Ý thức pháp luật gì? Đặc điểm, cấu trúc của ý
thức pháp luật
1. Khái niệm ý thức pháp luật
Trong đời sống hội, không yếu tố o của quá trình điều chỉnh pháp
luật lại không mối liên hệ hoặc thiếu đi sự ảnh hưởng, chi phối của ý thức
pháp luật. Thực tế trong sự tồn tại, phát huy vai trò của mỗi yếu tố với mức
độ ít hoặc nhiều, trực tiếp hoặc gián tiếp đều dấu ấn của ý thức pháp luật.
Do đó, cùng với các ngành khoa học khác, ý thức pháp luật một phạm trù
thuộc đối tượng nghiên cứu quan trọng của khoa học pháp lí. Việc nghiên
cứu ý thức pháp luật không đơn thuần chỉ để nhận thức luận giá trị
thực tiễn trên các mặt của đời sống hội. Đặc biệt, với u cầu xây dựng
nhà nước pháp quyền, hội ng dân coi trọng tính thượng tôn pháp luật thì
việc kiến giải đó ng ý nghĩa thiết thực. Tuy nhiên, việc tiếp cận, xem xét
ý thức pháp luật nếu bỏ qua việc làm sáng tỏ đặc tính, sở nguồn cội
bản chất của hiện tượng này thì thiếu đi tính toàn diện, sự thấu đáo về
phương diện nhận thức. Hơn nữa, điều đó cũng sẽ đem lại những khó khăn
nhất định khi xem xét ý thức pháp luật trong mối quan hệ đa chiều với các
yếu tố khác các hình thái kinh tế hội khác nhau.
Theo đó, dưới góc độ triết học phạm trù ý thức nói chung thuộc lĩnh vực đời
sống tinh thần ý thức pháp luật một hình thái của ý thức hội. Như vậy,
ý thức pháp luật hiện tượng đời sống thực tế gắn kết chặt chẽ với đời
sống của nhà nước sự cộng sinh của pháp luật Tương tự như các hình
thái ý thức hội khác, ý thức pháp luật phạm trù chủ quan, hình, do đó,
việc nhận diện chủ yếu cảm quan qua các yếu tố khác của đời sống pháp
lí.
Ý thức pháp luật tổng thể những học thuyết, tưởng, quan điểm, quan
niệm, thái độ, nh cảm của con người đối với pháp luật các hiện tượng
pháp khác, thể hiện mối quan hệ giữa con người đối với pháp luật (pháp
luật đã qua, pháp luật hiện hành pháp luật cần phải có) sự đánh gi về
mức độ công bằng, bình đẳng; tính hợp pháp hay không hợp pháp... đổi với
các hành vi, lợi ích hoặc quan hệ từ thực tiễn đời sống pháp hội.
Ý thức pháp luật luôn chịu sự tác động đa chiều của nhiều yếu tố như nền
tảng kinh tế, kết cấu hội, tương quan so sánh lực lượng, quan điểm,
tưởng của lực lượng cầm quyền, xu thế thời đại... Trong đời sống pháp lí, ý
thức pháp luật nhân tố đóng vai t quyết định chi phối trực tiếp đến tính
chất, hiệu quả thực tế của các hoạt động pháp lí.
2. Đặc điểm của ý thức pháp luật
Dưới góc độ tổng quan, việc nghiên cứu ý thức pháp luật thể rút ra những
điểm bản sau:
- Cũng như mọi hình thái ý thức hội khác, ý thức pháp luật do tồn tại hội
quy định. Mặc vậy, ý thức pháp luật tính độc lập tương đối với tồn tại
hội. phản ánh điều kiện tồn tại hội sở nhận thức để cải tạo,
phục Vụ hội của con người. Gắn liền với sự vận động phát triển của
hội, ý thức pháp luật tác động trở lại đối với tồn tại hội theo những chiều
hướng khác nhau.
- Ý thức pháp luật mang tính giai cấp. Không ý thức pháp luật thuần túy,
ngoài giai cấp, phi giai cấp. Suy cho cùng, ý thức pháp luật chính sản phẩm
từng giai cấp trong sự phát triển của lịch sử hội. là tiền đ để xây dựng
các giá trị, chuẩn mực pháp của từng giai cấp đối với hội, sở để
hình thành thế giới quan pháp chính thống trong hội. Trong hội giai
cấp, sự khác nhau về điều kiện sinh hoạt vật chất, tinh thần của mỗi giai cấp,
tầng lớp hội đã đem lại sự khác nhau nhất định về ý thức pháp luật giữa
các giai cấp các lực lượng cầm quyền.
- Ý thức pháp luật được coi là tiền đề thiết yếu cho quá trình để tạo lập hay
làm ra pháp luật bằng những con đường, cách thức cụ thể khác nhau thông
qua nhà nước. Nhu cầu, khuynh hướng điều chỉnh phương thức thể hiện
nhà nước bảo đảm cho quá trình pháp luật hóa quan hệ hội một cách phù
hợp, sát thực trên thực tế được thực hiện qua phạm trù ý thức pháp luật.
- Trong quá trình vận động phát triển, ý thức pháp luật tính kế thừa trên
sở chọn lọc đối với một số nhân tố của ý thức pháp luật trước đó, chẳng
hạn như các nguyên lí, học thuyết của pháp luật hoặc các tưởng, giá trị
pháp ghi nhận về quyền con người...
- Trong ý thức pháp luật bộ phận tưởng khoa học về pháp luật thể
vượt lên trước tồn tại hội. Đối với hệ tưởng pháp luật thì tri thức khoa
học yếu tố bản bởi thể đem lại sự nhìn nhận khách quan đối với
tồn tại hội. 'Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng khoa học tính
dẫn đường, đi trước đối với tồn tại hội. Điều này không đơn thuần khẳng
định sự độc lập tương đối của ý thức pháp luật so với tồn tại hội
tiền đề tưởng - pháp trực tiếp góp phần phục vụ cho quá trình điều chỉnh
pháp luật công cuộc cải tạo hội trên thực tế.
- Ý thức pháp luật quan hệ sự tác động qua lại với các hình thái ý thức
hội khác cũng như các hiện tượng khác của thượng tầng pháp lí. Nhìn
chung, sự tác động của ý thức pháp luật với ý thức chính trị, ý thức đạo đức,
ý thức tôn giáo... luôn thể hiện sự đan xen, tương hỗ lẫn nhau trong quá
trình tồn tại vận động. Sẽ là sự tác động tích cực nếu sự p hợp giữa
ý thức pháp luật với các loại hình ý thức đó ngược lại, đó sẽ nhân tố cản
trở lẫn nhau nếu giữa các phạm t ý thức đó thiếu đi sự tương đồng cần
thiết.
thể nói, ý thức chính trị ý thức pháp luật không chỉ cùng xuất hiện
đồng hành tồn tại trong môi trường hội giai cấp mà giữa sự gắn
bó, tương tác với nhau. Thực tiễn nhận thức cũng đã từng quan niệm sai
lầm dẫn đến mặc nhiên nhất thể hoá hai hiện ợng ý thức này, coi ý thức
pháp luật một phần của ý thức chính trị giáo dục chính trị đồng nghĩa
vớì giáo dục pháp luật. Ý thức pháp luật ý thức chính trị đều coi trọng, sử
dụng công cụ pháp luật đ th hiện các u cầu, nội dung của mình trong đời
sống thực tiễn, đời sống chính trị - pháp lí. Nếu như ý thức chính trị quan
niệm, học thuyết, quan điểm về chính trị của giai cấp cầm quyền vai trò
định hướng cho ý thức pháp luật trong xây dựng tổ chức thực thi pháp luật
thì ý thức pháp luật sẽ làm sâu sắc hơn việc chuyển tải, thể hiện các nội dung
phạm trù của ý thức chính trị thông qua chế định pháp luật.
Ý thức đạo đức loại hình ý thức xuất hiện sớm nhất ng với hội con
người. Đó những phạm trù, nguyên cho việc hình thành h thống chuẩn
mực đạo đức được lưu truyền, phổ biến để quản hội. Ý thức pháp luật
xuất hiện muộn hơn nhưng quan hệ chặt ch với ý thức đạo đức bởi cả
hai phạm trù ý thức này đều vai trò tiền đề nhận thức cho việc hình thành
các công cụ quản hội thiết yếu đạo đức pháp luật. Trên- thực tế, sự
hài hoà tác động qua lại lẫn nhau giữa đạo đức pháp luật toong quá
trình điều chỉnh các quan hệ hội chỉ thể được đặt ra trên nền tảng sự
thống nhất tương đối giữa ý thức đạo đức ý thức pháp luật.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, các quan niệm về tôn giáo xuất hiện từ thời
hội nguyên thủy. Đó ý thức khai về niềm tin một sự chở che của thần
linh với con người. Cùng với sự phát triển, ý thức tôn giáo cũng đổi thay ít
nhiều về khuynh hướng, nội dung nhưng nhìn chung xét về bản chất phục
thiện, vị nhân. Giữa ý thức pháp luật ý thức tôn giáo đều hướng tới sự
hoàn thiện nhân cách con người, điều chỉnh hành vi con người đều thể
hiện nội dung, ý chí của mình bằng hệ thống quy tắc, chuẩn mực trên thực tế.
Như vậy, ý thức pháp luật nền tảng cho hệ thống pháp luật thực định thì ý
thức tôn giáo nền tảng cho các quy tắc của các tôn giáo.
Sự tác động qua lại giữa ý thức pháp luật đối với các bộ phận khác của kiến
trúc thượng tầng pháp như nhà nước, pháp luật luôn sự tương tác
bản ý nghĩa quan trọng nhất. Ý thức pháp luật chi phối trực tiếp việc
hình thành h thống quan nhà nước q trình thực thi quyền lực nhà
nước. Ý thức pháp luật nhân tố tiền đề cho việc y dựng pháp luật, tổ
chức thực hiện pháp luật bảo vệ pháp luật.
3. Cấu trúc của ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật, xét về cấu trúc, bao gồm hai bộ phận:
1) Tư tưởng pháp luật, đó tổng thể những quan điểm, quan niệm, học
thuyết, sự hiểu biết về pháp luật;
2) Tâm pp luật, đó thái độ, tình cảm của con người đối với pháp luật.
Tình cảm đó thể sự đồng tình, sự vui mừng phấn khởi, sự tôn trọng
pháp luật hoặc sự phản đối, sự thờ ơ, thiếu n trọng pháp luật.
Ý thức pháp luật thể hiểu trên nhiều cấp đ khác nhau, vậy thể phân
chia ý thức pháp luật thành các loại: ý thức pháp luật nhân, ý thức pháp
luật giai cấp, ý thức pháp luật hội. Trong các nhà nước bóc lột, ý thức
pháp luật của giai cấp thống trị giai cấp bị thống tr hoàn toàn khác nhau.
Do nhiều quy định của pháp luật chỉ thể hiện ý chí bảo vệ quyền lợi của
giai cấp thống trị không bảo vệ quyền lợi của giai cấp b thống tr nên một
đạo luật được giai cấp thống trị ủng hộ lại gặp phải sự phản đối quyết liệt từ
phía giai cấp bị thống trị. Trong các nhà nước dân chủ, tiến bộ khi pháp luật
thể hiện ý chí chung của nhân dân thì ý thức pháp luật trong hội sẽ thống
nhất, việc nâng cao ý thức pháp luật cho các tầng lớp nhân dân sẽ thuận lợi
hơn. Ý thức pháp luật một hình thái ý thức hội, chịu sự ch phối của tổn
tại hội. vậy, muốn nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân, trước hết
phải chăm lo đến đời sống của nhân dân, làm cho đời sống vật chất tinh
thần của nhân dân ngày một nâng cao. Xây dựng một hội dân giàu, nước
mạnh, hội công bằng dân chủ, văn minh tạo ra một nền tảng kinh tế-xã
hội đ y dựng một hội ý thức pháp luật văn hoá pháp cao. Mặt
khác, ý thức pháp luật tính độc lập tương đối, nó thể đi trước làm tiền
để cho kinh tế-xã hội phát triển. Vì vậy, việc tuyên truyền giáo dục pháp luật
cho các tầng lớp nhân dân trong hội, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân
dân vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, thúc đẩy nền kinh tế - hội phát triển.
4. Phân tích tác động của pháp luật đối với ý thức pháp luật
Pháp luật trong sự hình thành, tồn tại phát huy giá trị của mình luôn chịu
sự tác động của ý thức pháp luật. Ngược lại, pháp luật ng tác động đến sự
vận động, phát triển của ý thức pháp luật.
Xét từ góc độ chung, sự tồn tại của hệ thống pháp luật bằng nhiều cách sẽ
tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên nhận thức của các chủ thể, do đó trở
thành nhân tố, phương tiện thúc đẩy sự phát triển của ý thức pháp luật trên
thực tế. Điều này cũng thể giải thêm bởi chính pháp luật “nguồn”, bộ
phận bản để tạo nên nội dung của hệ tư tưởng pháp luật cũng như định
hướng tâm pháp luật đối với các chủ thể. Như vậy, hệ thống pháp luật hoàn
chỉnh, khách quan sẽ điều kiện thiết yếu cho việc nâng cao ý thức pháp
luật trên thực tế.
Xét từ góc độ thực tế, cụ thể, pháp luật hoàn toàn không kh năng tự tác
động o ý thức của con người được chuyển hoá thông qua chính quá
trình nhận thức của con người. Như vậy, khi nhân con người năng lực
nhận thức, ý thức sự hiểu biết pháp luật tốt t sự tác động của các quy
định pháp luật lên ý thức của họ diễn ra theo chiều hướng thuận lợi khả
năng đem lại hiệu quả cao. Ngược lại, đối với người năng lực nhận thức ý
thức pháp luật thấp m thì sự c động của pháp luật lại diễn ra hạn chế,
kém hiệu quả.

Preview text:

Ý thức pháp luật là gì? Đặc điểm, cấu trúc của ý thức pháp luật
1. Khái niệm ý thức pháp luật
Trong đời sống xã hội, không có yếu tố nào của quá trình điều chỉnh pháp
luật lại không có mối liên hệ hoặc thiếu đi sự ảnh hưởng, chi phối của ý thức
pháp luật. Thực tế trong sự tồn tại, phát huy vai trò của mỗi yếu tố với mức
độ ít hoặc nhiều, trực tiếp hoặc gián tiếp đều có dấu ấn của ý thức pháp luật.
Do đó, cùng với các ngành khoa học khác, ý thức pháp luật là một phạm trù
thuộc đối tượng nghiên cứu quan trọng của khoa học pháp lí. Việc nghiên
cứu ý thức pháp luật không đơn thuần chỉ để nhận thức lí luận mà có giá trị
thực tiễn trên các mặt của đời sống xã hội. Đặc biệt, với yêu cầu xây dựng
nhà nước pháp quyền, xã hội công dân coi trọng tính thượng tôn pháp luật thì
việc kiến giải đó càng có ý nghĩa thiết thực. Tuy nhiên, việc tiếp cận, xem xét
ý thức pháp luật nếu bỏ qua việc làm sáng tỏ đặc tính, cơ sở nguồn cội và
bản chất của hiện tượng này thì thiếu đi tính toàn diện, sự thấu đáo về
phương diện nhận thức. Hơn nữa, điều đó cũng sẽ đem lại những khó khăn
nhất định khi xem xét ý thức pháp luật trong mối quan hệ đa chiều với các
yếu tố khác ở các hình thái kinh tế xã hội khác nhau.
Theo đó, dưới góc độ triết học phạm trù ý thức nói chung thuộc lĩnh vực đời
sống tinh thần và ý thức pháp luật là một hình thái của ý thức xã hội. Như vậy,
ý thức pháp luật là hiện tượng có đời sống thực tế gắn kết chặt chẽ với đời
sống của nhà nước và sự cộng sinh của pháp luật Tương tự như các hình
thái ý thức xã hội khác, ý thức pháp luật là phạm trù chủ quan, vô hình, do đó,
việc nhận diện nó chủ yếu cảm quan qua các yếu tố khác của đời sống pháp lí.
Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan
niệm, thái độ, tình cảm của con người đối với pháp luật và các hiện tượng
pháp lí khác, thể hiện mối quan hệ giữa con người đối với pháp luật (pháp
luật đã qua, pháp luật hiện hành và pháp luật cần phải có) và sự đánh giả về
mức độ công bằng, bình đẳng; tính hợp pháp hay không hợp pháp... đổi với
các hành vi, lợi ích hoặc quan hệ từ thực tiễn đời sống pháp lí và xã hội.
Ý thức pháp luật luôn chịu sự tác động đa chiều của nhiều yếu tố như nền
tảng kinh tế, kết cấu xã hội, tương quan so sánh lực lượng, quan điểm, tư
tưởng của lực lượng cầm quyền, xu thế thời đại... Trong đời sống pháp lí, ý
thức pháp luật là nhân tố đóng vai trò quyết định chi phối trực tiếp đến tính
chất, hiệu quả thực tế của các hoạt động pháp lí.
2. Đặc điểm của ý thức pháp luật
Dưới góc độ tổng quan, việc nghiên cứu ý thức pháp luật có thể rút ra những điểm cơ bản sau:
- Cũng như mọi hình thái ý thức xã hội khác, ý thức pháp luật do tồn tại xã hội
quy định. Mặc dù vậy, ý thức pháp luật có tính độc lập tương đối với tồn tại xã
hội. Nó phản ánh điều kiện tồn tại xã hội và là cơ sở nhận thức để cải tạo,
phục Vụ xã hội của con người. Gắn liền với sự vận động và phát triển của xã
hội, ý thức pháp luật tác động trở lại đối với tồn tại xã hội theo những chiều hướng khác nhau.
- Ý thức pháp luật mang tính giai cấp. Không có ý thức pháp luật thuần túy,
ngoài giai cấp, phi giai cấp. Suy cho cùng, ý thức pháp luật chính là sản phẩm
từng giai cấp trong sự phát triển của lịch sử xã hội. Nó là tiền đề để xây dựng
các giá trị, chuẩn mực pháp lí của từng giai cấp đối với xã hội, là cơ sở để
hình thành thế giới quan pháp lí chính thống trong xã hội. Trong xã hội có giai
cấp, sự khác nhau về điều kiện sinh hoạt vật chất, tinh thần của mỗi giai cấp,
tầng lớp xã hội đã đem lại sự khác nhau nhất định về ý thức pháp luật giữa
các giai cấp và các lực lượng cầm quyền.
- Ý thức pháp luật được coi là tiền đề thiết yếu cho quá trình để tạo lập hay
làm ra pháp luật bằng những con đường, cách thức cụ thể khác nhau thông
qua nhà nước. Nhu cầu, khuynh hướng điều chỉnh và phương thức thể hiện
nhà nước bảo đảm cho quá trình pháp luật hóa quan hệ xã hội một cách phù
hợp, sát thực trên thực tế được thực hiện qua phạm trù ý thức pháp luật.
- Trong quá trình vận động và phát triển, ý thức pháp luật có tính kế thừa trên
cơ sở chọn lọc đối với một số nhân tố của ý thức pháp luật trước đó, chẳng
hạn như các nguyên lí, học thuyết của pháp luật hoặc các tư tưởng, giá trị
pháp lí ghi nhận về quyền con người...
- Trong ý thức pháp luật có bộ phận tư tưởng khoa học về pháp luật có thể
vượt lên trước tồn tại xã hội. Đối với hệ tư tưởng pháp luật thì tri thức khoa
học là yếu tố cơ bản bởi nó có thể đem lại sự nhìn nhận khách quan đối với
tồn tại xã hội. 'Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng khoa học có tính
dẫn đường, đi trước đối với tồn tại xã hội. Điều này không đơn thuần khẳng
định sự độc lập tương đối của ý thức pháp luật so với tồn tại xã hội mà nó là
tiền đề tư tưởng - pháp lí trực tiếp góp phần phục vụ cho quá trình điều chỉnh
pháp luật và công cuộc cải tạo xã hội trên thực tế.
- Ý thức pháp luật có quan hệ và sự tác động qua lại với các hình thái ý thức
xã hội khác cũng như các hiện tượng khác của thượng tầng pháp lí. Nhìn
chung, sự tác động của ý thức pháp luật với ý thức chính trị, ý thức đạo đức,
ý thức tôn giáo... luôn thể hiện ở sự đan xen, tương hỗ lẫn nhau trong quá
trình tồn tại và vận động. Sẽ là sự tác động tích cực nếu có sự phù hợp giữa
ý thức pháp luật với các loại hình ý thức đó và ngược lại, đó sẽ là nhân tố cản
trở lẫn nhau nếu giữa các phạm trù ý thức đó thiếu đi sự tương đồng cần thiết.
Có thể nói, ý thức chính trị và ý thức pháp luật không chỉ cùng xuất hiện và
đồng hành tồn tại trong môi trường xã hội có giai cấp mà giữa nó có sự gắn
bó, tương tác với nhau. Thực tiễn nhận thức cũng đã từng có quan niệm sai
lầm dẫn đến mặc nhiên nhất thể hoá hai hiện tượng ý thức này, coi ý thức
pháp luật là một phần của ý thức chính trị và giáo dục chính trị đồng nghĩa
vớì giáo dục pháp luật. Ý thức pháp luật và ý thức chính trị đều coi trọng, sử
dụng công cụ pháp luật để thể hiện các yêu cầu, nội dung của mình trong đời
sống thực tiễn, đời sống chính trị - pháp lí. Nếu như ý thức chính trị là quan
niệm, học thuyết, quan điểm về chính trị của giai cấp cầm quyền có vai trò
định hướng cho ý thức pháp luật trong xây dựng và tổ chức thực thi pháp luật
thì ý thức pháp luật sẽ làm sâu sắc hơn việc chuyển tải, thể hiện các nội dung
phạm trù của ý thức chính trị thông qua chế định pháp luật.
Ý thức đạo đức là loại hình ý thức xuất hiện sớm nhất cùng với xã hội con
người. Đó là những phạm trù, nguyên lí cho việc hình thành hệ thống chuẩn
mực đạo đức được lưu truyền, phổ biến để quản lí xã hội. Ý thức pháp luật
xuất hiện muộn hơn nhưng có quan hệ chặt chẽ với ý thức đạo đức bởi cả
hai phạm trù ý thức này đều có vai trò tiền đề nhận thức cho việc hình thành
các công cụ quản lí xã hội thiết yếu là đạo đức và pháp luật. Trên- thực tế, sự
hài hoà và tác động qua lại lẫn nhau giữa đạo đức và pháp luật toong quá
trình điều chỉnh các quan hệ xã hội chỉ có thể được đặt ra trên nền tảng sự
thống nhất tương đối giữa ý thức đạo đức và ý thức pháp luật.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, các quan niệm về tôn giáo xuất hiện từ thời kì xã
hội nguyên thủy. Đó là ý thức sơ khai về niềm tin có một sự chở che của thần
linh với con người. Cùng với sự phát triển, ý thức tôn giáo cũng có đổi thay ít
nhiều về khuynh hướng, nội dung nhưng nhìn chung xét về bản chất nó phục
thiện, vị nhân. Giữa ý thức pháp luật và ý thức tôn giáo đều hướng tới sự
hoàn thiện nhân cách con người, điều chỉnh hành vi con người và đều thể
hiện nội dung, ý chí của mình bằng hệ thống quy tắc, chuẩn mực trên thực tế.
Như vậy, ý thức pháp luật là nền tảng cho hệ thống pháp luật thực định thì ý
thức tôn giáo là nền tảng cho các quy tắc của các tôn giáo.
Sự tác động qua lại giữa ý thức pháp luật đối với các bộ phận khác của kiến
trúc thượng tầng pháp lí như nhà nước, pháp luật luôn là sự tương tác cơ
bản và có ý nghĩa quan trọng nhất. Ý thức pháp luật chi phối trực tiếp việc
hình thành hệ thống cơ quan nhà nước và quá trình thực thi quyền lực nhà
nước. Ý thức pháp luật là nhân tố tiền đề cho việc xây dựng pháp luật, tổ
chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật.
3. Cấu trúc của ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật, xét về cấu trúc, bao gồm hai bộ phận:
1) Tư tưởng pháp luật, đó là tổng thể những quan điểm, quan niệm, học
thuyết, sự hiểu biết về pháp luật;
2) Tâm lí pháp luật, đó là thái độ, tình cảm của con người đối với pháp luật.
Tình cảm đó có thể là sự đồng tình, sự vui mừng phấn khởi, sự tôn trọng
pháp luật hoặc là sự phản đối, sự thờ ơ, thiếu tôn trọng pháp luật.
Ý thức pháp luật có thể hiểu trên nhiều cấp độ khác nhau, vì vậy có thể phân
chia ý thức pháp luật thành các loại: ý thức pháp luật cá nhân, ý thức pháp
luật giai cấp, ý thức pháp luật xã hội. Trong các nhà nước bóc lột, ý thức
pháp luật của giai cấp thống trị và giai cấp bị thống trị hoàn toàn khác nhau.
Do nhiều quy định của pháp luật chỉ thể hiện ý chí và bảo vệ quyền lợi của
giai cấp thống trị mà không bảo vệ quyền lợi của giai cấp bị thống trị nên một
đạo luật được giai cấp thống trị ủng hộ lại gặp phải sự phản đối quyết liệt từ
phía giai cấp bị thống trị. Trong các nhà nước dân chủ, tiến bộ khi pháp luật
thể hiện ý chí chung của nhân dân thì ý thức pháp luật trong xã hội sẽ thống
nhất, việc nâng cao ý thức pháp luật cho các tầng lớp nhân dân sẽ thuận lợi
hơn. Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, chịu sự chỉ phối của tổn
tại xã hội. Vì vậy, muốn nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân, trước hết
phải chăm lo đến đời sống của nhân dân, làm cho đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân ngày một nâng cao. Xây dựng một xã hội dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh là tạo ra một nền tảng kinh tế-xã
hội để xây dựng một xã hội có ý thức pháp luật và văn hoá pháp lí cao. Mặt
khác, ý thức pháp luật có tính độc lập tương đối, nó có thể đi trước làm tiền
để cho kinh tế-xã hội phát triển. Vì vậy, việc tuyên truyền giáo dục pháp luật
cho các tầng lớp nhân dân trong xã hội, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân
dân có vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển.
4. Phân tích tác động của pháp luật đối với ý thức pháp luật
Pháp luật trong sự hình thành, tồn tại và phát huy giá trị của mình luôn chịu
sự tác động của ý thức pháp luật. Ngược lại, pháp luật cũng tác động đến sự
vận động, phát triển của ý thức pháp luật.
Xét từ góc độ chung, sự tồn tại của hệ thống pháp luật bằng nhiều cách sẽ
tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên nhận thức của các chủ thể, do đó nó trở
thành nhân tố, phương tiện thúc đẩy sự phát triển của ý thức pháp luật trên
thực tế. Điều này cũng có thể lí giải thêm bởi chính pháp luật là “nguồn”, bộ
phận cơ bản để tạo nên nội dung của hệ tư tưởng pháp luật cũng như định
hướng tâm lí pháp luật đối với các chủ thể. Như vậy, hệ thống pháp luật hoàn
chỉnh, khách quan sẽ là điều kiện thiết yếu cho việc nâng cao ý thức pháp luật trên thực tế.
Xét từ góc độ thực tế, cụ thể, pháp luật hoàn toàn không có khả năng tự tác
động vào ý thức của con người mà nó được chuyển hoá thông qua chính quá
trình nhận thức của con người. Như vậy, khi cá nhân con người có năng lực
nhận thức, ý thức và sự hiểu biết pháp luật tốt thì sự tác động của các quy
định pháp luật lên ý thức của họ diễn ra theo chiều hướng thuận lợi và khả
năng đem lại hiệu quả cao. Ngược lại, đối với người năng lực nhận thức và ý
thức pháp luật thấp kém thì sự tác động của pháp luật lại diễn ra hạn chế, kém hiệu quả.
Document Outline

  • Ý thức pháp luật là gì? Đặc điểm, cấu trúc của ý t
    • 1. Khái niệm ý thức pháp luật
    • 2. Đặc điểm của ý thức pháp luật
    • 3. Cấu trúc của ý thức pháp luật
    • 4. Phân tích tác động của pháp luật đối với ý thức