-
Thông tin
-
Quiz
Vịnh là gì? Đặc điểm và phân loại Vịnh so với cửa sông - Tiếng việt 5
Nếu như có quá nhiều chất dinh dưỡng từ nước cống và phân của động vật thì sẽ làm sinh sôi nảy nở những thực vật có hại cho vùng nước đó. Những thực vật có hại có thể lấy hết oxygen và cá sẽ không đủ oxygen để sống. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Tài liệu chung Tiếng Việt 5 43 tài liệu
Tiếng Việt 5 1.2 K tài liệu
Vịnh là gì? Đặc điểm và phân loại Vịnh so với cửa sông - Tiếng việt 5
Nếu như có quá nhiều chất dinh dưỡng từ nước cống và phân của động vật thì sẽ làm sinh sôi nảy nở những thực vật có hại cho vùng nước đó. Những thực vật có hại có thể lấy hết oxygen và cá sẽ không đủ oxygen để sống. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Chủ đề: Tài liệu chung Tiếng Việt 5 43 tài liệu
Môn: Tiếng Việt 5 1.2 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:





Tài liệu khác của Tiếng Việt 5
Preview text:
Vịnh là gì? Đặc điểm và phân loại Vịnh so với cửa sông?
1. Khái niệm về vịnh
Vịnh là vùng lõm sâu rõ rệt vào đất liền có diện tích lớn hơn hoặc băng diện tích một nửa hình
tròn có đường kính là đường thẳng kẻ ngang qua cửa vào của vùng lõm.
Theo quy định của Công ước luật biển 1982, khái niệm vịnh nói trênchir được áp dụng cho
những vịnh mà bờ vịnh thuộc về một quốc gia duy nhất.
Vùng nước của vịnh sẽ được coi là nội thủy của quốc gia ven bờ nếu khoảng cách giữa các ngấn
nước thủy triều thấp nhất ở các điểm của cửa vào tự nhiên của vịnh không vượt quá 24 hải lí.
Khoản 2 điều 10 của Công ước quy định: “Vịnh cần được hiểu là một vùng lõm sâu rõ rệt vào
đất liền mà chiều sâu của vùng lõm đó so sánh với chiều rộng ở ngoài cửa của nó đến mức là
nước của vùng lõm đó được bờ biển bao quanh và vùng lõm đó sâu hơn là một sự uốn cong của bờ biển”.
Tuy nhiên, Công ước quy định vùng lõm đó chỉ được coi là Vịnh khi đáp ứng đủ hai điều kiện:
(1) Diện tích của Vịnh ít nhất cũng bằng diện tích một nửa hình tròn có đường kính là đường
thẳng kẻ ngang qua cửa vào của vùng lõm. Diện tích của vùng lõm được tính giữa ngấn nước
triều thấp nhất dọc theo bờ biển của vùng lõm và đường thẳng nối liền các ngấn nước triều thấp
nhất ở các điểm của cửa vào tự nhiên. Nếu do các đảo mà một vùng lõm có nhiều cửa vào, thì
nửa hình tròn nói trên có đường kính bằng tổng số chiều dài các đoạn thẳng cắt ngang các cửa
vào đó. Diện tích của các đảo nằm trong một vùng lõm được tính vào diện tích chung của vùng lõm (khoản 3 điều 10).
(2) Đường khép cửa vào tự nhiên của cửa Vịnh không vượt quá 24 hải lý. Nếu vượt quá 24 hải
lý, thì được kẻ một đoạn đường cơ sở thẳng dài 24 hải lý ở phía trong Vịnh, sao cho phía trong
của Vịnh có một diện tích nước tối đa” (khoản 5 điều 10).
Liên quan đến Việt Nam có hai vịnh lớn là: Vịnh Bắc Bộ và Vịnh Thái Lan ở Biển Đông.
2. Khái lược về hai Vịnh lớn trên Biển Đông
Biển Đông có hai vịnh lớn là Vịnh Bắc Bộ và Vịnh Thái Lan. Đây là hai vịnh có vị trí chiến lược
quan trọng đối với các nước có liên quan, gồm: Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia và Campuchia.
Nằm ở phía Tây Bắc của Biển Đông, giữa Việt Nam và Trung Quốc, Vịnh Bắc Bộ (trước đây
còn được gọi là Vịnh Bắc Phần hay Vịnh Bắc Việt) là một trong những vịnh nước mặn lớn của
thế giới, có diện tích khoảng 126.250 km2, chiều ngang nơi rộng nhất khoảng 310 km, nơi hẹp
nhất khoảng 207 km. Vịnh có hai cửa biển là eo biển Quỳnh Châu rộng 35,2 km nằm giữa bán
đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam Trung Quốc, cửa chính được xác định là đường thẳng từ đảo Cồn
Cỏ, tỉnh Quảng Trị, Việt Nam tới mũi Oanh Ca, Hải Nam, Trung Quốc rộng khoảng 207 km. Bờ
Vịnh Bắc Bộ thuộc 10 tỉnh, thành phố của Việt Nam với tổng chiều dài khoảng 763 km và hai
tỉnh của Trung Quốc với tổng chiều dài khoảng 695 km. Vịnh Bắc Bộ tương đối nông (chiều sâu
chưa tới 60 m). Sông Hồng là con sông chính chảy vào vịnh này. Một số hải cảng chính trong
Vịnh, gồm: Hải Phòng, Vinh của Việt Nam và Bắc Hải của Trung Quốc. Phần Vịnh phía Việt
Nam quản lý có khoảng 2.300 đảo, đá ven bờ, như: Bạch Long Vĩ, Cát Bà, Cô Tô, v.v. Phía
Trung Quốc quản lý có đảo Hải Nam và một số ít đảo nhỏ ở phía Đông Bắc của Vịnh, như: Vị Châu, Tà Dương, v.v. 3. Vịnh Bắc Bộ
Vịnh Bắc Bộ là nơi chứa đựng nhiều tài nguyên. Trong Vịnh có nhiều ngư trường lớn, cung cấp
nguồn hải sản quan trọng cho đời sống của nhân dân hai nước. Các dự báo cho thấy, đáy Vịnh và
lòng đất dưới đáy của Vịnh có tiềm năng về dầu mỏ và khí đốt. Vịnh là cửa ngõ giao lưu từ lâu
đời của Việt Nam ra thế giới, có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp phát triển kinh tế,
thương mại quốc tế cũng như quốc phòng, an ninh của nước ta. Đồng thời, có vị trí chiến lược
quan trọng đối với Việt Nam và Trung Quốc cả về kinh tế lẫn quốc phòng, an ninh, hai nước đã
ký Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ vào ngày 25/12/2000.
Vịnh Bắc Bộ là một trong những Vịnh lớn của thế giới, có diện tích khoảng 126.250 km2
(36.000 hải lý vuông), chiều ngang nơi rộng nhất khoảng 310 km (176 hải lý), nơi hẹp nhất ở cửa
Vịnh rộng khoảng 207,4 km (112 hải lý).
Bờ Vịnh Bắc Bộ thuộc 10 tỉnh, thành phố của Việt Nam với tổng chiều dài khoảng 763 km và bờ
biển thuộc hai tỉnh Quảng Tây, Hải Nam của Trung Quốc với tổng chiều dài khoảng 695 km.
Vịnh có hai cửa: Eo biển Quỳnh Châu nằm giữa bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam với bề rộng
khoảng 35,2 km (19 hải lý) và cửa chính của Vịnh từ đảo Cồn Cỏ (Việt Nam) tới đảo Hải Nam
(Trung Quốc) rộng khoảng 207,4 km (112 hải lý).
Phần Vịnh phía Việt Nam có khoảng 2.300 đảo, đá ven bờ, đặc biệt có đảo Bạch Long Vĩ nằm
cách đất liền Việt Nam khoảng 110 km, cách đảo Hải Nam Trung Quốc khoảng 130 km. Phía
Trung Quốc có một số ít đảo nhỏ ở phía Ðông Bắc Vịnh như đảo Vị Châu, Tà Dương.
Vịnh Bắc Bộ có vị trí chiến lược quan trọng đối với Việt Nam và Trung Quốc cả về kinh tế lẫn
quốc phòng, an ninh. Vịnh là nơi chứa đựng nhiều tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là hải sản và
dầu khí. Trong Vịnh có nhiều ngư trường lớn, cung cấp nguồn hải sản quan trọng cho đời sống
của nhân dân hai nước. Các dự báo cho thấy đáy biển và lòng đất dưới đáy của Vịnh có tiềm
năng về dầu mỏ và khí đốt. Vịnh là cửa ngõ giao lưu từ lâu đời của Việt Nam ra thế giới, có tầm
quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp phát triển kinh tế, thương mại quốc tế cũng như quốc
phòng – an ninh của Việt Nam. Ðối với khu vực phía Nam Trung Quốc, Vịnh cũng có vị trí quan
trọng. Vì vậy, cả hai nước đều rất coi trọng việc quản lý, sử dụng và khai thác Vịnh. 4. Vịnh Thái Lan
Đối với Vịnh Thái Lan, còn gọi là Vịnh Xiêm, là một biển nửa kín, có diện tích khoảng 320.000
km2, giới hạn bởi bờ biển của bốn nước Thái Lan (1.560 km), Việt Nam (230 km), Malaysia
(150 km) và Campuchia (460 km). Đỉnh phía Bắc của Vịnh này là vùng lõm Băng Cốc ở cửa
sông Chao Phraya. Ranh giới của Vịnh Thái Lan được xác định theo đường nối từ mũi Cà Mau
của Việt Nam tới thành phố Kota Baru của Malaysia. Chiều dài của Vịnh khoảng 830 km, chiều
rộng trung bình là 385 km.
Vịnh Thái Lan tương đối nông, độ sâu trung bình của nó chỉ khoảng 45 m, chỗ sâu nhất là 80 m.
Các sông chính chảy vào Vịnh này, gồm: Chao Phraya và Mae Klong của Thái Lan. Dòng chảy
mạnh của nước từ các con sông này làm cho nước Vịnh tương đối nhạt và giàu trầm tích. Do
nhiệt độ của vùng nhiệt đới tương đối cao nên trong các vùng nước của Vịnh Thái Lan có nhiều
bãi đá san hô ngầm trên các đảo, như: Ko Samui, Ko Tao của Thái Lan, Phú Quốc của Việt Nam.
Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch phục vụ du khách có sở thích bơi lặn. Ngoài ra,
Vịnh còn có trữ lượng tương đối lớn nguồn dầu mỏ và khí đốt.
Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, toàn bộ Vịnh Thái Lan là đối tượng
của các yêu sách mở rộng quyền tài phán, dẫn đến các mâu thuẫn về phân chia lãnh hải giữa các
quốc gia: Thái Lan, Việt Nam, Malaysia và Campuchia. Đối với Việt Nam và Thái Lan, sau 09
vòng đàm phán, ngày 09/8/1997, hai nước đã ký Hiệp định về phân định ranh giới trên biển giữa
hai nước trong Vịnh Thái Lan. Đây là Hiệp định phân định biển đầu tiên đạt được trong Vịnh
này. Hiện nay, vẫn còn tồn tại vấn đề phân định biển giữa Việt Nam - Campuchia, Thái Lan -
Campuchia, Việt Nam - Thái Lan - Malaysia, Việt Nam - Campuchia - Thái Lan.
5. Khái niệm, đặc điểm về cửa sông
Cửa sông là nơi dòng sông chảy ra và đổ vào biển hoặc hồ lớn. Theo Xamoilov I.B. (1952), các
vùng cửa sông gồm hai loại cơ bản là châu thổ và vùng cửa sông hình phễu.
Pritchard (1967) có một định nghĩa riêng cho vùng cửa sông hình phễu: Đó là một thuỷ vực nửa
kín ven bờ thông với biển khơi, trong đó có sự hoà trộn nhất định giữa nước biển và nước ngọt
đưa đến từ lục địa.
Đến nay, vùng cửa sông hình phễu được hiểu là một vùng hạ lưu sông bị ngập chìm không đền
bù trầm tích và ở đó thuỷ triều thường có vai trò quan trọng. Những estuary điển hình của thế
giới gồm: Xen, Jironda (Pháp), Thame, Mersey (Anh), Rein, Maas (Hà Lan), Potomac (Hoa kỳ).
Châu thổ là thuật ngữ do Herodotus (485 - 425 trước CN) đưa ra để mô tả hình dạng tam giác
của vùng cửa sông Nil, nó được tạo ra tại vùng cửa sông, nơi tốc độ bồi tụ vượt tốc độ bào mòn,
xâm thực do sóng, thuỷ triều và dòng chảy.
Châu thổ được phân loại thành: châu thổ sông thống trị như Mississippi, Hoàng Hà, Pô, Đanup,
châu thổ sóng thống trị như Nil, Rone, Sanfrancisco, Xêngan, Nigeria, châu thổ triều thống trị, ví
dụ Mê Kông, Trường Giang, Ganga - Brachmaputra.
Về địa lý học và sinh thái học vùng cửa sông nói chung được dùng với từ estuarine zone hay
estuarine area, có thể gồm một hoặc một số cửa sông nhánh (river mouths).
Ví dụ, đặc điểm vùng cửa sông của Việt Nam: vùng (cửa sông) châu thổ Mê Kông có tới 9 cửa
sông. Vùng cửa sông hình phễu Bạch Đằng có 3 cửa sông - Cửa Cấm, Nam Triệu và Lạch Huyện).
Cửa sông tạo ra sự chuyển đới giữa môi trường của sông và môi trường của biển và cả hai đều có
khả năng ảnh hưởng đến thành phần của biển như thủy triều sóng và độ mặn của nước. Nó còn
ảnh hưởng đến thành phần của sông như sức chảy của nước sạch và trầm tích.
Với sự tiếp xúc của cả hai loại nước, nước biển và nước sông (thường là nước sạch không mặn)
do đó vùng cửa sông cung cấp một nguồn chất dinh dưỡng cao trong nước và trầm tích. Điều này
đã làm cho hệ sinh thái cửa các con sống ở Việt Nam và trên thế giới trở thành một trong những
nơi có môi trường sống tự nhiên sinh sôi nhất trên thế giới.
Đa số các cửa sông hiện nay được hình thành trong thế Holocen trong biển tiến sau băng hà lần
cuối cùng làm ngập các thung lũng ven bờ từ khoảng 10.000-12.000 năm về trước. Cửa sông
thường được phân loại tùy theo đặc trưng của địa mạo hoặc sự lưu thông của nước dưới một quá
trình nhất định nào đó. Do đó cửa sông còn có thể gọi bằng nhiều cái tên khác nhau tùy theo đặc thù của nó.
Đặc điểm hệ sinh thái cửa sông: Là một trong những môi trường sinh thái đông đảo nhất trên
thế giới. Nó chứa tới khoảng 60% các sinh vật trên toàn thế giới. Do đó cửa sông đang bị ảnh
hưởng bởi nhiều yếu tố như sự đóng cặn do quá trình mòn đất, là hậu quả của phá hoại rừng hay
gặm cỏ bừa bãi của gia súc hoặc những cách trồng cây hại đất. Đánh bắt cá quá mức, hệ thống
cống rãnh dơ bẩn đều có thể làm ảnh hưởng tới hệ sinh thái của cửa sông.
Nếu như có quá nhiều chất dinh dưỡng từ nước cống và phân của động vật thì sẽ làm sinh sôi
nảy nở những thực vật có hại cho vùng nước đó. Những thực vật có hại có thể lấy hết oxygen và
cá sẽ không đủ oxygen để sống. Các loại chất độc hai như các chất kim loại nặng, nuclit phóng
xạ PCB, hydrocarbon. Đê cũng nắm vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến cửa sông.