Quiz: Top 72 câu hỏi trắc nghiệm Chương 5, 6 môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin (có đáp án) | Đại học Phenika
Câu hỏi trắc nghiệm
Ở nước ta hiện nay thực hiện theo nguyên tắc phân phối theo lao động.
Lý do KHÔNG phải tất yếu trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là: Phù hợp với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế của Việt Nam.
Hoàn thiện thể chế về giá, cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh phù hợp với nội dung: Hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ các loại thị trường.
Nội dung không thuộc nội hàm của khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam: Là nền kinh tế có những đặc trưng phản ánh điều kiện lịch sử, chính trị, kinh tế xã hội.
Về cơ chế quản lý kinh tế, đặc điểm sinh ra nhiều yếu kém, khuyết điểm trong bộ máy quản lý là bộ máy quản lý cồng kềnh, phong cách cửa quyền, quan liêu.
Về cơ chế quản lý kinh tế, đặc điểm tạo ra tâm lý ỷ lại, thụ động, tiêu cực trong hoạt động kinh tế là Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “cấp phát - giao nộp” và cơ chế “xin - cho”.
Đại hội IX của Đảng xác định nền kinh tế nước ta có 6 thành phần.
Biện pháp “Xử lý triệt để những điểm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và ngăn chặn để không phát sinh thêm” phù hợp với chủ trương hoàn thiện thể chế gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
Chính sách “Thực hiện một mặt bằng pháp lý kinh doanh, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế” là phù hợp với nội dung hoàn thiện thể chế về sở hữu và các thành phần kinh tế.
“Quy định cụ thể về quyền của chủ sở hữu và những người liên quan đối với các loại tài sản” là nội dung phù hợp với chủ trương hoàn thiện thể chế về sở hữu và các thành phần kinh tế.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định, ở nước ta có những thành phần kinh tế: Nhà nước, tập thể, tư bản nhà nước, tư bản tư nhân, cá thể tiểu chủ, có vốn đầu tư nước ngoài.
Phân phối theo lao động căn cứ vào số lượng, chất lượng lao động làm cơ sở. Chất lượng lao động biểu hiện ở năng suất lao động.
Kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản, mà nó còn tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Lập luận là minh chứng chắc chắn nhất cho nhận thức về kinh tế thị trường thời kỳ đổi mới ở Việt Nam: Kinh tế thị trường đã hình thành trong xã hội phong kiến.
Đặc điểm trái với chủ trương “Sản phẩm nghiên cứu khoa học của cơ quan và cá nhân do Nhà nước đặt hàng và Nhà nước nghiệm thu” là hệ thống thị trường phát triển hoàn hảo.
Quan điểm: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, được Đảng ta khẳng định trong Đại hội XII.
Đại hội X của Đảng đề ra chủ trương “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”
Bắt đầu từ Đại hội X Đảng ta khẳng định: “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”
Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) vào năm 1995.
Một thực tế không thể đảo ngược của toàn cầu hóa là những mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau.
Đặc điểm khác nhau căn bản giữa cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật ngày nay với cuộc cách mạng công nghiệp thế kỷ XVIII, IX là mọi phát minh kỹ thuật dựa trên các nghiên cứu khoa học.
Nội dung chưa chính xác khi đánh giá về nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới (12/1986) là: Chúng ta đã xác định đúng mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật.
Sai lầm chứng tỏ tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội trong công nghiệp hóa của Đảng thời kỳ trước đổi mới (12/1986) là: Đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết.
Trong các chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn, chuyển dịch nhằm đưa nông thôn thoát nghèo trở thành khá giả là tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao.
Tác động tiêu cực của xu thế toàn cầu hóa đối với Việt Nam là góp phần chuyển biến cơ cấu kinh tế - xã hội.
Ở thời kỳ trước đổi mới (12/1986), sai lầm chứng tỏ bệnh chủ quan, duy ý chí trong bố trí cơ cấu kinh tế là: Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh.
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật giai đoạn thứ hai có thể gọi là cuộc cách mạng khoa học công nghệ vì cách mạng công nghiệp trở thành cốt lõi của cách mạng khoa học kỹ thuật.
Nhận thức về công nghiệp hóa ở Việt Nam đã trải qua nhiều mốc phát triển kể từ Đại hội III của Đảng (năm 1960) đến nay. Mốc nhận thức đã được xuất hiện tại Đại hội X của Đảng (năm 2006) là: Công nghiệp hóa được nhận thức là “công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức trong thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế”.
Đánh giá về kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội: “Cơ cấu công nghiệp dịch chuyển đúng hướng và tích cực,… phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững” được trình bày trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong các đặc trưng chủ yếu của công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới, đặc trưng xuất phát từ nguồn lực sẵn có của Việt Nam là: Công nghiệp hóa chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên, đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa.
Đánh giá về kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội: “Kinh tế tăng trưởng từng bước vững chắc và ngày càng được cải thiện, quy mô kinh tế ngày càng mở rộng, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm” được trình bày trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong thành phần kinh tế dựa trên sở hữu công cộng phải thực hiện phân phối theo lao động: Vì còn phân biệt các loại lao động; Vì lực lượng sản xuất phát triển chưa cao; Vì mọi người bình đẳng đối với lực lượng sản xuất.
Yếu tố quy định tính lịch sử của quan hệ phân phối là quan hệ sản xuất.
Sự quản lý của nhà nước trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa khác nhau ở mục tiêu, bản chất và công cụ quản lý.
Quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất có vai trò quyết định đến phân phối.
Biện pháp “Mở rộng các lĩnh vực độc quyền nhà nước” là trái với nội dung hoàn thiện thể chế về sở hữu và các thành phần kinh tế
Biện pháp “Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ” phù hợp với nội dung: Hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ các loại thị trường.
Về tác dụng của việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phương án KHÔNG đúng là: Sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội.
Tác hại rất khó đẩy lùi và vẫn còn kéo dài đến nay, do cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp thực hiện trong giai đoạn trước đổi mới đã gây ra là sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội.
Quan điểm: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước ”, được Đảng ta khẳng định trong Đại hội XIII.
Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào năm 2007.
Mặt hạn chế trong quá trình diễn ra cuộc cách mạng khoa học công nghệ là chế tạo ra vũ khí hiện đại có sức công phá lớn.
Đánh giá về kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, Đảng ta cho rằng: “Hội nhập quốc tế chưa được triển khai đồng đều, hiệu quả tổng hợp chưa cao”. Nhận định đó thuộc về quốc phòng, an ninh và đối ngoại.
Trong các chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn, chuyển dịch giải quyết tốt đầu ra cho nông nghiệp là gắn với công nghiệp chế biến và thị trường.
Trong các chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn, chuyển dịch nói lên thực chất của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn là đẩy nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp.
Quan điểm phát triển kinh tế - xã hội là: “Đẩy mạnh cơ cấu lại công nghiệp, tạo nền tảng cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa” được trình bày trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam
Quan điểm phát triển kinh tế - xã hội là: “Phát huy cao nhất các nguồn lực trong nước, đồng thời chủ động hội nhập quốc tế, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài để phát triển nhanh, bền vững” được trình bày trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam
Cơ chế thị trường là cơ chế điều tiết nền kinh tế theo các quy luật của kinh tế thị trường.
Khái niệm “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” bắt đầu sử dụng trong Văn kiện Đại hội IX của Đảng
Đặc điểm trái với chủ trương “Giá sản phẩm của doanh nghiệp phải trình Chính phủ phê duyệt” là giá cả cơ bản do cung - cầu điều tiết.
Việc ban hành pháp luật về quyền sở hữu đối với các tài sản mới như trí tuệ, cổ phiếu, tài nguyên nước,… là phù hợp với nội dung: Hoàn thiện thể chế về sở hữu và các thành phần kinh tế.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã xác định, ở nước ta có những thành phần kinh tế: Nhà nước, tập thể, cá thể tiểu chủ, tư bản tư nhân, có vốn đầu tư nước ngoài.
Quan điểm: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” được trình bày trong Văn kiện Đại hội VI của Đảng.
Kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế trên cơ sở hợp nhất hai thành phần kinh tế: cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân, chính thức được xác nhận trong Văn kiện Đại hội X của Đảng.
Tổ chức không phải biểu hiện của xu thế toàn cầu hóa là: Hiệp ước thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA).
Việt Nam tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) vào năm 1996.
Quan điểm phát triển kinh tế - xã hội là: “Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước” được trình bày trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là trực tiếp xuất phát từ cơ sở: Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia để tránh khỏi nguy cơ bị biệt lập, tụt hậu, kém phát triển.
Trong các đặc trưng chủ yếu của công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới, đặc trưng chứng tỏ bệnh chủ quan, duy ý chí trong công nghiệp hóa là ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế - xã hội.
Trong các đặc trưng chủ yếu của công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới, đặc trưng xuất phát từ nguồn lực sẵn có của Việt Nam là công nghiệp hóa chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên, đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa.
Nội dung KHÔNG đúng với chủ trương: “Sản phẩm nghiên cứu khoa học của cơ quan và cá nhân do Nhà nước đặt hàng và Nhà nước nghiệm thu” là hệ thống thị trường phát triển hoàn hảo.
Yếu tố không thuộc thể chế kinh tế thị trường là các quy luật kinh tế tác động trong nền kinh tế thị trường.
Việt Nam tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) vào năm 1998.
Thách thức lớn nhất mà Việt Nam phải đối mặt với toàn cầu hóa là sự chênh lệch về trình độ khi tham gia hội nhập.
Đánh giá về kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, Đảng ta cho rằng: “Phát triển công nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thiếu tính bền vững”. Nhận định đó thuộc nội dung về cơ cấu lại nền kinh tế.
Lần đầu tiên khái niệm “tập đoàn kinh tế tư nhân” xuất hiện trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng.
Hiện nay ở nước ta đang phát triển năm thành phần kinh tế
Kinh tế tư nhân, với tư cách là một thành phần kinh tế, đã được nâng lên một tầm mới trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.
Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp thực hiện trong giai đoạn trước đổi mới đã gây ra nhiều tác hại. Tác hại làm cho đất nước nghèo đi, kinh tế khủng hoảng là làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả.
Bắt đầu từ Đại hội X Đảng ta khẳng định: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”
Một trong những nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Ở thời kỳ trước đổi mới (12/1986), sai lầm chứng tỏ bệnh chủ quan, duy ý chí trong bố trí cơ cấu kinh tế là: Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh.
Nhận thức về công nghiệp hóa ở Việt Nam rằng: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức trong thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế” được trình bày trong Văn kiện Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam