


Preview text:
2.2.2. Những thành tựu của quá trình phát triển con người ở nước ta.
1.Đời sống nhân dân không ngừng nâng cao
- Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII khẳng định: “Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm còn dưới 3%; nhà ở xã hội được quan tâm; đã hoàn thành các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, trong đó có nhiều mục tiêu về giảm nghèo, y tế, giáo dục hoàn thành trước thời hạn, được đánh giá là điểm sáng”. Liên Hợp Quốc ghi nhận chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam liên tục tăng và hiện thuộc nhóm có mức phát triển con người cao, xếp thứ 115/191 quốc gia và vùng lãnh thổ.
- Hơn 13% dân số Việt Nam vào năm 2018 thuộc về tầng lớp trung lưu theo chuẩn quốc tế. Tầng lớp này đang trong đà tăng trưởng mạnh mẽ với tốc độ nhanh hơn 20% trong giai đoạn 2010 - 2017. Riêng từ 2014 - 2018 trung bình mỗi năm có 1,5 triệu người Việt Nam được gia nhập vào tầng lớp trung lưu toàn cầu.
2. Đảm bảo và không ngừng mở rộng quyền tự do, dân chủ
- Việt Nam đã hoàn thành nhiều mục tiêu trước thời hạn Liên Hợp Quốc đặt ra trong MDGs như: mọi người đều có đủ lương thực; tất cả trẻ em học hết tiểu học; phụ nữ có các cơ hội và được tôn trọng như nam giới; có thêm nhiều trẻ em dưới 5 tuổi lớn lên khỏe mạnh; ngày càng có ít bà mẹ bị tử vong khi sinh con. Năm 2019, Việt Nam lần đầu tiên được xếp vào nhóm các nước có mức độ phát triển con người cao, đứng thứ 117 trên tổng số 189 quốc gia, chỉ số Phát triển con người đạt 0,704 điểm.
3. Môi trường văn hóa lành mạnh cho con người phát triển
- Việt Nam đã có những tiến bộ trong giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ; sự khởi sắc trong hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật, truyền thông đại chúng, bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa; sự phát triển của phong trào xây dựng đời sống văn hóa và sự tăng cường các thiết chế văn hóa cơ sở,… làm cho đời sống tinh thần của con người, xã hội phong phú, đa dạng hơn, mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân từng bước được cải thiện. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Xây dựng nông thôn mới”, các phong trào xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa,…đạt được những kết quả tích cực, tạo môi trường tốt để nuôi dưỡng, phát huy những giá trị nhân văn của dân tộc. Những giá trị văn hóa mới cũng đã xuất hiện, nhưng đồng thời những bản sắc văn hóa dân tộc truyền thống vẫn được giữ gìn và phát huy rất tốt.
2.2.3. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình phát triển con người toàn diện ở nước ta.
- Những hạn chế:
1. Thành tựu phát triển con người của Việt Nam có xu hướng chậm lại những năm gần đây
- Tốc độ tăng chỉ số HDI của Việt Nam giai đoạn 1990-2018 liên tục giảm dần (1990-2000: 1,99%/năm, 2000-2010: 1,23%/năm, 2010-2018: 0,74%/năm) và bình quân đạt 1,36%/năm, thấp hơn của một số nước trong khu vực cùng thời kỳ.
- Nguyên nhân: Chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa thật sự bền vững, tăng trưởng còn phụ thuộc vào lao động giá rẻ và khai thác tài nguyên. Đầu tư chưa đồng đều, nhiều nơi còn thiếu cơ sở hạ tầng và chất lượng dịch vụ thấp.Áp lực dân số và đô thị hóa cũng khiến các hệ thống dịch vụ quá tải.
2. Giáo dục Việt Nam đã có sự tiến bộ nhưng vẫn tụt lại so với các nước trong khu vực
- Số năm đi học trung bình của người Việt Nam từ 15 tuổi trở lên tăng dần từ 3 năm (năm 1960) lên 4,6 năm (năm 1980), 6,4 năm (năm 2010) và 8,2 năm (năm 2018). Tuy nhiên, so với một số nước khác trong khu vực, thành tựu của nước ta thấp hơn nhiều và có xu hướng tụt hậu. Chẳng hạn, năm 1960, con số này của Malaysia là 2,8 năm và năm 2018 là 10,2 năm. Các số liệu tương ứng của Philippin là 4,7 năm và 9,4 năm; của Singapore là 3,7 năm và 11,5 năm; của Hàn Quốc là 4,3 năm và 12,2 năm.
- Nguyên nhân: Chương trình, phương pháp dạy học còn nặng lý thuyết, thiếu tính thực hành, đổi mới sáng tạo và ít tư duy phản biện. Trường học vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số thiếu giáo viên, cơ sở vật chất, công nghệ, do đó cơ hội tiếp cận giáo dục chất lượng cao không đồng đều.
3. Chính sách giảm nghèo vẫn chưa được tối ưu
- Tỷ lệ tái nghèo giai đoạn 2016–2017 vẫn cao, trung bình 5,17%/năm, riêng vùng Tây Bắc (26,86%). Tỷ lệ hộ nghèo phát sinh mới cũng ở mức lớn, khoảng 22,98%/năm, chủ yếu tập trung tại các vùng dân tộc thiểu số và miền núi như Đông Bắc, Tây Bắc và Tây Nguyên. Năm 2017, nhiều tỉnh ghi nhận tỷ lệ phát sinh nghèo rất cao, có nơi trên 50%, cho thấy nguy cơ tái nghèo và phát sinh nghèo vẫn là thách thức lớn đối với phát triển đất nước.
- Nguyên nhân: Chính sách còn dàn trải, chồng chéo, một số chương trình trùng lặp mục tiêu, gây phân tán nguồn lực, do đó hiệu quả thực thi chưa cao ở cấp địa phương. Địa hình hiểm trở, hạ tầng yếu kém, trình độ dân trí thấp cũng là những nguyên nhân chủ yếu gây ra tỉ lệ tái nghèo cao ở các vùng miền núi và dân tộc thiểu số.
Nguồn:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, tập 1: Trang 66.
2. Báo cáo phát triển con người 2019, UNDPa.
3. Số liệu từ bộ số liệu về thành tích giáo dục của Barro-Lee (Phan và Coxhead 2013) và Báo cáo phát triển con người 2019, UNDP, tr.301, 302, 303.
4.Từ “Kết quả giảm nghèo chưa thực sự bền vững”, https://giaoducthoidai.vn.