











Preview text:
lOMoAR cPSD| 59540283
ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC HUẾ
KHOA KINH TẾ & PHÁT TRIỂN
KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG
NHÓM 10: Ảnh hưởng của ô nhiễm phóng xạ trên thế giới (N07) Huế, 2022
ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC HUẾ
KHOA KINH TẾ & PHÁT TRIỂN lOMoAR cPSD| 59540283
KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG
NHÓM 10: Ảnh hưởng của ô nhiễm phóng xạ trên thế giới (N07) Thành viên nhóm:
1. Phan Nguyễn Quỳnh Châu 2. Trần Ngọc Thiên Phú 3. Ngô Thị Tuyết Ngân 4. Nguyễn Thị Trà My 5. Lê Thị Minh Tâm 6. Lê Thị Kim Chi 7. Nguyễn Thị Thu Thảo 8. Trần Thị Yến Nhi I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài:
Ô nhiễm môi trường đã và đang xảy ra khắp mọi nơi và trở thành vấn đề đáng báo
động được toàn thế giới quan tâm hiện nay. Về tình hình thế giới phát triển càng lúc càng cao
dẫn đến sự phát triển nhanh của các nhà máy, công trình, xưởng sản xuất cùng sự gia tăng
dân số mất kiểm soát nên mỗi ngày lượng khí thải nguy hại thải ra môi trường nhiều vô kể lOMoAR cPSD| 59540283
dẫn đến môi trường bị đe dọa ô nhiễm. Những điều này đang tạo nên vấn đề nghiêm trọng
mà Trái đất và sinh vật trên toàn thế giới đang phải chống chọi, đối mặt với hạn hán, đói kém,
thiên tai, lũ lụt,.. Hầu hết lượng rác thải đưa ra môi trường chưa được xử lý hoặc xử lý không
hoàn toàn gây ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường xung quanh và sức khỏe con người.
Chính vì thế việc phân tích đánh giá, tìm hiểu nguyên nhân để đưa ra những biện pháp khắc
phục là rất cần thiết, cùng với sự phân công của giảng viên bộ môn và dựa trên những khả
năng hiểu biết của nhóm mà chúng em lựa chọn chuyên đề “ Phân tích ảnh hưởng của
phóng xạ trên thế giới hiện nay” để phần nào thấy rõ những bất lợi và ảnh hưởng của các
chất phóng xạ gây ra cho môi trường.
Việc lựa chọn chủ đề này không chỉ giúp chúng em rèn luyện tư duy sáng tạo mà còn
có cơ hội làm việc nhóm với nhau.
2. Đối tượng và phương pháp thực hiện chuyên đề: -
Đối tượng thực hiện: Phân tích những ảnh hưởng của chất phóng xạtrên thế giới -
Phương pháp thực hiện: Tham khảo, thu thập và tổng hợp tài liệu từsách vở, mạng Internet
3. Mục tiêu và nội dung của chuyên đề: - Mục tiêu:
+ Củng cố kiến thức đã học
+ Áp dụng các kiến thức lý thuyết vào thực tế để thấy tầm quan trọng của môi trường
và những ảnh hưởng mà chất phóng xạ mang lại từ đó rút ra bài học thực tiễn cho bản thân - Nội dung:
+ Trình bày khái niệm, phân loại chất phóng xạ + Tình trạng hiện nay
+ Nêu nguyên nhân gây nên phóng xạ
+ Phân tích những ảnh hưởng của phóng xạ tới môi trường, sinh vật trên thế giới
+ Một vài sự kiện nổi bật của thế giới
+ Đề xuất giải pháp khắc phục hạn chế II.NỘI DUNG
2.1. Phóng xạ là gì? lOMoAR cPSD| 59540283
Phóng xạ hay phóng xạ hạt nhân là hiện tượng một số hạt nhân nguyên tử không bền
tự biến đổi và phát ra các bức xạ hạt nhân. Phóng xạ được nhà khoa học người Pháp Henri
Becquerel phát hiện vào năm 1896 khi làm việc với vật liệu phát quang.
Các loại phóng xạ • Phóng xạ Anpha (α) •
Phóng xạ Beta trừ (β−) • Phóng xạ Beta cộng (β+) Phóng xạ Gamma (γ):
2.2 Ô nhiễm phóng xạ là gì?
- Ô nhiễm phóng xạ là sự gia tăng mức độ bức xạ tự nhiên do các hoạt động của con
người gây ra, là sự lắng đọng của các chất phóng xạ trên bề mặt hoặc trong chất rắn, chất lỏng
hoặc chất khí (bao gồm cả cơ thể con người), nơi hiện diện của chúng là ngoài ý muốn hoặc không mong muốn.
2.3 Thực trạng thế giới hiện nay -
Các nhà máy điện hạt nhân đã tạo ra nguồn năng lượng rất lớnphục vụ cho nhu
cầu của con người. Nhưng nhiều nhà máy điện hạt nhân, nhiều lò phản ứng được xây dựng đã
làm tăng sự ô nhiễm phóng xạ do sự rò rỉ phóng xạ, các sự cố nổ lò phản ứng hạt nhân… đã
gây ảnh hưởng rất lớn đối với môi trường và con người.
Theo ủy ban năng lượng Hoa Kỳ, phóng xạ Urani ở các nhà máy điện hạt nhân, kho vũ
khí, trung tâm nghiên cứu và các khu vực trước kia có các vụ nổ hạt nhân như Hiroshima,
Nagasaki, Chernobyl… hàng năm làm ô nhiễm 2500 tỷ lít nước ngầm của thế giới. Nguồn nước
nhiễm phóng xạ này sau đó sẽ ngấm vào cây cối, động vật uống phải hoặc hòa tan vào nguồn
nước sinh hoạt của người và cuối cùng tích lũy vào cơ thể con người . -
Quá trình khai thác, chế biến, sử dụng các sa khoáng có chứa cácchất phóng xạ
như: Ilmenzit, Zircon, Monazite… dẫn đến sự làm giàu và tăng khả năng xâm nhập của các
nguyên tố phóng xạ vào môi trường xung quanh gây ô nhiễm phóng xạ. Các chất thải chất
phóng xạ chưa qua xử lý được trực tiếp thải ra các con sông, ra biển…
Ô nhiễm phóng xạ từ việc khai thác quặng Titan: Vùng ven biển Nam Trung Bộ ở khu
mỏ sa khoáng quặng Titan. Việc khai thác mỏ sa khoáng Titan (còn gọi là Cát đen) đã gây ô
nhiễm phóng xạ. Trong quặng Ilmenzit, Zircon có các khoáng vật chứa các chất phóng xạ, nhất
là khoáng vật Monazit có hàm lượng phóng xạ cao, rất nguy hiểm cho sức khỏe con người. Để
khai thác quặng này, người ta phải đào các cồn cát rồi tuyển và làm giàu quặng bằng nước. Kết
quả, hàng năm có hàng nghìn tấn cát bị đào xới, khối lượng các thải, chất thải khổng lồ bị san
ủi ra môi trường xung quanh. Nước từ quá trình tuyển khoáng cho chảy trực tiếp ra biển mà
không qua xử lý làm cho nước biển vùng ven cửa sông lân cận khu mỏ có mức phóng xạ vượt
quá tiêu chuẩn an toàn quy định. -
Việc khai thác, chế biến đất hiếm có nguy cơ gây ô nhiễm môitrường cao hơn
so với khai thác khoáng sản khác vì chế biến đất hiếm cần sử dụng nhiều hóa chất ảnh hưởng lOMoAR cPSD| 59540283
đến môi trường. Ngoài ra, trong quặng đất hiếm có khoáng chất mang tính phóng xạ gây ô nhiễm phóng xạ. -
Do sức mạnh hủy diệt to lớn của các loại vũ khí hạt nhân như làBom nguyên tử,
các đầu đạn hạt nhân,… mà nó được sản xuất ra với mục đích chiến tranh. Nhiều cuộc thử
Bom nguyên tử, tên lửa hạt nhân đã được thực hiện.
Mỹ đã thả 2 quả bom nguyên tử xuống 2 thành phố Hiroshima và Nagasaki của Nhật
năm 1945 đã gây ra hậu quả khủng khiếp đối với môi trường và con người.
2.4 Nguyên nhân của Ô nhiễm phóng xạ
2.4.1 Tai nạn từ các nhà máy sản xuất hạt nhân
Đã có nhiều năng lượng được khám phá nhưng năng lượng được cho là tiềm năng là
năng lượng hạt nhân. Có các báo cáo chỉ ra rằng năng lượng hạt nhân có mức nguy hiểm cao
hay không là do mức độ bức xạ.
Tính đến năm 2014, đã có hơn 100 vụ tai nạn hạt nhân nghiêm trọng và sự cố từ việc
sử dụng năng lượng hạt nhân. 57 vụ tai nạn đã xảy ra kể từ thảm họa Chernobyl, và khoảng
60% tất cả các vụ tai nạn liên quan đến hạt nhân đã xảy ra ở Hoa Kỳ. Các vụ tai nạn nhà máy
điện hạt nhân nghiêm trọng bao gồm thảm họa hạt nhân Fukushima Daiichi (2011) ở Fukushima, Nhật Bản
Vì vậy việc sử dụng năng lượng hạt nhân đã bị cấm ở nhiều quốc gia khác nhau trên
thế giới, các công trình nghiên cứu đã xác định được mức độ an toàn của năng lượng hạt nhân
đối với môi trường và đưa được ra nhiều giải pháp, phòng ngừa thích hợp nhất khi sử dụng
chúng. Nhưng cũng không tránh khỏi các tai nạn thương tâm kiến hàng ngàn người thiệt mạng
và bị ảnh hưởng bởi khuếch tán như: nhà máy hạt nhân Fukushima Daiichi (2011), thảm họa
Chernobyl (1986), và sự cố Three Mile Island (1979)
2.4.2 Sử dụng năng lượng hạt nhân làm vũ khí hủy diệt hàng loại
Việc sử dụng tên lửa hạt nhân và boom nguyên tử, một dạng năng lượng hạt nhân
trong chiến tranh thế giới thứ hai không chỉ giải thích được nguyên nhân mà còn giải thích bản
chất gây hại của ô nhiễm phóng xạ.
Ô nhiễm phóng xạ đến từ kết quả của chiến tranh thế giới hai bởi cuộc thảm sát bằng
bom nguyên tử ở Hiroshima và Nagasaki (1945). Cho đến nay những đứa trẻ sinh ra với các
biến chứng như chậm phát triển trí tuệ cũng như các tình trạng tự kỉ và rối loạn khác. Số ca
mắc ung thư ở hai thị trấn này cũng nhiều hơn những vùng khác ở Nhật.
2.4.3 Sử dụng đồng vị phóng xạ
Đồng vị phóng xạ được sử dụng để chế tạo các máy dò kim loại, chụp X – quang
trong y tế hay được sử dụng trong công nghiệp luyện kim, . . . Các chất đồng vị như uranium lOMoAR cPSD| 59540283
có nồng độ bức xạ cao trong chúng. Mặt khác, các đồng vị thông thường như chất phóng xạ
chứa carbon dễ dàng tìm thấy trong các đường nước thải y tế, nước thải công nghiệp, . . .
Vì hầu hết nước thải thô không được xử lý trước khi thải ra ngoài, một khi được thải
ra ngoài, đồng vị sẽ kết hợp với các hợp chất và nguyên tố khác có trong nước. Đây cũng là loại
nước mà mọi người lấy để sử dụng trong gia đình. Hơn nữa, các loài cá sử dụng cùng một
nguồn nước để tồn tại. Tiêu thụ những loài cá này và từ các nguồn nước bị ô nhiễm có nghĩa
là tăng khả năng hấp thụ bức xạ.
2.4.4 Khai thác
Khai thác chủ yếu bao gồm việc đào các quặng khoáng sản, sau đó được chia thành
các mảnh nhỏ hơn, để dễ dàng quản lý. Ví dụ như Radium và Uranium có nguồn gốc tự nhiên
hay nhân tạo đều có tính phóng xạ như nhau.
Do đó, khai thác mỏ làm tăng các quá trình địa chất tự nhiên bằng cách di chuyển các
vật liệu này từ bên dưới trái đất lên bề mặt. Các khoáng chất khác cũng có bức xạ là Thori,
Plutonium, Radon, Kali, Carbon và Phốt-pho.
2.4.5 Sự lan tràn của các hóa chất phóng xạ
Đã có những trường hợp phóng xạ tràn ra đại dương khi tàu va vào nhau hay va vào
những dòng sông băng hoặc rạn san hô, điều này vô hình chung đã giải phóng hóa chất vào
đường thủy và trong khí quyển. Phần lớn các hóa chất này, bao gồm cả các sản phẩm dầu mỏ
đều có thể có một lượng phóng xạ tự nhiên.
Nhật Bản xả nước thải nhiễm phóng xạ tại các nhà máy điện hạt nhân Fukushima số 1
ra biển. Nước được sử dụng để làm mát các lò phản ứng sau thảm họa hạt nhân năm 2011,
đang được trữ trong các bồn chứa khổng lồ trong nhà máy, lên tới hơn 1,3 triệu tấn vào
tháng 7. Tuy là đã được xử lý nhưng không ít thì nhiều vẫn sẽ ảnh hưởng của môi trường nước ở đại dương.
2.4.6 Thử nghiệm về bức xạ
Bức xạ có rất nhiều đặc tính thú vị, vì vậy đã thúc đẩy rất nhiều nhà khoa học tiến
hành các cuộc thử nghiệm và nghiên cứu về nó. Một trong số đó là khả năng điều trị và chữa khỏi bệnh ung thư.
Hóa trị, là một sáng kiến y tế chữa bênh ung thư bằng cách sử dụng bức xạ để ngăn
chặn sự phát triển của các tế bào ung thư cũng như giữ cho hệ thống miễn dịch được khỏe
mạnh. Mặc dù hữu ích như vậy, nhưng các nhà khoa học đã tiếp xúc với bức xạ đều bị phơi
nhiễm. Điều đó đã dẫn đến cái chết của nhiều nhà khoa học hoặc những biến chứng khác kéo dài.
Khi thực hiện một thí nghiệm liên quan, nhà khoa học Bugorski đã đưa đầu vào máy
va chạm hạt, thiết bị bảo vệ cho ông lẽ ra đã được kích hoạt nhưng cũng bị trục trặc. Kết quả
là đầu ông bị một chùm proton năng lượng cao đập vào và tiếp nhận khoảng 200.000
Roentgens (đơn vị đo lường sự phơi nhiễm của tia X và tia gamma) ngay tại chỗ. lOMoAR cPSD| 59540283
Theo báo cáo của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc năm 2000, việc thử hạt nhân là nguyên
nhân chính gây phơi nhiễm phóng xạ của con người.
2.4.7 Tia vũ trụ và các nguồn tự nhiên khác
Tia vũ trụ là các hạt nguyên tử năng lượng cực cao – chủ yếu là Proton và hạt nhân
nguyên tử kèm theo phát xạ điện từ, do đó gây ra ô nhiễm phóng xạ. Ví dụ như tia Gamma,
được cho là có mức bức xạ cao nhất sẽ tùy thuộc vào cường độ của chúng hay một số tia
khác ở trong vùng không nhìn thấy bằng mắt thường. Số lượng các tia tới Trái Đất phụ thuộc
vào độ cao và vị trí địa lý.
Có thể có các bức xạ trên mặt đất từ các nguyên tố phóng xạ trong vỏ trái đất. Các
nguyên tố phóng xạ này bao gồm Kali 40, Radium 224, Radon 222, Thorium 232, Uranium 235,
Uranium 238 và Carbon 14 xuất hiện trong đá, đất và nước.
Cũng có thể có các Nucleotit không ổn định được chia thành các phần nhỏ hơn và
phát ra bức xạ năng lượng có thể xâm nhập vào cơ thể của sinh vật khác thông qua không khí trong quá trình hô hấp.
2.5 Ảnh hưởng của Ô nhiễm phóng xạ
Các bức xạ có trong hạt nhân tạo ra ảnh hưởng nghiêm trọng, có thể gây phá hủy môi
trường sinh sống của con người, động vật cũng như thực vật. Tác hại của phóng xạ còn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như là: môi trường xung quanh, nồng độ của phóng xạ, địa khoảng
cách của phóng xạ đối với người, vật, môi trường bị phơi nhiễm, loại phóng xạ.
Môi trường là nhân tố chịu ảnh hưởng nhiều nhất đối với ô nhiễm phóng xạ. Những
chất phóng xạ khi thoát ra bên ngoài ảnh hưởng trực tiếp đến với toàn bộ môi trường tự nhiên
như: môi trường không khí, môi trường đất, môi trường nước,….
Những chất phóng xạ này làm ảnh hưởng đến điều kiện tự nhiên của môi trường, gây
nên những biến đổi về khí hậu, đặc tính tự nhiên và khiến cho môi trường tự nhiên tác động
trực tiếp đến mọi sinh vật sống trong môi trường đó.
2.5.1 Ảnh hưởng đến không khí
Các nguồn phóng xạ nguy hiểm nhất trong không khí là do các vụ nổ hạt nhân. Các vụ
nổ này tạo ra rất nhiều chất phóng xạ vào không khí làm ô nhiễm không khí và gây hại trực tiếp
cho con người khi hít phải. Ngoài ra, các hoạt động sản xuất trong các nhà máy nhiên liệu hạt
nhân cũng phát tán chất phóng xạ ra môi trường làm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
2.5.2 Ảnh hưởng đến đất
Các hạt nhân phóng xạ tự nhiên thường được sinh ra do sự tương tác các tia vũ trụ.
Mang các bức xạ khác với khí quyển và ngưng đọng lại ở các lớp đất đá. Theo đó các chất
phóng xạ thường được tồn tại trong môi trường đất chủ yếu là các đồng vị nguyên tử. Các lOMoAR cPSD| 59540283
đồng vị này khi trong đất sẽ ngấm vào đất và nguy hiểm hơn việc các thực vật mọc trên đó
cũng sẽ bị nhiễm phóng xạ từ đó đi vào cơ thể động vật trên hiểm cho vật chủ.
2.5.3 Ảnh hưởng đến nước
Nguyên nhân ô nhiễm nguồn nước có thể từ các chất phóng xạ. Theo đó, một số loại
phóng xạ thường được tìm thấy trong nước có nguồn gốc tự nhiên và nhân tạo từ hạt nhân
phóng xạ và các chất thải phóng xạ khác. Các chất phóng xạ này ảnh hưởng đến chất lượng
nước. Ngoài ra, các vật sống dưới nước cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi phóng xạ.
2.5.4 Ảnh hưởng đến sinh vật
Ô nhiễm phóng xạ gây ra những tác hại nghiêm trọng tới sinh vật sống. Phóng xạ hủy
hoại các cơ thể sống. Nó tác động trực tiếp đến các mô tế bào, bẻ gãy cấu trúc phân tử. Theo
đó, gây ra các bệnh ngộ độc phóng xạ, làm biến đổi gen gây ra dị tật bẩm sinh, làm ion hóa và
hủy họa các tế bào và gây ra những đột biến di truyền quan trọng. Những sinh vật bị nhiễm
chất phóng xạ cũng xuất hiện triệu chứng ngộ độc, tàn phế cơ thể, tế bào…
Ngoài ra, ô nhiễm chất phóng xạ ở sinh vật có thể khiến cho sinh vật chết.
2.5.5 Ảnh hướng đến con người
Chất phóng xạ vô cùng nguy hiểm đối với con người, gây nên những ảnh hưởng về sức
khỏe nghiêm trọng và đặc biệt gây biến đổi Gen trong cơ thể. Có 2 loại nhiễm phóng xạ phổ
biến là nhiễm mãn tính và nhiễm cấp tính.
Đối với tình trạng nhiễm cấp tính sẽ gây nên những ảnh hưởng về vấn đề thần kinh,
da, buồn nôn, chóng mặt hay nguy hiểm hơn là tử vong. Còn với trường hợp nhiễm mãn tính
sẽ gây suy nhược cơ thể, suy nhược thần kinh, rối loạn máu,…
Tùy mức độ, liều lượng tiếp xúc mà phóng xạ có thể gây tử vong ngay lập tức hoặc
dẫn đến ung thư da, phổi, máu, tuyến giáp, suy tuyến tiền liệt.
Tất cả chúng ta đều được bảo vệ trong giới hạn an toàn với cả hai nguồn phóng xạ là
tự nhiên (mặt đất, vũ trụ...) và nhân tạo. Trong đó nguồn phóng xạ nhân tạo chiếm khoảng
15% mà phần lớn con người tiếp xúc là trong y học như chụp phim X-quang, CT,... phần nhỏ
từ điện hạt nhân, thử nghiệm vũ khí.
Khi con người bị tác động bởi các bức xạ ion ở mức thấp thì việc gây tác hại không thể
nhận biết ngay được, nên phải sau một thời gian triệu chứng bệnh mới xuất hiện. Tuy nhiên,
với một liều lượng quá lớn so với giới hạn tối đa cho phép thì chỉ sau 7-10 ngày, bệnh sẽ biểu
hiện rõ. Nguy hiểm nhất đối với những người thường xuyên tiếp xúc với các bức xạ ion là dẫn
đến ung thư và có thể dẫn đến tử vong. •
Da, tóc: Rụng tóc, ung thư da. •
Mắt: Đục thủy tinh thể. •
Tuyến giáp: Cường giáp, ung thư tuyến giáp. • Phổi: Ung thư phổi. lOMoAR cPSD| 59540283 •
Tiêu hóa: Buồn nôn, ói mửa, tiêu chảy. •
Thần kinh: Bức xạ phá hủy các tế bào thần kinh và mạch máu nhỏ có thể gây co giật và tử vong. •
Huyết học và miễn dịch: Số lượng tế bào lympho trong máu giảm, dễ bị nhiễm trùng hơn. •
Tim mạch: Làm hủy hoại trực tiếp đến các mạch máu nhỏ có thể gây suy tim và tử vong. •
Sinh dục: Suy chức năng tuyến tiền liệt, tinh hoàn, buồng trứng, ung thư vú. •
Tủy xương: Ảnh hưởng trực tiếp tới tủy xương nơi sản xuất ra các tế bào máu
dẫn tới nguy cơ mắc các bệnh bạch cầu ác tính, ung thư máu.
Bức xạ ion hóa có đủ năng lượng để tác động đến các nguyên tử trong tế bào sống và
làm hỏng vật liệu di truyền (ADN). May mắn thay, các tế bào trong cơ thể hoạt động hiệu quả
trong việc sửa chữa tổn thương. Tuy nhiên, nếu tổn thương không được sửa chữa một cách
chính xác, một tế bào có thể chết hoặc trở thành ung thư.
Tiếp xúc với mức độ bức xạ rất cao, chẳng hạn như ở gần một vụ nổ nguyên tử, có thể
gây ra các ảnh hưởng sức khỏe cấp tính như bỏng da và hội chứng bức xạ cấp tính hoặc dẫn
đến các ảnh hưởng sức khỏe lâu dài như ung thư và bệnh tim mạch. Tuy nhiên, tiếp xúc với
mức độ bức xạ thấp gặp phải trong môi trường không gây ra ảnh hưởng sức khỏe nghiêm
trọng nhưng là một yếu tố góp phần nhỏ vào nguy cơ ung thư tổng thể.
2.6 Sự kiện nổi bật •
Thảm họa nguyên tử Chernobyl xảy ra vào Thứ 7, ngày 26 tháng 4 năm
1986 khi nhà máy điện nguyên tử Chernobyl ở Pripyat, Ukraina (khi ấy còn là một phần
của Liên bang Xô Viết) bị nổ tại lò phản ứng số 4. Đây được coi là vụ nổ hạt nhân trầm
trọng nhất trong lịch sử năng lượng hạt nhân về cả chi phí và thương vong. Do không
có tường chắn, đám mây bụi phóng xạ từ nhà máy lan rộng ra nhiều vùng phía tây Liên
bang Xô Viết, Đông Âu và Tây Âu,…. Nhiều vùng rộng lớn ở Nga và Ukraina, Belarus bị
ô nhiễm nghiêm trọng, dẫn tới việc pahỉ sơ tán và tái định cư cho hơn 336.000 người.
Một bản báo cáo năm 2005 do Hội nghị Chernobyl, dưới quyền lãnh đạo của Cơ quan
Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), đưa ra cho rằng
có 56 người chết ngay lập tức; 47 công nhân và 9 trẻ em bị ung thư tuyến giáp và ước
tính rằng có khoảng gần 9000 người, trong số gần 6.6 triệu cuối cung sẽ chết vì một bệnh ung thư nào đó.
Theo báo cáo của IAEA vào năm 1993, sau vụ tai nạn Chernobyl 6 năm, các nông trại
tại một vùng núi của Na-uy nơi cách nhà máy Chernobyl hơn 1000 km vẫn còn phát
hiện trong thịt của tuần lộc nuôi với mức phóng xạ là 20.000 Bq/kg, cừu 10.000 Bq/kg.
Sự kiện này đã được dựng thành phim có tên là Thảm họa Chernobyl. lOMoAR cPSD| 59540283 •
Đảo san hô Bikini (Thuộc quần đảo Marshall) : Từ một hòn đảo xinh đẹp
trở thành địa danh chết chóc. Nó từng là bãi thử hạt nhân kinh hoàng của Mỹ cách đây
7 thập kỷ và ngày nay ô nhiễm, chết chóc vẫn còn hiện diện. •
Trận động đất sóng thần ngày 11 tháng 3 năm 2011 ở
Nhật đã làm cho nhiều nhà máy phát điện ngừng hoạt động. Ít nhất 3 vụ nổ lò phản
ứng do sự tích tụ khí Hyđro khi hệ thống làm mát của các lò phản ứng bị hỏng. Tính
đến ngày 14 tháng 3 có khoảng 160 người đã tiếp xúc với phóng xạ ở mức nguy hiểm
gần các nhà máy điện hạt nhân.
Sóng thần đã gây ra 2 vụ nổ lớn tại nhà máy Fukushima I gây rò rỉ phóng xạ. Cơ quan
an toàn hạt nhân và công nghiệp Nhật Bản báo rằng mức độ phóng xạ bên trong nhà
máy gấp 1000 lần mức bình thường và mức độ phóng xạ bên ngoài nhà máy gấp 8 lần mức bình thường.
Sau vụ nổ lò phản ứng số 4 gây rung chuyển khu vực nhà máy Fukushima I mức độ
phóng xạ đo được gần lò phản ứng là 400 msv/giờ, trong khi 100msv/năm được coi là mức an toàn.
Tại vùng biển ngoài khơi Fukushima , cá nhiễm chất phóng xạ gấp 5 lần lượng cho phép.
Ngày 6 tháng 8 năm 1945, quả bom nguyên tử thứ nhất mang tên "Little Boy"
đã được thả xuống thành phố Hiroshima, Nhật Bản. Sau đó 3 hôm, ngày 9 tháng 8 năm
1945, quả bom thứ hai mang tên "Fat Man" đã phát nổ trên bầu trời thành phố Nagasaki.
Trong bán kính 2km từ tâm nổ, 40% cư dân chết ngay lập tức, 56,5% chết trong vòng 4
tháng sau đó - vào cuối tháng 11. Trong 2 tuần đầu tiên, những người bị bỏng nặng và
bị liều lượng lớn phóng xạ bị chết. Trong 10 ngày, nhiều người chết vì sốt, tiêu chảy và
nôn ra máu - dấu hiệu phơi nhiễm phóng xạ. Những người còn sống bị rụng tóc, tổn
thương thanh quản, mệt mỏi, bệnh bạch cầu. Những người sống sót tiếp tục chết trong
tương lai do bị bệnh ung thư. Cơ thể của những người sống sót chi chít những vết sẹo
lồi xấu xí do bỏng diện rộng. Trẻ sơ sinh bị chiếu xạ trong bụng mẹ, khi sinh ra sẽ mang các dị tật lớn.
Nhiều dị thường xuất hiện 20-40 năm sau vụ nổ hạt nhân. Ở khoảng cách lên tới 19km,
tất cả các cửa sổ trong nhà đều bị vỡ; các mảnh kính xuyên qua cơ thể người với tốc
độ 800km/h. Tất cả các ngôi nhà bị thiêu rụi, con người bị thiêu chết trong đau đớn.
Nagasaki bị ảnh hưởng ít hơn một chút do những ngọn đồi xung quanh và một khu
công nghiệp rộng lớn không có người ở. Mặc dù công suất của quả bom cao hơn, nhưng
thiệt hại ít hơn, 60.000-80.000 cư dân bị chết. 2.7 Giải pháp
Chất thải phóng xạ gồm hai loại – mức độ cao, mức độ thấp. Chúng chủ yếu đến từ
vũ khí quân sự, vật liệu làm sạch từ các nhà máy hạt nhân, các cơ sở quân sự, thải ra từ quá
trình xử lý Plutonium và các đồng vị phóng xạ khác từ các bệnh viện và phòng thí nghiệm. lOMoAR cPSD| 59540283
Việc xử lý và tiêu hủy chất thải hạt nhân có thể tạo ra bức xạ từ thấp đến trung bình
trong thời gian dài. Tác động của chúng không chỉ khó dự đoán mà còn khó nhận biết vì phóng
xạ có thể gây ô nhiễm và lan truyền qua không khí, nước và đất. Mặt khác, việc xác định vị trí
của một số chất thải hạt nhân là không hề đơn giản.
Vấn đề chính của chất thải bức xạ là không thể bị phân hủy hoặc xử lý về mặt hóa học
hoặc sinh học. Các lựa chọn duy nhất là được lưu chứa trong các thùng kín có che chắn bằng
vật liệu bảo vệ bức xạ (chẳng hạn như Pb) hoặc pha loãng chất thải đó.
Ngoài ra, chất thải bức xạ có thể lưu trữ ở những vùng xa xôi có ít hoặc không có sự
sống. Tuy nhiên, bất kỳ tấm lá chắn tự nhiên hay nhân tạo đều sẽ bị hư hỏng theo thời gian, vì
vậy các hoạt động xử lý chất thải bức xạ cần được xác định cẩn thận và áp dụng các biện pháp hạn chế kịp thời.
Ở các vùng gần nhà má điện nguyên tử hoạt động. Hoặc có các hoạt động liên quan
đến chất phóng xạ, bức xạ. Người dân nên được sơ tán, đeo khẩu trang, mặc quần áo kín
người. Đặc biệt là không nên sử dụng nước ở các khu vực này. Những thực phẩm có nguồn
gốc từ vùng này cũng không nên sử dụng,…
Hạn chế hoặc ngưng sử dụng các chết phóng xạ trong quân sự. Đặc biệt là các loại vũ
khí hạt nhân. Đồng thời hạn chế khai thác các mỏ quặng phóng cạ. Nếu có, phải có những thiết bị phòng hộ.
Các cơ sở sản xuất trong nông nghiệp, công nghiệp hay lâm nghiêp, GTVT, các cơ sử
nghiên cứu khoa học khi sử dụng các chất phóng xạ phải thực hiện nghiêm ngặt quy định an toàn hạt nhân.
Việc sử dụng các tia phóng xạ trong y học cần được đảm bảo an toàn theo những quy chuẩn nhất định. 3. KẾT LUẬN
Ta có thể thấy ô nhiễm phóng xạ là vấn đề nan giải của tình hình thế giới hiện nay. Trên
đây là những nguyên nhân và tác hại của chất phóng xạ ảnh hưởng đến đời sống con người,
sinh vật và môi trường tự nhiên. Chất phóng xạ vô cùng nguy hiểm và gây nên những tác hại
to lớn. Tuy một thời gian dài đã trôi qua nhưng hậu quả nó để lại hiện nay vẫn rất nghiêm
trọng. Mặc dù di tản dân cư khỏi vùng bị ô nhiễm nhưng hậu quả để lại việc làm sạch môi
trường đất, môi trường nước và khu vực ô nhiễm vẫn cần rất nhiều thời gian và thậm chí là
không thể làm sạch. Do đó mọi người cần lưu ý và có những biện pháp phòng tránh đặc biệt.
Tài liệu tham khảo: Wikipedia.com Eco248.com lOMoAR cPSD| 59540283 Sosmoitruong.com Newlight.com Aqualight.vn Moitruonghopnhat.com
Ghi chú: Báo cáo được đọc và phê chuẩn cuối cùng bởi các thành viên tham gia. Mức
độ đóng góp của các thành viên tham gia báo cáo này như sau:
1. Phan Nguyễn Quỳnh Châu: 12.5%
2. Trần Ngọc Thiên Phú: 12.5%
3. Ngô Thị Thảo Ngân: 12.5%
4. Nguyễn Thị Trà My: 12.5%
5. Lê Thị Thanh Tâm: 12.5% 6. Lê Thị Kim Chi: 12.5%
7. Nguyễn Thị Thu Thảo: 12.5%
8. Trần Thị Yến Nhi: 12.5%