





Preview text:
Ý NGHĨA CỦA TỪ VỰNG I. Khái niệm 1. Từ vựng là gì?
- Từ vựng là một tập hợp các đơn vị từ vựng của một ngôn ngữ, bao gồm từ và các
đơn vị tương đương với từ
- Đơn vị của từ vựng: từ và ngữ (cụm từ cố định)
2. Chức năng của từ vựng
- Truyền đạt ý nghĩa: Từ vựng là những đơn vị cơ bản để truyền tải ý nghĩa trong
ngôn ngữ. Mỗi từ và cụm từ đều có ý nghĩa riêng, và sử dụng chính xác từ vựng là
cách để truyền đạt ý nghĩa một cách rõ ràng và chính xác.
- Xây dựng cấu trúc ngôn ngữ: Từ vựng là những đơn vị xây dựng cấu trúc của ngôn
ngữ. Việc sử dụng các từ và cụm từ đúng cách giúp người nói hoặc viết xây dựng
được các câu và đoạn văn có cấu trúc chặt chẽ và logic.
- Tăng sự hiểu biết và giao tiếp: Sử dụng từ vựng phong phú giúp người sử dụng ngôn
ngữ hiểu biết nhiều hơn về thế giới xung quanh và có khả năng giao tiếp tốt hơn với
người khác. Vốn từ giúp ta đọc hiểu các văn bản tốt hơn. Trong giai đoạn như hiện
nay, đây cũng chính là mức độ mà con người hiện đại cần đạt được. Bởi vì trong
nhiều trường hợp, các thông tin thường sẽ chỉ được truyền đạt thông qua các văn bản.
- Phát triển khả năng suy nghĩ và trí tuệ: Học từ vựng mới có thể giúp tăng khả năng
suy nghĩ và trí tuệ. Việc biết nhiều từ vựng hơn cũng giúp người học tiếp cận được
nhiều kiến thức và thông tin mới. Từ vựng cũng còn có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc hình thành nên tư duy logic, khả năng giải quyết vấn đề của con người một cách
nhạy bén và có hiệu quả
- Tạo sự chính xác và chuyên nghiệp: Việc sử dụng từ vựng phù hợp giúp người nói
hoặc viết trở nên chính xác và chuyên nghiệp hơn. Điều này rất quan trọng trong
việc viết văn bản chuyên nghiệp hoặc giao tiếp trong các tình huống kinh doanh hoặc học thuật.
Ví dụ: Đầu (là từ trong chải đầu) có chức năng định danh là “bộ phận trên hết của cơ
thể người, trước hết của vật, có chữa não”; đầu (là câu trong Đầu! Mày là đứa bã đậu)
có chức năng thông báo, có thể hiểu nghĩa là "người kém cỏi. II.
Ý nghĩa của từ vựng
1. Các thành phần từ vựng
- Thành phần của một từ vựng bao gồm
- Thành phần ngữ âm: Các âm thanh tạo nên từ, bao gồm các nguyên âm và phụ âm.
- Thành phần ngữ nghĩa: Ý nghĩa mà từ mang lại trong ngữ cảnh cụ thể.
- Thành phần ngữ pháp: Cách từ được sử dụng trong câu và cách nó tương tác với các
thành phần khác trong ngữ pháp.
- Thành phần ngữ nghĩa ngữ cảnh: Ý nghĩa của từ có thể thay đổi dựa trên ngữ cảnh sử dụng.
- Thành phần ngữ nghĩa ngôn ngữ: Cách từ tương tác với các từ khác trong ngôn ngữ
để tạo thành các mẫu ngôn ngữ khác nhau.
- Thành phần ngữ nghĩa ngữ nghĩa: Nghĩa của từ trong ngữ cảnh lớn hơn của toàn bộ văn hóa và ngôn ngữ.
2. Xu hướng chuyển nghĩa từ vựng
a. Biến đổi ý nghĩa của từ
- Trong hoạt động giao tiếp ngôn ngữ của xã hội, thường xuyên xuất hiện những nhu
cầu về từ và cách diễn đạt để biểu thị những sự vật, hiện tượng hay khái niệm mới, cũng như
để tạo ra những hiệu quả giao tiếp mới. Song, nếu chỉ đáp ứng các nhu cầu đó bằng cách tạo
ra ngày càng nhiều từ mới thì đến một lúc nào đó, hệ thống ngôn ngữ sẽ bao gồm một số
lượng rất lớn các đơn vị từ vựng. Điều đó có thể làm cản trở quá trình giao tiếp, do người ta
phải ghi nhớ quá nhiều đơn vị. Mặt khác, trong quá trình phát triển của xã hội, một số sự vật
hiện tượng hay khái niệm bị mất đi hoặc thay đổi đi. Do đó, những đơn vị từ vựng biểu thị
chúng có thể bị loại bỏ. Để khắc phục tình trạng này, ngôn ngữ một mặt cho phép sử dụng
khả năng kết hợp những yếu tố hữu hạn trong hệ thống với nhau để diễn đạt cái vô hạn trong
lời nói và tạo ra một số lượng nhất định các yếu tố mới, song mặt khác, cũng cho phép sử
dụng những đơn vị từ vựng có sẵn nhưng thay đổi nghĩa cũ đi hoặc bổ sung thêm nghĩa mới.
Khả năng thứ hai này dẫn đến sự biến đổi ý nghĩa của từ. Sự biến đổi ý nghĩa của từ là một
trong những hình thức hoạt động cơ bản của hệ thống từ vựng để đáp ứng nhu cầu về các
phương tiện biểu đạt. Do sự biến đổi ý nghĩa của từ mà trong các ngôn ngữ, một số từ trở
thành từ nhiều nghĩa (hoặc cũng được gọi là từ đa nghĩa).
- Sự biến đổi ý nghĩa của từ thực chất là lấy một từ để biểu đạt một số loại sự vật
có quan hệ gần gũi với nhau về một phương diện nào đấy, cho nên giữa các nghĩa của từ
nhiều nghĩa vẫn có những mối liên quan nhất định. Sự khác nhau giữa các nghĩa của từ nhiều
nghĩa không phải là sự khác nhau hoàn toàn: sự biến đổi ý nghĩa ở đây thường đi theo xu
hướng làm thay đổi một thành phần ý nghĩa nào đấy của từ. Do đó, nói đến hiện tượng nhiều
nghĩa, ta có thể phân biệt các trường hợp:
- Nhiều nghĩa do sự biến đổi về ý nghĩa biểu vật. Đây là trường hợp thay đổi mối quan
hệ giữa từ ngữ âm với sự vật hay hiện tượng (gọi là cái biểu vật). Chẳng hạn, từ ‘mũ’ trong
tiếng Việt có thể có hai ý nghĩa biểu vật (ví dụ: ‘mũ đội đầu’ và ‘mũ van’), nhưng thực ra ý
nghĩa biểu niệm chỉ là một (cái dùng để chụp lên đầu người hay vật).
– Nhiều nghĩa do sự biến đổi ý nghĩa biểu niệm. Đó là trường hợp làm thay đổi mối
quan hệ giữa vỏ âm thanh của từ với nội dung khái niệm mà từ biểu thị (cái biểu niệm). Ví
dụ: Trong từ ‘che’ của tiếng Việt, ta có thể phân biệt hai ý nghĩa biểu niệm khác nhau: 1)
Dùng một vật để phủ hoặc bịt nhằm ngăn không cho nhìn thấy một vật khác, ví dụ như ‘che
miệng’, ‘che mắt’; 2) Dùng một vật phủ hoặc bịt nhằm ngăn cản tác động từ bên ngoài đối
với một vật khác, ví dụ như ‘che nắng’, ‘che mưa’. Trong cả hai trường hợp này, thành phần
ý nghĩa biểu vật có thể chỉ là một.
– Nhiều nghĩa do sự biến đổi ý nghĩa ngữ dụng. Đó là khi có sự thay đổi về sắc thái
biểu cảm của từ. Thường thì sự thay đổi này đi theo hai hướng: 1) Bổ sung sắc thái biểu
cảm cho một từ vốn có nghĩa trung hoà về mặt biểu cảm, chẳng hạn như từ ‘tếch’ của tiếng
Việt được bổ sung thêm ý phê phán (ví dụ: “Thế là hắn tếch thẳng”); 2) Thay đổi giá trị biểu
cảm của từ (xấu đi hay tốt lên), ví dụ như từ ‘tệ’ trong tiếng Việt vốn có nghĩa tiêu cực (như
trong: ‘đối xứ tệ’), nhưng có thể được dùng với nghĩa tích cực (ví dụ như trong: “Con bé ấy có duyên tệ”).
– Hiện tượng từ nhiều nghĩa là hiện tượng phổ biến trong tất cả các ngôn ngữ. Trong
tiếng Nga chẳng hạn, từ ‘golova’ có thể dùng để chỉ ‘cái đầu’, ‘đầu óc’ (ví dụ: ‘sv’etnaja
golova’ = đầu óc sáng suốt), nhưng cũng có thể dùng để chỉ ‘người đứng đầu’ (ví dụ:
‘gorodskoj golova’ = thị trưởng) hoặc “hàng đầu” (ví dụ: ‘idti v golove’ = đi hàng đầu),
v.v…, hay trong tiếng Anh: từ ‘hand’ có thể chỉ ‘bàn tay’, ‘phía’ (ví dụ: ‘on all hands’ = từ
mọi phía), ‘công nhân’ (ví dụ: ‘hands wanted’ = tuyển mộ công nhân), kim đồng hồ, v.v…
– Cần phải lưu lý một điều là không nên lẫn lộn ý nghĩa của từ với cách dùng từ.
Cách dùng từ là sự lựa chọn và sử dụng từ theo một nghĩa cụ thể nào đó trong lời nói. Nó
mang tính chất cá nhân và nhất thời. Trong khi đó thì ý nghĩa của từ là cái nội dung chứa
đựng trong từ đã được xã hội chấp nhận và có tính bền vững tương đối. Chẳng hạn, nghĩa
của từ ‘cắn’ trong ‘nước cắn da’ thuộc về cách dùng từ. Tất nhiên, khi dùng một từ, người ta
phải dựa vào ý nghĩa của nó và trên cơ sở ý nghĩa đó mà phát triển thêm. Có những trường
hợp, cách dùng từ được xã hội chấp nhận và sau một thời gian, nó trở thành ý nghĩa chung
của từ. Ví dụ: Từ ‘tồn tại’ trong tiếng Việt nguyên được dùng để biểu thị khái niệm triết học
chỉ ‘giới tự nhiên vật chất, thế giới bên ngoài có một cách khách quan, không phụ thuộc vào
ý kiến, tư duy, cảm giác của chúng ta’. Nhưng sau đó, trong khẩu ngữ, người ta dùng nó với
ý nghĩa ‘thiếu sót, nhược điểm’ hay ‘cái còn phải tiếp tục nghiên cứu, giải quyết’ (ví dụ:
“Trong hoạt động công đoàn, còn có nhiều tồn tại”), và nghĩa này đã trở nên phổ biến, được
xã hội sử dụng rộng rãi.
b. Các loại nghĩa trong từ nhiều nghĩa
– Từ có nhiều nghĩa, do đó muốn hiểu đúng ý nghĩa của từ, ta phải xem xét nó trong
những tình huống hoặc ngữ cảnh cụ thể (sau đây ta sẽ gọi chung là ngữ cảnh). Ngữ
cảnh, nói một cách đơn giản, là tình huống, bối cảnh ngôn ngữ, trong đó từ xuất hiện
với một ý nghĩa cụ thể của nó. Thông qua ngữ cảnh, ta có thể xác định được những
yếu tố hạn chế phạm vi ý nghĩa của từ, làm cho nghĩa được sử dụng nổi rõ lên. Đó là
các yếu tố liên quan đến người nói, người nghe, địa điểm giao tiếp, thời gian giao
tiếp, môi trường ngôn ngữ của từ, v.v… Trong một ngữ cảnh cụ thể, ta sẽ hiểu đúng
ý nghĩa đang được sử dụng của từ (trừ những trường hợp người ta cố ý tạo ra cách
hiểu nước đôi của từ). Ví dụ: ý nghĩa của từ ‘dầu’ trong tiếng việt chỉ có thể xác định
được nhờ vào ngữ cảnh, bởi vì đó có thể là ‘dầu ăn’, ‘dầu bôi trơn’, ‘dầu đun bếp’, v.v…
– Mỗi một từ nhiều nghĩa thường có nghĩa cơ bản, hay nghĩa chính, và nghĩa mở
rộng hay nghĩa phụ. Nghĩa cơ bản thường là nghĩa gốc của từ, tức là cái nội dung khái niệm
nguyên thuỷ mà từ được dùng để biểu thị. Trái lại, nghĩa mở rộng thường được hiểu là
nghĩa được bổ sung thêm vào từ bằng cách mở rộng nghĩa cơ bản. Thông thường, nghĩa mở
rộng được hình thành do sự liên tưởng với nghĩa cơ bản theo một cách thức nào đấy (ví dụ:
theo sự giống nhau về hình dáng, kích thước, màu sắc, công dụng, v.v…). Chẳng hạn, từ
‘head’ của tiếng Anh có nghĩa chính là ‘cái đầu’. Căn cứ vào hình dáng, vị trí, chức năng
của “cái đầu” mà người ta đã mở rộng thêm ý nghĩa của từ này và do đó, nó còn có nghĩa là
‘bắp’ (bắp cải), ‘người đứng đầu’, ‘con’ (vật), ‘thủ trưởng’, ‘hàng đầu’, v.v… hay trong
tiếng Nga, từ ‘lëgki’ có nghĩa là ‘nhẹ, thưa, mỏng manh’; dựa vào nghĩa chính này, người ta
đã bổ sung thêm cho nó nhiều nghĩa phụ, chẳng hạn: ‘nhanh nhẹn’, ‘dễ dàng’, ‘nhẹ dạ’, ‘hời hợt’, v.v…
– Tuy nhiên, việc xác định nghĩa chính và nghĩa mở rộng của từ nhiều khi gặp nhiều
khó khăn, vì rằng trong nhiều trường hợp, ranh giới giữa chúng không thật rõ rệt. Sau một
thời gian sử dụng, nghĩa mở rộng có thể dần dần trở thành một nghĩa chính khác của từ.
Chẳng hạn, những ý nghĩa “trông đẹp ra”, “bán chạy”, “hút” của từ ‘ăn’ (ví dụ: ‘ăn ảnh’, ‘ăn
khách’, ‘ăn thuốc’) là những nghĩa mở rộng được hình thành trên cơ sở của nghĩa chính là
“nhai và nuốt thức ăn”, nhưng hiện nay các nghĩa đó đã trở thành những nghĩa chính khác
của từ ‘ăn’. Nói chung, ta có thể căn cứ vào mức độ phụ thuộc vào ngữ cảnh để phân biệt
hai loại nghĩa trên của từ: thường thì nghĩa chính là nghĩa mà người sử dụng ngôn ngữ có
thể nói ra ngay mà không cần phải có ngữ cảnh, còn nghĩa mở rộng là những nghĩa cần phải
có ngữ cảnh mới có thể xác định được. Thực vậy, khi nghe thấy từ ‘đứng’ chẳng hạn, người
Việt trước tiên liên tưởng đến cái nghĩa chính của nó là “trạng thái cố định tương đối
(không di chuyển), lưng giữ thẳng, chân duỗi, bàn chân giẫm đất” mà không cần một ngữ
cảnh nào cả. Còn nghĩa ”được xếp hạng” của nó thì cần phải có ngữ cảnh đi kèm mới có thể
nhận thấy được (ví dụ như trong: “đứng nhất lớp”). Như vậy, mức độ phụ thuộc vào ngữ
cảnh của ý nghĩa từ ở đây cần được hiểu là khả năng nhận biết một ý nghĩa của từ khi từ bị
tách ra khỏi ngữ cảnh, chứ không nên hiểu là sự phụ thuộc của nghĩa từ vào ngữ cảnh nói
chung, bởi vì như trên đã nói, đối với một từ nhiều nghĩa thì việc xác định một nghĩa cụ thể
của nó luôn luôn phụ thuộc vào ngữ cảnh.
– Ngoài việc phân biệt hai loại nghĩa như trên, người ta còn có thể phân biệt nghĩa
đen và nghĩa bóng của từ. Song thực ra, đây chỉ là cách gọi khác của nghĩa cơ bản và nghĩa
mở rộng, chỉ có điều khái niệm nghĩa bóng theo cách hiểu thông thường có nội hàm hẹp
hơn nghĩa mở rộng, và do đó, người ta thường nói tới nghĩa bóng trong những trường hợp
nghĩa mở rộng gợi ra sự liên tưởng nước đôi hay hiệu quả văn học. Đó là những trường hợp
sử dụng từ mang tính cá nhân nhiều hơn.
– Cuối cùng, cần phải nói thêm rằng: Cũng giống như ở mặt cấu tạo của từ, mối quan
hệ giữa các loại ý nghĩa trong từ nhiều nghĩa có khi mang tính chất tầng bậc và do đó, người
ta cũng có thể nói tới nghĩa gốc và các nghĩa phái sinh thuộc những cấp bậc khác nhau.
Chẳng hạn, từ một nghĩa cơ bản ban đầu (nghĩa gốc), người ta mở rộng thêm một nghĩa nào
đấy, rồi sau đó lại bổ sung thêm một ý nghĩa khác trên cơ sở của nghĩa mở rộng đó… Ví dụ:
từ ‘thẻ’ trong tiếng Việt có nghĩa gốc là ‘mảnh tre hay gỗ được dùng để viết khi chưa có
giấy’; trên cơ sở nghĩa này, người ta bổ sung thêm nghĩa ‘mảnh tre, hay gỗ… có ghi một nội
dung bói toán’, rồi sau đó trên cơ sở nghĩa mở rộng này, người ta lại bổ sung thêm nghĩa
‘mảnh xương hay ngà có ghi chức tước của quan lại để họ đeo ở trước ngực’ và cuối cùng
từ này lại được dùng để chỉ chung tất cả các loại ‘giấy chứng nhận tư cách thành viên của
một tổ chức nào đấy’ (ví dụ: ‘thẻ hội viên’, ‘thẻ đảng’, ‘thẻ khác hàng’). 3. Trường nghĩa
- Theo lối chiết tự thì trường là một tập hợp các từ, nghĩa là quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ
trong tập hợp từ ấy. Trường nghĩa là tập hợp các từ căn cứ vào một nét đồng nhất nào đó về
ngữ nghĩa. Mỗi trường nghĩa là một hệ thống nhỏ, nằm trong hệ thống lớn là hệ thống từ
vựng của một ngôn ngữ.
* Các loại trường nghĩa:
- Trường nghĩa biểu vật: Quan niệm về các trường biểu vật bất nguồn từ sự phê phán các
cuốn từ điển thông thường sắp xếp các từ theo thứ tự chữ cái.
- Cách sắp xếp theo nguyên tắc từ ngữ đến khái niệm chứ không theo nguyên tắc từ khái niệm đến từ ngữ.
- Để tránh nhược điểm này, một số nhà từ điển học xây dựng những cuốn từ điển trong đó
từ ngữ không được sắp xếp theo thứ tự chữ cái mà theo từng phạm vi sự vật , hiện tượng mà
chúng biểu thị . Đó là một sự sắp xếp theo trường nghĩa biểu vật .
* Một trường biểu vật là một tập hợp những từ đồng nghĩa về ý nghĩa biểu vật.
Để căn cứ dựa vào các nghĩa biểu vật của các từ về trường biểu vật thích hợp, chọn các danh từ làm gốc.
+ Các danh từ này phải có tính khái quát cao, gần như là tên gọi của các phạm trù biểu
vật , như người , động vật , thực vật , vật thể , chất liệu . .
+ Các danh từ này cũng là tên gọi các nét nghĩa có tác dụng hạn chế, ý nghĩa của từ về
mặt biểu vật, là những nét nghĩa cụ thể , thu hẹp ý nghĩa của từ .
=> Như vậy một từ và một trường biểu vật nào đó khi nét nghĩa biểu vật của nó trùng với
tên gọi của danh từ trên.
Ví dụ: Trường nghĩa biểu vật về động vật: tên các loài : gà, lợn, chó, trâu
Trường nghĩa chỉ bộ phận cơ thể người: đầu, mình, chân, tay, răng, mắt, miệng.
- Trường nghĩa biểu niệm: Trường nghĩa biểu niệm là tập hợp các từ có chung một cấu
trúc biểu niệm. Cơ sở để xác lập trường nghĩa biểu niệm là sự đồng nhất về ý nghĩa biểu
niệm của từ có thể phân chia thành các trường nhỏ và cũng có những“miền" với mật độ khác nhau.
Nói tóm lại, vì các ý nghĩa biểu niệm tuy có nguồn gốc ở các khái niệm nhưng khôn g đồng
nhất với khái niệm, cho nên các trường biểu niệm cũng không đồng nhất với tập hợp
cáckhái niệm không phải là những sự kiện tư duy thuận uy mà là những sự kiện ngôn.
Ví dụ: Trường biểu niệm (vật thể nhân tạo). . (thay thế hoặc tăng cường thao tác lao động) (cầm tay).
Dụng cụ để kìm giữ : kìm, kẹp, néo, móc