, đã bước qua thời tuổi trẻ. Triết lí mà nhà thơ muốn gửi gắm
là những con người từng trải khi gặp phải sóng gió sẽ biết cách đối diện, đương đầu
một cách bình thản, trưởng thành hơn. Như vậy, bài thơ đã gợi lên những cảm nhận
tinh tế về sự chuyển biến của đất trời từ cuối hạ sang đầu thu. Và từ những tín hiệu
của mùa thu đến khung cảnh thiên nhiên lúc vào thu, tác giả đã có những suy tư sâu sắc về cuộc đời.
Đoạn văn mẫu số 3
Đến với “Sang thu” của nhà thơ Hữu Thỉnh, người đọc đã cảm nhận được những
chuyến biển đầy tinh tế của đất trời từ cuối hạ sang đầu thu. Ở hai khổ thơ đầu, tác
giả đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên lúc vào thu. Những sự vật trong bài thơ đã
được tác giả thổi vào đó những hành động của con người. Từ đó, thiên nhiên
dường như cũng có xúc cảm, tâm hồn. Sang thu, nhịp sống dường như chậm lại, tất
cả trở nên thư thái, nhẹ nhàng hơn. Nếu hai khổ thơ đầu là xúc cảm của nhà thơ
trước vẻ đẹp thiên nhiên thì đến khổ thơ cuối, dòng cảm xúc ấy chuyển sang suy tư,
triết lý. Thông qua cảnh sắc thiên nhiên đất trời khoảnh khắc giao mùa, nhà thơ đã
bày tỏ những suy nghĩ về triết lý nhân sinh. Khi bước sang nửa bên kia con dốc
cuộc đời, con người ta sẽ trở nên bản lĩnh hơn, bình tĩnh hơn trước những biến cố,
bất ngờ của cuộc sống. Những hiện tượng thiên nhiên như “nắng”, “mưa”, “sấm” là
biểu tượng cho những biến cố xảy đến với con người trong cuộc sống. “Hàng cây
đứng tuổi” chính là hình ảnh của những con người đã từng trải, đã bước qua thời
tuổi trẻ. Bài thơ là một trong những tác phẩm đặc sắc viết về mùa thu.
Đoạn văn mẫu số 4
Bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh đã miêu tả tinh tế những biến chuyển của thiên
nhiên lúc sang thu. Mùa thu đến kéo theo hương ổi thoang thoảng trong không gian.
“Sương chùng chình qua ngõ” như cố ý nán lại, tiếc nuối níu kéo mùa hạ. Dòng chảy
của sông cũng như chậm lại, thong thả hơn. Cánh chim thì có chút vội vã vì đang
trên hành trình bay về phương Nam tránh rét. Đặc biệt hơn cả là hình ảnh đám mây
mùa hạ “vắt nửa mình sang thu” gợi ra hình ảnh đám mây nửa nghiêng về mùa hạ,
lại nửa nghiêng về mùa thu. Thu sang thực sự đã khiến cho nhịp sống trở nên chậm
lại. Những hình ảnh trên đã thể hiện sự quan sát nhạy bén, tinh tế của nhà thơ trước
những chuyển động dù khẽ khàng của thiên nhiên. Ở hai khổ thơ đầu, tác giả bộc lộ
xúc cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên. Đến khổ thơ cuối, dòng cảm xúc ấy chuyển sang
suy tư, triết lý. Cảnh sắc thiên nhiên lúc giao mùa được sử dụng để bày tỏ những
suy nghĩ về triết lý nhân sinh. Hiện tượng tự nhiên “nắng”, “mưa”, “sấm” chính là
biểu tượng cho những biến cố xảy đến với con người trong cuộc sống. Còn “hàng
cây đứng tuổi” chính là hình ảnh của những con người đã từng trải, đã bước qua
thời tuổi trẻ. Trải qua thời gian, con người sẽ trưởng thành, vững vàng hơn khi đối
mặt với những khó khăn, biến cố. Một bài học nhân văn mà chúng ta có thể cảm
nhận được. Bài thơ đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng về thiên nhiên lúc giao mùa.
Xem thêm Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ Sang thu
Cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ - Con chim chiền chiện
Đoạn văn mẫu số 1
Trong số những sáng tác của Huy Cận, bài thơ “Con chim chiền chiện” đã để lại cho
tôi nhiều ấn tượng và cảm xúc. Tác giả đã khắc họa hình ảnh trung tâm của bài thơ
- con chim chiền chiện thật chân thực và sáng tạo. Cánh chim bay giữa trời bao la
cùng với tiếng hót được so sánh rất độc đáo - giống như cành sương chói, làm xanh
thêm bầu trời khiến cho người lòng người thêm bối rối. Tiếng hót còn trong veo như
“tiếng ngọc” gửi gắm mong ước về một cuộc sống ấm no, đủ đầy với những năm
tháng bình yên tươi đẹp. Có thể thấy, hình ảnh cánh chiền chiện tuy bé nhỏ nhưng
không mờ nhạt trước không gian rộng lớn mà trở thành trung tâm của cảnh vật.
Tiếng của của con chim như làm bừng sáng mọi vật, khiến lòng người thêm tưng
bừng, vui tươi hơn. Bài thơ gửi gắm đến người bạn bài đọc thông điệp con người
cần sống giao hòa, gắn bó với thiên nhiên để cảm nhận được vẻ đẹp của thiên
nhiên, đồng thời thêm yêu mến, trân trọng thiên nhiên hơn.
Đoạn văn mẫu số 2
Bài thơ “Con chim chiền chiện” của Huy Cận đã đem đến cho tôi nhiều cảm nhận.
Hình ảnh trung tâm của bài thơ - con chim chiền chiện được nhà thơ khắc họa thật
chân thực và sống động. Cánh chim bay vút trên trời, với tiếng hót long lanh giống
như cành sương chói, hình ảnh so sánh kết hợp với ẩn dụ chuyển đổi cảm giác.
Tiếng hót giờ đây không chỉ được cảm nhận bằng thính giác mà còn có thể nhìn
thấy bằng thị giác - đầy long lanh, giống như hình ảnh giọt sương trên cành cây
được nắng chiếu sáng. Những câu thơ tiếp theo khiến chúng ta có cảm thấy dường
như chim chiền chiện đang trò chuyện với con người. Chúng đang làm tốt nhiệm vụ
của mình, gieo những niềm vui đến với thế gian, cánh chim bay mãi đến trời xanh
dường như không biết mệt mỏi. Với những dòng thơ trong trẻo, đẹp đẽ của mình,
nhà thơ cũng muốn gửi gắm một bức thông điệp ý nghĩa rằng con người cần có giao
hòa, gắn bó với thiên nhiên để cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, đồng thời
thêm yêu mến, trân trọng thiên nhiên.
Đoạn văn mẫu số 3
Đến với bài thơ “Con chim chiền chiện” của Huy Cận, người đọc đã cảm nhận tình
yêu thiên nhiên. Chim chiền chiện hiện lên với những hình ảnh độc đáo, mang vẻ
sống động và chân thực. Tiếng chim vang vọng khắp không gian, được cảm nhận
đầy tinh tế. Không chỉ vậy, tác giả còn sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa, khiến cho
chim chiền chiện giống như một người bạn đang trò chuyện với con người. Chúng
cũng đang làm tốt nhiệm vụ của mình, gieo những niềm vui đến với thế gian, cánh
chim bay mãi đến trời xanh dường như không biết mệt mỏi. Qua những dòng thơ
bốn chữ ngắn gọn, tác giả muốn gửi gắm đến bạn đọc bức thông điệp rằng con
người cần phải sống giao hòa với thiên nhiên, cũng như trân trọng thiên nhiên.
Đoạn văn mẫu số 4
Bài thơ “Con chim chiền chiện” của Huy Cận là một tác phẩm giàu cảm xúc. Tác giả
đã khắc họa hình ảnh chú chim chiền chiện nhỏ bé, đang vỗ cánh bay giữa không
gian rộng lớn. Dù dưới bầu trời cao rộng hay trên cánh đồng bát ngát, chim chiền
chiện vẫn sải đôi cánh, cất lên những khúc hát ngọt ngào, trong trẻo. Tác giả đã thật
tinh tế khi ví tiếng hót như cành sương chói long lanh rực rỡ, làm lòng người vừa bối
rối vừa vui sướng. Tiếng chim của con chim chiền chiện còn giống như hạt ngọc
trong veo, góp vui cho đời, làm xanh mây trời, làm đẹp hồn quê, làm cây lúa thêm
tròn bụng sữa. Với hình ảnh con chim chiền chiện, Huy Cận ca ngợi vẻ đẹp thiên
nhiên đất trời. Ở đó, cả thiên nhiên và con người giao cảm, vun đắp những tươi đẹp
của cuộc sống. Có thể khẳng định rằng, bài thơ Con chim chiền chiện đã giúp em
cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, cũng như thêm yêu và gắn bó với thiên
nhiên, vạn vật nhiều hơn.
Xem thêm Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ Con chim chiền chiện
Cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ - Lời của cây
Đoạn văn mẫu số 1
Bài thơ Lời của cây do Trần Hữu Thung sáng tác đã gửi gắm nhiều thông điệp ý
nghĩa. Với thể thơ bốn chữ ngắn gọn, tác giả đã khắc họa quá trình phát triển của
một mầm cây. Trong khổ thơ đầu, khi cây vẫn còn là hạt mầm, chỉ biết nằm lặng
thinh. Nhưng điều kì diệu là khi hạt nảy mầm lại có thể cất tiếng nói thì thầm. Dần
dần, hạt phát triển thì chiếc vỏ của hạt lúc này như chiếc nôi xinh xắn ôm ấp mầm
cây. Cách miêu tả mà tác giả sử dụng khiến người đọc liên tưởng đến quá trình
trưởng thành của một em bé. Và khi mầm cây phát triển, dường như chúng ta còn
lắng nghe được tiếng “bập bẹ” của lá. Kết thúc bài thơ là hình ảnh cây đã phát triển,
với một ngày mai tràn đầy màu xanh tươi mới của cây gợi lên một sự sống trường
tồn, bất diệt. Bài thơ sử dụng những từ ngữ độc đáo, hình ảnh thú vị đã gợi mở cho
người đọc cảm xúc thật đẹp đẽ.
Đoạn văn mẫu số 2
Lời của cây là một bài thơ mang đậm phong cách sáng tác của nhà thơ Trần Hữu
Thông. Quá trình phát triển của một mầm cây được tác giả khắc họa thật sinh động.
Ở khổ thơ thứ nhất, cây vẫn còn là hạt mầm nằm lặng thinh. Đến khi hạt bắt đầu nảy
mầm xanh, đã có thể cất tiếng nói thì thầm. Khi hạt phát triển thì chiếc vỏ của hạt lúc
này như chiếc nôi xinh xắn ôm ấp mầm cây. Cách viết này gợi liên tưởng mầm cây
giống như một em bé đang được chăm sóc ân cần. Đến khi mầm cây đã phát triển,
người đọc dường như lắng nghe được tiếng “bập bẹ” của lá. Từ láy “bập bẹ” khiến
ta liên tưởng đến giai đoạn tập nói của một đứa trẻ. Kết thúc bài thơ là hình ảnh cây
đã phát triển, với một ngày mai tràn đầy màu xanh tươi mới của cây gợi lên một sự
sống trường tồn, bất diệt. Bài thơ không chỉ thú vị ở lời thơ, hình ảnh trong bài mà
còn là thông điệp mà tác giả muốn gửi đến người đọc rằng hãy biết yêu và bảo vệ
cây xanh bởi chúng đã tạo nên một cuộc sống tươi mới, tràn đầy sức sống.
Đoạn văn mẫu số 3
Đến với tác phẩm “Lời của cây”, người đọc đã cảm nhận được một thông điệp ý
nghĩa. Bài thơ giống như một cuốn nhật kí ghi lại hành trình phát triển của cây, từ khi
còn là hạt mầm đến khi trở thành cây. Giọng thơ nhẹ nhàng giống như một lời tâm
tình, trò chuyện với cây. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh, từ ngữ đặc sắc mà tác
giả đã sử dụng trong bài thơ để miêu tả quá trình từ hạt thành cây: nằm lặng thinh,
nảy mầm, nhú lên giọt sữa, thì thầm, mầm mở mắt, đón tia nắng hồng, nở vài lá bé.
Chúng ta có thể cảm nhận được cây cũng có tâm hồn, giống như con người. Và
giữa cây với nhân vật trữ tình trong bài có một mối giao cảm, thấu hiểu đến kì lạ. Từ
đây, người đọc nhận ra thông điệp mà nhà thơ gửi gắm. Con người cần biết lắng
nghe để thấu hiểu và biết trân trọng những mầm xanh của sự sống.
Đoạn văn mẫu số 4
Bài thơ “Lời của cây” được tác giả Trần Hữu Thung sáng tác gửi gắm đến bạn đọc
thông điệp ý nghĩa. Với thể thơ bốn chữ ngắn gọn, hình ảnh thơ gần gũi, bài thơ ghi
lại một cách sinh động quá trình hạt phát triển thành cây: nằm lặng thinh, nảy mầm,
nhú lên giọt sữa, thì thầm, mầm mở mắt, đón tia nắng hồng, nở vài lá bé. Mầm cây
được nhân hóa giống như một con người, có sức sống mãnh liệt. Qua đó, nhà thơ
muốn thể hiện thái độ nâng niu, trân trọng mà nhân vật trữ tình dành cho mầm cây.
Bức thông điệp mà bài thơ đã gửi gắm đến bạn đọc: “Hãy yêu cây xanh, trân trọng
sự sống của cây, bởi cây làm nên một phần cuộc sống xinh đẹp, đáng yêu này”.
Xem thêm Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ Lời của cây
Cảm xúc về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ - Ông đồ
Đoạn văn mẫu số 1
Ông đồ là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Vũ Đình Liên. Bài thơ
khiến tôi cảm thấy thực sự yêu thích và ấn tượng. Theo như tìm hiểu, ông đồ vốn là
những người có học thức, tài năng và được trọng vọng. Hình ảnh ông đồ xuất hiện
trong xã hội xưa, thường vào dịp Tết cổ truyền. Ông đồ xuất hiện trên phố với hoa
đào, với mực tàu giấy đỏ và viết câu đối mà như người biểu diễn thư pháp: “Hoa tay
thảo những nét/Như phượng múa rồng bay” khiến mọi người xem tấm tắc khen
ngợi: “Hoa tay thảo những nét/Như phượng mùa rồng bay”. Nhưng một thời vàng
son đã không còn, mỗi năm mỗi vắng, người ta không còn quan tâm đến ông đồ
nữa. Những hình ảnh nhân hóa như “giấy đỏ buồn không thắm”, “mực đọng trong
nghiên sầu” gợi ra nỗi buồn của chính người nghệ sĩ khi không còn được biết đến.
Để rồi năm nay đào lại nở, nhưng không còn thấy ông đồ nữa. Và câu hỏi tu từ vang
lên như một lời than trách cho số phận của ông đồ: “Những người muôn năm
cũ/Hồn ở đâu bây giờ”. Bài thơ đã giúp tôi hiểu hơn về ông đồ, về một quá khứ đẹp đẽ của dân tộc.
Đoạn văn mẫu số 2
“Ông đồ” của Vũ Đình Liên là tác phẩm đã để lại cho em ấn tượng sâu sắc. Tác giả
đã khắc họa hình ảnh ông đồ từ quá khứ đến hiện tại. Trong quá khứ, ông đồ xuất
hiện trên phố với hoa đào, với mực tàu giấy đỏ và viết câu đối mà như người biểu
diễn thư pháp: “Hoa tay thảo những nét/Như phượng múa rồng bay” khiến mọi
người xem tấm tắc khen ngợi: “Hoa tay thảo những nét/Như phượng mùa rồng bay”.
Đó là một thời vàng son khi ông đồ được trân trọng. Nhưng một thời vàng son đã
không còn, mỗi năm mỗi vắng, người ta không còn quan tâm đến ông đồ nữa. Hình
ảnh nhân hóa “giấy đỏ buồn không thắm”, “mực đọng trong nghiên sầu” gợi ra nỗi
buồn của chính người nghệ sĩ khi không còn được biết đến. Để rồi năm nay đào lại
nở, nhưng không còn thấy ông đồ nữa. Câu hỏi tu từ ở cuối bài giống như một lời
than trách cho số phận. Bài thơ đã thể hiện tình cảnh đáng thương của ông đồ
nhưng qua đó toát lên niềm cảm thương trước một lớp người đang tàn tạ và nỗi tiếc
nhớ cảnh cũ người xưa của nhà thơ.
Đoạn văn mẫu số 3
Đến với bài thơ “Ông đồ”, Vũ Đình Liên đã để lại cho người đọc nhiều suy tư. Hình
ảnh ông đồ vốn rất đỗi quen thuộc trong xã hội xưa, họ là những người có học thức,
tài năng. Trong quá khứ, mỗi năm Tết đến, ông đồ lại bày mực, tàu giấy đỏ bên phố
đông người để viết câu đối. Ông viết câu đối mà như người biểu diễn thư pháp:
“Hoa tay thảo những nét/ Như phượng múa rồng bay” khiến người xem tấm tắc
khen ngợi, trân trọng: “Hoa tay thảo những nét/Như phượng mùa rồng bay”. Nhưng
thời gian trôi qua, cùng với sự phát triển của xã hội, ông đồ vẫn ngồi đấy, nhưng
không có ai hay. Những vật dụng quen thuộc như “giấy đỏ buồn không thắm”, “mực
đọng trong nghiên sầu” được tác giả nhân hóa nhằm gợi ra nỗi buồn của chính
người nghệ sĩ khi không còn được biết đến. Ở cuối bài thơ, câu hỏi tu từ “Những
người muôn năm cũ/Hồn ở đâu bây giờ?” giống như một lời than trách cho số phận
của ông đồ trước sự mai một của những giá trị truyền thống. Đây là một trong tác
phẩm mà em yêu thích nhất của nhà thơ Vũ Đình Liên.
Đoạn văn mẫu số 4
Ông đồ là một bài thơ hay của Vũ Đình Liên. Bài thơ được viết theo thể thơ năm
chữ rất hàm súc. Ông đồ được biết đến là những người có học thức, tài năng trong
xã hội xưa. Vào mỗi dịp Tết, hình ảnh ông đồ bày giấy đỏ, nghiên mực để viết câu
đối rất quen thuộc. Tài năng của ông được mọi người đến xem tấm tắc khen ngợi:
“Hoa tay thảo những nét/Như phượng mùa rồng bay”. Nhưng ở hiện tại, quá khứ
một thời vàng son đã không còn. Cứ mỗi năm mỗi vắng, người ta không còn quan
tâm đến ông đồ cũng như phong tục chơi chữ không còn phổ biến nữa. Những hình