(12 mẫu) Phân tích Trao duyên hay nhất | Ngữ văn 10

Phân tích Trao duyên - Tổng hợp các bài văn mẫu phân tích 12 câu đầu Trao duyên, phân tích bài Trao duyên, phân tích 8 câu cuối bài Trao duyên, phân tích đoạn trích Trao duyên, phân tích 18 câu đầu Trao duyên được Hoatieu tổng hợp trong bài viết sau đây sẽ là gợi ý tham khảo bổ ích cho các em học sinh khi học tập và phân tích đoạn trích Trao duyên trong tác phẩm truyện Kiều của tác giả Nguyễn Du. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Chủ đề:

Văn mẫu 10 194 tài liệu

Môn:

Ngữ Văn 10 1.3 K tài liệu

Thông tin:
64 trang 4 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

(12 mẫu) Phân tích Trao duyên hay nhất | Ngữ văn 10

Phân tích Trao duyên - Tổng hợp các bài văn mẫu phân tích 12 câu đầu Trao duyên, phân tích bài Trao duyên, phân tích 8 câu cuối bài Trao duyên, phân tích đoạn trích Trao duyên, phân tích 18 câu đầu Trao duyên được Hoatieu tổng hợp trong bài viết sau đây sẽ là gợi ý tham khảo bổ ích cho các em học sinh khi học tập và phân tích đoạn trích Trao duyên trong tác phẩm truyện Kiều của tác giả Nguyễn Du. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

48 24 lượt tải Tải xuống
(12 mẫu) Phân tích Trao duyên hay nhất
1. Dàn ý phân tích Trao duyên
1. Mở bài phân tích Trao duyên
- Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều:
+ Nguyễn Du đại thi hào dân tộc danh nhân văn hóa thế giới, một nhân cách lớn,
một nhà văn, nhà thơ vĩ đại.
+ Truyện Kiều được xem là kiệt tác của nền văn học được dịch ra nhiều thứ tiếng.
- Giới thiệu đoạn trích Trao duyên:
+ Vị trí: Đoạn trích từ câu 723 đến 756 trong tác phẩm “Truyện Kiều” phần gia biến
và lưu lạc.
+ Nội dung: Thuật lại diễn biến tâm trạng của Kiều trong đêm cuối cùng trao duyên
cho Thúy Vân nhờ em trả nghĩa với chàng Kim hộ mình.
2. Thân bài phân tích Trao duyên
* Khái quát về hoàn cảnh diễn ra cuộc trao duyên
- Sau đêm thề nguyện giữa Kim Trọng và Thúy Kiều, Kim Trọng phải về gấp hộ tang
chú Liễu Dương. Tai nạn ập đến nhà Kiều sự vu oan của thằng bán tơ. Cha và
em trai bị đánh đập tàn nhẫn, của cải bị cướp sạch. Kiều buộc phải bán mình chuộc
tội cho cha em. Công việc nhà tạm ổn, nhưng mối tình của mình thì lỡ dở. Chỉ
còn lại một đêm nhà, ngày mai phải đi theo Mã Giám Sinh. Thúy Kiều đã cậy nhờ
Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng.
* Kiều trao duyên cho Vân, nhờ cậy Vân thay mình trả nghĩa chàng Kim
- Lời nhờ cậy của Kiều
+ "Cậy": một thanh trắc với âm điệu nặng nề, gợi sự quằn quại, đau đớn, khó nói,
còn mang hàm nghĩa trông mong, giúp đỡ, hi vọng tha thiết, sự gửi gắm đầy tin
tưởng.
+ Chịu: nài ép, bắt buộc, không thể từ chối.
-> Vân bị ép vào một thế dù không muốn cũng phải nhận tình yêu mà Kiều trao.
=> Lời lẽ cậy nhờ của Kiều rất đẹp đẽ và chính xác, chặt chẽ.
- Hành động nhờ cậy:
+ “ngồi lên”, “lạy”, “thưa”: Kính cẩn trang trọng với người bề trên hoặc người hàm
ơn.
-> Sự thay bậc đổi ngôi, đi ngược với lễ giáo phong kiến nhưng chấp nhận được,
bởi: Kiều coi Vân như ân nhân của mình. Kiều trân trọng tình yêu với Kim Trọng.
=> Qua cách nói thể hiện sự thông minh, khéo léo của Thúy Kiều
- Lí lẽ trao duyên của Kiều:
+ Kiều kể về tình yêu với Kim Trọng, nguyên nhân sự tan vỡ và quyết định của mình
: “khi ngày... chén thề”, nguyên nhân tan vỡ: “Sự đâu... bất kì”, quyết định khó xử:
“Hiếu tình... vẹn hai”.
+ “Giữa đường đứt gánh tương tư”, “Mối thừa”, “Quạt ước, chén thề” -> Thành
ngữ, những điển tích, những ngôn ngữ giàu hình ảnh đã vẽ nên một mối tình nồng
thắm nhưng mong manh, dang dở và đầy bất hạnh của Kim - Kiều.
+ Những lí do khiến Kiều trao duyên cho em:
Gia đình Kiều gặp biến cố lớn “sóng gió bất kì”, Kiều buộc phải chọn hoặc “hiếu”
hoặc “tình”, Kiều chọn hi sinh tình.
-> Gợi ra tình cảnh ngang trái, khó xử của mình để em thấu hiểu.
“Ngày xuân em hãy còn dài”
-> Vân vẫn còn trẻ, còn cả tương lai phía trước.
“Xót tình máu mủ thay lời nước non”
-> Kiều thuyết phục em bằng tình cảm ruột thịt.
“Thịt nát xương mòn”, “Ngậm cười chín suối”: nói về cái chết đầy mãn nguyện.
-> Kiều viện đến cả cái chết để thể hiện sự cảm kích thật sự của mình khi Vân nhận
lời.
=> Cách lập luận hết sức chặt chẽ, thấu tình cho thấy Thúy Kiều người sắc sảo
tinh tế, có đức hi sinh, một người con hiếu thảo, trọng tình nghĩa.
* Tâm trạng của Kiều khi trao kỉ vật và dặn dò Vân
- Kiều trao kỉ vật
+ Chiếc vành, bức tờ mây -> Kiều trao những kỉ vật gắn bó đơn sơ mà thiêng liêng,
gợi quá khứ hạnh phúc giữa mình với Kim Trọng cho Vân.
+ “giữ - của chung - của tin”
“Của chung” là của Kim, Kiều nay là cả của Vân nữa
“Của tin” những vật gắn bó gợi tình yêu thiêng liêng của Kim - Kiều: mảnh hương,
tiếng đàn.
=> Sự giằng trong tâm trạng Thúy Kiều: Kiều chỉ có thể gửi gắm mối duyên dang
dở cho Vân chứ không thể trao hết tình yêu mặn nồng xưa kia giữa nàng Kim
Trọng.
- Lời dặn dò của Kiều với Vân:
+ Kiều dự cảm về cái chết : hiu hiu gió, hồn, nát thân bồ liễu, dạ đài, người thác oan
-> Dự cảm không lành về tương lai, sự tuyệt vọng tột cùng. Kiều tưởng tượng ra
cảnh mình chết oan, chết hận. Hồn không sao siêu thoát được bởi trong lòng đang
nặng lời thề ước với Kim Trọng.
=> Sự đau đớn, đầy tuyệt vọng của Kiều, tấm lòng thủy chung một lòng hướng về
Kim trọng của Kiều.
+ Thúy Kiều dặn dò Thúy Vân
“Đền nghì trúc mai”: Đền ơn đáp nghĩa.
“Rưới xin giọt nước”: Tẩy oan cho chị.
-> Nỗi bứt rứt, dằn vặt trong lòng Kiều, Kiều như càng nhớ, càng thương Kim Trọng
hơn bao giờ hết.
* Tâm trạng của Thúy Kiều khi trở về thực tại, hướng về tình yêu của mình Kim
Trọng
- Lời thơ chuyển từ đối thoại sang độc thoại
- “trâm gãy gương tan”, “tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa
trôi lỡ làng” -> Nàng ý thức rõ về cái hiện hữu của mình.
=> Gợi tả số phận đầy đau khổ, dở dang, bạc bẽo, lênh đênh trôi nổi.
- Nghệ thuật đối lập: quá khứ với hiện tại
-> Khắc sâu nỗi đau của Kiều trong hiện tại.
- Hành động
+ Lạy: cái lạy tạ lỗi, vĩnh biệt (khác với cái lạy nhờ cậy lúc đầu)
+ Tự nhận mình là người phụ bạc -> Day dứt, mặc cảm.
+ Hai lần gọi tên Kim Trọng: tức tưởi, nghẹn ngào, đau đớn đến mê sảng.
+ “Kim Lang”: cách gọi thân mật như vợ chồng.
-> Kiều quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác, đó chính là lòng vị
tha, đức hy sinh cao quý.
- Từ cảm thán (Ôi, hỡi, thôi thôi): tiếng kêu đầy tuyệt vọng, tố cáo xã hội phong kiến
tàn bạo bất công chà đạp số phận con người.
3. Kết bài phân tích Trao duyên
- Khái quát nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Trao duyên.
+ Giá trị nội dung: thể hiện bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh của Thúy Kiều khi
phải dứt lòng trao lại cho Thúy Vân mối tình đầu tiên; nhân cách cao đẹp của Kiều
khi hi sinh hạnh phúc cá nhân để đổi lấy hạnh phúc và sự bình yên cho gia đình.
+ Đặc sắc nghệ thuật: Thể thơ lúc bát giàu nhạc tính, hình thức độc thoại và kết hợp
sử dụng giữa ngôn ngữ trang trọng với lối nói dân giản dị, các biện pháp ẩn dụ, điệp
từ, vận dụng nhuần nhuyễn các thành ngữ.
- Nêu cảm nhận đánh giá của em về đoạn trích.
2. Sơ đồ tư duy phân tích Trao duyên
3. Phân tích Trao duyên dàn ý
I. MỞ BÀI
Nguyễn Du đại thi hào dân tộc danh nhân văn hóa thế giới, một nhân cách lớn,
một nhà văn, nhà thơ đại của dân tộc Việt Nam. Ông đã để lại cho hậu thế một
gia tài đồ sộ về văn chương trong đó có tác phẩm truyện Kiều đã được dịch ra nhiều
thứ tiếng. Trong đó, đoạn trích Trao duyên một trong những đoạn trích đặc sắc
thuộc tác phẩm. Đoạn trích đã thể hiện bi kịch trong tình yêu của Thúy Kiều qua đó
thể hiện tiếng kêu đau đớn của tác giả về số phận con người trong hội phong
kiến.
II. Thân bài
1. Phân tích nội dung chủ đề của tác phẩm.
a. Hoàn cảnh diễn ra cuộc trao duyên
- Truyện Kiều trước hết câu chuyện tình yêu của đôi trai tài gái sắc Kim Kiều.
Mối tình của họ bắt đầu với những trang đẹp nhất của tình yêu nam nữ xưa nay
(không bị lễ giáo phong kiến ràng buộc, không bị vẩn đục bởi danh vọng tiền tài,
nồng thắm rất sáng trong). Bất ngờ gia đình gặp tai biến, Kiều quyết định bán
mình chuộc cha.
- Đêm trước khi rời nhà, Thuý Kiều mới thời gian cho riêng mình nàng nghĩ
ngay đến Kim Trọng: không biết chàng sẽ ra sao khi trở về không gặp nàng,
chắc chàng sẽ cùng đau khổ. Thuý Kiều nghĩ rằng mình kẻ phụ tình, bội
ước, lỗi thề, kẻ gây ra đau đớn cho người yêu. Đó là lý do khiến Thuý Kiều :
Nỗi riêng riêng những bàn hoàn
Dầu chong trắng đĩa lệ tràn tấm khăn
Không chỉ đau khổ, Thuý Kiều còn muốn tìm cách đắp cho người yêu để chàng
bớt đau khổ. Ý định này đến với Thuý Kiều một cách hoàn toàn đột ngột, bất ngờ.
Thuý Kiều khi đã “ngồi nhẵn tàn canh” chưa nghĩ ra cách nào thì Thuý Vân “tỉnh
giấc xuân” đến bên chị ân cần hỏi han, chia sẻ. Chính sự quan tâm đúng lúc, xuất
hiện đúng lúc, sự đồng cảm của Thuý Vân đã khiến cho Thuý Kiều nảy ra ý định táo
bạo này. Kim Trọng chính là nguyên nhân để nàng quyết định trao duyên cho em. Và
nàng tìm mọi cách để thuyết phục em.
b. Kiều trao duyên cho Vân, nhờ cậy Vân thay mình trả nghĩa chàng Kim
- Thuý Kiều đã mở lời trao duyên bằng câu đề nghị:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Đó một câu đề nghị lạ lùng: lạ lùng cách xưng (cậy em, thưa, chịu lời),
hành động của Kiều với em gái: lạy em gái. Thật thiêng liêng thật trái với tôn ti
trật tự phong kiến. Lạ lùng ở cả thái độ sao mà khẩn thiết.
- Sức nặng của lời đề nghị rơi cả vào những từ: lạy, thưa, cậy em, chịu lời.
- Nguyên nhân của thái độ ấy: Kiều hiểu việc mình nhờ một việc hết sức quan
trọng, cũng hết sức tế nhị đầy khó khăn với Thuý Vân. Bởi xưa nay trong cuộc
sống người ta thể trao cho nhau thứ này, thứ nọ nhưng chẳng mấy ai trao tình
yêu nài ép người khác hãy yêu lấy người mình yêu. Thuý Kiều hiểu sự khó xử
của em và hiểu đó là một sự hi sinh của Thuý Vân nếu nhận lời giúp nàng. Đó là một
cái ơn sâu nặng.
- Thậm chí, ngay cả trình tự việc làm của Kiều cũng rất có dụng ý: mời em ngồi lên,
lạy rồi mới thưa -> Một Thuý Kiều sắc sảo, thông minh, tế nhị, khéo léo, nhạy cảm.
- Thuý Kiều dần dần nói rõ về nội dung lời thưa:
+ Trước tiên nàng giãi bày với em gái về hoàn cảnh riêng tư của mình, biến cố tình
yêu: “đứt gánh giữa đường”. Thành ngữ đứt gánh giữa đường vừa gợi lên biến cố
tình yêu dang dở của đời Kiều vừa cho thấy tình yêu với Kiều đâu chỉ là tình mà còn
nghĩa, trách nhiệm đã gánh dở trên vai, nay đứt gánh thì không thể bỏ dở, phải
nhờ người gánh tiếp.
- Tiếp đó, nàng đề nghị Vân thay mình trả nghĩa cùng Kim Trọng:
+ “Tơ thừa” gợi mối duyên tình dang dở giữa Kim và Kiều.
+ “Mặc em”: không phải mặc kệ hoàn toàn trông cậy vào em, tuỳ em định
liệu.
- Thuý Kiều thuyết phục Thuý Vân nhận lời trả nghĩa với Kim Trọng. Thuý Kiều
thuyết phục em bằng cách kể lại vắn tắt 2 biến cố:
+ Gặp Kim Trọng, yêu và hẹn ước thề nguyện.
+ Gặp sóng gió bất để rồi gia đình tai biến, tình yêu dang dở, rơi vào cảnh huống
day dứt giữa tình và hiếu.
-> Những lời kể chứa đầy tình cảm của Thuý Kiều, bao nhiêu thiết tha trong lời kể về
mối tình với Kim Trọng.
- Từ “khi” được điệp lại 3 lần như một sự phơi trải của quá khứ hạnh phúc trong tâm
trí của nàng Kiều. Nhưng cũng để nhằm giãi bày cho Thuý Vân hiểu thêm rằng
tình yêu giữa Kim Kiều đã nguyện ước ba sinh, đã đằm thắm mặn nồng, đã
món nợ lòng không thể phũ phàng bỏ dở, phải có người gánh tiếp nợ tình.
-> Muốn giãi bày cụ thể hơn với Vân về cách xử sự của Kiều trước hoàn cảnh bi
kịch để mong tìm sự thông cảm bằng hành động của Thuý Vân:
+ Gia đình tai biến, nàng đã lấy hiếu đặt lên tình. Đó là trách nhiệm tất yếu cho dù tự
nguyện. Nhưng điều đó khiến cho tình yêu tan vỡ, khiến nàng phải day dứt.
+ Tình yêu tan vỡ đó nỗi thống khổ đối với Kiều, mất mát đối với Kim Trọng.
Nàng đành phải lấy nghĩa đặt lên tình việc này nàng nhờ Vân san sẻ giúp. Đã vì
gia đình hi sinh tình yêu, Thuý Kiều cũng mong muốn ở Thuý Vân một sự hi sinh
để nàng có thể trả nghĩa cho Kim Trọng.
- Thuý Kiều viện đến tình máu mủ, viện đến cái chết, lại khẩn cầu em ban cho mình
chút vui, chút ơn, chút thơm lây vì đức hi sinh cao dẹp của em
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nuớc non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
+ Những thành ngữ “tình máu mủ” , “lời nước non” thể hiện hàm ý tha thiết cậy nhờ
em dẫu biết rằng tuổi xuân em còn dài, em sẽ thiệt thòi nhiều khi lấy Kim Trọng, lời
nước non này nặng lắm. Kiều đã phải viện đến tình ruột thịt để mong em nghĩ đến
tình ấy mà giúp mình.
+ Những thành ngữ “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối”, đều ngầm chỉ cái
chết. Thuý Kiều tự coi mình một người sắp chết, sắp ra đi vĩnh viễn đang nói
lời trăng trối với người còn sống. Trước khi chết, Thuý Kiều chỉ còn một điều day dứt
đó thôi. Lời của người sắp chết chẳng ai nỡ từ chối bao giờ.
-> Thuý Kiều thật sắc sảo, khôn ngoan, nàng đã biết dùng trí đè nén tình cảm
đúng lúc, đúng chỗ. Có thể nói ở phần thơ đầu con người lí trí đã dồn nén con người
tình cảm trong Thuý Kiều để thuyết phục Thuý Vân bằng mọi cách. Tâm trạng Thuý
Kiều nhẹ nhõm, thanh thản phần nào. Cơn sóng lòng lúc trước đang trào dâng có lẽ
giờ đã lắng xuống.
c Tâm trạng của Kiều khi trao kỉ vật và dặn dò Thúy Vân
*. Kiều trao kỉ vật tình yêu của mình với Kim Trọng cho Thúy Vân
-Lý do: Tình yêu nào chẳng thề hẹn, những kỷ vật thiêng liêng. Thuý Vân
đã không sự ích kỷ chối từ lời nhờ cậy của Thuý Kiều thì Thuý Kiều cũng
không thể ích kỷ giữ khư khư lấy kỷ vật cho riêng mình. Quan trọng hơn,
trao kỷ vật cho Thuý Vân thì Thuý Kiều mới chứng tỏ được mình không còn vương
vấn với mối tình nữa, đã trao gửi hết cho em rồi, khiến cho Thuý Vân đỡ
băn khoăn, đỡ phải tủi thân.
- Trao kỉ vật: đó là: Chiếc thoa: Vật làm quen, kỷ niệm đầu tiên; Tờ mây: tờ giấy ghi
lời thề ước (có vẽ hình mây); Phím đàn, mảnh hương nguyền. Đây những kỉ vật
hết sức gắn bó, thiêng liêng đã từng ghi nhận, chứng giám cho mối tình đẹp đẽ,
nồng nàn của Kim và Kiều.
- Tâm trạng của Kiều khi trao kỉ vật: Khi trao kỉ vật cho Thúy Vân Kiều dùng các từ
ngữ đặc sắc: “Của chung” tức trước của Kiều Kim, nay của Kim Vân,
nhưng vẫn xác định thêm cách của Kiều trong đó nữa. Thuý Vân là tư cách mới,
người mới được trao, còn Thuý Kiều người trao nhưng chưa dứt diểm. “Của tin”
tức những kỉ vật ấy đâu chỉ vật chứng giám thiêng liêng mà còn là niềm tin gửi
lại cho nhau. Sở Kiều không nói “của em” nói là của chung, của tin vì tay trao
lòng nuối tiếc, trao duyên nhưng không muốn trao tình. còn khao khát được
trở về sống trong tình yêu ấy bằng kỉ vật.
Kiều đau đớn, xót xa, quằn quại mỗi kỷ vật đều gợi lên tình yêu tha thiết, đẹp đẽ,
rực rỡ vừa mới đây thôi đã trở thành quá vãng, lời thề hẹn hôm nào thoắt đã
chuyện của ngày xưa. Tất cả còn ý nghĩa đâu khi người đã mất, chút của tin
còn cũng đanh phải trao đi. Do vậy những kỷ vật đã làm thức dậy tình yêu mãnh liệt
trong lòng Thuý Kiều, khiến Thuý Kiều trở lại tâm trạng bi kịch như ban đầu.
* Sau khi trao kỉ vật cho Thúy Vân, Thúy Kiều dặn dò Thuý Vân:
- Thuý Kiều tự coi mình là người “mệnh bạc” và dặn dò Thuý Vân mai sau có khi nào
giở lại những kỷ vật tình yêu, đừng quên Thuý Kiều, một phần linh hồn của Thuý
Kiều là ở trong đó.
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
- Kiều bất ngờ nhận thấy nghịch cảnh mất mát: một bên hạnh phúc nên vợ nên
chồng của Vân, một bên bất hạnh của nàng, chỉ còn là người mệnh bạc; một bên
mất mát (mất người) với một bên còn còn chút của tin; một bên tương lai
mờ mịt, như đi vào cõi chết ( mai sau bao giờ) với một bên hiện tại khổ đau
tan vỡ... Vượt lên trên những đối lập ấy chính là nghịch cảnh tình chị – duyên em
* Ước nguyện của Kiều: Vẫn khát khao được trở về với tình yêu bằng linh hồn bất
tử, vẫn ước nguyện được đền đáp lời thề tình yêu với Kim Trọng. Vẫn mong trở về
để nhận được sự cảm thông, chia sẻ của người thân yêu, của Kim Trọng
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rảy xin chén nước cho người thác oan
Giây phút này Kiều ý thức đầy đủ về sự mất mát của mình, nỗi đau của mình. Sự bội
ước lời thề, phụ tình cũng chẳng qua đều oan trái, còn tình yêu vẫn mãnh liệt
trong nàng. Đến đây, lời dặn dò của Kiều đối với em gái thực chất đã quay về hướng
vào chính mình. Nỗi đau trao duyên đã khiến nàng quên mất người đối thoại với
mình, ngồi cạnh mình.
- Hoà trong nội dung, nhịp điệu đoạn thơ cũng trở nên đứt nối, đuối dần đi, ngôn
ngữ thơ siêu thoát, tràn ngập những hình ảnh của cõi mộng, cõi chết (hồn, nát thân
bồ liễu, hiu hiu gió, thác oan, mệnh bạc...), những điển cố... mang một tiếng đập
khác thường, rỉ máu yếu đuối của trái tim, một tiếng nói mơ hồ vọng về từ cõi khác,
một chiếc linh hồn phiêu diêu đi vào cõi vô cùng vô tận của trống vắng cô đơn.
-> Đó tâm trạng do quá đau đớn, xót xa không làm chủ được trí và lời nói.
Đang nói với Thuý Vân Thuý Kiều như quay sang để độc thoại một mình. Một
tâm trạng rối bời, bi kịch đẩy lên cao phá vỡ thời gian khách thể, chỉ còn thời gian
không gian tâm trạng quá khứ, mai sau, lẫn lộn mơ thực...
d. Tâm trạng của Thúy Kiều khi trở về thực tại, hướng về tình yêu của mình và Kim
Trọng
- Từ thời gian tâm trạng về thực tại, từ đối diện với chính mình, Thuý Kiều chuyển
sang đối thoại với Kim Trọng trong tâm tưởng về một hiện thực không thể thay đổi,
tình yêu đã đổ vỡ, về thân phận đầy những nỗi bất hạnh của chính nàng.
+ Tình yêu tan vỡ, duyên phận dở dang: “bây giờ trâm gãy tình tan”; “tơ duyên ngắn
ngủi”
+ Thân phận bạc bẽo, mỏng manh: phận bạc như vôi, nước chảy hoa trôi...
- Sử dụng thủ pháp nghệ thuật đối lập: Một bên tình yêu tan vỡ, thân phận mỏng
manh, bạc bẽo với một bên tình yêu mãnh liệt: “muôn vàn ái ân”; “trăm nghìn”;
“tình quân”... diễn tả bi kịch, nỗi đau đớn quằn quại của Thuý Kiều và khát vọng tình
yêu mãnh liệt không thôi.
- Là tiếng kêu xé lòng của Thuý Kiều (một tiếng nấc uất nghẹn)
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.
Câu thơ vừa tiếng gọi, vừa lời than, nỗi tuyệt vọng đau xót cùng cực của
Thuý Kiều.
- Tên Kim Trọng được nhắc đến hai lần, mà Thuý Kiều lại gọi là “Kim lang” – chồng,
gọi đến hai lần cùng với những thán từ chỉ sự đau đớn, tuyệt vọng, lại thổ lộ, lại
nhận lỗi với Kim Trọng “thiếp đã phụ chàng”. Thuý Kiều vẫn chưa dứt được tình với
Kim Trọng. Đã nhờ Thuý Vân trả nghiã cho Kim Trọng vẫn tự cho mình kẻ phụ
tình, nàng hiểu tình thể trả bằng tình sao trả bằng nghĩa. Cuối cùng Thuý Kiều
đã hoàn toàn rời xa khỏi sự việc trao duyên để đến với chữ tình.
- Cuối cùng, đau đớn, Kiều đã trao duyên. Nhưng duyên đã trao tình thì
không thể dứt. Kiều vẫn không thể thanh thản.
Đoạn trích Thể hiện bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh của Thúy Kiều khi phải dứt
lòng trao lại cho Thúy Vân mối tình đầu tiên. Lời nhờ cậy đầy đau khổ khiến cho
Kiều như đứt từng khúc ruột. Thế nhưng, trong hoàn cảnh ấy, Kiều không còn sự
lựa chọn nào khác tốt hơn. Nhân cách cao đẹp của Kiều thể hiện bởi sự hi sinh
hạnh phúc nhân, quên đi bản thân mình, quên đi mối tình đẹp đẽ của mình với
Kim Trọng đề đổi lấy hạnh phúc và sự bình yên cho gia đình. Giữa chữ “tình” và chữ
“hiếu”, Kiều buộc lòng phải chọn chữ “hiếu” nàng không thể giương mắt nhìn cha
và em bị hành hạ tới chết được.
2. Phân tích những đặc sắc về hình thức của tác phẩm.
- Nguyễn Du rất thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm nhân vật, tâm trạng
Thuý Kiều hiện ra đa dạng, phức tạp, tinh tế như chính con người thật.
- Tác giả sử dụng ngôn từ chắt lọc, tinh tế để tạo nên hình tượng nhân vật sắc nét,
gần gũi. Bút pháp sắc bén duy ngôn từ đa dạng tạo nên dấu ấn đặc sắc của
'Đại thi hào Nguyễn Du'.
+ Tác giả sử dụng những điển cố, điển tích điển hình để thể hiện nỗi đau đớn, xót xa
của Thúy Kiều, “Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề”, “trâm gãy bình tan”, “ngậm
cười chín suối”, “Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”. Những hình ảnh này nhằm làm
nổi bật nỗi thống cổ trong hoàn cảnh éo le của nàng Kiều.
+ Ngôn ngữ độc thoại: thể hiện ý chí quyết tâm cắt bỏ đoạn tình cảm với chàng Kim,
nhưng rồi lại khổ đau tột cùng khi nghĩ đến việc phải rời xa người yêu, “Duyên này
thì giữ, vật này của chung”, “Dù em nên vợ nên chồng/ Xót người mệnh bạc ắt lòng
chẳng quên.”. Kiều vẫn muốn giữ lại chút tấm lòng, chút tình cảm sâu nặng giữa hai
người, thể hiện lối suy nghĩ của một cô gái sắc sảo, thông minh
- Thể thơ lục bát của dân tộc rất giàu nhạc tính cùng với cách ngắt nhịp đầy dụng ý,
Nguyễn Du đã tạo nên nhịp điệu của tâm trạng, của những nỗi đau đớn trong suy
nghĩ của Kiều khi trao duyên.
- Bên cạnh đó, các biện pháp ẩn dụ, điệp từ, vận dụng nhuần nhuyễn các thành ngữ
đã xây dựng thành công diễn biến tâm phức tạp, giằng xé, đau khổ của Kiều qua
những lời độc thoại nội tâm khéo léo.
III. Kết bài
- Đoạn thơ như một màn kịch về tâm trạng, nó không chỉ khai phá nội tâm con người
còn khai phóng một con đường giải thoát tâm trạng bằng những thể nghiệm rất
kịch tính, sự diễn biến tâm trạng cả bề rộng lẫn bề sâu. đề cập được đến
một bi kịch phổ biến của xã hội cũ: Thiên tình sử tan vỡ, tình chị duyên em.
- sở của bi kịch này này sự hiện diện của con người nhân. Ta bắt gặp
đây con người không chịu ru ngủ mình, con người thức tỉnh, biết hi sinh
người khác cũng biết thương mình, con người khát vọng tình yêu cháy bỏng
nhưng kết cục lại rất bi thương. Qua đó tâm trạng Thuý Kiều cho thấy sức cảm
thông lạ lùng của đại thi hào Nguyễn Du với thân phận bi kịch và khát vọng tình yêu
của con người.
4. Phân tích Trao duyên 14 câu giữa
Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc, ông từng phiêu bạt, sống gian khổ ở nhiều nơi
khác nhau nên đã chứng kiến những bất công ngang trái của cuộc đời đặc biệt
người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Qua trang đời của người con gái tài hoa bạc mệnh
- Thúy Kiều, Nguyễn Du đã phải thốt lên: "Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc
mệnh cũng lời chung". Trao duyên nốt nhạc buồn khởi đầu cho cung đàn bạc
mệnh suốt mười lăm năm của Thúy Kiều. Nếu như ở 12 câu đầu Thúy Kiều nhờ cậy
em gái Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng thì 14 câu tiếp Thúy Kiều đầy xót xa
đau đớn mà trao kỉ vật cho Thúy Vân và nhờ cậy em truyện mai sau.
Nguyễn Du tên chữ Tố Như hiệu Thanh Hiên, quê tại làng Tiên Điền, huyện
Nghi Xuân, tỉnh Tĩnh. Ông sinh ra trong một gia đình cùng danh giá, cha làm
quan lớn trong triều Lê, anh trai cùng cha khác mẹ cũng làm tới quan Tham tụng
trong triều. Tuổi thơ ông đầy biến động, cha mẹ mất sớm, phải tha hương nhiều nơi
lúc thì về quê cha, khi về quê mẹ một thời gian phải phiêu dạt tận quê vợ
Thái Bình. thể nói chính cuộc sống chìm nổi cùng với thời thế đầy biến động,
phiêu bạt nhiều nơi đã tạo nên một Nguyễn Du học vấn sâu rộng, trái tim chất
chứa yêu thương cảm thông sâu sắc với những kiếp người nghèo khổ. Nguyễn
Du được coi một người thiên phú văn học từ nhỏ, bậc thầy trong việc sử dụng
tiếng Việt, ngôi sao sáng chói trên bầu trời văn học Việt Nam. Ông để lại cho đời
cả một kho tàng văn học phong phú với khoảng hơn ngàn tác phẩm bao gồm cả chữ
Hán chữ Nôm, trong đó không thể không kể đến Truyện Kiều. Đó một kiệt tác
viết bằng chữ Nôm dựa trên cốt truyện tiểu thuyết của Thanh Tâm tài nhân, tuy
nhiên đã được sáng tạo tài tình cải biến để phù hợp với xã hội Việt Nam. Câu truyện
được kể bằng 3254 câu thơ, đoạn trích Trao duyên bắt đầu từ câu 723 đến 756.
Sau khi nhờ cậy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng, Thúy Kiều trao kỉ vật tình yêu lại cho
Vân:
"Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung"
"Chiếc vành", "tờ mây" những kỉ vật minh chứng cho tình yêu cũng là lời thề ước
của Kim Trọng Thúy Kiều. Kỉ vật của một mối tình đẹp Kiều không nỡ rời xa
nay đành gửi gắm tất cả lại cho Vân. Đồ vật thì thể trao lại cho người khác,
nhưng còn tình cảm thì làm sao gửi gắm được, tình yêu giữa hai người đâu phải
muốn cho ai cho. Đó thứ tình cảm thiêng liêng giữa Kiều và chàng Kim, không
thể người thứ ba xen vào. “Duyên này thì giữ” trao kỉ vật nhưng không thể
quên được kỉ niệm điều đó chứng tỏ tình yêu sâu đậm, nồng nàn của Kim - Kiều.
“Của chung” vật từng của riêng Kim Kiều, nay là của chung Kim, Kiều, Vân,
gợi được sự đau đớn tiếc nuối. Nguyễn Du lẽ đang oán cái chế độ xã hội
tàn bạo, cổ hủ khiến cho một tình yêu thiêng liêng, mặn nồng như thế phải tan vỡ.
Kỉ vật đã trao lại cho em, Kiều nhắc nhở Vân những lúc hạnh phúc ở bên người yêu
thì đừng quên chị:
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa"
Trao kỉ vật lại cho em cũng nhằm để cho em nhớ đến mình, nàng tự coi mình
“mệnh bạc” để người khác xót xa thay cho thân phận mình. Sợi duyên đẹp đẽ
ngày nào đã mất đi thì sống trên đời cũng chẳng còn nghĩa lý gì. Kiều chỉ mong rằng
Thúy Vân còn giữ kỉ vật cũng như nhớ về người chị “mệnh bạc” này. Chút níu giữ đó
vật làm tin nay cũng trao đi rồi, còn "phím đàn” ở lại như để mỗi khi ai đó đánh lên
sẽ nhớ tới nàng. Bốn câu thơ tiếp theo chính những dự cảm về cái chết mà Kiều
đã sẵn sàng đón nhận:
"Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về"
Tác giả sử dụng từ ngữ mang tính giả định "mai này", "dù có" để thấy được tưởng
tượng của Kiều về cảnh ngộ của mình trong tương lai, Thúy Kiều đã mất niềm tin
vào tương lai phía trước. Một người đương tuổi xuân phơi phới nhưng luôn nghĩ về
cái chết. Nàng chỉ mong ước duy nhất đó mai sau Thúy Vân hãy nhớ tới linh hồn
của mình để nàng đỡ lẻ loi, hiu quạnh. Khi đàn, khi đốt hương hay khi trông ra ngọn
cỏ thì hãy nhớ đến người chị này. Kiều mất niềm tin vào cuộc sống, cho chết
cũng chỉ biết nương nhờ cỏ cây, vật vờ nơi cây ngọn cỏ chứ chẳng biết bám víu
vào đâu.
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan"
Hình ảnh "hồn", "thân bồ liễu", "ghì trúc mai", "dạ đài", "giọt nước", "thác oan" gợi ra
cuộc sống cõi âm, đầy tâm linh, ma mị. Lời thề, lời hẹn ước mặc đã được trao
cho em thay mình trả nhưng không nghĩa đã hoàn toàn trút bỏ, lãng quên.
Thậm chí kể cả khi đã chết thì vẫn “mang nặng lời thề”. Nàng tự mình như “bồ
liễu”, “trúc mai” tuy mảnh mai, yếu đuối nhưng lại thanh cao. Mong muốn được rửa
oan khuất khi bị tước mất quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc.
Bằng nghệ thuật khắc họa, miêu tả nội tâm nhân vật, ngôn ngữ độc thoại sinh động,
sử dụng ngôn từ điêu luyện tác giả đã cho người đọc thấy được tâm trạng vật vã,
đau đớn rồi ngất đi trong tiếng kêu thảng thốt, ai oán của Thúy Kiều. Đó là tâm trạng
đau đớn đến cùng cực của Kiều khi phải nhường lại tình yêu của mình Kim
Trọng. Qua đó thấy được bi kịch người phụ nữ xưa phải chịu rất nghiệt ngã.
Thời gian trôi qua đã hàng trăm năm nhưng đoạnn trích Trao duyên nói riêng và kiệt
tác Truyện Kiều nói chung vẫn còn nguyên giá trị bởi tài năng miêu tả tâm lí nhân vật
của Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao.
5. Phân tích Trao duyên 12 câu đầu
Nguyễn Du một đại thi hào của dân tộc, tên chữ Tố Như, hiệu Thanh Hiên,
quê làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Tĩnh. Ông sinh ra trong một gia đình
phong kiến quý tộc sống trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động. Nguyễn Du
đã từng chứng kiến những bất công ngang trái của cuộc đời đặc biệt người phụ
nữ tài hoa bạc mệnh. Sau khi đi sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Du đã sáng tác nên
kiệt tác ''Truyện Kiều".
"Trao duyên" một đoạn trích thể hiện bi kịch tan vỡ, dang dở tình yêu Thúy Kiều
Kim Trọng, nỗi đau tột cùng của Kiều về số phận bi thương của đời mình. Đồng
thời, đoạn trích cũng đã thể hiện tưởng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du trước
số phận bất hạnh của, khát vọng hạnh phúc của con người trong đó tiêu biểu nhất là
đoạn thơ:
"Cậy em em có chịu lời
...
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây"
Sau khi thu xếp xong việc bán mình để cứu cha và em ''Tờ hoa đã kí, cân vàng mới
trao''. Ngày mai nàng sẽ phải theo Mã Giám Sinh ra đi. Đêm ấy, Kiều bồi hồi thương
cho chàng Kim, tìm cách trả nợ tình cho chàng. "Đèn thắp sáng đêm nước mắt đầm
đìa / Dầu chong trắng đĩa, lệ tràn thấm khăn", nhân lúc Thúy Vân thức dậy hỏi han
bây giờ Kiều mới nhờ em thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.
Đoạn trích vai trò quan trọng như một bản lề khép mở hai phần đời đối lập của
Kiều hạnh phúc và đau khổ. Không chỉ thương chị Thúy Vân còn rất hiểu lòng chị,
lẽ vậy chuyện tình duyên vốn rất khó trao, khó nhận nhưng đã được
Thúy Kiều thuyết phục một cách rất thấu tình đạt để mở đầu cho cuộc trao duyên
đầy đau đớn.
Lời mở đầu của Kiều hết sức thông minh và sắc sảo:
"Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa"
Trong tình thế: ''Hở môi ra cũng thẹn thùng/ Để lòng thì phụ tấm lòng với ai'' nên mở
đầu cuộc trao duyên Kiều phải lựa chọn một cách nói, một cách xưng đặc biệt.
Bởi vậy Kiều không nói nhờ em lại nói "cậy em". Bởi chữ "cậy" bao hàm cả
niềm hi vọng thiết tha của một lời trông cậy ý nghĩa, nương tựa tin tưởng mối
quan hệ ruột thịt gửi gắm nỗi khẩn khoản thiết tha.
Kiều nói "em chịu lời" chứ không nói "em nhận lời" ngoài do từ "chịu lời"
mang sắc thái bắt buộc, Kiều muốn em không được từ chối lời đề nghị của mình mà
còn bởi Kiều cảm thấy đây là một sự hi sinh lớn lao của em, vì em phải kết duyên
với người yêu của chị. Cách nói như thế phù hợp với tâm trạng, hoàn cảnh van nại
khẩn thiết của Kiều, thế "lạy, thưa" thế của một người chịu ơn với ân nhân
của mình, bởi Thúy Vân phải thay Thúy Kiều hi sinh tình duyên của mình giúp
chị nối duyên chàng Kim, việc làm đó mang ơn em rất lớn.
Kiều đã tạo một bầu không khí trang nghiêm, trịnh trọng vừa tình vừa lễ buộc Thúy
Vân không thể không nhận lời. Với cách dùng từ khéo léo sắc thái chỉ qua hai
câu đầu, Nguyễn Du đã mở đầu cuộc trao duyên đầy hồi hộp, trang trọng đồng thời
thể hiện được hoàn cảnh éo le, tâm trạng khẩn thiết bế tắc của Kiều.
Sáu câu tiếp theo Kiều kể lại vắn tắt mối tình của nàng với Kim Trọng:
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Đoạn thơ ngắn gọn hướng vào những chuyện riêng tình yêu dở dang, tan vỡ
được thông tin ngắn gọn trong một thành ngữ nặng nề, chắc nịch. thể nói mối
tình của Kiều Kim Trọng đang đến độ say đắm nhất, nồng nàn nhất thì cơn gia
biến ập đến với Kiều, thế Kiều đành phải phó thác cho em, Kiều cũng rất thấu
hiểu cảm giác thiệt thòi của em: "Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em".
Kiều phó mặc cho em dang dở hay không em cũng phải gánh vác, chắp mối cho chị.
thể nói lời Kiều mang giọng điệu sắc thái dứt khoát, nghiêm trang và mang nhiều
sức nặng nhưng cũng rất nghẹn ngào đau xót:
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
thể nói sự trùng điệp của ba từ: "khi gặp - khi ngày - khi đêm" đã nói đến sự thề
ước sâu nặng không thể nuốt lời, càng khẳng định tâm trạng bế tắc của Kiều. Mối
tình Kim - Kiều đang mặn nồng cơn gia biến ập đến Kiều buộc phải hi sinh chữ tình
"chữ hiếu", thậm chí hi sinh cả tấm thân trong trắng ngọc ngà của mình để cứu cả
gia đình. Kiều đã nói ra cái cái của mình hi vọng em sẽ thấu hiểu tâm trạng bi
kịch của mình.
Tám câu thơ đầu ngoài lời trao duyên, Kiều chủ yếu nói về nỗi bất hạnh của mình
nhưng để trao duyên Kiều phải chọn những lời lẽ thuyết phục. Bốn câu tiếp theo
Kiều thuyết phục em bằng cả lí lẫn tình:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Từ " ngày xuân" mang tính ước lệ có ý chỉ tuổi trẻ của người con gái, Kiều muốn nói
tuổi trẻ của em còn dài, "tình máu mủ" giữa chị em thay lời nước non
giúp chị. Kiều kêu gọi tình chị em máu mủ ruột thịt thiêng liêng, khơi dậy ở Vân đức
hi sinh lòng vị tha vì người thân. Nếu được mãn nguyện thì dẫu Kiều chết đi dưới
chín suối cũng hả dạ vì có được tiếng thơm là người có tình có nghĩa.
thể nói đoạn thơ sử dụng khá nhiều thành ngữ, lời lẽ, ý vị kín đáo, vẹn tình.
Người nhận có ba lí do không thể khước từ, trước hết Kiều và Vân không cách nhau
về tuổi tác, thứ hai lại càng thuyết phục hơn Kiều đang nhờ Vân một điều mà chẳng
ai nhờ vả bao giờ. Đã khó nhờ, khó nhận thì chỉ có tình cảm chị em máu mủ mới dễ
dàng đồng cảm chấp nhận cho nhau.
Lý do thứ ba nghe như một lời khẩn cầu đầy chua xót:
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
| 1/64

Preview text:

(12 mẫu) Phân tích Trao duyên hay nhất
1. Dàn ý phân tích Trao duyên
1. Mở bài phân tích Trao duyên
- Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều:
+ Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc danh nhân văn hóa thế giới, một nhân cách lớn,
một nhà văn, nhà thơ vĩ đại.
+ Truyện Kiều được xem là kiệt tác của nền văn học được dịch ra nhiều thứ tiếng.
- Giới thiệu đoạn trích Trao duyên:
+ Vị trí: Đoạn trích từ câu 723 đến 756 trong tác phẩm “Truyện Kiều” phần gia biến và lưu lạc.
+ Nội dung: Thuật lại diễn biến tâm trạng của Kiều trong đêm cuối cùng trao duyên
cho Thúy Vân nhờ em trả nghĩa với chàng Kim hộ mình.
2. Thân bài phân tích Trao duyên
* Khái quát về hoàn cảnh diễn ra cuộc trao duyên
- Sau đêm thề nguyện giữa Kim Trọng và Thúy Kiều, Kim Trọng phải về gấp hộ tang
chú ở Liễu Dương. Tai nạn ập đến nhà Kiều vì sự vu oan của thằng bán tơ. Cha và
em trai bị đánh đập tàn nhẫn, của cải bị cướp sạch. Kiều buộc phải bán mình chuộc
tội cho cha và em. Công việc nhà tạm ổn, nhưng mối tình của mình thì lỡ dở. Chỉ
còn lại một đêm ở nhà, ngày mai phải đi theo Mã Giám Sinh. Thúy Kiều đã cậy nhờ
Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng.
* Kiều trao duyên cho Vân, nhờ cậy Vân thay mình trả nghĩa chàng Kim
- Lời nhờ cậy của Kiều
+ "Cậy": một thanh trắc với âm điệu nặng nề, gợi sự quằn quại, đau đớn, khó nói,
còn mang hàm nghĩa là trông mong, giúp đỡ, hi vọng tha thiết, sự gửi gắm đầy tin tưởng.
+ Chịu: nài ép, bắt buộc, không thể từ chối.
-> Vân bị ép vào một thế dù không muốn cũng phải nhận tình yêu mà Kiều trao.
=> Lời lẽ cậy nhờ của Kiều rất đẹp đẽ và chính xác, chặt chẽ. - Hành động nhờ cậy:
+ “ngồi lên”, “lạy”, “thưa”: Kính cẩn trang trọng với người bề trên hoặc người hàm ơn.
-> Sự thay bậc đổi ngôi, đi ngược với lễ giáo phong kiến nhưng chấp nhận được,
bởi: Kiều coi Vân như ân nhân của mình. Kiều trân trọng tình yêu với Kim Trọng.
=> Qua cách nói thể hiện sự thông minh, khéo léo của Thúy Kiều
- Lí lẽ trao duyên của Kiều:
+ Kiều kể về tình yêu với Kim Trọng, nguyên nhân sự tan vỡ và quyết định của mình
: “khi ngày... chén thề”, nguyên nhân tan vỡ: “Sự đâu... bất kì”, quyết định khó xử:
“Hiếu tình... vẹn hai”.
+ “Giữa đường đứt gánh tương tư”, “Mối tơ thừa”, “Quạt ước, chén thề” -> Thành
ngữ, những điển tích, những ngôn ngữ giàu hình ảnh đã vẽ nên một mối tình nồng
thắm nhưng mong manh, dang dở và đầy bất hạnh của Kim - Kiều.
+ Những lí do khiến Kiều trao duyên cho em:
Gia đình Kiều gặp biến cố lớn “sóng gió bất kì”, Kiều buộc phải chọn hoặc “hiếu”
hoặc “tình”, Kiều chọn hi sinh tình.
-> Gợi ra tình cảnh ngang trái, khó xử của mình để em thấu hiểu.
“Ngày xuân em hãy còn dài”
-> Vân vẫn còn trẻ, còn cả tương lai phía trước.
“Xót tình máu mủ thay lời nước non”
-> Kiều thuyết phục em bằng tình cảm ruột thịt.
“Thịt nát xương mòn”, “Ngậm cười chín suối”: nói về cái chết đầy mãn nguyện.
-> Kiều viện đến cả cái chết để thể hiện sự cảm kích thật sự của mình khi Vân nhận lời.
=> Cách lập luận hết sức chặt chẽ, thấu tình cho thấy Thúy Kiều là người sắc sảo
tinh tế, có đức hi sinh, một người con hiếu thảo, trọng tình nghĩa.
* Tâm trạng của Kiều khi trao kỉ vật và dặn dò Vân - Kiều trao kỉ vật
+ Chiếc vành, bức tờ mây -> Kiều trao những kỉ vật gắn bó đơn sơ mà thiêng liêng,
gợi quá khứ hạnh phúc giữa mình với Kim Trọng cho Vân.
+ “giữ - của chung - của tin”
“Của chung” là của Kim, Kiều nay là cả của Vân nữa
“Của tin” là những vật gắn bó gợi tình yêu thiêng liêng của Kim - Kiều: mảnh hương, tiếng đàn.
=> Sự giằng xé trong tâm trạng Thúy Kiều: Kiều chỉ có thể gửi gắm mối duyên dang
dở cho Vân chứ không thể trao hết tình yêu mặn nồng xưa kia giữa nàng và Kim Trọng.
- Lời dặn dò của Kiều với Vân:
+ Kiều dự cảm về cái chết : hiu hiu gió, hồn, nát thân bồ liễu, dạ đài, người thác oan
-> Dự cảm không lành về tương lai, sự tuyệt vọng tột cùng. Kiều tưởng tượng ra
cảnh mình chết oan, chết hận. Hồn không sao siêu thoát được bởi trong lòng đang
nặng lời thề ước với Kim Trọng.
=> Sự đau đớn, đầy tuyệt vọng của Kiều, tấm lòng thủy chung một lòng hướng về Kim trọng của Kiều.
+ Thúy Kiều dặn dò Thúy Vân
“Đền nghì trúc mai”: Đền ơn đáp nghĩa.
“Rưới xin giọt nước”: Tẩy oan cho chị.
-> Nỗi bứt rứt, dằn vặt trong lòng Kiều, Kiều như càng nhớ, càng thương Kim Trọng hơn bao giờ hết.
* Tâm trạng của Thúy Kiều khi trở về thực tại, hướng về tình yêu của mình và Kim Trọng
- Lời thơ chuyển từ đối thoại sang độc thoại
- “trâm gãy gương tan”, “tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa
trôi lỡ làng” -> Nàng ý thức rõ về cái hiện hữu của mình.
=> Gợi tả số phận đầy đau khổ, dở dang, bạc bẽo, lênh đênh trôi nổi.
- Nghệ thuật đối lập: quá khứ với hiện tại
-> Khắc sâu nỗi đau của Kiều trong hiện tại. - Hành động
+ Lạy: cái lạy tạ lỗi, vĩnh biệt (khác với cái lạy nhờ cậy lúc đầu)
+ Tự nhận mình là người phụ bạc -> Day dứt, mặc cảm.
+ Hai lần gọi tên Kim Trọng: tức tưởi, nghẹn ngào, đau đớn đến mê sảng.
+ “Kim Lang”: cách gọi thân mật như vợ chồng.
-> Kiều quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác, đó chính là lòng vị tha, đức hy sinh cao quý.
- Từ cảm thán (Ôi, hỡi, thôi thôi): tiếng kêu đầy tuyệt vọng, tố cáo xã hội phong kiến
tàn bạo bất công chà đạp số phận con người.
3. Kết bài phân tích Trao duyên
- Khái quát nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Trao duyên.
+ Giá trị nội dung: thể hiện bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh của Thúy Kiều khi
phải dứt lòng trao lại cho Thúy Vân mối tình đầu tiên; nhân cách cao đẹp của Kiều
khi hi sinh hạnh phúc cá nhân để đổi lấy hạnh phúc và sự bình yên cho gia đình.
+ Đặc sắc nghệ thuật: Thể thơ lúc bát giàu nhạc tính, hình thức độc thoại và kết hợp
sử dụng giữa ngôn ngữ trang trọng với lối nói dân giản dị, các biện pháp ẩn dụ, điệp
từ, vận dụng nhuần nhuyễn các thành ngữ.
- Nêu cảm nhận đánh giá của em về đoạn trích.
2. Sơ đồ tư duy phân tích Trao duyên
3. Phân tích Trao duyên dàn ý I. MỞ BÀI
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc danh nhân văn hóa thế giới, một nhân cách lớn,
một nhà văn, nhà thơ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Ông đã để lại cho hậu thế một
gia tài đồ sộ về văn chương trong đó có tác phẩm truyện Kiều đã được dịch ra nhiều
thứ tiếng. Trong đó, đoạn trích Trao duyên là một trong những đoạn trích đặc sắc
thuộc tác phẩm. Đoạn trích đã thể hiện bi kịch trong tình yêu của Thúy Kiều qua đó
thể hiện tiếng kêu đau đớn của tác giả về số phận con người trong xã hội phong kiến. II. Thân bài
1. Phân tích nội dung chủ đề của tác phẩm.
a. Hoàn cảnh diễn ra cuộc trao duyên
- Truyện Kiều trước hết là câu chuyện tình yêu của đôi trai tài gái sắc Kim – Kiều.
Mối tình của họ bắt đầu với những trang đẹp nhất của tình yêu nam nữ xưa nay
(không bị lễ giáo phong kiến ràng buộc, không bị vẩn đục bởi danh vọng tiền tài,
nồng thắm mà rất sáng trong). Bất ngờ gia đình gặp tai biến, Kiều quyết định bán mình chuộc cha.
- Đêm trước khi rời nhà, Thuý Kiều mới có thời gian cho riêng mình và nàng nghĩ
ngay đến Kim Trọng: không biết chàng sẽ ra sao khi trở về mà không gặp nàng,
chắc chàng sẽ vô cùng đau khổ. Và Thuý Kiều nghĩ rằng mình là kẻ phụ tình, bội
ước, lỗi thề, kẻ gây ra đau đớn cho người yêu. Đó là lý do khiến Thuý Kiều :
Nỗi riêng riêng những bàn hoàn
Dầu chong trắng đĩa lệ tràn tấm khăn
Không chỉ đau khổ, Thuý Kiều còn muốn tìm cách bù đắp cho người yêu để chàng
bớt đau khổ. Ý định này đến với Thuý Kiều một cách hoàn toàn đột ngột, bất ngờ.
Thuý Kiều khi đã “ngồi nhẵn tàn canh” mà chưa nghĩ ra cách nào thì Thuý Vân “tỉnh
giấc xuân” đến bên chị ân cần hỏi han, chia sẻ. Chính sự quan tâm đúng lúc, xuất
hiện đúng lúc, sự đồng cảm của Thuý Vân đã khiến cho Thuý Kiều nảy ra ý định táo
bạo này. Kim Trọng chính là nguyên nhân để nàng quyết định trao duyên cho em. Và
nàng tìm mọi cách để thuyết phục em.
b. Kiều trao duyên cho Vân, nhờ cậy Vân thay mình trả nghĩa chàng Kim
- Thuý Kiều đã mở lời trao duyên bằng câu đề nghị: Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Đó là một câu đề nghị lạ lùng: lạ lùng ở cách xưng hô (cậy em, thưa, chịu lời), ở
hành động của Kiều với em gái: lạy em gái. Thật thiêng liêng mà thật trái với tôn ti
trật tự phong kiến. Lạ lùng ở cả thái độ sao mà khẩn thiết.
- Sức nặng của lời đề nghị rơi cả vào những từ: lạy, thưa, cậy em, chịu lời.
- Nguyên nhân của thái độ ấy: vì Kiều hiểu việc mình nhờ là một việc hết sức quan
trọng, cũng hết sức tế nhị và đầy khó khăn với Thuý Vân. Bởi xưa nay trong cuộc
sống người ta có thể trao cho nhau thứ này, thứ nọ nhưng chẳng mấy ai trao tình
yêu và nài ép người khác hãy yêu lấy người mình yêu. Thuý Kiều hiểu sự khó xử
của em và hiểu đó là một sự hi sinh của Thuý Vân nếu nhận lời giúp nàng. Đó là một cái ơn sâu nặng.
- Thậm chí, ngay cả trình tự việc làm của Kiều cũng rất có dụng ý: mời em ngồi lên,
lạy rồi mới thưa -> Một Thuý Kiều sắc sảo, thông minh, tế nhị, khéo léo, nhạy cảm.
- Thuý Kiều dần dần nói rõ về nội dung lời thưa:
+ Trước tiên nàng giãi bày với em gái về hoàn cảnh riêng tư của mình, biến cố tình
yêu: “đứt gánh giữa đường”. Thành ngữ đứt gánh giữa đường vừa gợi lên biến cố
tình yêu dang dở của đời Kiều vừa cho thấy tình yêu với Kiều đâu chỉ là tình mà còn
là nghĩa, là trách nhiệm đã gánh dở trên vai, nay đứt gánh thì không thể bỏ dở, phải nhờ người gánh tiếp.
- Tiếp đó, nàng đề nghị Vân thay mình trả nghĩa cùng Kim Trọng:
+ “Tơ thừa” gợi mối duyên tình dang dở giữa Kim và Kiều.
+ “Mặc em”: không phải là mặc kệ mà là hoàn toàn trông cậy vào em, tuỳ em định liệu.
- Thuý Kiều thuyết phục Thuý Vân nhận lời trả nghĩa với Kim Trọng. Thuý Kiều
thuyết phục em bằng cách kể lại vắn tắt 2 biến cố:
+ Gặp Kim Trọng, yêu và hẹn ước thề nguyện.
+ Gặp sóng gió bất kì để rồi gia đình tai biến, tình yêu dang dở, rơi vào cảnh huống
day dứt giữa tình và hiếu.
-> Những lời kể chứa đầy tình cảm của Thuý Kiều, bao nhiêu thiết tha trong lời kể về
mối tình với Kim Trọng.
- Từ “khi” được điệp lại 3 lần như một sự phơi trải của quá khứ hạnh phúc trong tâm
trí của nàng Kiều. Nhưng cũng là để nhằm giãi bày cho Thuý Vân hiểu thêm rằng
tình yêu giữa Kim và Kiều đã nguyện ước ba sinh, đã đằm thắm mặn nồng, đã là
món nợ lòng không thể phũ phàng bỏ dở, phải có người gánh tiếp nợ tình.
-> Muốn giãi bày cụ thể hơn với Vân về cách xử sự của Kiều trước hoàn cảnh bi
kịch để mong tìm sự thông cảm bằng hành động của Thuý Vân:
+ Gia đình tai biến, nàng đã lấy hiếu đặt lên tình. Đó là trách nhiệm tất yếu cho dù tự
nguyện. Nhưng điều đó khiến cho tình yêu tan vỡ, khiến nàng phải day dứt.
+ Tình yêu tan vỡ đó là nỗi thống khổ đối với Kiều, là mất mát đối với Kim Trọng.
Nàng đành phải lấy nghĩa đặt lên tình và việc này nàng nhờ Vân san sẻ giúp. Đã vì
gia đình mà hi sinh tình yêu, Thuý Kiều cũng mong muốn ở Thuý Vân một sự hi sinh
để nàng có thể trả nghĩa cho Kim Trọng.
- Thuý Kiều viện đến tình máu mủ, viện đến cái chết, lại khẩn cầu em ban cho mình
chút vui, chút ơn, chút thơm lây vì đức hi sinh cao dẹp của em Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nuớc non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
+ Những thành ngữ “tình máu mủ” , “lời nước non” thể hiện hàm ý tha thiết cậy nhờ
em dẫu biết rằng tuổi xuân em còn dài, em sẽ thiệt thòi nhiều khi lấy Kim Trọng, lời
nước non này nặng lắm. Kiều đã phải viện đến tình ruột thịt để mong em nghĩ đến tình ấy mà giúp mình.
+ Những thành ngữ “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối”, đều ngầm chỉ cái
chết. Thuý Kiều tự coi mình là một người sắp chết, sắp ra đi vĩnh viễn và đang nói
lời trăng trối với người còn sống. Trước khi chết, Thuý Kiều chỉ còn một điều day dứt
đó thôi. Lời của người sắp chết chẳng ai nỡ từ chối bao giờ.
-> Thuý Kiều thật sắc sảo, khôn ngoan, nàng đã biết dùng lý trí đè nén tình cảm
đúng lúc, đúng chỗ. Có thể nói ở phần thơ đầu con người lí trí đã dồn nén con người
tình cảm trong Thuý Kiều để thuyết phục Thuý Vân bằng mọi cách. Tâm trạng Thuý
Kiều nhẹ nhõm, thanh thản phần nào. Cơn sóng lòng lúc trước đang trào dâng có lẽ giờ đã lắng xuống.
c Tâm trạng của Kiều khi trao kỉ vật và dặn dò Thúy Vân
*. Kiều trao kỉ vật tình yêu của mình với Kim Trọng cho Thúy Vân
-Lý do: Tình yêu nào mà chẳng có thề hẹn, có những kỷ vật thiêng liêng. Thuý Vân
đã không vì sự ích kỷ mà chối từ lời nhờ cậy của Thuý Kiều thì Thuý Kiều cũng
không thể vì ích kỷ mà giữ khư khư lấy kỷ vật cho riêng mình. Quan trọng hơn, có
trao kỷ vật cho Thuý Vân thì Thuý Kiều mới chứng tỏ được mình không còn vương
vấn gì với mối tình cũ nữa, mà đã trao gửi hết cho em rồi, khiến cho Thuý Vân đỡ
băn khoăn, đỡ phải tủi thân.
- Trao kỉ vật: đó là: Chiếc thoa: Vật làm quen, kỷ niệm đầu tiên; Tờ mây: tờ giấy ghi
lời thề ước (có vẽ hình mây); Phím đàn, mảnh hương nguyền. Đây là những kỉ vật
hết sức gắn bó, thiêng liêng đã từng ghi nhận, chứng giám cho mối tình đẹp đẽ,
nồng nàn của Kim và Kiều.
- Tâm trạng của Kiều khi trao kỉ vật: Khi trao kỉ vật cho Thúy Vân Kiều dùng các từ
ngữ đặc sắc: “Của chung” tức là trước là của Kiều và Kim, nay là của Kim và Vân,
nhưng vẫn xác định thêm tư cách của Kiều trong đó nữa. Thuý Vân là tư cách mới,
người mới được trao, còn Thuý Kiều là người trao nhưng chưa dứt diểm. “Của tin”
tức là những kỉ vật ấy đâu chỉ là vật chứng giám thiêng liêng mà còn là niềm tin gửi
lại cho nhau. Sở dĩ Kiều không nói “của em” mà nói là của chung, của tin vì tay trao
mà lòng nuối tiếc, trao duyên nhưng không muốn trao tình. Vì còn khao khát được
trở về sống trong tình yêu ấy bằng kỉ vật.
Kiều đau đớn, xót xa, quằn quại vì mỗi kỷ vật đều gợi lên tình yêu tha thiết, đẹp đẽ,
rực rỡ vừa mới đây thôi đã trở thành quá vãng, lời thề hẹn hôm nào thoắt đã là
chuyện của ngày xưa. Tất cả còn có ý nghĩa gì đâu khi người đã mất, chút của tin
còn cũng đanh phải trao đi. Do vậy những kỷ vật đã làm thức dậy tình yêu mãnh liệt
trong lòng Thuý Kiều, khiến Thuý Kiều trở lại tâm trạng bi kịch như ban đầu.
* Sau khi trao kỉ vật cho Thúy Vân, Thúy Kiều dặn dò Thuý Vân:
- Thuý Kiều tự coi mình là người “mệnh bạc” và dặn dò Thuý Vân mai sau có khi nào
giở lại những kỷ vật tình yêu, đừng quên Thuý Kiều, một phần linh hồn của Thuý Kiều là ở trong đó.
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
- Kiều bất ngờ nhận thấy nghịch cảnh mất mát: một bên là hạnh phúc nên vợ nên
chồng của Vân, một bên là bất hạnh của nàng, chỉ còn là người mệnh bạc; một bên
là mất mát (mất người) với một bên là còn – còn chút của tin; một bên là tương lai
mờ mịt, như đi vào cõi chết ( mai sau dù có bao giờ) với một bên hiện tại khổ đau
tan vỡ... Vượt lên trên những đối lập ấy chính là nghịch cảnh tình chị – duyên em
* Ước nguyện của Kiều: Vẫn khát khao được trở về với tình yêu bằng linh hồn bất
tử, vẫn ước nguyện được đền đáp lời thề tình yêu với Kim Trọng. Vẫn mong trở về
để nhận được sự cảm thông, chia sẻ của người thân yêu, của Kim Trọng
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rảy xin chén nước cho người thác oan
Giây phút này Kiều ý thức đầy đủ về sự mất mát của mình, nỗi đau của mình. Sự bội
ước lời thề, phụ tình cũng chẳng qua đều là oan trái, còn tình yêu vẫn mãnh liệt
trong nàng. Đến đây, lời dặn dò của Kiều đối với em gái thực chất đã quay về hướng
vào chính mình. Nỗi đau trao duyên đã khiến nàng quên mất người đối thoại với mình, ngồi cạnh mình.
- Hoà trong nội dung, nhịp điệu đoạn thơ cũng trở nên đứt nối, đuối dần đi, ngôn
ngữ thơ siêu thoát, tràn ngập những hình ảnh của cõi mộng, cõi chết (hồn, nát thân
bồ liễu, hiu hiu gió, thác oan, mệnh bạc...), những điển cố... mang một tiếng đập
khác thường, rỉ máu yếu đuối của trái tim, một tiếng nói mơ hồ vọng về từ cõi khác,
một chiếc linh hồn phiêu diêu đi vào cõi vô cùng vô tận của trống vắng cô đơn.
-> Đó là tâm trạng do quá đau đớn, xót xa mà không làm chủ được lý trí và lời nói.
Đang nói với Thuý Vân mà Thuý Kiều như quay sang để độc thoại một mình. Một
tâm trạng rối bời, bi kịch đẩy lên cao phá vỡ thời gian khách thể, chỉ còn thời gian
không gian tâm trạng quá khứ, mai sau, lẫn lộn mơ thực...
d. Tâm trạng của Thúy Kiều khi trở về thực tại, hướng về tình yêu của mình và Kim Trọng
- Từ thời gian tâm trạng về thực tại, từ đối diện với chính mình, Thuý Kiều chuyển
sang đối thoại với Kim Trọng trong tâm tưởng về một hiện thực không thể thay đổi,
tình yêu đã đổ vỡ, về thân phận đầy những nỗi bất hạnh của chính nàng.
+ Tình yêu tan vỡ, duyên phận dở dang: “bây giờ trâm gãy tình tan”; “tơ duyên ngắn ngủi”
+ Thân phận bạc bẽo, mỏng manh: phận bạc như vôi, nước chảy hoa trôi...
- Sử dụng thủ pháp nghệ thuật đối lập: Một bên là tình yêu tan vỡ, thân phận mỏng
manh, bạc bẽo với một bên là tình yêu mãnh liệt: “muôn vàn ái ân”; “trăm nghìn”;
“tình quân”... diễn tả bi kịch, nỗi đau đớn quằn quại của Thuý Kiều và khát vọng tình
yêu mãnh liệt không thôi.
- Là tiếng kêu xé lòng của Thuý Kiều (một tiếng nấc uất nghẹn) Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.
Câu thơ vừa là tiếng gọi, vừa là lời than, là nỗi tuyệt vọng đau xót cùng cực của Thuý Kiều.
- Tên Kim Trọng được nhắc đến hai lần, mà Thuý Kiều lại gọi là “Kim lang” – chồng,
gọi đến hai lần cùng với những thán từ chỉ sự đau đớn, tuyệt vọng, lại thổ lộ, lại
nhận lỗi với Kim Trọng “thiếp đã phụ chàng”. Thuý Kiều vẫn chưa dứt được tình với
Kim Trọng. Đã nhờ Thuý Vân trả nghiã cho Kim Trọng vẫn tự cho mình là kẻ phụ
tình, vì nàng hiểu tình có thể trả bằng tình sao trả bằng nghĩa. Cuối cùng Thuý Kiều
đã hoàn toàn rời xa khỏi sự việc trao duyên để đến với chữ tình.
- Cuối cùng, dù đau đớn, Kiều đã trao duyên. Nhưng duyên đã trao mà tình thì
không thể dứt. Kiều vẫn không thể thanh thản.
Đoạn trích Thể hiện bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh của Thúy Kiều khi phải dứt
lòng trao lại cho Thúy Vân mối tình đầu tiên. Lời nhờ cậy đầy đau khổ khiến cho
Kiều như đứt từng khúc ruột. Thế nhưng, trong hoàn cảnh ấy, Kiều không còn sự
lựa chọn nào khác tốt hơn. Nhân cách cao đẹp của Kiều thể hiện rõ bởi sự hi sinh
hạnh phúc cá nhân, quên đi bản thân mình, quên đi mối tình đẹp đẽ của mình với
Kim Trọng đề đổi lấy hạnh phúc và sự bình yên cho gia đình. Giữa chữ “tình” và chữ
“hiếu”, Kiều buộc lòng phải chọn chữ “hiếu” vì nàng không thể giương mắt nhìn cha
và em bị hành hạ tới chết được.
2. Phân tích những đặc sắc về hình thức của tác phẩm.
- Nguyễn Du rất thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, tâm trạng
Thuý Kiều hiện ra đa dạng, phức tạp, tinh tế như chính con người thật.
- Tác giả sử dụng ngôn từ chắt lọc, tinh tế để tạo nên hình tượng nhân vật sắc nét,
gần gũi. Bút pháp sắc bén và tư duy ngôn từ đa dạng tạo nên dấu ấn đặc sắc của
'Đại thi hào Nguyễn Du'.
+ Tác giả sử dụng những điển cố, điển tích điển hình để thể hiện nỗi đau đớn, xót xa
của Thúy Kiều, “Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề”, “trâm gãy bình tan”, “ngậm
cười chín suối”, “Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”. Những hình ảnh này nhằm làm
nổi bật nỗi thống cổ trong hoàn cảnh éo le của nàng Kiều.
+ Ngôn ngữ độc thoại: thể hiện ý chí quyết tâm cắt bỏ đoạn tình cảm với chàng Kim,
nhưng rồi lại khổ đau tột cùng khi nghĩ đến việc phải rời xa người yêu, “Duyên này
thì giữ, vật này của chung”, “Dù em nên vợ nên chồng/ Xót người mệnh bạc ắt lòng
chẳng quên.”. Kiều vẫn muốn giữ lại chút tấm lòng, chút tình cảm sâu nặng giữa hai
người, thể hiện lối suy nghĩ của một cô gái sắc sảo, thông minh
- Thể thơ lục bát của dân tộc rất giàu nhạc tính cùng với cách ngắt nhịp đầy dụng ý,
Nguyễn Du đã tạo nên nhịp điệu của tâm trạng, của những nỗi đau đớn trong suy
nghĩ của Kiều khi trao duyên.
- Bên cạnh đó, các biện pháp ẩn dụ, điệp từ, vận dụng nhuần nhuyễn các thành ngữ
đã xây dựng thành công diễn biến tâm lí phức tạp, giằng xé, đau khổ của Kiều qua
những lời độc thoại nội tâm khéo léo. III. Kết bài
- Đoạn thơ như một màn kịch về tâm trạng, nó không chỉ khai phá nội tâm con người
mà còn khai phóng một con đường giải thoát tâm trạng bằng những thể nghiệm rất
kịch tính, có sự diễn biến tâm trạng ở cả bề rộng lẫn bề sâu. Nó đề cập được đến
một bi kịch phổ biến của xã hội cũ: Thiên tình sử tan vỡ, tình chị duyên em.
- Cơ sở của bi kịch này này là sự hiện diện của con người cá nhân. Ta bắt gặp ở
đây con người không chịu ru ngủ mình, mà là con người thức tỉnh, biết hi sinh vì
người khác mà cũng biết thương mình, con người có khát vọng tình yêu cháy bỏng
nhưng kết cục lại rất bi thương. Qua đó tâm trạng Thuý Kiều cho thấy sức cảm
thông lạ lùng của đại thi hào Nguyễn Du với thân phận bi kịch và khát vọng tình yêu của con người.
4. Phân tích Trao duyên 14 câu giữa
Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc, ông từng phiêu bạt, sống gian khổ ở nhiều nơi
khác nhau nên đã chứng kiến những bất công ngang trái của cuộc đời đặc biệt là
người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Qua trang đời của người con gái tài hoa bạc mệnh
- Thúy Kiều, Nguyễn Du đã phải thốt lên: "Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc
mệnh cũng là lời chung". Trao duyên là nốt nhạc buồn khởi đầu cho cung đàn bạc
mệnh suốt mười lăm năm của Thúy Kiều. Nếu như ở 12 câu đầu Thúy Kiều nhờ cậy
em gái Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng thì ở 14 câu tiếp Thúy Kiều đầy xót xa
đau đớn mà trao kỉ vật cho Thúy Vân và nhờ cậy em truyện mai sau.
Nguyễn Du có tên chữ là Tố Như hiệu là Thanh Hiên, quê tại làng Tiên Điền, huyện
Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh ra trong một gia đình vô cùng danh giá, cha làm
quan lớn trong triều Lê, anh trai cùng cha khác mẹ cũng làm tới quan Tham tụng
trong triều. Tuổi thơ ông đầy biến động, cha mẹ mất sớm, phải tha hương nhiều nơi
lúc thì về quê cha, khi về quê mẹ và có một thời gian phải phiêu dạt tận quê vợ ở
Thái Bình. Có thể nói chính cuộc sống chìm nổi cùng với thời thế đầy biến động,
phiêu bạt nhiều nơi đã tạo nên một Nguyễn Du có học vấn sâu rộng, trái tim chất
chứa yêu thương và cảm thông sâu sắc với những kiếp người nghèo khổ. Nguyễn
Du được coi là một người có thiên phú văn học từ nhỏ, bậc thầy trong việc sử dụng
tiếng Việt, là ngôi sao sáng chói trên bầu trời văn học Việt Nam. Ông để lại cho đời
cả một kho tàng văn học phong phú với khoảng hơn ngàn tác phẩm bao gồm cả chữ
Hán và chữ Nôm, trong đó không thể không kể đến Truyện Kiều. Đó là một kiệt tác
viết bằng chữ Nôm dựa trên cốt truyện tiểu thuyết của Thanh Tâm tài nhân, tuy
nhiên đã được sáng tạo tài tình cải biến để phù hợp với xã hội Việt Nam. Câu truyện
được kể bằng 3254 câu thơ, đoạn trích Trao duyên bắt đầu từ câu 723 đến 756.
Sau khi nhờ cậy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng, Thúy Kiều trao kỉ vật tình yêu lại cho Vân:
"Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung"
"Chiếc vành", "tờ mây" là những kỉ vật minh chứng cho tình yêu cũng là lời thề ước
của Kim Trọng và Thúy Kiều. Kỉ vật của một mối tình đẹp mà Kiều không nỡ rời xa
nay đành gửi gắm tất cả lại cho Vân. Đồ vật thì có thể trao lại cho người khác,
nhưng còn tình cảm thì làm sao gửi gắm được, tình yêu giữa hai người đâu phải
muốn cho ai là cho. Đó là thứ tình cảm thiêng liêng giữa Kiều và chàng Kim, không
thể có người thứ ba xen vào. “Duyên này thì giữ” là trao kỉ vật nhưng không thể
quên được kỉ niệm điều đó chứng tỏ tình yêu sâu đậm, nồng nàn của Kim - Kiều.
“Của chung” là vật từng là của riêng Kim và Kiều, nay là của chung Kim, Kiều, Vân,
nó gợi được sự đau đớn và tiếc nuối. Nguyễn Du có lẽ đang oán cái chế độ xã hội
tàn bạo, cổ hủ khiến cho một tình yêu thiêng liêng, mặn nồng như thế phải tan vỡ.
Kỉ vật đã trao lại cho em, Kiều nhắc nhở Vân những lúc hạnh phúc ở bên người yêu thì đừng quên chị: Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa"
Trao kỉ vật lại cho em cũng nhằm để cho em nhớ đến mình, nàng tự coi mình là
“mệnh bạc” để người khác xót xa thay cho thân phận mình. Sợi tơ duyên đẹp đẽ
ngày nào đã mất đi thì sống trên đời cũng chẳng còn nghĩa lý gì. Kiều chỉ mong rằng
Thúy Vân còn giữ kỉ vật cũng như nhớ về người chị “mệnh bạc” này. Chút níu giữ đó
là vật làm tin nay cũng trao đi rồi, còn "phím đàn” ở lại như để mỗi khi ai đó đánh lên
sẽ nhớ tới nàng. Bốn câu thơ tiếp theo chính là những dự cảm về cái chết mà Kiều
đã sẵn sàng đón nhận: "Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về"
Tác giả sử dụng từ ngữ mang tính giả định "mai này", "dù có" để thấy được tưởng
tượng của Kiều về cảnh ngộ của mình trong tương lai, Thúy Kiều đã mất niềm tin
vào tương lai phía trước. Một người đương tuổi xuân phơi phới nhưng luôn nghĩ về
cái chết. Nàng chỉ mong ước duy nhất đó là mai sau Thúy Vân hãy nhớ tới linh hồn
của mình để nàng đỡ lẻ loi, hiu quạnh. Khi đàn, khi đốt hương hay khi trông ra ngọn
cỏ thì hãy nhớ đến người chị này. Kiều mất niềm tin vào cuộc sống, cho dù chết
cũng chỉ biết nương nhờ cỏ cây, vật vờ nơi lá cây ngọn cỏ chứ chẳng biết bám víu vào đâu.
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan"
Hình ảnh "hồn", "thân bồ liễu", "ghì trúc mai", "dạ đài", "giọt nước", "thác oan" gợi ra
cuộc sống cõi âm, đầy tâm linh, ma mị. Lời thề, lời hẹn ước mặc dù đã được trao
cho em thay mình trả nhưng không có nghĩa là cô đã hoàn toàn trút bỏ, lãng quên.
Thậm chí kể cả khi đã chết thì vẫn “mang nặng lời thề”. Nàng tự ví mình như “bồ
liễu”, “trúc mai” tuy mảnh mai, yếu đuối nhưng lại thanh cao. Mong muốn được rửa
oan khuất khi bị tước mất quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc.
Bằng nghệ thuật khắc họa, miêu tả nội tâm nhân vật, ngôn ngữ độc thoại sinh động,
sử dụng ngôn từ điêu luyện tác giả đã cho người đọc thấy được tâm trạng vật vã,
đau đớn rồi ngất đi trong tiếng kêu thảng thốt, ai oán của Thúy Kiều. Đó là tâm trạng
đau đớn đến cùng cực của Kiều khi phải nhường lại tình yêu của mình và Kim
Trọng. Qua đó thấy được bi kịch mà người phụ nữ xưa phải chịu rất nghiệt ngã.
Thời gian trôi qua đã hàng trăm năm nhưng đoạnn trích Trao duyên nói riêng và kiệt
tác Truyện Kiều nói chung vẫn còn nguyên giá trị bởi tài năng miêu tả tâm lí nhân vật
của Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao.
5. Phân tích Trao duyên 12 câu đầu
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên,
quê làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh ra trong một gia đình
phong kiến quý tộc và sống trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động. Nguyễn Du
đã từng chứng kiến những bất công ngang trái của cuộc đời đặc biệt là người phụ
nữ tài hoa bạc mệnh. Sau khi đi sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Du đã sáng tác nên
kiệt tác ''Truyện Kiều".
"Trao duyên" là một đoạn trích thể hiện bi kịch tan vỡ, dang dở tình yêu Thúy Kiều
và Kim Trọng, nỗi đau tột cùng của Kiều về số phận bi thương của đời mình. Đồng
thời, đoạn trích cũng đã thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du trước
số phận bất hạnh của, khát vọng hạnh phúc của con người trong đó tiêu biểu nhất là đoạn thơ: "Cậy em em có chịu lời ...
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây"
Sau khi thu xếp xong việc bán mình để cứu cha và em ''Tờ hoa đã kí, cân vàng mới
trao''. Ngày mai nàng sẽ phải theo Mã Giám Sinh ra đi. Đêm ấy, Kiều bồi hồi thương
cho chàng Kim, tìm cách trả nợ tình cho chàng. "Đèn thắp sáng đêm nước mắt đầm
đìa / Dầu chong trắng đĩa, lệ tràn thấm khăn", nhân lúc Thúy Vân thức dậy hỏi han
bây giờ Kiều mới nhờ em thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.
Đoạn trích có vai trò quan trọng như một bản lề khép mở hai phần đời đối lập của
Kiều là hạnh phúc và đau khổ. Không chỉ thương chị Thúy Vân còn rất hiểu lòng chị,
có lẽ vì vậy mà chuyện tình duyên vốn dĩ rất khó trao, khó nhận nhưng đã được
Thúy Kiều thuyết phục một cách rất thấu tình đạt lí để mở đầu cho cuộc trao duyên đầy đau đớn.
Lời mở đầu của Kiều hết sức thông minh và sắc sảo: "Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa"
Trong tình thế: ''Hở môi ra cũng thẹn thùng/ Để lòng thì phụ tấm lòng với ai'' nên mở
đầu cuộc trao duyên Kiều phải lựa chọn một cách nói, một cách xưng hô đặc biệt.
Bởi vậy Kiều không nói nhờ em mà lại nói "cậy em". Bởi vì chữ "cậy" bao hàm cả
niềm hi vọng thiết tha của một lời trông cậy có ý nghĩa, nương tựa tin tưởng mối
quan hệ ruột thịt gửi gắm nỗi khẩn khoản thiết tha.
Kiều nói "em có chịu lời" chứ không nói "em có nhận lời" ngoài lí do từ "chịu lời"
mang sắc thái bắt buộc, Kiều muốn em không được từ chối lời đề nghị của mình mà
còn bởi vì Kiều cảm thấy đây là một sự hi sinh lớn lao của em, vì em phải kết duyên
với người yêu của chị. Cách nói như thế phù hợp với tâm trạng, hoàn cảnh van nại
khẩn thiết của Kiều, tư thế "lạy, thưa" là tư thế của một người chịu ơn với ân nhân
của mình, bởi Thúy Vân phải thay Thúy Kiều hi sinh tình duyên của mình mà giúp
chị nối duyên chàng Kim, việc làm đó mang ơn em rất lớn.
Kiều đã tạo một bầu không khí trang nghiêm, trịnh trọng vừa tình vừa lễ buộc Thúy
Vân không thể không nhận lời. Với cách dùng từ khéo léo và sắc thái chỉ qua hai
câu đầu, Nguyễn Du đã mở đầu cuộc trao duyên đầy hồi hộp, trang trọng đồng thời
thể hiện được hoàn cảnh éo le, tâm trạng khẩn thiết bế tắc của Kiều.
Sáu câu tiếp theo Kiều kể lại vắn tắt mối tình của nàng với Kim Trọng:
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Đoạn thơ ngắn gọn hướng vào những chuyện riêng tư tình yêu dở dang, tan vỡ
được thông tin ngắn gọn trong một thành ngữ nặng nề, chắc nịch. Có thể nói mối
tình của Kiều và Kim Trọng đang đến độ say đắm nhất, nồng nàn nhất thì cơn gia
biến ập đến với Kiều, vì thế Kiều đành phải phó thác cho em, vì Kiều cũng rất thấu
hiểu cảm giác thiệt thòi của em: "Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em".
Kiều phó mặc cho em dang dở hay không em cũng phải gánh vác, chắp mối cho chị.
Có thể nói lời Kiều mang giọng điệu sắc thái dứt khoát, nghiêm trang và mang nhiều
sức nặng nhưng cũng rất nghẹn ngào đau xót:
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Có thể nói sự trùng điệp của ba từ: "khi gặp - khi ngày - khi đêm" đã nói đến sự thề
ước sâu nặng không thể nuốt lời, càng khẳng định tâm trạng bế tắc của Kiều. Mối
tình Kim - Kiều đang mặn nồng cơn gia biến ập đến Kiều buộc phải hi sinh chữ tình
vì "chữ hiếu", thậm chí hi sinh cả tấm thân trong trắng ngọc ngà của mình để cứu cả
gia đình. Kiều đã nói ra cái cái lí của mình và hi vọng em sẽ thấu hiểu tâm trạng bi kịch của mình.
Tám câu thơ đầu ngoài lời trao duyên, Kiều chủ yếu nói về nỗi bất hạnh của mình
nhưng để trao duyên Kiều phải chọn những lời lẽ thuyết phục. Bốn câu tiếp theo
Kiều thuyết phục em bằng cả lí lẫn tình: Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Từ " ngày xuân" mang tính ước lệ có ý chỉ tuổi trẻ của người con gái, Kiều muốn nói
tuổi trẻ của em còn dài, và vì "tình máu mủ" giữa chị và em mà thay lời nước non
giúp chị. Kiều kêu gọi tình chị em máu mủ ruột thịt thiêng liêng, khơi dậy ở Vân đức
hi sinh và lòng vị tha vì người thân. Nếu được mãn nguyện thì dẫu Kiều chết đi dưới
chín suối cũng hả dạ vì có được tiếng thơm là người có tình có nghĩa.
Có thể nói đoạn thơ sử dụng khá nhiều thành ngữ, lời lẽ, ý vị kín đáo, vẹn tình.
Người nhận có ba lí do không thể khước từ, trước hết Kiều và Vân không cách nhau
về tuổi tác, thứ hai lại càng thuyết phục hơn Kiều đang nhờ Vân một điều mà chẳng
ai nhờ vả bao giờ. Đã khó nhờ, khó nhận thì chỉ có tình cảm chị em máu mủ mới dễ
dàng đồng cảm chấp nhận cho nhau.
Lý do thứ ba nghe như một lời khẩn cầu đầy chua xót:
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây