Quiz: TOP 344 Câu hỏi trắc nghiệm môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin (Có đáp án) | Học viện Nông Nghiệp Việt Nam
Câu hỏi trắc nghiệm
Tác phẩm chuyên luận về Kinh tế chính trị của tác giả Antoine de Montehrétien.
Thuật ngữ “kinh tế chính trị” lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1615.
Kinh tế chính trị Mác ra đời kế thừa trực tiếp từ kinh tế chính trị cổ điển Anh.
Kinh tế chính trị chính thức trở thành một môn khoa học vào thế kỷ 18.
Chủ nghĩa trọng Thương được ghi nhận là hệ thống lý luận kinh tế chính trị bước đầu nghiên cứu về nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa trọng Thương đặc biệt coi trọng vai trò hoạt động trong lĩnh vực lưu thông.
Chủ nghĩa trọng Thương ra đời ở thời kỳ: Tích lũy nguyên thủy tư bản chủ nghĩa.
Ý nghĩa của tư tưởng kinh tế của chủ nghĩa trọng Thương là : Chưa phát hiện quy luật kinh tế.
Chủ nghĩa trọng Thương đặc biệt coi trọng vai trò hoạt động trong lĩnh vực : Lưu thông.
Chủ nghĩa trọng Thương lý giải nguồn gốc của lợi nhuận được tạo ra từ : Thương nghiệp.
Chủ nghĩa trọng Nông là hệ thống lý luận kinh tế đi sâu vào nghiên cứu và phân tích để rút ra lý luận kinh tế từ lĩnh vực : Nông nghiệp.
Kinh tế chính trị Tư sản cổ điển Anh hình thành và phát triển vào thời gian: Cuối thế kỷ 18 đến nửa đầu thế kỷ 19.
W. Petty là người sáng lập ra trường phái: Kinh tế chính trị cổ điển Anh.
C.Mác đã đánh giá người sáng lập ra kinh tế chính trị cổ điển Anh là W. Petty.
Lý luận kinh tế chính trị của Mác được kế thừa và phát triển trực tiếp từ thành tựu của kinh tế chính trị cổ điển Anh.
Đáp án đúng là: David Recacdo là nhà kinh tế chính trị cổ điển Anh.
Lý luận kinh tế chính trị của C.Mác và Ph.Ăngghen được thể hiện tập trung và cô đọng nhất trong tác phẩm : Tư bản.
Học thuyết giá trị thặng dư giữ vị trí là “Hòn đá tảng” trong toàn bộ lý luận kinh tế của Mác.
Kinh tế chính trị Mác - Lênin bắt đầu phát triển vào thời gian : Từ giữa thế kỷ XIX.
Đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa trọng Thương thuộc lĩnh vực : Lưu thông.
Chủ nghĩa trọng Nông có đối tượng nghiên cứu thuộc lĩnh vực : Nông nghiệp.
Đối tượng nghiên cứu của Kinh tế chính trị cổ điển Anh là các quan hệ kinh tế trong lĩnh vực : Sản xuất.
Đáp án đúng là: A. Smith là nhà Kinh tế chính trị cổ điển Anh.
Đối tượng nghiên cứu của Kinh tế chính trị cổ điển Anh là các quan hệ kinh tế trong lĩnh vực : Sản xuất.
Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin là các quan hệ xã hội của sản xuất và trao đổi đặt trong mối liên hệ biện chứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng với phương thức sản xuất nhất định.
Mục đích nghiên cứu của Kinh tế chính trị Mác - Lênin là : Phát hiện ra các quy luật kinh tế chi phối các quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao đổi.
Kinh tế chính trị Mác - Lênin có nhiệm vụ nghiên cứu là tìm ra bản chất của quan hệ sản xuất xã hội.
Quy luật kinh tế là : Những mối liên hệ phản ánh bản chất, khách quan, lặp lại của các hiện tượng và quá trình kinh tế.
Quy luật kinh tế tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con người, con người không thể thủ tiêu quy luật kinh tế nhưng có thể nhận thức và vận dụng để phục vụ cho lợi ích của mình.
Chính sách kinh tế là sản phẩm chủ quan của con người được hình thành trên cơ sở vận dụng các quy luật kinh tế.
Kinh tế chính trị Mác - Lênin có các chức năng : Nhận thức, thực tiễn, tư tưởng, phương pháp luận.
Phương pháp quan trọng nhất trong nghiên cứu kinh tế chính trị Mác - Lênin là : Trừu tượng hóa khoa học.
Phương pháp trừu tượng hóa khoa học trong nghiên cứu kinh tế chính trị Mác - Lênin đòi hỏi : Gạt bỏ các yếu tố ngẫu nhiên tạm thời gián tiếp trên cơ sở đó tách ra được những dấu hiệu điển hình bền vững ổn định trực tiếp của đối tượng nghiên cứu.
Chính sách kinh tế là sản phẩm chủ quan của con người được hình thành trên cơ sở vận dụng các quy luật kinh tế.
Sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế mà ở đó, những người sản xuất ra sản phẩm nhằm mục đích trao đổi, mua bán.
Hình thức kinh tế đầu tiên của xã hội loài người là kinh tế tự nhiên.
Sản xuất hàng hoá xuất hiện dựa trên cơ sở phân công lao động xã hội và sự tách biệt tương đối về kinh tế giữa những người sản xuất.
Mục đích của người sản xuất trong kinh tế tự nhiên là : Tự tiêu dùng.
Phân công lao động xã hội là: Sự phân chia lao ộng xã hội thành các ngành, nghề khác nhau.
Mục đích của người sản xuất trong kinh tế hàng hoá là trao đổi, mua bán.
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội thành các ngành, lĩnh vực sản xuất khác nhau tạo nên sự chuyên môn hóa của những người sản xuất những ngành, nghề khác nhau.
Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá là : Phân công lao động xã hội và sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất.
Ưu thế của sản xuất hàng hoá là thúc đẩy sự phân công lao động xã hội, năng suất lao động và mở rộng giao lưu kinh tế.
Mặt trái của sản xuất hàng hoá là : Phân hoá giàu - nghèo, tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng kinh tế, gây ô nhiễm môi trường.
Hàng hoá là sản phẩm của lao động, có thể thoả mãn một nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.
Hàng hoá có những đặc điểm sau : Không cất trữ được, sản xuất và tiêu dùng diễn ra đồng thời.
Đặc điểm của hàng hoá hữu hình là có thể cất trữ được, tồn tại ở các dạng vật thể, thực hiện giá trị sử dụng và giá trị cùng diễn ra.
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi hoặc mua bán trên thị trường.
Phân công lao động xã hội làm cho những người sản xuất hàng hóa phụ thuộc vào nhau.
C. Mác cho rằng, các hàng hoá trao đổi được với nhau, bởi vì đều là sản phẩm của lao động, kết tinh một lượng lao động xã hội bằng nhau.
Số lượng các giá trị sử dụng của hàng hoá phụ thuộc vào nhân tố : Trình độ khoa học công nghệ.
Giá trị sử dụng của hàng hoá nhằm thoả mãn nhu cầu của người mua.
Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất hàng hóa làm cho những người sản xuất hàng hóa độc lập, đối lập với nhau.
Mục đích của kinh tế tự nhiên là tiêu dùng cho bản thân người sản xuất ra nó.
Giá trị hàng hoá được tạo ra từ quá trình sản xuất.
Nhân tố sau quyết định giá trị hàng hoá : Hao phí lao động của người sản xuất.
Hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị hàng hoá là giá trị trao đổi.
Mục đích của sản xuất hàng hóa là vì: Lợi nhuận.
Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân, vừa mang tính xã hội.
Giá cả hàng hoá là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá.
Để xác định giá cả của hàng hoá cần dựa trên cơ sở: Giá trị của hàng hoá.
Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
Lao động cụ thể là lao động có đích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
Cơ sở để hàng hoá A có thể trao đổi được với hàng hoá B là lượng lao động hao phí của hàng hoá A = hàng hoá B.
Giá trị sử dụng của hàng hoá là phạm trù vĩnh viễn.
Giá trị của hàng hoá là phạm trù lịch sử.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian đòi hỏi để sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó trong những điều kiện bình thường của xã hội với trình độ thành thạo trung bình, cường độ lao động trung bình .
Lượng giá trị của một đơn vị hàng hoá là : Lượng lao động đã hao phí để sản xuất ra hàng hoá đó.
Lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động chuyên môn lành nghề mới có thể tiến hành được là lao động phức tạp.
Lao động trừu tượng trong lao động sản xuất hàng hóa tạo ra giá trị hàng hóa.
Khi năng suất lao động tăng lên thì tổng số sản phẩm tăng và lượng giá trị trong một đơn vị hàng hoá giảm.
Việc tăng năng suất lao động ảnh hưởng đến các nhân tố khác : Tổng số sản phẩm tăng, tổng giá trị sản phẩm không đổi và lượng giá trị trong một đơn vị hàng hoá giảm.
Vai trò của lao động trừu tượng trong sản xuất hàng hóa là: Tạo ra giá trị hàng hóa.
Mâu thuẫn cơ bản của lao động sản xuất hàng hóa là: Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội.
Quan hệ giữa năng suất lao động và lượng giá trị trong một đơn vị hàng hoá là tỉ lệ nghịch.
Chọn phương án đúng: Khi tăng cường độ lao động thì tổng số sản phẩm tăng và lượng giá trị trong một đơn vị hàng hoá không đổi.
Việc tăng cường độ lao động làm cho tổng số sản phẩm tăng, tổng giá trị sản phẩm tăng và lượng giá trị trong một đơn vị hàng hoá không đổi.
Hai thuộc tính của hàng hóa là giá trị sử dụng và giá trị.
Khi năng suất lao động tăng lên 2 lần thì tổng số sản phẩm tăng lên 2 lần và lượng giá trị trong một đơn vị hàng hoá cũng giảm xuống 2 lần.
Hàng hóa là sản phẩm của lao động thỏa mãn nhu cầu của con người thông qua trao đổi, mua bán trên thị trường.
Khi tăng cường độ lao động lên 2 lần thì các nhân tố khác : quyết định lượng giá trị sử dụng.
Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của vật phẩm thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.
Các nhân tố khác biến động khi tăng cường độ lao động lên 2 lần : Tổng số sản phẩm, tổng giá trị sản phẩm cùng tăng lên 2 lần và lượng giá trị trong một đơn vị hàng hoá không đổi.
Năng suất lao động tăng lên 2 lần làm cho tổng số sản phẩm tăng 2 lần, tổng giá trị sản phẩm không đổi và lượng giá trị trong một đơn vị hàng hoá giảm xuống 2 lần.
Giá trị sử dụng của hàng hóa là phạm trù vĩnh viễn.
Khi đồng thời tăng năng suất lao động và cường độ lao động lên 2 lần thì tổng số sản phẩm tăng lên 4 lần, tổng giá trị sản phẩm tăng 2 lần.
Điểm giống nhau khi tăng năng suất lao động và cường độ lao động là: Tổng số sản phẩm tăng.
Nhân tố cơ bản, lâu dài để tăng sản phẩm cho xã hội là tăng năng suất lao động.
Số lượng giá trị sử dụng của hàng hóa phụ thuộc vào nhân tố : Trình độ khoa học công nghệ.
Lao động giản đơn là: Lao động không phải trải qua huấn luyện, đào tạo.
Giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa.
Lao động phức tạp là lao động trải qua huấn luyện, đào tạo, lao động thành thạo.
Giá cả hàng hóa là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa.
Mức độ phức tạp của lao động thể hiện điều : Trong cùng một thời gian, một hoạt động lao động phức tạp sẽ tạo ra được nhiều lượng giá trị hơn so với lao động giản đơn.
Hàng hoá có hai thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng, bởi vì lao động sản xuất hàng hoá có tính hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
Tính hai mặt của lao ộng sản xuất hàng hoá là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
Giá trị sử dụng của hàng hóa được quy định bởi thuộc tính tự nhiên của hàng hóa.
Giá cả hàng hóa là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa.
C. Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá.
Quan hệ tỷ lệ về lượng trong trao đổi giữa các hàng hóa với nhau bị quy định bởi giá trị của hàng hóa.
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
Lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa.
Lao động cụ thể là nguồn gốc của của cải.
Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá.
Giá trị của hàng hóa được tạo bởi lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa.
Lao động cụ thể phản ánh tính chất sau của người sản xuất hàng hoá : Tư nhân.
Lao động trừu tượng là : Lao động xã hội của người sản xuất hàng họá không kể đến những hình thức cụ thể của nó, đó là sự hao phí sức lao động của người sản xuất hàng hoá về cơ bắp, thần kinh, trí óc.
Lao động trừu tượng là nguồn gốc của giá trị.
Giá trị của hàng hoá được xác định bởi lao động trừu tượng.
Lao động trừu tượng phản ánh tính chất sau của người sản xuất hàng hoá : Vĩnh viễn.
Cơ sở chung của quan hệ trao đổi giữa các hàng hóa là hao phí lao động kết tinh trong hàng hóa.
Giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên của hàng hóa, còn giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hóa.
Trong các yếu tố trên, yếu tố sau là nguồn gốc của giá trị hàng hóa : Lao động của người sản xuất hàng hóa.
Cơ sở hình thành giá cả hàng hóa là: Giá trị của hàng hoá.
Giá trị cá biệt của hàng hoá do hao phí lao động cá biệt của người sản xuất quyết định.
Nguồn gốc của tiền tệ là kết quả của : Quá trình phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá.
Hình thái giá trị đầu tiên của tiền tệ là hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên.
Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển đòi hỏi phải có một vật ngang giá chung xuất hiện ở : Hình thái chung của giá trị.
Giá trị của tất cả mọi hàng hoá đều được biểu hiện của một hàng hoá đóng vai trò tiền tệ xuất hiện trong hình thái tiền tệ.
Bản chất của tiền : Là loại hàng hoá đặc biệt, làm vật ngang giá chung cho thế giới hàng hoá và phản ánh lao động xã hội.
Tiền tệ có 5 chức năng.
Thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền được dùng để đo lường biểu hiện giá trị của các hàng hoá khác.
Tiền được dùng làm gì khi thực hiện chức năng phương tiện lưu thông môi giới trong quá trình trao đổi hàng hoá.
Thực hiện chức năng phương tiện thanh toán, tiền được dùng để trả nợ, nộp thuế, trả tiền mua hàng chịu,...
Tiền được dùng làm điều sau khi thực hiện chức năng tiền tệ thế giới : Mua bán, thanh toán quốc tế.
Chọn phương án đúng nhất: Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa là vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau.
Phương án đúng nhất là: Thực hiện chức năng tiền tệ thế giới, tiền phải đáp ứng yêu cầu có đủ giá trị, tiền vàng hoặc những đồng tiền được công nhận là phương tiện thanh toán quốc tế.
Khi tăng năng suất lao động thì lượng giá trị 1 đơn vị hàng hoá giảm xuống.
Phương án đúng nhất là: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, một số hàng hoá đặc biệt gồm có quyền sử dụng đất đai, thương hiệu, chứng khoán và một số giấy tờ có giá khác.
Nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa là : Năng suất lao động và mức độ phức tạp của lao động.
Thị trường theo nghĩa cụ thể là: Nơi diễn ra hành vi trao đổi, mua bán hàng hoá giữa các chủ thể kinh tế với nhau.
Theo nghĩa trừu tượng, thị trường là tổng hoà các mối quan hệ liên quan đến trao đổi, mua bán hàng hoá, dịch vụ trong xã hội.
Thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất hàng hóa là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa trong điều kiện bình thường của xã hội.
Cấu thành thị trường gồm những yếu tố : Hàng hóa, tiền tệ, người mua, người bán.
Ưu thế của nền kinh tế thị trường là : Luôn tạo động lực cho chủ thể kinh tế, phát huy tốt tiềm năng của mọi chủ thể kinh tế và tạo ra các phương thức để thoả mãn tối đa nhu cầu của con người.
Khi năng suất lao động tăng, lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa: Giảm xuống.
Đặc trưng phổ biến của nền kinh tế thị trường là có sự đa dạng của các chủ thể kinh tế, nhiều hình thức sở hữu; thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực xã hội; giá cả được hình thành theo nguyên tắc thị trường; là nền kinh tế mở.
Trong các nhân tố trên, nhân tố sau ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa : Năng suất lao động.
Lượng giá trị của hàng hóa do nhân tố sau quyết định : Thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa.
Những khuyết tật của nền kinh tế thị trường là : Tiềm ẩn rủi ro khủng hoảng; xu hướng cạn kiệt tài nguyên không thế tái tạo được; phân hoá sâu sắc trong xã hội.
Giá trị của hàng hoá sức lao động phụ thuộc vào yếu tố sau: Năng suất lao động xã hội, nhất là trong những ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt.
Sức lao động là hàng hoá khi tự do về thân thể và không có tư liệu sản xuất.
Giá trị sử dụng hàng hoá sức lao động là : Cả A, B, C (Thoả mãn nhu cầu của người mua nó ; Công dụng của hàng hoá sức lao động ; Tính có ích của hàng hoá sức lao động).
Để sức lao động trở thành hàng hoá cần điều kiện: Người lao động được tự do về thân thể và không có đủ những tư liệu sản xuất cần thiết để tự kết hợp với sức lao động của mình để tạo ra hàng hoá để bán.
Tư bản : Là giá trị mang lại giá trị thặng dư.
Giá trị thặng dư là bộ phận giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra.
Về mặt lượng, tư bản bất biến trong quá trình sản xuất sẽ thay đổi : Không tăng lên.
Tư bản là : Giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê.
Tư bản khả biến trong quá trình sản xuất sẽ tăng lên về mặt lượng.
Tỉ suất giá trị thặng dư biểu hiện trình độ bóc lột của tư bản đối với lao động làm thuê.
Khối lượng giá trị thặng dư phản ánh điều sau : Quy mô bóc lột của tư bản đối với lao động làm thuê.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối là : Rút ngắn thời gian lao động tất yếu, giữ nguyên hoặc rút ngắn độ dài ngày lao động.
Tiền công dưới CNTB là giá cả sức lao động.
Để tăng cường bóc lột giá trị thặng dư tương đối cần phải tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt.
Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là hao phí lao động quá khứ và phần lao động sống được trả công.
Lợi nhuận là : Hình thức biến tướng của giá trị thặng dư.
Nguyên nhân sau dẫn đến sự bình quân hoá lợi nhuận : Cạnh tranh giữa các ngành.
Công thức chung của tư bản là: T – H - T’.
Sức lao động trở thành hàng hóa khi sản xuất hàng hóa ra đời.
Lợi nhuận bình quân là : Lợi nhuận bằng nhau của những tư bản như nhau đầu tư vào các ngành khác nhau.
Giá cả sản xuất bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân.
Vai trò của máy móc trong quá trình sản xuất : Tiền đề vật chất cho việc tạo ra giá trị thặng dư.
Giá trị sử dụng hàng hoá sức lao động khác với giá trị sử dụng hàng hoá thông thường ở điểm : Phụ thuộc vào yếu tố tinh thần và lịch sử.
Tiền lương danh nghĩa là : Tiền người công nhân nhận được dưới hình thái tiền.
Bản chất của tư bản là : Quan hệ sản xuất xã hội.
Điều kiện tái sản xuất mở rộng TBCN : Qui mô tư bản khả biến phải lớn hơn trước.
Dựa vào căn cứ sau để phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến: Vai trò của từng bộ phận tư bản trong việc sản xuất ra giá trị thặng dư.
Sự giống nhau giữa p và m : Là phần lao động không công của người công nhân.
Sức lao động là hàng hoá đặc biệt, bởi vì khi sử dụng nó thì tạo ra được một lượng giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành dẫn đến giảm giá trị thị trường của hàng hóa và hình thành lợi nhuận bình quân.
Cặp phạm trù sau là phát hiện riêng của Mác : Lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
Việc mua bán sức lao động và mua bán nô lệ có sự khác nhau như : Cả A, B, C (Bán nô lệ là bán con người, bán sức lao động là bán khả năng lao động của con người ; Bán sức lao động thì người lao động là người bán, còn bán nô lệ thì nô lệ bị người khác bán ; Bán sức lao động là bán có thời hạn còn bán nô lệ không có thời hạn).
Cấu tạo hữu cơ của tư bản là : Cấu tạo giá trị khi phản ánh sự biến đổi của cấu tạo kĩ thuật của tư bản.
Khi tỉ lệ phân chia giữa tích luỹ và tiêu dùng đã được xác định thì quy mô tích luỹ phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Muốn tăng khối lượng giá trị thặng dư thì nhân tố quyết định là tăng năng suất lao động.
Các ý đúng về mua bán sức lao động là : Cả A, B, C (Bán chịu ; Giá cả nhỏ hơn giá trị do sức lao động tạo ra ; Mua, bán có thời hạn).
Giá trị hàng hóa sức lao động gồm những ý sau: Cả A, B, C (Giá trị các tư liệu tiêu dùng để tái sản xuất sức lao động của công nhân và nuôi gia đình của họ ; Chi phí để thỏa mãn nhu cầu về văn hóa, tinh thần ; Chi phí đào tạo người lao động).
Yếu tố làm tăng nhanh quy mô của tư bản xã hội là tích tụ tư bản.
Tích luỹ tư bản là giá trị thặng dư được tư bản hoá.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối có điểm sau giống nhau : Đều làm tăng tỉ suất giá trị thặng dư.
Cấu tạo hữu cơ (c/v) phản ánh trình độ ứng dụng khoa học - kĩ thuật vào sản xuất.
Địa tô tư bản chủ nghĩa là phần còn lại sau khi khấu trừ lợi nhuận bình quân.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối được áp dụng phổ biến trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản.
Trong chủ nghĩa tư bản, giá cả nông phẩm được xác định theo giá cả của nông phẩm của loại đất xấu.
Địa tô chênh lệch II thu được trên loại : Ruộng đất đã được đầu tư, thâm canh.
Tốc độ chu chuyển của tư bản tăng lên thì tỉ suất lợi nhuận sẽ tăng lên.
Cạnh tranh giữa các ngành xảy ra khi có sự khác nhau về yếu tố : Tỉ suất lợi nhuận.
Lợi nhuận bình quân của các ngành khác nhau phụ thuộc vào tỉ suất lợi nhuận bình quân.
Nhân tố sau đây KHÔNG ảnh hưởng đến tỉ suất lợi nhuận : Cạnh tranh.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư được thực hiện trên cơ sở kéo dài tuyệt đối ngày lao động của công nhân trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không đổi.
Giới hạn của phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối : Cả A, B, C (Độ dài ngày lao động không thể vượt quá 24 giờ ; Sự đấu tranh quyết liệt của phong trào công nhân đòi giảm giờ làm ; Phụ thuộc vào thể chất và tinh thần của người công nhân).
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là kéo dài ngày lao động, thời gian lao động tất yếu không thay đổi.
Sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến để làm rõ nguồn gốc của giá trị thặng dư.
Khi trả tiền công bằng giá trị sức lao động cho công nhân làm thuê, nhà tư bản thu được : Giá trị thặng dư.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối là rút ngắn thời gian lao động tất yếu trong khi độ dài ngày lao động không đổi hoặc rút ngắn.
Ngày lao động là 8 giờ, tỉ suất giá trị thặng dư là m’ = 100, nhà tư bản tăng ngày lao động lên 1 giờ và giá trị sức lao động giảm đi 25%. Vậy tỉ suất giá trị thặng dư mới sẽ là 200%.
“Một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do người công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không” là giá trị thặng dư.
Trong tổng giá trị của hàng hóa được sản xuất ra, giá trị cũ được cấu thành bởi máy móc, thiết bị, nhà xưởng và nguyên vật liệu.
Nguyên nhân hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân là : Cạnh tranh giữa các ngành.
Tư bản bất biến là tư bản mà giá trị của nó không thay đổi về lượng và được chuyển nguyên sang sản phẩm.
Khẳng định sau đây KHÔNG đúng về tư bản cố định : Tư bản cố định là nguồn gốc của giá trị thặng dư.
Trong tổng giá trị của hàng hóa được sản xuất ra, giá trị mới được cấu thành bởi: Giá trị sức lao động và giá trị thặng dư.
Ý kiến sau đây KHÔNG đúng về hàng hoá sức lao động : Giá cả = giá trị mới do sức lao động tạo ra.
Thời gian lao động tất yếu là thời gian mà người công nhân tạo ra lượng giá trị ngang với giá trị sức lao động của người công nhân.
Thời gian lao động thặng dư là thời gian mà người công nhân tạo ra giá trị thặng dư.
Lợi tức tư bản cho vay biến động theo quan hệ cung - cầu về tư bản cho vay thông qua cung > cầu, lợi tức giảm.
Lợi nhuận có nguồn gốc từ lao động không được trả công.
Nhà tư bản công nghiệp “nhượng” một phần giá trị thặng dư cho nhà tư bản thương nghiệp bằng cách bán hàng hóa cho nhà tư bản thương nghiệp với giá cả thấp hơn giá trị.
Địa tô tư bản chủ nghĩa là một phần của giá trị thặng dư trong nông nghiệp.
Địa tô tư bản chủ nghĩa có nguồn gốc từ lao động của công nhân làm thuê trong lĩnh vực nông nghiệp.
Địa tô chênh lệch I là : Lợi nhuận siêu ngạch do sản xuất trên ruộng đất tốt và độ màu mỡ cao, điều kiện tự nhiên thuận lợi tạo ra.
Tuần hoàn của tư bản là: Sự vận động liên tục qua các hình thức khác nhau để trở về hình thái ban đầu cùng với lượng giá trị thặng dư.
Nhận xét về giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch, ý sau đúng : Cả A, B, C (Đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động ; Giá trị thặng dư tương đối dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội còn giá trị thặng dư siêu ngạch dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động cá biệt ; Giá trị thặng dư siêu ngạch có thể chuyển hóa thành giá trị thặng dư tương đối).
Nhân tố sau ảnh hưởng đến tốc độ chu chuyển của tư bản : Thời gian sản xuất và thời gian lưu thông để thực hiện một vòng tuần hoàn.
Dựa vào căn cứ sau để phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động : Phương thức chu chuyển giá trị của tư bản sản xuất vào giá trị sản phẩm.
Giải pháp quan trọng nhất để giảm thời gian sản xuất, tăng tốc độ chu chuyển của tư bản là sử dụng máy móc thiết bị công nghệ hiện đại.
Biện pháp sau là quan trọng nhất để giảm thời gian lưu thông, tăng tốc độ chu chuyển của tư bản : Sản xuất ra hàng hoá chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
Thời gian của một vòng chu chuyển của tư bản bao gồm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông.
Nền kinh tế tri thức được xem là một nấc thang phát triển của lực lượng sản xuất.
Nguyên nhân cơ bản làm cho tư bản cố định hao mòn hữu hình là do sử dụng và tác dộng của tự nhiên gây ra.
Sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến là để biết nguồn gốc của giá trị thặng dư.
Vai trò của máy móc trong quá trình tạo ra giá trị thặng dư là : Máy móc là tiền đề vật chất cho việc tạo ra giá trị thặng dư.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành dựa trên : Cả A, B, C (Trình độ kỹ thuật, tay nghề của công nhân ; Trang thiết bị kỹ thuật công nghệ ; Khả năng tổ chức quản lý).
Tiền công trong tư bản chủ nghĩa là giá cả của sức lao động.
Điểm giống nhau giữa tích tụ và tập trung tư bản là đều làm tăng quy mô của tư bản cá biệt.
Điểm khác nhau giữa tích tụ và tập trung tư bản là biện pháp làm tăng quy mô tư bản cá biệt.
Tư bản thương nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản ra đời từ tư bản công nghiệp.
M = m’.v là công thức tính khối lượng giá trị thặng dư.
Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được do bán sức lao động của mình cho nhà tư bản.
Tốc độ chu chuyển của tư bản tăng lên thì tỉ suất lợi nhuận sẽ tăng lên.
Tập trung tư bản làm tăng quy mô của chỉ tư bản cá biệt.
Tích tụ tư bản phản ánh mối quan hệ trực tiếp giữa tư sản và công nhân.
Khẳng định sau đây KHÔNG đúng về lợi nhuận : Lợi nhuận là giá trị thặng dư được coi là con đẻ của tư bản ứng trước.
Thực chất của tích lũy tư bản là: Sự chuyển hóa một phần giá trị thặng dư thành tư bản.
Nguyên, nhiên, vật liệu chính là tư bản bất biến.
Cơ sở chung của giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch là tăng năng suất lao động.
Động cơ trực tiếp thúc đẩy tích lũy tư bản là quy luật giá trị thặng dư.
Đối với toàn xã hội tư bản, giá trị thặng dư siêu ngạch là một hiện tượng phổ biến và thường xuyên.
Tái sản xuất là : Quá trình sản xuất liên tục được lặp đi lặp lại không ngừng.
Nếu khối lượng giá trị thặng dư không đổi, quy mô tích lũy phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư cho tích lũy và tiêu dùng.
Ý sau đây KHÔNG đúng về tích luỹ tư bản : Tích luỹ tư bản là sự tiết kiệm tư bản.
Phương thức sản xuất TBCN có những giai đoạn : CNTB tự do cạnh tranh và CNTB độc quyền.
Sự hình thành các tổ chức độc quyền dựa trên cơ sở tích tụ tập trung sản xuất và sự ra đòi của các xí nghiệp quy mô lớn.
Mục đích của Hội chủ xí nghiệp trong chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là chi phối đường lối kinh tế và chính trị của nhà nước.
Biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền độc quyền nhà nước là: Sự điều tiết kinh tế của nhà nước.
Trong chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, sở hữu độc quyền nhà nước là sở hữu: Tập thể của giai cấp tư sản độc quyền.
Sở hữu nhà nước trong chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước bao gồm: Cả A, B, C (Những động sản cần thiết cho hoạt động của bộ máy nhà nước ; Những bất động sản cần thiết cho hoạt động của bộ máy nhà nước ; Những xí nghiệp cần thiết cho hoạt động của bộ máy nhà nước).
Sự ra đời của tư bản tài chính là kết quả của sự phát triển quá trình xâm nhập liên kết độc quyền ngân hàng với độc quyền.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền là một nấc thang mới trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện vào thời kỳ lịch sử : Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Vai trò mới của ngân hàng trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền là : Khống chế hoạt động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
CNTB độc quyền là một giai đoạn phát triển của PTSX TBCN.
“Chế độ tham dự” của tư bản tài chính được thiết lập do số cổ phiếu khống chế nắm công ty mẹ, con, cháu.
Xuất khẩu tư bản là đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Trong chủ nghĩa tư bản độc quyền, cạnh tranh không bị thủ tiêu : Vì cạnh tranh là quy luật khách quan của kinh tế hàng hoá.
Các cuộc xâm chiếm thuộc địa của các nước đế quốc diễn ra mạnh mẽ vào thời gian : Cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.
Xuất khẩu tư bản là: Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, cho nước ngoài vay.
Nguyên nhân cốt lõi từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh lên chủ nghĩa tư bản độc quyền là tự do cạnh tranh đẻ ra tập trung sản xuất dẫn đến độc quyền.
Nguyên nhân ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền là do: Cả A, B, C (Cạnh tranh tự do ; Khủng hoảng kinh tế ; Tác động của khoa học công nghệ).
Mục đích của xuất khẩu tư bản là chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi khác ở nước nhập khẩu tư bản.
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, nước đế quốc có thuộc địa nhiều nhất là Anh.
Đây KHÔNG phải là cách hình thành sở hữu nhà nước trong chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước : Giải thể xí nghiệp.
Đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền là: Xuất khẩu tư bản.
Đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền là: Tư bản tài chính và đầu sỏ tài chính.
Chức năng của sở hữu nhà nước trong chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là: Cả A, B, C (Mở rộng sản xuất tư bản chủ nghĩa ; Giải phóng tư bản của tổ chức độc quyền tư nhân ; Làm chỗ dựa về kinh tế cho nhà nước hoạt động).
Các tổ chức độc quyền sử dụng loại : Giá cả độc quyền cao.
Chức năng của sở hữu nhà nước trong chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là: Mở rộng sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền ra đời là do sự phát triển của: Lực lượng sản xuất.
Trong chủ nghĩa tư bản độc quyền, khoa học kỹ thuật phát triển dẫn đến: Cả A, B, C (Xuất hiện nhiều ngành nghề mới ; Năng suất lao động tăng ; Các xí nghiệp phải liên kết với nhau).
Trong thời kỳ CNTB độc quyền: Mâu thuẫn trên ngày càng sâu sắc hơn.
Chọn đáp án đúng nhất, chủ nghĩa tư bản độc quyền ra đời dưới sự tác động của sự phát triển khoa học kỹ thuật và quy luật giá trị.
Yếu tố sau đây KHÔNG phải là nguồn gốc lợi nhuận của lợi nhuận độc quyền cao : Giá trị thặng dư của các nhà tư bản vừa và nhỏ thu được.
Nguyên nhân xuất khẩu tư bản trong chủ nghĩa tư bản độc quyền là do: Một số nước tư bản “thừa tư bản” và một số nước nhỏ lạc hậu thiếu tư bản.
Mục đích chính của xuất khẩu tư bản trong chủ nghĩa tư bản độc quyền: Thu lợi nhuận nhiều hơn so với đầu tư trong nước.
Dựa vào hình thức đầu tư, có hình thức xuất khẩu : Xuất khẩu tư bản trực tiếp và xuất khẩu tư bản gián tiếp.
Dựa vào chủ thể xuất khẩu tư bản, có hình thức xuất khẩu tư bản: Nhà nước và tư nhân.
Trong thời kỳ CNTB độc quyền: Mâu thuẫn trên ngày càng sâu sắc hơn.
Cạnh tranh giữa các ngành dẫn đến hình thành lợi nhuận bình quân và tỉ suất lợi nhuận bình quân giữa các ngành.
Trong chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, công cụ để nhà nước điều tiết kinh tế là: Hệ thống tín dụng - tiền tệ.
Trong chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, sau đây KHÔNG phải là công cụ để nhà nước điều tiết kinh tế : Quân sự.
Biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn CNTB độc quyền : Lợi nhuận độc quyền cao.
Các tổ chức độc quyền áp đặt giá cả độc quyền: Giá cả cao khi bán và giá cả thấp khi mua.
Chính sách điều tiết kinh tế của nhà nước trong chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là: Chính sách chống lạm phát.
Trong chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, nhà nước tư sản đưa ra chính sách điều tiết : Chính sách tăng tưởng kinh tế.
Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản hình thành nhằm phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền tư nhân và tiếp tục duy trì, phát triển chủ nghĩa tư bản.
Chính sách điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản trong chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là: Chính sách kinh tế đối ngoại.
Nhà nước tư sản sử dụng công cụ sau để điều tiết kinh tế trong chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước : Cả A, B, C (Chỉ dùng ngân sách ; Chỉ dùng thuế ; Chỉ lập kế hoạch).
Loại cạnh tranh sau đây không thể hiện sự cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền : Cạnh tranh giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh nhỏ và vừa.
Tác động của xuất khẩu tư bản trong chủ nghĩa tư bản độc quyền: Cả A, B, C (Giúp các nước nhỏ lạc hậu phát triển kinh tế ; Tăng tính phụ thuộc ; Bành trướng sự thống trị của tư bản tài chính).
Loại cạnh tranh mới xuất hiện trong chủ nghĩa tư bản độc quyền là: Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền.
Loại cạnh tranh mới xuất hiện trong chủ nghĩa tư bản độc quyền là: Cạnh tranh giữa các xí nghiệp ngoài độc quyền và các tổ chức độc quyền.
Trong chủ nghĩa tư bản độc quyền, loại cạnh tranh sau mới xuất hiện : Cạnh tranh trong nội bộ tổ chức độc quyền.
Trong chủ nghĩa tư bản độc quyền, quy luật lợi nhuận độc quyền cao phản ánh: Thống trị và bóc lột.
Đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền là: Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền.
Loại cạnh tranh mới xuất hiện trong chủ nghĩa tư bản độc quyền là: Cạnh tranh trong nội bộ tổ chức độc quyền.
Khẳng định sau đây là SAI khi nói về quan hệ cạnh tranh trong trạng thái độc quyền : Độc quyền thủ tiêu cạnh tranh, làm cho cạnh tranh giữa các chủ thể sản xuất trở nên bình đẳng.
Dưới chủ nghĩa tư bản, tích tụ và tập trung sản xuất cao, biểu hiện ở số lượng các xí nghiệp tư bản lớn chiếm tỉ trọng nhỏ trong nền kinh tế, nhưng nắm giữ và chi phối thị trường.
Đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền là: Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc.
Một trong những biểu hiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là : Cả A, B, C (Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và nhà nước tư sản ; Sự hình thành và phát triển sở hữu của nhà nước tư sản ; Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản).
Các hình thức liên kết của tổ chức độc quyền là liên kết ngang và liên kết dọc.
Sự ra đời của tư bản tài chính là kết quả của sự phát triển quá trình xâm nhập liên kết độc quyền ngân hàng với độc quyền công nghiệp.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo các quy luật của thị trường, đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội mà ở đó dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng ; văn minh; có sự điều tiết của Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với sự hoạt động kinh tế của các chủ thể, hướng tới góp phần xác lập một hệ giá trị toàn diện bao gồm dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Khẳng định nào dưới đây là đúng khi nói về đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam? Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vừa bao hàm đầy đủ các đặc trưng chung vốn có của kinh tế thị trường nói chung vừa có những đặc trưng riêng của Việt Nam.
Đảng ta khẳng định: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, tại : Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tất yếu ở Việt Nam, không xuất phát từ những lí do cơ bản : Xu hướng tự khắc phục các thất bại và khuyết tật của thị trường, không cần sự can thiệp của Nhà nước.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hướng tới phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội; nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là nội dung thể hiện đặc trưng sau của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam : về mục tiêu.
Quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội trên cơ sở chiếm hữu nguồn lực của quá trình sản xuất và kết quả lao động tương ứng của quá trình sản xuất hay tái sản xuất ấy trong một điều kiện lịch sử nhất định là nội dung thể hiện khái niệm : Sở hữu.
Khi đề cập đến sở hữu, hàm ý trong đó không bao gồm yếu tố : Đối tượng sở hữu.
Sở hữu chịu sự quy định trực tiếp của yếu tố : Trình độ của lực lượng sản xuất.
Sở hữu bao gồm những nội dung : Kinh tế và pháp lí.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế.
Sở hữu phản ánh việc chiếm hữu các yếu tố : Các nguồn lực của sản xuất và kết quả của lao động.
Các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể.
Thành phần kinh tế tư nhân dựa trên chế độ sở hữu : Tư nhân.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thành phần kinh tế sau đây giữ vai trò chủ đạo : Kinh tế nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thành phần kinh tế sau là một động lực quan trọng của nền kinh tế quốc dân: Kinh tế tư nhân.
Khẳng định sau đây là sai khi nói về vai trò của kinh tế nhà nước : Kinh tế nhà nước đứng ộc lập, tách rời với toàn bộ nền kinh tế và các thành phần kinh tế khác.
Nhận định sau đây là sai khi nói về vị trí, quan hệ giữa các thành phần kinh tế : Các thành phần kinh tế tách biệt, đối lập nhau và không bình đẳng trước pháp luật.
Nhà nước quản lí và thực hành cơ chế quản lí là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chịu sự làm chủ và giám sát của nhân dân là nội dung thể hiện đặc trưng sau của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: về quan hệ quản lí nền kinh tế.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, Nhà nước thông qua cơ chế, chính sách và các công cụ quản lí kinh tế để tác động vào thị trường không nhằm mục đích: Điều tiết nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua cương lĩnh, đường lối phát triển kinh tế-xã hội và các chủ trương, quyết sách lớn.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, việc phân phối kết quả làm ra (đầu ra) chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, mức độ óng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
Quan hệ phân phối bị chi phối và quyết định bởi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện nhiều hình thức phân phối khác nhau, thực chất là thực hiện các lợi ích kinh tế.
Quan hệ sau đây không phải là biểu hiện của quan hệ lợi ích kinh tế: Quan hệ giữa một tổ chức kinh tế với một cá nhân ngoài tổ chức kinh tế đó.
Quan hệ lợi ích kinh tế thống nhất với nhau vì một chủ thể có thể trở thành bộ phận cấu thành của chủ thể khác do đó lợi ích của chủ thể này được thực hiện thì lợi ích của chủ thể khác cũng được thực hiện.
Khi các chủ thể kinh tế hành động theo những phương thức khác nhau để thực hiện các lợi ích của mình, sự khác nhau đó đến mức đối lập thì trở thành mâu thuẫn.
Vì lợi ích của mình, các cá nhân hay doanh nghiệp có thể làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế. Khi đó, quan hệ lợi ích của cá nhân, doanh nghiệp và lợi ích của xã hội: Mâu thuẫn với nhau.
Trong trường hợp có mâu thuẫn về quan hệ lợi ích kinh tế, khi chủ doanh nghiệp càng thu được nhiều lợi nhuận thì lợi ích kinh tế của người tiêu dùng, của xã hội càng bị tổn hại.
Người dân sẽ được đặt vào vị trí trung tâm trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Trong hội nhập quốc tế toàn diện, chủ thể sau sẽ là lực lượng nòng cốt: Doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân.
Trong hệ thống cơ cấu kinh tế, cơ cấu kinh tế giữ vị trí quan trọng nhất là : Cơ cấu ngành kinh tế.
Cơ cấu kinh tế bao gồm : Cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần kinh tế.
Mối quan hệ tỉ lệ giữa các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế là nội dung khái niệm : Cơ cấu kinh tế.
Trong nền kinh tế tri thức, tri thức đóng vai trò là lực lượng sản xuất trực tiếp.
Quá trình công nghiệp hóa ở các tư bản cổ điển diễn ra khoảng : 60 đến 80 năm.
Các nước công nghiệp mới (Nics) trung bình mất khoảng 20 – 30 năm để thực hiện quá trình CNH, HĐH.
Tiền đề của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất được phát triển trước hết trong lĩnh vực : Dệt vải.
Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra vào khoảng thời gian : Từ giữa thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XIX.
Cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra vào khoảng thời gian : Từ nửa cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX.
Cách mạng công nghiệp lần thứ ba diễn ra vào khoảng thời gian nào?
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được đề cập vào năm 2011.
Công nghệ kỹ thuật số và internet đã tạo điều kiện để chuyến biến các nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức.