














Preview text:
  lOMoAR cPSD| 58794847
HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN: NGUYỄN THỊ THẢO VI 
MÃ SINH VIÊN: 20F7540567 
TÊN ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN 
3R TRONG QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN VÀ HIỆN TRẠNG 
PHÂN LOẠI RÁC THẢI TẠI NGUỒN Ở MỘT SỐ QUỐC GIA 
TRÊN THẾ GIỚI. VÌ SAO CHƯƠNG TRÌNH PHÂN LOẠI RÁC 
THẢI HIỆN NAY Ở VIỆT NAM ĐỀU THẤT BẠI? 
MÔI TRƯỜNG VÀ CON NGƯỜI – KTN1022 
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: LÊ CÔNG TUẤN 
HUẾ, THÁNG 11 NĂM 2021      lOMoAR cPSD| 58794847
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT  1. CTR: chất thải rắn  2. PLRTTN: 
phân loại rác thải tại nguồn  3. BVMT:  bảo vệ môi trường  4. ONMT:  ô nhiễm môi trường        lOMoAR cPSD| 58794847 MỤC LỤC 
A. PHẦN MỞ ĐẦU:..................................................................................................1 
B. NỘI DUNG............................................................................................................1  I. Khái  quát 
chung:..................................................................................................1 
II. Khái niệm:............................................................................................................2  1.  3R  là 
gì?...........................................................................................................2  2.  Phân  loại  rác  thải  tại  nguồn  là 
gì?.................................................................2 
III. 3R trong quản lý chất thải rắn:........................................................................2  1. 
Lợi ích của việc áp dụng 3R trong quản lý chất thải 
rắn:...........................2  2.  Ý  nghĩa  của  3R  trong  quản  lý  chất  thải 
rắn:................................................3  3.  Thực  trạng  3R  ở  Việt  Nam  và  trên  thế 
giới..................................................4  4.  Hành  động  của  người 
dân:............................................................................5  5.  Cảm  nhận  của  bản 
thân:................................................................................7  IV.  Hiện  trạng 
PLRTTN của một số quốc gia trên thế giới:.................................8 
V. Vì sao tình trạng phân loại rác thải này tại Việt Nam đều thất bại?.............10 
C. KẾT LUẬN:........................................................................................................10 
TÀI LIỆU THAM KHẢO:........................................................................................12      lOMoAR cPSD| 58794847 A. PHẦN MỞ ĐẦU: 
Cuộc sống xã hội ngày càng được nâng cao, phát triển và tiện nghi hơn, công nghệ 
ngày càng tân tiến phục phụ rất nhiều cho cuộc sống con người. Thế nhưng, kéo theo đó 
là lượng chất thải, đặc biệt là chất thải rắn (CTR) ngày càng tăng gây nên những hậu 
quả vô cùng nghiêm trọng với con người. 
Trong suốt thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta không ngừng quan tâm, chỉ đạo và 
đưa ra rất nhiều chỉ thị về việc bảo vệ môi trường (BVMT) như: Ngày 25/08/2014, Thủ 
tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 26/CT-TTg về việc triển khai thi hành luật 
BVMT đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp 
thứ 7 thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015. Ngày 31/08/2016 Thủ tướng 
Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã đưa ra Chỉ thị số 25/CT-TTg về một số nhiệm vụ, 
giải pháp cấp bách BVMT đã đốc thúc, nâng cao công tác quản lý của các cấp chính 
quyền, nâng cao tinh thần và ý thức bảo vệ môi trường của toàn thể nhân dân. 
Bên cạnh đó cũng có rất nhiều những biện pháp quản lý và xử lý chất thải như thiêu 
đốt, chôn lấp, ủ sinh học,... khi tìm hiểu em cảm thấy việc ứng dụng biện pháp 3R trong 
quản lý CTR rất khoa học và thú vị. Trong quá trình học tập và tìm hiểu cũng như chứng 
kiến trực tiếp trong cuộc sống, em nhận thấy rằng việc quản lý và xử lý chất thải hợp lý 
để BVMT là một điều rất quan trọng và cần thiết. Vì vậy, bằng kiến thức đã được học 
của mình, em xin thực hiện nghiên cứu về đề tài “3R trong quản lý chất thải rắn và 
hiện trạng phân loại rác tại nguồn ở một số quốc gia trên thế giới” từ đó rút ra được 
tình trạng quản lý và phân loại rác thải ở Việt Nam. Em hi vọng rằng qua bài nghiên cứu 
của mình sẽ giúp mọi người có thêm kiến thức và nâng cao ý thức trong việc quản lý 
chất thải cũng như hiểu rõ về tình hình phân loại rác thải của các nước trên thế giới nói 
chung và Việt Nam nói riêng.  B. NỘI DUNG  I. Khái quát chung: 
Lượng chất thải mỗi năm được thải ra ngày càng tăng, đặc biệt là CTR trong đại 
dịch này. Chất thải là tất cả những gì chúng ta không dùng tới và thải ra môi trường xung 
quanh. Như vậy, sau khi không dùng tới nữa, thay vì vứt bỏ đi thì chúng ta hãy giữ nó 
lại và biến nó thành tài nguyên để sử dụng. Vậy làm thế nào để biến chất thải thành tài      lOMoAR cPSD| 58794847
nguyên? Biện pháp 3R sẽ giúp chúng ta làm điều đó. Đây là một biện pháp phổ biến, 
được rất nhiều quốc gia áp dụng trên thế giới và nó cũng rất đơn giản để thực hiện, chỉ 
cần một chút sáng tạo, khéo tay là ta đã có thể góp phần ứng dụng biện pháp 3R vào 
cuộc sống hằng ngày. Đi cùng với việc áp dụng 3R trong quản lý CTR thì phân loại rác 
thải tại nguồn (PLRTTN) cũng là một trong những biện pháp vô cùng cần thiết để giảm 
thiểu nguồn chất thải. Vậy 3R trong quản lý CTR là gì? Hiện trạng PLRTTN của một số 
quốc gia trên thế giới như thế nào? Sau đây chúng ta hãy cùng tìm hiểu nhé!  II. Khái niệm:  1. 3R là gì? 
3R là viết tắt của Reduce – Reuse – Recycle được hiểu là Tiết giảm – Tái sử dụng – 
Tái chế. Đây cũng là lý do mà ở Việt Nam chúng ta 3R cũng được gọi với cái tên 
khác là 3T. Phương pháp 3R chính là giải pháp về môi trường mà rất nhiều quốc gia 
trên thế giới đang ứng dụng để bảo vệ và hạn chế sự ô nhiêm môi trường (ONMT). 
Mỗi bộ phận trong 3R đều mang những ý nghĩa nhất định: 
• Reduce (tiết giảm): có nghĩa là giảm thiểu tối đa các loại rác thải không cần thiết 
ra môi trường bên ngoài. 
• Reuse (tái sử dụng): tận dụng tối đa tuổi thọ của các sản phẩm và sử dụng nó để 
phục vụ các mục đích khác nhau nhằm tiết kiệm tối đa. 
• Recycle (tái chế): chính là việc tái chế lại các loại rác thải, sản xuất lại dựa trên 
các loại phế thải để tạo ra các sản phẩm mới và sử dụng lại các sản phẩm đó. 
2. Phân loại rác thải tại nguồn là gì? 
Phân loại rác tại nguồn là lượng rác thải sinh hoạt mỗi ngày trước khi được đưa đi 
xử lý cần phải được loại ngay tại hộ gia đình. 
III. 3R trong quản lý chất thải rắn: 
1. Lợi ích của việc áp dụng 3R trong quản lý chất thải rắn: 
3R là một trong những biện pháp và là chiến dịch cho hành động ý thức của mỗi 
người được đặt ra với ý nghĩa BVMT và hướng tới mục đích lớn lao là phát triển bềnh      lOMoAR cPSD| 58794847
vững, toàn diện không chỉ trong nước mà còn thế giới. Lợi ích của mô hình 3R không 
chỉ có ý nghĩa BVMT mà còn mang lại rất nhiều lợi ích cho cá nhân, cộng đồng, doanh  nghiệp,... 
Đối với cá nhân, việc áp dụng mô hình 3R trong quản lí CTR đã giúp nâng cao nhận 
thức cá nhân và vai trò của một cá nhân đối với công việc chung của toàn xã hội. Bên 
cạnh đó thay vì vứt bỏ các sản phẩm thừa, hết giá trị sử dụng thì việc tận dụng tối đa giá 
trị đồ cũ còn giúp chúng ta tiết kiệm được một lượng tiền lớn trong sinh hoạt, chúng ta 
có thể dùng số tiền đó cho những nhu cầu khác của bản thân hoặc dùng cho những mục 
đích có ý nghĩa hơn như giúp đỡ các hoàn cảnh khó khăn, ủng hộ đồng bào lũ lụt,... 
Chẳng hạn như năm 2020, câu lạc bộ sinh viên tình nguyện của Trường đại học Ngoại 
Ngữ - Đại học Huế đã tổ chức bán các đồ tái chế, đồ cũ để dùng số tiền đó mua quần áo 
ấm giúp đỡ các bạn nhỏ miền núi, đây là một công việc rất thiết thực, ý nghĩa, nồng ấm 
tình người trong mùa đông lạnh lẽo. Bên cạnh đó, việc giảm số lượng CTR cũng góp 
phần nâng cao sức khỏe con người, môi trường sạch sẽ giúp chúng ta ít mắc bệnh hơn. 
Hơn nữa, môi trường hoạt động tốt còn giúp cho con người cảm giác thư giản, thoải mái 
khi sống trong một môi trường ít rác thải. 
Đối với các doanh nghiệp sản xuất, xử lý rác thải, khi lượng CTR giảm xuống sẽ 
tiết kiệm được nhiều thời gian, chi phí cho việc phân loại các sản phẩm tái chế và không 
tái chế, hay nói cách khác là sản phẩm tái chế và săn phầm hữu cơ. Ngoài ra, việc thu 
gom các loại CTR để tái chế và sản xuất ra các sản phẩm mới thay vì mua nguyên liệu 
mới đã mang lại lợi nhuận lớn cho các doanh nghiệp và tiết kiệm được nguồn nhiên liệu 
mới, tận dụng được nguồn nhiên liệu dựa trên các loại rác thải có sẵn. 
Và đặc biệt là áp dụng mô hình 3R có lợi ích rất lớn đối với môi trường của chúng 
ta, đây là cũng là mục đích cuối cùng mà mô hình 3R muốn hướng tới. Lợi ích thứ nhất 
cũng là lợi ích lớn nhât là biện pháp 3R mang lại chính là làm giảm áp lực về việc phải 
hứng chịu hậu quả nặng nề về ONMT lên bề mặt trái đất và hạn chế được sự nguy hại 
ONMT làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Việc hạn chế thải CTR ra môi trường 
tạo nên một cảnh quan xanh, sạch, đẹp; biến hành tinh từ một nơi chứa đầy chất thải 
thành một hành tinh đáng sống của con người. Xa hơn nữa là giảm lượng rác thải sẽ giúp 
giảm thiểu được các tác nhân, nhân tố gây hại đến môi trương chung như hiệu ứng nhà 
kính, thủng tầng ô-zôn.      lOMoAR cPSD| 58794847
2. Ý nghĩa của 3R trong quản lý chất thải rắn: 
Trong biện pháp 3R, mỗi phương pháp đều hướng tới mục đích là giảm thiểu lượng 
chất thải thải ra môi trường, nếu tách riêng chúng ra ta không thể thấy thấy hết được ý 
nghĩa thật sự mà phương pháp này mang lại thế nhưng khi gộp cả ba phương pháp này 
lại với nhau thì quả thật mô hình 3R này đã đem lại hiệu quả và ý nghĩa vô cùng lớn 
trong đời sống con người cũng như trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội,... ở mỗi quốc gia, 
như ở Việt Nam có câu “một cây làm chẳng nên non / Ba cây chụm lại nên hòn nùi cao”. 
Đây quả thật là một câu nói rất chính xác, đặc biệt đặc trong trường hợp này. 
Ý nghĩa đầu tiên cũng là mục đích mà mô hình 3R muốn hướng tới, đó chính là giúp 
giảm thiểu một cách tối đa lượng chất thải ra môi trường, làm giảm sự ô nhiễm và cơ sở 
vật chất để xử lý chất thải đó. Những vật phẩm tái chế cũng đem đến một nguồn thu lớn 
cho các doanh nghiệp cũng như góp một khoản tiết kiệm cho chính người tiêu dùng. Vì 
vậy, nền kinh tế quốc gia cũng được nâng đỡ hơn. 3R là sản phẩm trí tuệ của con người 
nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng. Nó mang sức mạnh tinh thần to lớn, giúp thay 
đổi cách thức sử dụng, ý thức BVMT của con người. Việc thực hiện biện pháp 3R, giúp 
tạo ra việc làm, tăng thu nhập, giảm thiểu các chi phí xã hội (quản lý chất thải, chăm sóc 
sức khỏe,...). Bên cạnh đó, việc áp dụng 3R là tiền đề cho việc tổ chức các hoạt động 
của đoàn, đội thanh niên và tổ chức nhiều cuộc thi, tổ chức xã hội, từ đó góp phần kéo 
gần khoảng cách xã hội của con người lại với nhau. 
Việc thực hiện 3R phụ thuộc rất lớn vào ý thức của người dân trong cộng đồng. Ý 
thức và tự giác làm cho thế giới tươi đẹp hơn bằng cách bảo vệ môi trường cùng 3R là  cần thiết. 
3. Thực trạng 3R ở Việt Nam và trên thế giới.  a, Trên thế giới: 
Hành tinh này là của chúng ta, tất cả chúng ta đều sống chung dưới một bầu trời, 
sống cùng trong một quả đất vì vậy môi trường sống này là môi trường sống chúng của 
tất cả các quốc gia trên thế giới. “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ” Nhận thấy tầm quan 
trọng của việc BVMT hướng tới sự phát triển bền vững mà các diễn đàn các nước trong 
khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đã diễn ra đã diễn ra tại Nam Úc lần thức VII này 
để bàn về vấn đề thúc đẩy và đưa ra biện pháp 3R hay mô hình 3R về tiết chế, tái sử      lOMoAR cPSD| 58794847
dụng và tái chế trở thành một chiến dịch thực hiện trong thực tế. Diễn đàn có sự tham 
gia của hơn 500 đại biểu đến từ 41 quốc gia trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, 
cùng hội tụ đông đảo, còn có thêm các tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp có liên quan và 
đang trong quá trình nghiên cứu đến 3R và xử lý chất thải. Mục đích của diễn đàn chính 
là “thúc đây 3R hướng trong việc sử dụng hiệu quả đối với nguồn tài nguyên thiên nhiên 
và đến chương trình nghị sự năm 2030 trong sự phát triển bềnh vững” 
Vai trò của 3R để phát triển các mục tiêu hướng tới nghị sự năm 2030 trong đó các 
nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore đã có những động thái tích cực như: Xây 
dựng mô hình kinh tế tuần hoàn ở Trung Quốc để khuyến khích các doanh nghiệp xây 
dựng mô hình sinh thái. Trong khi đó Nhật Bản lại quan tâm hơn về vấn đề xử lý chất 
thải với các chính sách được đưa ra như D – waste. Còn Singapore lại hướng tới chiến 
lược giảm thiểu hướng tới không chất thải mang tên ZERO waste.  b, Đối với Việt Nam: 
Việt Nam cũng đã có những bước tiến đáng kể trong việc áp dụng và đưa mô hình 
này được thực hiện vào năm 2006 đến 18/03/2007 được áp dụng tại Hà Nội. Theo báo 
tài nguyên môi trường cho biết, để giúp Việt Nam được thực hiện 3R một cách bài bản, 
Chính phủ Nhật Bản đã viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam 45,9 tỷ đồng “Thực hiện 
sáng kiến 3R tại Hà Nội để góp phần phát triển xã hội bền vững”. Dự án mang tính chất 
thí điểm này sẽ sử dụng trong 3 năm (2006 – 2009), để rồi từ đó, việc phân loại rác hữu 
cơ tại nguồn sẽ được nhân rộng ra các địa phương khác. 
Thế nhưng kỳ vọng “3R sẽ được nhân rộng” đã không thành hiện thực, sau khi dự 
án kết thúc, mô hình này đã đi vào quên lãng. “Từ khi dự án kết thúc, người dân cũng 
lại trở về với nếp cũ, cứ thu gom rác vào hết một túi rồi bỏ vào thùng cho xe rác chở 
đi. Nếu khi dự án còn hoạt động, hiệu quả là 10 phần, đến bây giờ, chỉ được 1 phần” - 
Bà Lê Thị Thủy cho biết.[1] 
4. Hành động của người dân: 
Theo quan điểm quản lý tổng hợp CTR, ưu tiên cao nhất là phải làm sao để giảm 
thiểu sự phát sinh chất thải; tiếp theo là sự tận dụng các thành phần để tái sử dụng và tái 
chế; kế đến là đốt để xử lý và thu hồi nhiệt và sau cùng mới là chôn lấp. ở đô thị chương      lOMoAR cPSD| 58794847
trình 3R được áp dụng nhiều hơn. Trong quản lý tổng hợp CTR, vai trò của các bên liên 
quan, nhất là người tạo ra chất thải rất quan trọng. Ví dụ, ý thức tiết kiệm tiêu dùng, hạn 
chế sử dụng hoặc sử dụng bao bì nhiều lần,... giúp giảm thiểu lượng 
CTR sinh hoạt tạo ra [2] a, 
Đối với học sinh, sinh viên: 
Bản thân em cũng là một học sinh, sinh viên nên em có thể nhận thấy rằng trong 
quá trình học tập các bạn có thể loại bỏ rất nhiều CTR không cần thiết, chẳng hạn như 
vỏ bút, bao bì, giấy thừa,... đặc biệt là khi đi học, các bạn thường mua nước lọc tại các 
quầy hàng trong căn tin trường, nhiều nhất là lúc học thể chất. Vì vậy, thay vì vứt bỏ 
chúng đi, chỉ cần với vài bước thực hiện đơn giản đã có thể tạo ra những món đồ rất 
tuyệt để sử dụng. Chỉ bằng vỏ chai nhựa, bìa cac-ton các bạn đac có thể tạo ra cho mình 
những món đồ xinh xắn như ống đựng bút, hộp dựng đồ, chậu hoa để trang trí,...   
Ngoài ra, chúng ta có thể dùng chai bằng thủy tinh để đựng nước và sử dụng lâu dài 
hoặc tái sử dụng các chai nhựa đã mua thay vì mua chai mới hoặc chúng ta còn có thể 
thay thể ly nhựa, ống hút nhựa bằng các sản phẩm thân thiện với môi trường như ly giấy, 
ống hút tre, ống hút nui,... Ở các rạp chiếu phim hay một số quán giải khát hiện nay cũng 
đã dần thay thế ly nhựa và ống hút nhựa bằng ly giấy và ống hút giấy.     
(ống hút sửu dụng một lần bằng tre và bột gạo) b,Đối 
với các bà nội trợ, người dân:      lOMoAR cPSD| 58794847
Đi chợ để mua hàng hóa, thực phẩm để phục vụ cho nhu cầu của con người là điều 
thường xuyên và thiết yếu, vì vậy thay vì dùng bao nilong các bà, các mẹ nên chuẩn bị 
cho mình một chiếc giỏ đi chợ hằng ngày, vừa tiên dụng lại vừa giảm lượng rác thải thải 
ra hằng ngày. Chúng ta còn nên tăng cường sử dụng giấy, lá chuối để bọc thức ăn thay 
vì dùng bao nilong. Trong các hộ gia đình, chúng ta nên nuôi chó, mèo, gà,... để chúng 
có thể xử lý thức ăn thừa bón vào gốc cây để tạo phân bón cho cây. Đối với các hộ gia 
đình nông thôn, công nghệ biogas không những xử lý hiệu quả rác thải hữu cơ giúp giảm 
ONMT mà còn góp phần mang lại hiệu quả kinh tế cho người dân.     
c, Đối với nhà xưởng, doanh nghiệp: 
Bằng cách tiết kiệm tài nguyên và kiểm soát nguyên liệu đầu vào trong hoạt động 
sản xuất, các doanh nghiệp không chỉ giảm chi phí cho sản xuất mà còn nâng cao hơn 
giá trị cạnh tranh sản phẩm. 
Nếu con người không thoát được vòng luân hồi sinh lão bệnh tử thì môi trường sống 
cũng không thể thiếu vòng tuần hoàn với biện pháp 3R như trên. Chính vì vậy có thể so 
sánh việc BVMT bằng biện pháp 3R cũng giống như việc bạn đang bảo vệ sự sống của 
chính mình vậy. Các biện pháp này do các nhà tư vấn môi trường phát triển lên. Đương 
nhiên bạn không thể làm cho nó hoàn toàn tốt được nhưng hãy đảm bảo bạn luôn cố 
gắng để thực hiện nó một cách tốt nhất. BVMT cũng chính là bảo vệ cuộc sống của  chúng ta. 
5. Cảm nhận của bản thân về 3R trong quản lý chất thải rắn: 
Sau khi tìm hiểu về mô hình 3R, bản thân em đã học thêm được rất nhiều kiến thức 
cũng như tự nâng cao ý thức của bản thân. Trước đây, bản thân em cứ thích bỏ đồ cũ và 
mua đồ mới, nhưng bây giờ, em đã tự nhận thức được những tác hại của việc xả rác thải 
ra môi trường nên em sẽ thay đổi thói quen của bản thân, cố gắng tận dụng những đồ cũ,      lOMoAR cPSD| 58794847
tái chế để cho ra những sản phẩm mới. Bên cạnh đó, em cũng đã góp phần rất nhiều 
trong việc BVMT như tham gia các hoạt động tái chế đồ cũ của đoàn thanh niên địa 
phương hoặc là sử dụng bình nước thủy tinh thay vì mua nhiều nước lọc đóng chai. Qua 
các nội dung trên, em cảm thấy mô hình 3R rất hay và thú vị, em sẽ giới thiệu cho bạn 
bè, người thân cũng thực hiện mô hình này. 
IV. Hiện trạng PLRTTN của một số quốc gia trên thế giới: 
Cách đây không lâu em được một người bạn du học tại Đức kể rằng khi bạn ấy tới 
nhà một người bạn là người bản địa, anh bạn người bản địa đó đang cọ rửa những vỏ 
hộp sữa chua đã sử dụng một cách kỹ càng, lột bỏ lớp giấy bọc bên trên rồi nói với cô 
vợ người Mỹ của mình rằng: “Đó mới là cách tái chế rác đó em!”. Người Đức luôn 
cảm thấy vui vẻ khi họ cẩn thận, tỉ mỉ phân loại rác thải của mình vào những thùng 
chứa có màu sắc khác nhau để tiện lợi cho việc tái sử dụng hoặc xử lý theo cách thân 
thiện với môi trường. Chính vì thế người Đức đã đạt được tỷ lệ tái chế rác tới mức 
65%. Người Hàn Quốc đứng thứ 2 với 59%, nước Mỹ chỉ đạt 35%, cao hơn một chút 
so với các quốc gia đang phát triển. Trong khi đó, Thổ Nhĩ Kì lại có tới 99% số rác thải 
bị chôn xuống đất. Điều này tạo lên một nguy cơ tiềm tàng về nhiễm độc nguồn nước 
ngầm. Ở nhiều nước trên thế giới, hiện nay thậm chí còn chưa có văn hóa PLRTTN, 
Việt Nam cũng nằm trong số đó, và số rác thải của những nước này đa số là được đem 
đốt, thải ra biển, chôn vùi dưới đất hoặc xử lý bằng hóa chất độc hại, gây ảnh hưởng 
nghiêm trọng tới môi trường, suy thoái tiềm năng của đất, đồng thời khiến con người 
phải đối mặt với nhiều nguy cơ đe dọa tới sức khỏe. 
Bên cạnh việc giảm thiểu tác hại tới môi trường, việc tái chế rác cũng khiến nước 
Đức sử dụng năng lượng một cách hiệu quả hơn hẳn. Ví dụ, thử so sánh với người Mỹ: 
nước Mỹ đạt tỷ lệ tái chế chỉ 35%, không có một hệ thống phân loại rác chuẩn chỉnh 
như Đức, và người dân cũng ít có ý thức hơn. Hệ quả người Mỹ sử dụng năng lượng 
hiệu quả chỉ bằng 1/2 so với người Đức. Mỗi lon nước được tái chế, đã tiết kiệm đến 
95% năng lượng và nguyên liệu được dùng để chế tạo ra một lon nước mới. Với mỗi tờ 
giấy được tái chế, 50% lượng nước để chế tạo ra giấy mới cũng được bảo toàn. 
Hầu hết các quốc gia ở châu Âu như Úc, Thụy Sỹ, Hà Lan và Thụy Điển đều rất 
ngưỡng mộ thành quả của người Đức. Theo như báo cáo của Ủy ban môi trường châu 
Âu thì những quốc gia kể trên cũng đã bước đầu tái chế được một nửa số rác thải. Và      lOMoAR cPSD| 58794847
để có thể đạt được thành công này, bí quyết của người Đức là ở hệ thống phân loại rõ 
ràng dễ áp dụng, sáng kiến “Green Dot” hiệu quả, và ý thức quá tốt của người dân nơi  đây.     
Trong khi đó, ở Việt Nam lượng chất thải nhựa và túi ni lông hiện ở mức rất cao, 
chiếm từ 8 - 12% trong chất thải rắn sinh hoạt. Việt Nam cũng đứng thứ 4 trong số các 
quốc gia có lượng rác thải nhựa đổ ra biển lớn với 0,28 - 0,73 triệu tấn/ năm. Điều 
đáng chú ý là trong tổng số rác thải nhựa ra môi trường, ước tính chỉ có khoảng 6% 
được tái chế, khoảng 8% đã bị thiêu hủy. Phần còn lại - 55% - đã tích lũy trong các bãi 
chôn lấp, bãi rác hoặc môi trường tự nhiên.[3] Việc thu gom, xử lý, tái chế khi nhựa đã 
bị trộn lẫn cùng những loại chất thải khác sẽ rất khó khăn và tốn kém. 
Trên thực tế, một số địa phương đã thực hiện thí điểm hoặc thử nghiệm PLRTTN, 
song các phương án phân loại hiện nay không đồng nhất. Và điều đáng nói là dù có 
chia làm 2, 3 hay 4 loại rác khác nhau, thì phương án thu gom và xử lý tại các địa 
phương vẫn chưa được đồng bộ hóa. Việc thu gom vận chuyển được thực hiện khác 
nhau giữa đô thị và nông thôn, giữa các địa phương và thậm chí giữa các vùng trong 
cùng một địa phương. Thực trạng phức tạp trong bức tranh quản lý chất thải tại Việt 
Nam khiến cho nhựa vẫn tiếp tục bị thải ra môi trường tự nhiên gây ô nhiễm, và trong 
số đó chỉ một tỷ lệ rất nhỏ nhựa có giá trị cao mới được xử lý và tái chế. 
Thực tế trong ngành quản lý rác thải tại các quốc gia phát triển cho thấy, việc 
PLRTTN nếu được thực hiện tốt sẽ tăng hiệu quả cho việc bóc tách rác thải nhựa ra 
khỏi “núi rác” tổng hợp, giúp cho quy trình thu gom, xử lý, tái chế được tiến hành 
thuận lợi và triệt để hơn.      lOMoAR cPSD| 58794847  
V. Vì sao tình trạng phân loại rác thải này tại Việt Nam đều thất bại? 
Theo em, tình trạng phân loại rác thải này ở Việt Nam đều thất bại vì đầu tư cơ sở 
hạ tầng không đồng bộ khiến việc phân loại chất thải trở nên nửa vời. Mặc dù, một số 
địa phương trên cả nước đã và đang thực hiện những dự án 3R, song nhìn chung, mới 
chỉ thực hiện nhỏ lẻ, thiếu định hướng. Còn lại, các hộ gia đình trong cả nước chưa được 
trang bị thiết bị để phân loại rác thải tại nguồn. Các điểm trung chuyển cũng như vận 
chuyển rác thải chưa được xây dựng, trang bị chưa đủ để đáp ứng yêu cầu vận chuyển, 
xử lý riêng từng loại rác thải. Số lượng doanh nghiệp tham gia áp dụng sản xuất sinh 
học không nhiều. Ngoài ra, do thiếu kinh phí để thực hiện, không sát sao đôn đốc nhắc 
nhở trong khi, thói quen từ lâu của người dân chưa được thay đổi, nên mô hình này bị  chết yểu. 
Khi đi dọc đường, ta cũng có thể nhìn thấy ven đường chỉ có một thùng rác để chứa 
rác thải, không có nơi để phân loại rác thải cũng không có yêu cầu về việc phân loại rác 
thải với người dân. Một lý do nữa là người dân cũng như chính quyền không có nhiều 
chính sách về việc tuyên truyền PLRTTN đối với người dân. Ngay tại địa phương em, 
mặc dù hiện nay người dân đã không còn tự đốt rác thải và đã tự giác gom rác thải để 
được mang đi xử lý nhưng hầu hết mọi người đều không có ý thức trong việc phân loại 
rác thải, họ nghĩ việc phân loại rác thải không quan trọng, thậm chí có người còn không 
có kiến thức trong việc phân loại rác thải. Chính vì vậy mà việc PLRTTN ở nước ta đều  thất bại.  C. KẾT LUẬN: 
Qua bài luận, em hi vọng mọi người có thể hiểu hơn về mô hình 3R trong quản lý 
CTR cũng như hiểu được tầm quan trọng của việc phân loại rác thải tại nguồn. Liên 
quan đến mô hình 3R, trước đây, em đã đọc được một cuốn sách rất hay về vấn đề này      lOMoAR cPSD| 58794847
chính là “Lối sống tối giản của người Nhật”. Toàn bộ nội dung cuốn sách đều hướng cho 
con người đến một lối sống tích cực hơn bằng cách tận dụng các đồ có sẵn một cách lâu 
nhất. Thay vì liên tục mua mới, chúng ta chỉ nên chọn cho mình những sản phẩm chất 
lượng và phù hợp với bản thân. Chúng ta nên tìm đọc cuốn sách này để học tập lối sống 
của người Nhật về việc quản lý CTR. Còn về việc PLRTTN, chúng ta nên học hỏi người 
Đức về việc này, mọi thành công đều có xuất phát điểm từ nền tảng giáo dục để hình 
thành nên ý thức của mỗi cá nhân cho tới cả một quốc gia. Chúng ta không thể ngay lập 
tức áp dụng cách người Đức phân loại rác, cách người Do Thái đọc sách, cách người 
Nhật xếp hàng.. mà không đi từ giáo dục nhận thức. Việc bạn có thể làm ngay bây giờ 
là học hỏi, thay đổi từ trong nhận thức, thực hành hàng ngày để trở thành thói quen và 
hướng dẫn con cái, truyền cảm hứng cho những người xung quanh mình làm theo. 
Không có việc gì là khó, và cũng không cần phải trông chờ, đòi hỏi từ những nhà chức 
trách, chính bạn phải là người quyết định thay đổi.    (giáo  dục  phân  loại  rác 
thải cho trẻ em từ rất sớm) 
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 
[1] Baotainguyenmoitruong.vn 
[2] MÔI TRƯỜNG VÀ CON NGƯỜI_Trường Đại học Khoa học Huế - Khoa Môi  trường. 
[3] Bộ Tài nguyên và Môi trường