




Preview text:
2.2. Chất mới ra đời, nó tác động trở lại lượng mới, làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp
điệu của sự vận động phát triển của sự vật.
Mối quan hệ lượng chất là mối quan hệ biện chứng hai chiều tác động qua lại lẫn nhau. Không
chỉ những thay đổi về lượng dẫn đến chất đổi mà những thay đổi về chất cũng dẫn đến thay đổi về
lượng. Sự thay đổi về chất là kết quả của sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút. Khi chất mới ra
đời nó tác động trở lại lượng mới. Chất mới có thể làm thay đổi kết cấu, quy mô tồn tại của sự vật, làm
thay đổi trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển của sự vật. Cụ thể:
Chất mới ra đời quy định một lượng mới phù hợp với nó. Lượng mới này vận động và biến
đổi trong một khoảng giới hạn mới được gọi là độ mới. Khi tích lũy đủ về lượng sẽ đạt tới điểm nút
mới, đồng thời thực hiện một bước nhảy mới cho ra đời một chất mới hơn nữa. Sự biến đổi của lượng
mới khác với sự biến đổi lượng cũ. Quá trình này liên tục diễn ra, tạo thành phương thức cơ bản, phổ
biến của quá trình vận động, phát triển của sự vật hiện tượng.
Ví dụ: Sau khi trải qua kỳ thi đại học, học sinh đã thực hiện bước nhảy trở thành sinh viên,
chất cũ là học sinh và chất mới là sinh viên. Khi trở thành sinh viên bạn sẽ có lượng mới đó là kiến
thức ở chương trình đại học. Sau khi tích lũy đủ lượng mới (tức kiến thức ở đại học) sẽ đạt tới điểm
nút mới là hoàn thành chương trình đại học. Bạn sẽ thực hiện một bước nhảy là chuyển hóa từ sinh
viên thành người đi làm, và người đi làm là một chất mới hơn nữa.
Các hình thức của bước nhảy:
- Dựa vào quy mô và nhịp điệu:
+ Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu
tố… của sự vật, hiện tượng. Ví dụ: học sinh thi kỳ thi THPT Quốc gia, cuộc cách mạng tiến lên chủ nghĩa xã hội.
+ Bước nhảy cục bộ là bước nhảy chỉ làm thay đổi một số mặt, một số bộ phận, một
số yếu tố của sự vật, hiện tượng. Ví dụ: các kỳ thi giữa kỳ, cuối kỳ của học sinh.
- Dựa vào thời gian và cơ chế của sự thay đổi về chất:
+ Bước nhảy tức thời là bước nhảy làm thay đổi tất cả các bộ phận, toàn bộ kết cấu
của sự vật, hiện tượng một cách mau chóng. Ví dụ: khối lượng Uranium 235 khi tăng tới hạn
(1kg) thì sẽ xảy ra vụ nổ nguyên tử trong chốc lát.
+ Bước nhảy dần dần là quá trình thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng diễn ra chậm
và từ từ, bằng cách tích lũy dần những yếu tố của chất mới và loại bỏ dần những yếu tố của
chất cũ. Ví dụ: quá trình thay đổi, chuyển biến từ vượn thành con người, quá trình từ một nước
có nền kinh tế lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa chủ hội.
Tóm lại, “mọi đối tượng đều là sự thống nhất của hai mặt đối lập chất và lượng, những sự thay
đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn đến sự thay đổi căn bản về chất thông qua bước
nhảy, chất mới ra đời tiếp tục tác động trở lại duy trì sự thay đổi của lượng”1.
1 Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021). Giáo trình Triết học Mác – Lênin (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý
luận chính trị), NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tr.243.
II. Vận dụng quy luật Lượng-chất vào quá trình phát triển bản thân và sự nghiệp
1. Vận dụng để thiết đặt mục tiêu, định hướng phát triển bản thân
Vận dụng quy luật lượng và chất vào quá trình phát triển bản thân là một yếu tố quan trọng để
thiết lập mục tiêu và định hướng phát triển cá nhân. Quy luật lượng và chất cho rằng sự thay đổi về
lượng sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất, và ngược lại. Để áp dụng cơ bản và hiệu quả quy luật này vào
việc phát triển bản thân, cần có mục tiêu rõ ràng và chiến lược phát triển phù hợp. Bằng cách xác định
mục tiêu và định hướng phát triển, có thể tăng cường các yếu tố quan trọng như học hỏi, rèn luyện, và
rèn kỹ năng, tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện của bản thân.
1.1. Vận dụng lượng trong thiết đặt mục tiêu
Mục tiêu là những kết quả cụ thể mà con người mong muốn đạt được trong cuộc sống hoặc sự
nghiệp. Vận dụng lượng trong thiết đặt mục tiêu đòi hỏi phải xác định rõ các chỉ tiêu cụ thể, đo lường
bằng số liệu hay quy định thời gian. Yếu tố lượng có thể là thời gian, công sức hay tài nguyên mà con
người đầu tư vào để đạt được mục tiêu.Ví dụ: Mục tiêu có thể là kết thúc môn học với kết quả cao,
được xét Sinh viên 5 tốt cấp trường, hoặc tiếp cận một số lượng mới người hâm mộ trên mạng xã hội.
1.2. Vận dụng chất trong định hướng phát triển bản thân
Chất đại diện cho những yếu tố và tài nguyên cần thiết để đạt được mục tiêu. Đây bao gồm kiến
thức, kỹ năng, kinh nghiệm và mối quan hệ cần xây dựng hoặc nâng cao. Bằng cách vận dụng chất
trong việc định hướng phát triển, tập trung nâng cao khả năng của bản thân. Ví dụ: Để đạt được mục
tiêu học tập, ta có thể tìm kiếm các khóa học, tài liệu hoặc tìm người thầy để tăng cường kiến thức.
Hay phát triển sự nghiệp, con người có thể tham gia các khóa đào tạo, thực tập tích lũy kinh nghiệm
hoặc xây dựng mối quan hệ chuyên nghiệp.
1.3. Sự cân bằng giữa lượng và chất
Để đạt được mục tiêu và phát triển bản thân một cách hiệu quả, cần có sự cân nhắc và cân bằng
giữa lượng và chất. Xác định mục tiêu cụ thể và đo lường quá trình đạt được (lượng), đồng thời đầu tư
vào khả năng và tài nguyên cần thiết để tăng cường chất lượng (chất). Ví dụ: Muốn trở thành một
chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ thông tin thì việc đạt được mục tiêu có thể là hoàn thành một
khóa học trực tuyến về ngôn ngữ lập trình và xây dựng một ứng dụng thực tế được gọi là lượng. Để
đạt được mục tiêu này, cần phải tìm kiếm tài liệu, công cụ, thực hành và luyện tập tích cực để nâng
cao kỹ năng lập trình và xây dựng sản phẩm quá trình này là chất.
Tóm lại, vận dụng quy luật lượng và chất vào việc thiết đặt mục tiêu và định hướng phát triển bản
thân. Từ đó, sẽ có một cơ sở lý thuyết vững chắc và chiến lược cụ thể để nắm bắt và phát triển tiềm năng của bản thân.
2. Đánh giá, cải thiện kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm của bản thân
Quy luật lượng và chất cũng đề cao sự phát triển không chỉ là việc tăng lượng mà còn là cải thiện
chất lượng. Trong việc phát triển bản thân và sự nghiệp cần liên tục đánh giá và cải thiện kỹ năng,
kiến thức và kinh nghiệm của mình. Liên tục đánh giá, kiểm tra lại để phát hiện những vấn đề còn hạn
chế, nhận ra những điểm yếu và điểm mạnh của bản thân. Từ đó, lên kế hoạch cải thiện những kiến
thức, kỹ năng và kinh nghiệm còn thiếu sót, tích lũy để phát triển bản thân và sự nghiệp.
2.1. Đánh giá kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm
Chỉ tích lũy lượng không là chưa đủ, bản thân cần phải liên tục xem xét, đánh giá lại lượng mà
mình đã tích lũy như kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm. Như vậy, mới có thể nhìn nhận một cách
tổng quát những “lượng” bản thân đã có. Kịp thời phát hiện những kiến thức, kỹ năng hay kinh
nghiệm đã hoàn thiện hay chưa hoàn thiện, đã tốt hay chưa thực sự tốt. Dựa vào kết quả đánh giá đó
tiếp tục phát huy những “lượng” tốt, khắc phục và cải thiện những “lượng” chưa tốt để phát triển bản
thân một cách đầy đủ và toàn diện, chuẩn bị cho “chất” tốt hơn ra đời. Quá trình đánh giá cũng góp
phần xác định lại hướng đi của bản thân trong quá trình đi đến mục tiêu đã thiết đặt, tránh được vấn đề
lệch hướng đi so với mục tiêu, định hướng phát triển bản thân và sự nghiệp đã đặt ra trước đó.
Cũng như việc sinh viên chỉ học trên giảng đường là chưa đủ, mà bản thân cần phải trang bị những
kỹ năng, kinh nghiệm ở ngoài xã hội thực tiễn. Nên việc đánh giá lại bản thân xem mình còn thiếu
những kiến thức, kỹ năng hay kinh nghiệm gì là rất cần thiết và quan trọng. Lượng kiến thức trong học
tập đã tốt thì tiếp tục phát huy, làm cho “lượng” đó tốt hơn, còn “lượng” về kỹ năng, kinh nghiệm
chưa hoàn thiện thì lên kế hoạch để tiếp tục tích lũy và hoàn thiện hơn.
2.2. Cải thiện kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm
Từ việc liên tục đánh giá lại kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm của bản thân. Xác định được
những “lượng” chưa hoàn thiện thì cần phải chủ động cải thiện. Áp dụng quy luật lượng chất vào quá
trình học tập, sinh viên chủ động cải thiện kiến thức, tích cực tìm tòi, học hỏi thêm nhiều kiến thức ở
những nguồn thông tin chất lượng, nâng cao giá trị của “lượng” tích lũy được. Những kỹ năng hay
kinh nghiệm còn nhiều thiếu sót, chưa hoàn thiện thì cần hoàn thiện dần dần, không cần cải thiện, tích
lũy một cách nhanh chóng nhưng lại không có hiệu quả. Bản thân sinh viên cần có kế hoạch cải thiện rõ ràng.
Cải thiện những “lượng” chưa hoàn thiện, thiếu sót sẽ làm cho quá trình biến đổi “chất” tốt hơn,
chất mới ra đời tốt hơn chất cũ, nó tác động trở lại lượng mới, trong quá trình tác động lượng mới này
nếu bản thân tiếp tục đánh giá liên tục những “lượng” còn chưa tốt và cải thiện để nó tốt hơn thì càng
về sau những “chất” mới ra đời đều tốt hơn chất cũ, làm cho sự vận động và phát triển của sự vật hay
quá trình học tập của bản thân liên tục phát triển theo chiều hướng tích cực, đi lên.
Tuy nhiên, quá trình đánh giá và cải thiện kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm cần có phương pháp
phù hợp và tùy thuộc vào ý thức tự giác của mỗi cá nhân. Muốn phát triển bản thân và sự nghiệp thì
phải chủ động thiết đặt mục tiêu, đánh giá xem xét quá trình thực hiện, tự rút ra những sai lầm, thiếu
sót của bản thân mà sửa chữa, cải thiện từng ngày. Có vậy, mới tạo ra được những “chất” mới chất
lượng, nếu chỉ đặt mục tiêu mà không nhìn nhận lại quá trình thực hiện thì “chất” mới ra đời sẽ không
tốt mà có thể đi lệch mục tiêu ban đầu.
3. Ví dụ cụ thể về việc áp dụng quy luật lượng và chất vào việc phát triển sự nghiệp
Ví dụ cụ thể như sinh viên đặt mục tiêu sau khi hoàn thành chương trình đại học sẽ trở thành giảng
viên đại học. Để đạt được mục tiêu đã thiết đặt, trước hết sinh viên cần phải tích lũy đủ “lượng” là
những kiến thức ở bậc đại học. Nhưng tích lũy “đủ lượng” thôi là chưa được. Cần phải tích lũy những
lượng tốt và những kỹ năng, kinh nghiệm tốt giúp phát triển tốt con đường trở thành giảng viên. Có
thể thấy “lượng” ở đây là những kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm mà bản thân sinh viên phải tích
lũy được để hình thành “độ”, và thực hiện bước nhảy cho ra đời một “chất mới” là giảng viên.
Khi bản thân đã đạt được một số kết quả tích cực trong việc học tập và phát triển một số kỹ năng,
như đạt được kết quả cao trong mỗi học kỳ hay hoàn thành được một khóa học kỹ năng về giao tiếp.
Tuy nhiên, để tiếp tục phát triển và duy trì thành công, cần phải liên tục đánh giá và cải thiện kỹ năng
trình bày trước đám đông, kiến thức chuyên môn và kiến thức thực tế xã hội-kinh tế.
Bằng cách áp dụng quy luật lượng và chất, bản thân sinh viên có thể xác định những lỗ hổng và
hạn chế của mình. Từ đó, tìm kiếm các chương trình đào tạo và học tập để nâng cao kỹ năng chuyên
môn và biết cách áp dụng những kiến thức mới nhất trong ngành nghề của bản thân. Làm cho “lượng”
tích lũy được ngày càng tốt hơn và “chất” mới ra đời cũng sẽ chất lượng hơn. Qua quá trình tìm kiếm,
học hỏi và cải thiện lượng mới sinh viên cũng có thể tạo ra mạng lưới liên kết công việc và mở rộng
mối quan hệ xã hội, góp phần vào việc phát triển bản thân và sự nghiệp.
Document Outline
- 2.2. Chất mới ra đời, nó tác động trở lại lượng mớ
- II. Vận dụng quy luật Lượng-chất vào quá trình phá
- 1.1.Vận dụng lượng trong thiết đặt mục tiêu
- 1.2.Vận dụng chất trong định hướng phát triển bản thân
- 1.3.Sự cân bằng giữa lượng và chất
- 2.Đánh giá, cải thiện kiến thức, kỹ năng và kinh ngh
- 2.1.Đánh giá kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm
- 2.2.Cải thiện kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm
- 3.Ví dụ cụ thể về việc áp dụng quy luật lượng và chấ