Quiz: Top 446 câu hỏi trắc nghiệm môn Tư tưởng HCM (có đáp án) | Đại học Văn Lang
Câu hỏi trắc nghiệm
Khái niệm “Tư tưởng Hồ Chí Minh” không bao gồm những vấn đề có liên quan đến cách mạng thế giới, tài sản tinh thần cho cách mạng thế giới.
“Muốn đổi mới tư duy, Đảng phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Hồ Chí Minh”
Khái niệm “Tư tưởng Hồ Chí Minh” lần đầu tiên được Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra tại Đại hội lần thứ VII (1991).
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Tư tưởng Hồ Chí Minh “là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi” là tại Đại hội Đảng lần thứ XI (2011).
Đối tượng nghiên cứu của môn học tư tưởng Hồ Chí Minh là nghiên cứu hệ thống quan điểm, quan niệm, lý luận về cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh.
Cả ba phương án kia đều sai
Năm 1970, Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra khẩu hiệu tuyên truyền, cổ động về tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại.
Tại Đại hội lần thứ VII (1991), Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của dân tộc.
Phương pháp luận nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là: Thống nhất tính Đảng và tính khoa học; Thống nhất lý luận và thực tiễn; Quan điểm lịch sử - cụ thể; quan điểm toàn diện và hệ thống.
Khái niệm “Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta và trong thực tế, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của dân tộc” được nêu ra ở Đại hội lần thứ VII (1991) của Đảng Cộng sản Việt Nam?
Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Tư tưởng Hồ Chí Minh là "một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam". Đây là nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đại hội lần thứ XI của Đảng khẳng định: Tư tưởng Hồ Chí Minh là "kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại". Đây là nguồn gốc lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đại hội lần thứ XI của Đảng khẳng định: Tư tưởng Hồ Chí Minh là "là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi". Đây là giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nghị quyết số 24C/18.65 về Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh của UNESCO đã ghi nhận Chủ tịch Hồ Chí Minh là "Anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hoá kiệt xuất của Việt Nam".
Ý nghĩa của việc học tập môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh là: Góp phần nâng cao năng lực tư duy lý luận; Củng cố niềm tin khoa học gắn với trau dồi tình cảm cách mạng, bồi dưỡng lòng yêu nước; Xây dựng, rèn luyện phương pháp và phong cách công tác.
Phương pháp luận của việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh đã yêu cầu, khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh phải luôn luôn quán triệt mối liên hệ qua lại của các yếu tố, các bộ phận khác nhau trong sự gắn kết tất yếu của hệ thống tư tưởng đó xung quanh hạt nhân cốt lõi là tư tưởng độc lập, tự do, dân chủ và chủ nghĩa xã hội là quan điểm toàn diện và hệ thống.
“Cuối thế kỷ XIX chủ nghĩa đế quốc Pháp xâm lược Việt Nam. Bọn vua quan và phong kiến đê tiện và hèn nhát đầu hàng và câu kết với bọn đế quốc để tiếp tục nô dịch nhân dân Việt Nam nhiều hơn”.
Cuộc cách mạng được Hồ Chí Minh đánh giá là “ảnh hưởng đến Việt Nam như tiếng sấm vang trong đêm tối” là cách mạng Tháng Mười ở Nga năm 1917.
Nhận định sau đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm Di chúc (1965-1969): “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”
Tư tưởng Hồ Chí Minh ra đời đã đáp ứng yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam.
Lô-gíc phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Theo Hồ Chí Minh, ưu điểm lớn nhất của chủ nghĩa Mác là phương pháp làm việc biện chứng.
Tính chất, đặc điểm của đại từ “Nó” trong câu sau được Hồ Chí Minh dùng để chỉ chủ nghĩa đế quốc: “Nó dùng những người vô sản da trắng để chinh phục những người vô sản các thuộc địa. Sau đó nó lại tung những người vô sản ở một thuộc địa này đi đánh những người vô sản ở một thuộc địa khác. Sau hết, nó dựa vào những người vô sản ở các thuộc địa để thống trị những người vô sản da trắng”
“Đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau” là nhận xét của Hồ Chí Minh về chủ trương cứu nước của nhà yêu nước Phan Bội Châu.
“Mang nặng cốt cách phong kiến” là nhận xét của Hồ Chí Minh về chủ trương cứu nước của Hoàng Hoa Thám.
Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin năm 1920.
Các bài giảng của Hồ Chí Minh tại các lớp huấn luyện cán bộ được Bộ tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức tập hợp lại và xuất bản thành tác phẩm Đường cách mệnh (1927).
Hồ Chí Minh đã tiếp thu giá trị về quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự phát triển cách mạng thế giới: Phản ánh khát vọng thời đại; Tìm ra các giải pháp đấu tranh giải phóng các nước thuộc địa; Cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả.
Hồ Chí Minh thành lập “Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức” năm 1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc).
Hồ Chí Minh đã thành lập "Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng" năm 1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc).
Khẩu hiệu chiến lược nổi tiếng “Lao động tất cả các nước, đoàn kết lại” là của Hồ Chí Minh.
Theo Hồ Chí Minh, V.I. Lênin là người đầu tiên đã đặt cơ sở cho một thời đại mới, thật sự cách mạng trong các nước thuộc địa.
Cơ sở khách quan hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh là: Xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX; Chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (Chủ nghĩa đế quốc); Cách mạng vô sản Nga (1917) thắng lợi và Quốc tế Cộng sản thành lập (3/1919).
Xã hội Việt Nam khi Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước (1911) là xã hội thuộc địa phong kiến.
Theo Hồ Chí Minh, ưu điểm lớn nhất của chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn là phù hợp với điều kiện thực tế nước ta.
Tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng của Hồ Chí Minh hình thành trong thời kỳ 1920 - 1930.
Hồ Chí Minh khảo nghiệm và tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc trong thời kỳ 1911 - 1920.
Thời kỳ phát triển và hoàn thiện tư tưởng Hồ Chí Minh là thời gian 1945 - 1969.
Hồ Chí Minh ra nước ngoài tìm đường cứu nước vào ngày 5/6/1911, tại Bến cảng Nhà Rồng.
Câu nói: “Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ” là của Nguyễn Sinh Sắc.
Sau những năm tháng bôn ba tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã trở về Việt Nam vào ngày 28/01/1941, tại Cao Bằng.
Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp của Hồ Chí Minh xuất bản vào năm 1925
Tác phẩm Đường cách mệnh của Hồ Chí Minh được xuất bản vào năm 1927
Hồ Chí Minh dạy học ở trường Dục Thanh từ 9/1910 đến 2/1911.
Trong thời gian ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã làm những công việc: Phụ bếp, cào tuyết, thợ ảnh, làm bánh, đốt lò, bán báo.
Tại Pác Bó (1941), Hồ Chí Minh dịch ra tiếng Việt cuốn sách Lịch sử Đảng Cộng sản (b) Nga để làm tài liệu huấn luyện cán bộ
Hồ Chí Minh đã tham dự cuộc biểu tình chống thuế của nông dân tỉnh Thừa Thiên vào tháng 5/1908.
Hồ Chí Minh ủng hộ phái tả trong Đảng Xã hội Pháp gia nhập Quốc tế III và trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, đồng thời là người đảng viên cộng sản đầu tiên của Việt Nam năm 1920.
Nhận định sau đây về Hồ Chí Minh là của Paul Arnoux (Trưởng Ban Đông Dương - Sở Mật thám Pháp): “Con người thanh niên mảnh khảnh và đầy sức sống này có thể là người sẽ đặt cây thập tự cáo chung lên nền thống trị của chúng ta ở Đông Dương”
Luật sư Francis Henry Loseby là người có công lớn giúp Hồ Chí Minh thoát ra khỏi nhà tù của thực dân Anh ở Hồng Kông (1931 - 1933)
Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ tặng đồng bào miền Nam danh hiệu Thành đồng Tổ quốc vào tháng 12/1946
“Di chúc” của Hồ Chí Minh bắt đầu được viết vào 15/5/1969.
Cống hiến lý luận lớn đầu tiên của Hồ Chí Minh là về cách mạng giải phóng dân tộc.
Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa trong tư tưởng Hồ Chí Minh là: Lựa chọn con đường phát triển của dân tộc; Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc.
Hồ Chí Minh chủ trương đứng trên lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân để giải phóng dân tộc
Nguyên tắc phân phối theo lao động thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được Hồ Chí Minh giải thích là: Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn…
Trong tác phẩm “Thường thức chính trị”, khi nói về những đặc điểm lớn của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh giải thích nguyên nhân khiến cho trong chủ nghĩa xã hội: “Không có sự đối lập giữa thành thị và thôn quê, giữa lao động chân tay và lao động trí óc” là vì thôn quê ngày càng văn minh, công nông ngày càng thông thái.
“Đồng bào Nam bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!”. Câu nói trên của Hồ Chí Minh được trích ra từ văn kiện Thư gửi đồng bào Nam bộ.
“Chúng ta cách mệnh thì cũng phải liên lạc tất cả những đảng cách mệnh trong thế giới để chống lại tư bản và đế quốc chủ nghĩa”. Luận điểm đó được Hồ Chí Minh viết trong tác phẩm Đường cách mệnh.
Chủ trương “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” được ghi nhận trong văn kiện Chánh cương vắn tắt của Đảng của Hồ Chí Minh
Đáp án đúng với tư tưởng Hồ Chí Minh: Cách mạng giải phóng dân tộc cần tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Quan điểm không phải của Hồ Chí Minh là: Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, cách mạng thuộc địa có tầm quan trọng đặc biệt.
Trong “Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa” (năm 1945), Hồ Chí Minh viết: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy em sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Điều mong muốn cuối cùng của Hồ Chí Minh được nêu trong Di chúc là xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
Nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm lực lượng công – nông – trí thức.
“Sản xuất mà không tiết kiệm thì khác nào gió vào nhà trống”
Theo Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc bằng bạo lực cách mạng.
“Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Theo Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng ở các nước thuộc địa vì: Giải phóng dân tộc là tiền đề để giải phóng giai cấp; Mâu thuẫn giữa dân tộc và đế quốc gay gắt hơn mâu thuẫn giữa các giai cấp với nhau; Trong giải phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp.
Quan điểm: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” được Hồ Chí Minh suy ra từ tuyên ngôn độc lập của Mỹ, năm 1776.
“Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì” nói lên quan điểm: Độc lập dân tộc phải gắn liền tự do và hạnh phúc của nhân dân.
Cách mạng tư sản Mỹ năm 1776 được Hồ Chí Minh nhận xét trong tác phẩm “Đường cách mệnh” (1927): “Cách mệnh thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai”
Cách mạng tư sản Pháp năm 1789 được Hồ Chí Minh nhận xét trong tác phẩm “Đường cách mệnh” (1927): “Tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đối tượng của cách mạng ở thuộc địa là mọi giai cấp, tầng lớp bóc lột trong xã hội.
Quan điểm sau đây của Hồ Chí Minh được nêu tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám (5/1941): “Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là một cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng”
Nhận định sau đây của Hồ Chí Minh trong tác phẩm Di chúc (1965-1969): “Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn. Còn non, còn nước còn người. Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!”
Tại Đại hội V Quốc tế cộng sản (1924), Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa.
Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh xác định công nhân, nông dân là gốc của cách mạng.
Trong bài “Cách mạng Tháng Mười vĩ đại mở ra con ường giải phóng cho các dân tộc” (năm 1967), Hồ Chí Minh nhận định: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”.
Theo Hồ Chí Minh, điều kiện tiên quyết để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội là độc lập dân tộc.
“Chỉ tiêu kế hoạch một phần, biện pháp phải hai phần, cố gắng phải ba phần”:
Mục tiêu cụ thể của về kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh là công - nông nghiệp hiện đại, khoa học - kỹ thuật tiên tiến.
Theo Hồ Chí Minh, nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là công nghiệp hoá.
Theo Hồ Chí Minh, mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội là độc lập cho dân tộc; tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, động lực quyết định nhất của chủ nghĩa xã hội là con người.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, động lực quan trọng và quyết định của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là con người, là nhân dân lao động mà nòng cốt là công – nông – trí thức.
Quan điểm của Hồ Chí Minh là: Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi. Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi.
Theo Hồ Chí Minh, kẻ thù hung ác của chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa cá nhân.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là: Động lực bên trong; Động lực bên ngoài; Ngăn ngừa “giặc nội xâm” là tham ô, lãng phí, quan liêu, các yếu tố kìm hãm, triệt tiêu nguồn lực vốn có của chủ nghĩa xã hội.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về động lực quan trọng và quyết định xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là: Sức mạnh thời đại, của tinh thần đoàn kết quốc tế; Sức mạnh của các thành quả khoa học - kỹ thuật thế giới; Sức mạnh vật chất và tinh thần của con người, của nhân dân lao động mà nòng cốt là công - nông - trí thức.
Đặc điểm to nhất khi Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh, động lực quan trọng nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là con người.
Theo Hồ Chí Minh, mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực trạng kinh tế - xã hội quá thấp kém của nước ta.
Ngày 24/4/1957, khi nói chuyện với cán bộ, công nhân nhà máy dệt Nam Định, Hồ Chí Minh cho rằng: “Chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã hội, nó khuyến khích người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm khoán là tạo điều kiện phát triển sản xuất, ích chung và lại lợi riêng, tăng năng xuất lao động.
Theo Hồ Chí Minh, trong điều kiện của nước ta, biện pháp cơ bản, quyết định, lâu dài trong xây dựng chủ nghĩa xã hội là đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Theo Hồ Chí Minh, biện pháp để tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là: Thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây dựng, lấy xây dựng làm chính; Kết hợp xây dựng và bảo vệ, đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền Nam - Bắc khác nhau trong phạm vi một quốc gia; Biện pháp cơ bản, quyết định, lâu dài trong xây dựng chủ nghĩa xã hội là em của dân, tài dân, sức dân, làm lợi cho dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa nội lực và ngoại lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là: Hồ Chí Minh coi nội lực là quyết định nhất, ngoại lực là rất quan trọng.
Một điều kiện để đảm bảo độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở nước ta là Đảng Cộng sản phải giữ vai trò lãnh đạo trong suốt tiến trình cách mạng.
Trong câu sau: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta” Hồ Chí Minh nói tới văn kiện Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn ề thuộc địa Lênin.
Xã hội có chế độ dân chủ là đặc trưng về mặt chính trị của xã hội xã hội chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng "Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân" là nói đến chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội trong đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa của Hồ Chí Minh
Trong vận dụng kinh nghiệm thực tiễn thế giới vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã yêu cầu phải chống khuynh hướng "Giáo điều" và "xét lại".
Kẻ địch bên trong của mỗi người cần phải chống trong xây dựng chủ nghĩa xã hội theo Hồ Chí Minh là chủ nghĩa cá nhân.
Đại hội lần thứ VII (1991) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Quan điểm sau đây về quy luật hình thành Đảng Cộng sản là của V.I. Lênin: “Đảng Cộng sản ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân”.
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam cần phải có Đảng để: Xác định đường lối cách mạng đúng đắn và phương pháp cách mạng thích hơp; Tổ chức dân chúng thực hiện đường lối, cách mạng do Đảng đề ra; Gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới nhằm tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh thì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam.
Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải là đạo đức, là văn minh, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Thuật ngữ “Đảng cầm quyền” được Hồ Chí Minh viết trong tác phẩm Di chúc.
Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền từ năm 1945.
“Trước hết phải có Đảng cách mạng để trong thì vận động và tổ chức quần chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi Đảng có vững cách mạng mới thành công”.
Nhà nước do dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh là Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, nuôi dưỡng.
Theo Hồ Chí Minh, cán bộ là dây chuyền của bộ máy, là khâu trung gian nối liền giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, công tác gốc của Đảng là công tác cán bộ.
Phương án không thuộc các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh là thẳng thắn, có tinh thần trách nhiệm.
Theo Hồ Chí Minh, chi bộ là “hạt nhân”, quyết định chất lượng lãnh đạo của Đảng, là môi trường tu dưỡng, rèn luyện và cũng là nơi giám sát đảng viên
Quan điểm sau đây được trích trong văn bản Điều 1 - Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946): “Tất cả quyền bính trong nước đều là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, muốn trừ sạch bệnh tham ô, lãng phí thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu.
“Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân”
Đây là nguyên tắc mà Hồ Chí Minh cho là nguyên tắc lãnh đạo, có thể xem xét toàn diện mọi mặt, tránh ỷ lại, phát huy tính chủ động: Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức: Đường lối, chủ trương; Công tác kiểm tra; Qua các tổ chức Đảng, đảng viên trong bộ máy Nhà nước.
Theo Hồ Chí Minh, trong quan hệ với dân thì cán bộ Nhà nước vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Để bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện “3 chống”, đó là tham ô, lãng phí, quan liêu.
Đáp án đúng nhất theo tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: Có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, việc gốc để xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh là huấn luyện cán bộ.
“Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém.”
Theo Hồ Chí Minh quy luật phát triển của Đảng là nguyên tắc tự phê bình và phê bình.
“Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”.
“Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”
Theo Hồ Chí Minh, Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ là: Nhà nước quản lý xã hội chủ yếu bằng pháp luật; Nhà nước hợp pháp, hợp hiến; Nhà nước chú trọng đưa pháp luật vào cuộc sống.
Theo Hồ Chí Minh, Nhà nước thể hiện quyền là chủ và làm chủ của nhân dân thì Nhà nước đó phải là do dân, vì dân, của dân
“Các đồng chí từ trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Để xây dựng Nhà nước trong sạch, hoạt động có hiệu quả, Hồ Chí Minh chủ trương: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và tài; Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng; Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước.
Hồ Chí Minh nêu lên những yêu cầu về việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước là: Tuyệt đối trung thành với cách mạng; Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ; Liên hệ mật thiết với nhân dân.
Tổ chức thanh niên mà Hồ Chí Minh chủ trương thành lập vào năm 1925 có tên gọi chính thức trong điều lệ của tổ chức này là: Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
Lần đầu tiên ở nước ta, Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu vào ngày 06/01/1946.
Mục đích của tổng tuyển cử trong cả nước theo chế độ phổ thông đầu phiếu năm 1946 là: Để nhà nước ta có cơ sở pháp lý vững chắc trong quan hệ với quân Đồng Minh; Để có mối quan hệ quốc tế bình đẳng về mặt nhà nước; Để có thể thiết lập một cơ chế quyền lực hợp pháp theo thông lệ quốc tế.
Quan điểm sau đây được trích trong văn bản Lời nói đầu của Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1959): “Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”
Tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã bầu Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Chính phủ liên hiệp kháng chiến
Điểm đặc sắc nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền là kết hợp nhuần nhuyễn cả pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội.
Nhận định sau đây được trích từ tác phẩm Yêu sách của nhân dân An Nam của Hồ Chí Minh: “Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu”; “Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”
Mục đích của tổng tuyển cử trong cả nước theo chế độ phổ thông đầu phiếu năm 1946 là: Để nhà nước ta có cơ sở pháp lý vững chắc trong quan hệ với quân Đồng minh; Để có mối quan hệ quốc tế bình đẳng về mặt nhà nước; Để có thể thiết lập một cơ chế quyền lực hợp pháp theo thông lệ quốc tế.
Theo Hồ Chí Minh, để thực hiện được dân chủ trong xã hội, trước tiên cần thực hiện dân chủ trong tổ chức Dân chủ trong Đảng.
Bảy xin hiến pháp ban hành/Trăm điều phải có thần linh pháp quyền". Hai câu thơ trên được trích trong tác phẩm Việt Nam yêu cầu ca của Hồ Chí Minh
Để có một Nhà nước hợp pháp, hợp hiến, việc làm đầu tiên của Hồ Chí Minh sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là tổ chức tổng tuyển cử trong cả nước.
Ngày 26/01/1946, Hồ Chí Minh ký lệnh nói rõ tội tham ô, trộm cắp của công dân là tội tử hình.
"Làm sao cách mệnh rồi thì quyền trao cho dân chúng số nhiều chớ để trong tay một bọn ít người"
Hồ Chí Minh ký sắc lệnh ấn định phạt tội đưa và nhận hối lộ từ 5 đến 20 năm tù
So với học thuyết Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã bổ sung phong trào yêu nước trong sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Theo Hồ Chí Minh, nền tảng cơ bản nhất quyết định sự lãnh đạo tất yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam là Đảng đáp ứng nhu cầu tất yếu của xã hội Việt Nam.
“Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
Theo Hồ Chí Minh, nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong hoạt động của Đảng phải là việc làm thường xuyên, như “mỗi ngày phải rửa mặt”.
Theo Hồ Chí Minh, khi lợi ích chung của Đảng mâu thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân thì người đảng viên phải hy sinh lợi ích của cá nhân cho lợi ích của Đảng.
Tư tưởng về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản, được Hồ Chí Minh vận dụng, phát triển trong quá trình sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam là tư tưởng của V.I. Lênin.
“Đảng có những điều kiện kỷ luật bắt buộc mỗi đảng viên phải theo. Không có kỷ luật sắt không có Đảng. Đã vào Đảng thì phải theo tư tưởng của Đảng. Đảng đã chỉ thị nghị quyết là phải làm. Không làm thì đuổi ra khỏi Đảng”.
Theo Hồ Chí Minh, việc Đảng cần làm ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam hoàn toàn thắng lợi là chỉnh đốn lại Đảng.
Trong quan hệ với quần chúng, Đảng không được theo đuôi quần chúng.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng thì phải: Tự phê bình và phê bình; Mở rộng dân chủ nội bộ; Chống lại chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện tiêu cực.
Theo Hồ Chí Minh, là người lãnh đạo, Đảng phải có những phẩm chất: Tư cách, phẩm chất, năng lực cần thiết; Phải làm cho dân tin, dân phục để dân theo; Tư cách, phẩm chất, năng lực cần thiết.
Theo Hồ Chí Minh, trong xây dựng Đảng về chính trị, vấn đề “cốt tử” là xây dựng đường lối chính trị.
Theo Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lênin.
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc bao gồm: Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng dân tộc; Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào yêu nước, phong trào cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.
Trong bài nói chuyện tại lớp Nghiên cứu chính trị khóa I, Trường Đại học Nhân dân Việt Nam (21/7/1956), Hồ Chí Minh cho rằng: “Trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang; và công, nông, trí, cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối”.
Tại Hội nghị Đại biểu Mặt trận Liên - Việt (10/1/1955), Hồ Chí Minh cho rằng: đại đoàn kết trước hết phải đoàn kết đa số nhân dân. Vậy đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Năm 1939, mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương được thành lập
Năm 1960, mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập
Năm 1955, mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thành lập ở miền Bắc
Đánh giá sau đây của R. Chan ra - Nguyên Chủ tịch Hội đồng Hòa bình thế giới về vai trò và những cống hiến của Hồ Chí Minh cho cách mạng thế giới: “Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Ở bất cứ đâu nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống lại đói nghèo, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao”.
Theo Hồ Chí Minh, Mặt trận Dân tộc thống nhất phải dựa trên cơ sở đảm bảo lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
Trong các luận điểm sau, luận điểm của Hồ Chí Minh là: Lao động tất cả các nước, đoàn kết lại.
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của lực lượng toàn dân.
Tháng 9/1955, Mặt trận dân tộc thống nhất toàn quốc đã họp Đại hội và Đại hội đã quyết định thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, sức mạnh dân tộc bao gồm: Ý thức tự lực, tự cường; Chủ nghĩa yêu nước; Tinh thần đoàn kết.
Theo Hồ Chí Minh động lực đóng vai trò chủ yếu trong sự phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân tộc.
“Di chúc (1965-1969) toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”
“Cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu và nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của cả dân tộc.
Sức mạnh đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh, bao gồm: Sức mạnh của giai cấp vô sản, cách mạng vô sản và các đảng cộng sản trên thế giới; Sức mạnh liên minh chiến đấu giữa lao động ở các nước thuộc địa và lao động thuộc địa với vô sản chính quốc; Sức mạnh của ba dòng thác cách mạng và tiến bộ khoa học công nghệ.
\Chính sách đối ngoại của Việt Nam là "làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai".
Yếu tố không nằm trong Mặt trận Dân tộc thống nhất là Nhà nước.
Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết quốc tế có vai trò quan trọng đối với thắng lợi của cách mạng Việt Nam
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một trong những nguyên tắc đoàn kết quốc tế là: Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình.
Câu nói sau đây của Hồ Chí Minh được viết trong Thư gửi đồng bào Nam bộ, năm 1946: “Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay có ngón ngắn ngón dài. Nhưng ngắn hay dài đều hợp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi tổ tiên ta”
Để tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa trong đấu tranh cách mạng, cần coi trọng nhân tố tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính.
Theo Hồ Chí Minh, để lãnh đạo Mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng phải: Có năng lực lãnh đạo; Có chính sách đúng đắn; Có phương châm đúng đắn.
Hồ Chí Minh đánh giá: Nhân dân ta đã đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh để làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945
Hồ Chí Minh đánh giá: Nhân dân ta đã đoàn kết trong Mặt trận Liên - Việt để làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954)
Theo Hồ Chí Minh, nguyên tắc hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất là hiệp thương dân chủ, bảo đảm đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững.
Hồ Chí Minh đã giương cao ngọn cờ hòa bình trong công lý khi đoàn kết giữa cách mạng Việt Nam với các lực lượng tiến bộ trên thế giới
Câu nói sau của Hồ Chí Minh là về nguyên tắc tự lực, tự cường trong tư tưởng đoàn kết quốc tế: “Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to, tiếng mới lớn”
Theo Hồ Chí Minh, Mặt trận dân tộc thống nhất phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, bản chất của các đoàn thể, tổ chức quần chúng nhân dân là tổ chức của Dân.
Nền văn hóa mới mà chúng ta xây dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm tính dân tộc, tính đại chúng và tính khoa học.
Theo Hồ Chí Minh, phải làm cho văn hóa thấm sâu vào tâm lý quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được thói hư, tật xấu: Tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (1951), Hồ Chí Minh khẳng định, nền văn hóa Việt Nam bao gồm những tính chất: Dân tộc, khoa học, đại chúng.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, văn hóa với chính trị có quan hệ chặt chẽ với nhau. Có chính trị mới có văn hóa, xưa kia chính trị bị đàn áp, nền văn hóa của ta vì thế không nảy sinh được. Nay nước ta đã độc lập, tinh thần được giải phóng, cần phải có một nền văn hóa hợp với khoa học và hợp cả với nguyện vọng của công – nông – trí thức.
Quan điểm không phải của Hồ Chí Minh về chức năng của văn hóa là dân tộc, khoa học và đại chúng.
Câu sau thể hiện quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng”.
Phương án không phải của Hồ Chí Minh về phương châm, phương pháp giáo dục là thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục.
Sau Cách mạng 8/1945, Hồ Chí Minh cho rằng: Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta… làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Người đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: cần, kiệm, liêm, chính.
Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Hồ Chí Minh nêu 6 nhiệm vụ cấp bách của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong đó, ở vấn đề thứ tư, Người đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
“Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”.
Theo Hồ Chí Minh, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần phải có yếu tố con người xã hội chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh, CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH là nền tảng của đời sống mới và thi đua ái quốc.
Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng là “phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nẩy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi”. Đó là thái độ của người cách mạng đối với Thiện - Ác trong lòng mỗi người
Quan điểm xây dựng nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc được Hồ Chí Minh nêu ra vào năm 1960.
Hồ Chí Minh lưu ý rằng, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân nghĩa là không phải “giày xéo lên lợi ích cá nhân”.
Bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, văn hóa là: Những sáng tạo và phát minh của loài người về ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật; Những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở do loài người sáng tạo và phát minh ra; Những sáng tạo và phát minh của loài người về các phương thức sử dụng.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí và vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội: “Xã hội thế nào, văn hóa thế ấy. Văn nghệ của dân tộc ta vốn rất phong phú, nhưng dưới chế độ thực dân và phong kiến nhân dân ta bị nô lệ thì văn nghệ cũng bị nô lệ, bị tồi tàn không thể phát triển được”, “Rõ ràng là dân tộc bị áp bức thì văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do thì phải thoát khỏi ràng buộc của xã hội”.
Định nghĩa văn hóa của Hồ Chí Minh đã khắc phục được quan niệm phiến diện: Đồng nhất văn hóa với văn học nghệ thuật; Coi văn hóa là hiện tượng thuần túy tinh thần; Đồng nhất văn hóa với học vấn.
Công việc đầu tiên trong Di chúc mà Hồ Chí Minh căn dặn Đảng, Nhà nước ta sau khi đất nước thống nhất là về vấn đề con người.
Theo Hồ Chí Minh, vấn đề quan trọng nhất trong xây dựng đời sống mới là xây dựng đạo đức mới.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nền văn hóa mới được Hồ Chí Minh xác định có những tính chất: Dân tộc, Khoa học, Đại chúng.
Hồ Chí Minh xác định đạo đức là gốc của người cách mạng, vì: Đạo đức cách mạng là sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội; Có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang; Đạo đức cách mạng là thước đo lòng cao thượng của con người.
“Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh và rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố”.
Câu nói “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” của Hồ Chí Minh thể hiện tầm quan trọng của nguyên tắc nêu gương về đạo đức.
Hồ Chí Minh xem xét CHÍNH ở ba mặt: Mình đối với mình, đối với người, đối với công việc.
“Từ tiểu học, trung học, cho đến đại học, là nơi rèn luyện nhi đồng và thanh niên. Óc những người tuổi trẻ trong sạch như một tấm lụa. Nhuộm xanh thì nó sẽ xanh. Nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ. Vì vậy sự học tập ở trong trường có ảnh hưởng rất lớn cho tương lai của thanh niên, và tương lai của thanh niên tức là tương lai của nước nhà”.
Luận điểm được Hồ Chí Minh nói về vai trò của văn hóa là văn hóa phải đi sâu vào trong tâm lý quốc dân.
Câu nói của Hồ Chí Minh: Kẻ tham lam là có tội với nước, với dân.
Câu sau đây nói lên sự cần thiết phải xây dựng con người trong nhận thức của Hồ Chí Minh về con người: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”
Theo Hồ Chí Minh, muốn đánh thắng kẻ địch bên ngoài thì trước hết phải đánh thắng kẻ địch bên trong đó là chủ nghĩa cá nhân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, LIÊM nghĩa là: Không tham tiền tài, không tham sung sướng; Không ham người tâng bốc mình; Không tham địa vị.
Theo Hồ Chí Minh, góp sức làm việc và khéo tổ chức sẽ mang lại kết quả tốt cho kiệm.
Theo Hồ Chí Minh, “ham học, ham làm, ham tiến bộ” là biểu hiện của liêm.
Theo Hồ Chí Minh, ở đời và làm người thì phải: Thương dân; Yêu nước; Thương nhân loại bị áp bức.
Nhận định đúng theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị có nghĩa là văn hóa phải tham gia thực hiện những nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế.
Trong mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế, chính trị, xã hội, Hồ Chí Minh xác định: Văn hóa ở trong kinh tế, chính trị, xã hội; Văn hóa thuộc về kiến trúc thượng tầng; Văn hóa là đời sống tinh thần xã hội.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, CẦN nghĩa là lao động cần cù, siêng năng, có kế hoạch, có sự sáng tạo và có năng suất cao.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, KIỆM nghĩa là tiết kiệm công sức, thời gian và của cải.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, CHÍNH được biểu hiện trong mối quan hệ bản thân, mọi người, công việc.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “tinh thần quốc tế trong sáng” được hiểu: Tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản; Tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước; Tinh thần đoàn kết với các lực lượng tiến bộ trên thế giới.
“Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được”
Theo Hồ Chí Minh đạo đức cách mạng là một phạm trù lịch sử, nghĩa là nó cũng thay đổi theo nhiệm vụ từng thời kỳ của cách mạng, “ đạo đức xã hội chủ nghĩa không phải ở đâu cũng biểu hiện giống nhau. Ở nước ta đạo đức xã hội chủ nghĩa là cần kiệm xây dựng nước nhà”.
Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”; “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Nhận định sau đây là của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO): “Chủ tịch Hồ Chí Minh, một biểu tượng xuất sắc về sự tự khẳng định dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”
“Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng thì mới gánh được nặng và đi được xa”
Nhận định sau đây của Hồ Chí Minh trong bài “Thư gửi các học sinh” (9/1945): “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”
“Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”.
Nội dung xây dựng con người xã hội chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí Minh gồm: Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì mình”; Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ quốc; Có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng; Có phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương.
Theo Hồ Chí Minh, tinh thần quốc tế trong sáng được hiểu là: Tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản; Tinh thần đoàn kết với tất cả những người tiến bộ trên thế giới; Tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức.
Hồ Chí Minh nói về chức năng của văn hóa: Văn hóa phải nâng cao dân trí.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Phải làm thế nào cho văn hóa thấm sâu vào tâm lý quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được những tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ; văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi.
Hồ Chí Minh coi trọng văn hóa, học vấn, trí tuệ. Người nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất định phải có học thức. Cần phải học văn hóa, chính trị, kỹ thuật”. “Người có học mới có tiến bộ, càng học càng tiến bộ”.
Theo Hồ Chí Minh, trong xã hội có áp bức dân tộc và áp bức giai cấp thì tính nhân văn cao cả nhất là giành độc lập cho dân tộc và xoá bỏ bóc lột giai cấp.
“Người đi giáo dục cũng phải được giáo dục, phải học thêm mãi, học không bao giờ đủ, còn sống còn phải học”.
Hồ Chí Minh nói về vai trò của “làm gương” trong thực hiện đời sống mới: “Đời sống mới cũng cần có những người làm gương, những nhà làm gương, những làng làm gương. Khi trông thấy những kết quả tốt tươi, thì chắc những nơi khác sẽ hăng hái làm theo”.
Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh yêu cầu phải làm gương về đạo đức trên mặt tinh thần, vật chất và văn hóa.
Quan điểm không phải của Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới là: Nói ít làm nhiều.
Hồ Chí Minh xác định đạo đức là gốc, nền tảng của người cách mạng
Câu nói: "Con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng" là của Nguyễn Ái Quốc.
Theo Hồ Chí Minh, phẩm chất đạo đức quan trọng nhất, bao trùm và chi phối các phẩm chất khác là: Trung với nước, hiếu với dân.
Theo Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức mới phải được tiến hành: Phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, lứa tuổi, ngành nghề, giai cấp, tầng lớp; Phù hợp với từng môi trường khác nhau; Phù hợp với từng lứa tuổi, ngành nghề, giai cấp, tầng lớp.
Luận điểm: "Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang" của Hồ Chí Minh viết trong tác phẩm Đạo đức cách mạng (1958).
Quan điểm: “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau” của Hồ Chí Minh về chuẩn mực đạo đức: Chí công vô tư.
Quan điểm: "Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau" được Hồ Chí Minh viết trong tác phẩm Di chúc (1965-1969).
“Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân". Luận điểm trên đây của Hồ Chí Minh trong tác phẩm Sửa đối lối làm việc (1947).
Khi bị chính quyền thực dân Anh bắt giam ở nhà tù Hồng Kông (1931), Hồ Chí Minh đang mang “bí danh” Tống Văn Sơ.
Người thầy giáo đầu tiên của Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Sắc.
“Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”.
Thân phụ Nguyễn Sinh Sắc làm lễ “vào làng” cho Nguyễn Sinh Cung với tên mới là Nguyễn Tất Thành vào năm 1901.
Cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi vào năm 1917
Luận điểm “Công nông là gốc cách mệnh, còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ…chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi” được nêu trong tác phẩm Đường cách mệnh (1927).
Quốc tế Cộng sản thành lập vào 3-1919.
Hồ Chí Minh đã cùng với những người yêu nước Việt Nam ở Pa-ri gửi bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” đến Hội nghị Véc-xây đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận và thực hiện các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam vào năm 1919.
Từ tháng 10/1934 Đến hết năm 1935, khi học ở trường Quốc tế Lênin, Hồ Chí Minh lấy tên là Lin.
Cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Cụ Nguyễn Sinh sắc, thân phụ Hồ Chí Minh có thời kỳ làm tri huyện thuộc tỉnh Bình Định.
Lý luận về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh Được thể hiện chủ yếu trong thời kỳ 1945 – 1969
Hồ Chí Minh vào Đảng Xã hội Pháp năm 1919
Hồ Chí Minh đã vượt qua thử thách, kiên trì giữ vững lập trường cách mạng trong thời kỳ 1930 - 1941.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự phát triển cách mạng thế giới: Cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả; Tìm ra các giải pháp đấu tranh giải phóng các nước thuộc địa; Phản ánh khát vọng thời đại.
Đề tài nghiên cứu của Nguyễn Ái Quốc ở lớp nghiên cứu sinh do Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa mở vào năm 1937 là đề tài “Cách mạng ruộng đất ở Đông Nam Á”.
Theo Hồ Chí Minh, ưu điểm lớn nhất của học thuyết của Khổng Tử là đề cao sự tu dưỡng đạo đức cá nhân.
Tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng của Hồ Chí Minh hình thành trong thời kỳ trước năm 1911.
Nguyễn Ái Quốc đã tiếp xúc với “Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về các vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin năm 1920.
Tháng 12-1944, Hồ Chí Minh triệu tập một số cán bộ về Pác Bó (Cao Bằng) để phổ biến chủ trương thành lập "Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân". Võ Nguyên Giáp là người đã được Hồ Chí Minh chỉ định đảm nhiệm công tác này
Lô-gích phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Cuối tháng 7-1945, tại lán Nà Nưa (Nà Lừa), Võ Nguyên Giáp là người được Hồ Chí Minh trực tiếp truyền đạt chỉ thị sau: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải cương quyết giành cho được độc lập”.
Luật sư Francis Henry Loseby là người có công lớn giúp Nguyễn Ái Quốc thoát ra khỏi nhà tù của thực dân Anh ở Hồng Kông (1931 - 1933)
Những nhân tố chủ quan hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh là: Năng lực hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh; Phẩm chất đạo đức của Hồ Chí Minh; Khả năng tư duy và trí tuệ của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đặt chân lên nước Pháp năm 1911 tại bến cảng Mác-xây
Bản “Di chúc” của Hồ Chí Minh bắt đầu được viết vào 10/5/1965.
Tư tưởng Hồ Chí Minh phát triển và hoàn thiện vào thời kì 1945 - 1969.
Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp giải phóng và phát triển dân tộc là: Giúp chúng ta nhận thức đúng những vấn đề lớn có liên quan đến độc lập dân tộc, phát triển xã hội và bảo đảm quyền con người; Nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của CM Việt Nam; Là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam.
Bản chất của chủ nghĩa đế quốc “là một con đỉa có một vòi cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”. Luận điểm này được trích trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925).
Trong những tiền đề tư tưởng – lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, tiền đề quyết định bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tư tưởng về cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh hình thành cơ bản trong thời kỳ 1920 - 1930.