



















Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN 
KHOA QUAN HỆ QUỐC TẾ    o0o      TIỂU LUẬN 
MÔN: NGHIỆP VỤ NGOẠI GIAO VÀ VĂN PHÒNG ĐỐI NGOẠI   
Đề 2: Áp dụng kiến thức về ngoại giao và nghiệp vụ ngoại giao để phân tích 
ba sự kiện sau trong quan hệ quốc tế và rút ra những kết luận liên quan 
 Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Thu Hà   Lớp: QHCT&TTQT K40   Nhóm sinh viên:    STT  MSSV  HỌ VÀ TÊN  1  2056110049 
Trần Thùy Trang (nhóm trưởng)  2  2056110020  Nguyễn Thu Hương  3  2056110034  Nguyễn Phương Nhi   
 Hà Nội, tháng 12 năm 2022    MỤC LỤC   
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 2 
NỘI DUNG ........................................................................................................... 3 
I. Đại sứ LB Nga tại Balan bị những người biểu tình phản đối chiến tranh ở 
Ukraine tấn công và tạt siro đỏ vào mặt nhân sự kiện ông cùng các cán bộ ngoại 
giao của Đại sứ quán đến đặt vòng hoa tại nghĩa trang tưởng niệm các chiến sĩ 
Liên Xô hy sinh trong Thế chiến II ở thủ đô Warsaw hôm 9-5. ........................... 3 
II. Palestine khởi kiện Mỹ ra Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) liên quan đến việc 
Mỹ di chuyển trụ sở đại sứ quán của nước này tại Israel từ Tel Aviv đến 
Jerusalem. .............................................................................................................. 8 
III. Tháng 7/2014, Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị tới thăm Mỹ 
và đã tặng Thượng Nghị sĩ John Mccain món quà đặc biệt (tấm ảnh ghi lại tấm 
bia tại đường Thanh Niên bên hồ Trúc Bạch, Hà Nội). ...................................... 13 
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 21 
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. .22                        1    MỞ ĐẦU 
Trong bối cảnh quan hệ quốc tế ngày càng rộng mở và phức tạp, ngoại giao 
càng thể hiện vai trò hết sức quan trọng trong việc gìn giữ, bảo vệ và xây dựng 
đất nước. Ngoại giao không chỉ là lĩnh vực thuộc quan hệ chính trị quốc tế, mà 
đã vươn tầm với của mình tác động đến hầu hết các lĩnh vực khác trong mối quan 
hệ giữa các quốc gia, dân tộc, giữa các khu vực và các tổ chức trên thế giới. Trong 
bối cảnh đó, quốc gia muốn phát triển thì không thể tồn tại một cách riêng lẻ, tách 
rời khỏi đời sống cộng đồng quốc tế. Các hoạt động ngoại giao trở nên hết sức 
phong phú và sôi động. Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, sinh 
viên khoa Quan hệ quốc tế ngày càng cần được trang bị và nâng cao kiến thức 
tổng hợp về mọi mặt, trong đó có kiến thức về ngoại giao và nghiệp vụ ngoại 
giao. Việc nhận thức đúng về bản chất ngoại giao và vận dụng thành công các 
nghiệp vụ ngoại giao là yêu cầu cần thiết và quan trọng. Dựa trên kiến thức về 
ngoại giao và nghiệp vụ ngoại giao, nhóm chúng tôi phân tích 3 trường hợp cụ  thể.      2    NỘI DUNG 
I. Đại sứ LB Nga tại Balan bị những người biểu tình phản đối chiến tranh 
ở Ukraine tấn công và tạt siro đỏ vào mặt nhân sự kiện ông cùng các cán bộ 
ngoại giao của Đại sứ quán đến đặt vòng hoa tại nghĩa trang tưởng niệm các 
chiến sĩ Liên Xô hy sinh trong Thế chiến II ở thủ đô Warsaw hôm 9-5. 
1. Khái quát sự kiện 
Ngày 9/5 (ngày Chiến thắng phát xít) hằng năm là ngày Nga kỷ niệm chiến thắng 
của nhân dân Liên Xô trong cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại (1941-1945), đánh 
dấu sự thất bại của Đức Quốc xã và các nước phát xít đồng minh. Đại sứ Nga 
Sergey Andreev đã bị những người phản đối cuộc chiến của Nga ở Ukraine chen 
lấn, xô đẩy và tạt sơn đỏ khi ông định đặt hoa tại Nghĩa trang Quân đội Liên Xô 
ở Warsaw. Cảnh sát Ba Lan sau đó đã hộ tống ông Andreev rời khỏi sự kiện. Đại 
sứ Andreev nói với Hãng tin Tass rằng ông và nhóm của ông không bị thương 
nghiêm trọng nhưng ông sẽ có phản đối chính thức. "Khi họ đề xuất chúng tôi 
không tổ chức sự kiện lớn, chúng tôi đã chấp nhận. Chúng tôi không muốn làm 
tình hình xấu đi", ông Andreev cho biết. 
Ba Lan sau đó hủy mọi lễ kỷ niệm Ngày chiến thắng chính thức. Sau khi sự cố 
xảy ra Phía Nga đã kịch liệt chỉ trích giới chức Ba Lan về vụ việc, đồng thời họ 
đề nghị phía Ba Lan củng cố và tăng cường an ninh cho các nhà ngoại giao của 
Nga. Tại thời điểm đó, phía Ba Lan không đưa ra bất cứ bình luận gì về sự cố  này.  3     
Đại sứ Nga Sergey Andreev bị tạt sơn ở Warsaw, Ba Lan, ngày 9-5 
2. Phản ứng của hai quốc gia sau sự kiện   - Về phía Ba Lan: 
Ngoại trưởng Ba Lan chỉ trích vụ tạt sơn Đại sứ Nga Andreev, song Bộ 
trưởng Nội vụ Ba Lan nói có thể hiểu cảm xúc của người biểu tình. “ Các nhà 
ngoại giao phải được hưởng sự bảo vệ đặc biệt, bất kể các chính sách mà chính 
phủ của họ theo đuổi”, Ngoại trưởng Ba Lan Zbigniew Rau lên tiếng sau khi Đại 
sứ Nga Sergei Andreev bị tạt sơn đỏ ở thủ đô Warsaw hôm 9/5, gọi đây là sự việc 
"vô cùng tệ hại". Bộ Nội vụ Ba Lan cũng nói rằng đã cảnh báo các nhà ngoại giao 
Nga không nên đến sự kiện kỷ niệm ngày 9-5. 
Tuy nhiên, phát ngôn viên chính phủ Ba Lan Piotr Muller hôm 10/5 cho 
biết "có thể hiểu được" sự tức giận của những người biểu tình tấn công Đại sứ 
Nga Andreev và "không có lý do gì để chỉ trích hành vi của họ".  4   
Người phát ngôn nói thêm Nga nên tránh khơi gợi những cảm xúc giận dữ 
như vậy. Bộ trưởng Nội vụ Ba Lan Mariusz Kaminski cũng đăng trên Twitter 
rằng "cuộc tập hợp của những người phản đối chiến dịch quân sự của Nga tại 
Ukraine là hoàn toàn hợp pháp. Cảm xúc của những phụ nữ Ukraine tham gia 
biểu tình, những người có chồng đang chiến đấu để bảo vệ tổ quốc, là điều dễ  hiểu". 
Bộ trưởng Nội vụ Ba Lan nói thêm giới chức nước này trước đó đã cảnh 
báo Đại sứ Nga Andreev không nên tới đặt vòng hoa tại nghĩa trang chiến sĩ Liên  Xô ở Warsaw hôm 9/5.    -  Về phía Nga 
Sau khi Đại sứ Andreev bị tạt sơn đỏ, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Nga 
Maria Zakharova đã lên án hành động này và nói rằng "những kẻ ái mộ chủ nghĩa 
tân phát xít lại cho thấy bộ mặt của mình".Bộ Ngoại giao Nga yêu cầu Warsaw 
tổ chức lại lễ tưởng niệm khác ngay lập tức và phải bảo vệ tuyệt đối phái đoàn 
ngoại giao Nga trước các khiêu khích. 
"Như tôi đã từng nói, chúng tôi sẽ không bị uy hiếp. Cư dân châu Âu hẳn 
phải cảm thấy tồi tệ khi soi mình trong gương", phát ngôn viên Zakharova nói  thêm. 
Quan hệ giữa Moskva và Warsaw đang căng thẳng vì chiến dịch quân sự 
của Nga tại Ukraine. Ba Lan, nước láng giềng ở phía tây của Ukraine, là bên dẫn 
đầu những lời kêu gọi Liên minh châu Âu (EU) tăng trừng phạt Moskva và kêu 
gọi NATO cung cấp vũ khí cho Ukraine để chống lại lực lượng Nga. 
Phát ngôn viên Điện Kremlin Peskov trước đó đã cáo buộc Ba Lan có thể 
là mối đe dọa tiềm tàng với "sự toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine". Phó chủ tịch Hội  5   
đồng An ninh Nga Dmitry Medvedev hồi tháng 3 cảnh báo Ba Lan sẽ phải trả giá 
đắt vì "hội chứng bài Nga". 
2.Phân tích và đánh giá  
a. Một số vấn đề chung về đặc quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao 
Thông qua sự kiện trên, ta có thể thấy Ba Lan đã không đảm bảo được đặc 
quyền bất khả xâm phạm thân thể của Đại sứ Andreev. Đây là sự đảm bảo cốt 
yếu của viên chức ngoại giao. Có thể nói đây là quyền tối thiểu mà nước tiếp nhận 
(Ba Lan) dành cho các nhà ngoại giao để họ có đầy đủ điều kiện cần thiết thực 
hiện chức năng đại diện lợi ích quốc gia của họ. Về nội dung, trước hết việc không 
bị bắt giữ, giam cầm, ngược đãi, không bị xúc phạm đến danh dự, phẩm cách 
dưới bất kỳ hình thức nào. 
Trong đó là điều 29, Công ước Viên 1961 đã xác định rõ đặc quyền này: 
+ Viên chức ngoại giao được hưởng quyền bất khả xâm phạm thân thể, 
được bảo vệ danh dự, uy tín trong mọi lúc mọi nơi 
+ Nước tiếp nhận phải đối xử trọng thị và có biện pháp để ngăn chặn mọi 
hành vi xúc phạm đến thân thể, tự do của họ. 
Về nguyên tắc, đặc quyền này nhằm tạo điều kiện thuận lợi để các nhà 
ngoại giao thực hiện nhiệm vụ mà không gặp bất kỳ sự cản trở nào; đặc quyền 
này có hiệu lực tính từ khi nhà ngoại giao đến nước tiếp nhận, kéo dài suốt nhiệm 
kỳ công tác, tồn tại ngay cả khi cắt đứt quan hệ ngoại giao, trong tình trạng chiến 
tranh và trong suốt thời gian quá cảnh nước thứ ba (Điều 39). 
Thực tiễn các hoạt động ngoại giao cho thấy, các quy định quốc tế về quyền 
bất khả xâm phạm thân thể đều được các nước tôn trọng, áp dụng, nhưng vẫn có  6   
nhiều vụ vi phạm đã gây quan hệ xấu cho quan hệ hai nước, điển hình là vụ việc  trên.  b. 
Phân tích đánh giá 
Thông qua vụ việc Đại sứ Liên Bang Nga tại Ba Lan bị những người biểu tình 
phản đối chiến tranh ở Ukraine tấn công và tạt siro đỏ vào mặt nhân sự kiện ông 
cùng các cán bộ ngoại giao của Đại sứ quán đến đặt vòng hoa tại nghĩa trang 
tưởng niệm các chiến sĩ Liên Xô hy sinh trong Thế chiến II ở thủ đô Warsaw hôm 
9-5, ta có thể thấy Ba Lan đã chưa đảm bảo được quyền bất khả xâm phạm thân 
thể cho Đại sứ Andreev. Không những vậy, sự kiện trên còn làm căng thẳng thêm 
mối quan hệ ngoại giao giữa Nga và Ba Lan. 
- Đề xuất cách giải quyết: 
Đề xuất giải quyết vấn đề trên bằng biện pháp tiếp xúc ngoại giao. Một trong hai 
nước có thể chủ động tiếp xúc để làm rõ quan điểm chủ trương của nước mình 
hay đề xuất biện pháp hòa giải sau căng thẳng vừa xảy ra.      7   
II. Palestine khởi kiện Mỹ ra Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) liên quan đến 
việc Mỹ di chuyển trụ sở đại sứ quán của nước này tại Israel từ Tel Aviv đến  Jerusalem. 
1. Vấn đề tranh chấp giữa Israel và Palestine về khu Jerusalem 
Nhìn về lịch sử, Jerusalem đã bị tranh giành trong cả nghìn năm bởi các cư 
dân của nó, bởi các quyền lực trong vùng và những kẻ xâm lăng. Nó cũng là vùng 
đất thiêng liêng của Do Thái giáo, Cơ đốc giáo, và Hồi giáo, và mỗi tôn giáo đều 
có các di tích với ý nghĩa tôn giáo lớn lao ở đó. 
Chính quyền Israel khẳng quyết rằng, Jerusalem là thủ đô vĩnh cửu và bất 
khả phân chia của người Do Thái, trong khi Palestine cũng quyết đoán không 
kém, nói rằng Khu Đông Jerusalem phải là thủ đô của một Nhà nước Palestine  trong tương lai. 
Trung tâm thành cổ của Jerusalem là nơi có Khu Mộ Chúa của người Cơ 
đốc, cũng như có Vòm Đá của Hồi giáo. Di tích còn sót lại sau hàng nghìn năm 
của Do Thái là Bức Tường Than Khóc, nơi cầu nguyện và nhắc nhở dân Do Thái 
về nạn mất nước và nguy cơ diệt vong. Đây đều là các di tích quan trọng bậc nhất 
của cả ba tôn giáo lớn trên thế giới: Do Thái giáo, Cơ đốc giáo và Hồi giáo. 
Thành phố là địa điểm hành hương của các tín đồ Cơ đốc giáo, tôn kính nó 
như địa điểm mà họ tin tưởng rằng là nơi Chúa Jesus đã thuyết giáo, mất đi và  phục sinh. 
Vào năm 1947, Đại Hội đồng Liên hợp quốc đã quyết định rằng vùng đất 
Palestine khi đó do người Anh cai trị phải được phân chia thành một quốc gia Ả 
Rập và một quốc gia Do Thái. Nhưng Liên hợp quốc đã nhìn nhận Jerusalem có 
một quy chế độc lập và đề nghị đặt thành phố này dưới một sự quản trị quốc tế, 
cùng với thành phố Bethlehem cạnh đó, như một “bộ phận tách biệt” sẽ được 
quản trị bởi Liên hợp quốc. 
Điều đó đã không hề xảy ra, khi sự cai trị của Anh chấm dứt vào năm 1948, 
các lực lượng Jordan đã chiếm đóng Thành Cổ và khu Đông Jerusalem. Israel đã  8   
chiếm đoạt khu Đông Jerusalem từ Jordan trong cuộc chiến tại Trung Đông năm 
1967 và đã sáp nhập nó. Thành phố Jerusalem từ đó nằm dưới quyền kiểm soát  của Israel. 
Năm 1980, quốc hội Israel đã thông qua một đạo luật tuyên bố toàn thể 
thành phố Jerusalem thống nhất là thủ đô của Do Thái, nhưng Liên hợp quốc vẫn 
coi Khu đông Jerusalem bị chiếm đóng phi pháp, và tình trạng pháp lý của thành 
phố sẽ còn gây tranh cãi cho đến khi được giải quyết bằng các cuộc thương thảo  giữa Israel và Palestine. 
Các cuộc đàm phán Palestine-Israel đã bị ngừng trệ từ tháng tư năm 2014 
mà không đạt được bất kỳ kết quả đáng kể nào sau 9 tháng của cuộc đàm phán do 
Mỹ và châu Âu bảo trợ vì Israel từ chối ngừng hoạt động ở các khu định cư hay 
chấp nhận biên giới 1967 làm cơ sở để đàm phán và thả các tù nhân của Palestine 
trong các nhà tù của Israel. 
Đỉnh điểm, tiến trình hòa bình càng bế tắc vào ngày 7/5/2018, Hoa Kỳ loan 
báo sẽ mở tòa đại sứ mới tại Israel ở Jerusalem, một động thái làm Israel hoan hỉ 
và làm cho người Palestine tức giận. 
2. Quá trình xảy ra xung quanh Palestine khởi kiện Mỹ ra Tòa án 
Công lý Quốc tế (ICJ) 
Vào ngày 28/9/2018, thông báo của ICJ cho biết Palestine đã tiến hành các 
thủ tục kiện Mỹ lên ICJ, cơ quan pháp lý chính của Liên Hợp Quốc (LHQ), với 
cáo buộc Mỹ vi phạm Công ước Vienna ngày 18/4/1961 về quan hệ ngoại giao, 
trong đó Công ước yêu cầu các nước chỉ đặt đại sứ quán trong lãnh thổ của nước  đối tác ngoại giao. 
Tuy nhiên, quy chế Jerusalem cho tới nay vẫn là điểm gây tranh cãi trong 
cuộc xung đột Israel-Palestine. Theo thông báo của ICJ, phía Palestine cáo buộc 
Mỹ vi phạm hiệp ước quốc tế và yêu cầu Washington phải rút Đại sứ quán ra khỏi  Jerusalem. 
Vấn đề quy chế của thành phố Jerusalem lâu nay là chủ đề đặc biệt nhạy 
cảm và là trung tâm của cuộc xung đột Israel-Palestine. Israel chiếm đóng khu  9   
vực Đông Jerusalem trong cuộc chiến năm 1967, sau đó sáp nhập vùng đất này 
và tuyên bố toàn bộ thành phố Jerusalem là thủ đô không thể chia cắt của Israel. 
Cộng đồng quốc tế không công nhận chủ quyền của Israel đối với Đông 
Jerusalem, trong khi người Palestine luôn xác định Đông Jerusalem là thủ đô của 
Nhà nước Palestine trong tương lai. Do đó, việc Mỹ công nhận Jerusalem là thủ 
đô của Israel và chuyển Đại sứ quán Mỹ từ Tel Aviv tới Jerusalem hồi tháng 5 
vừa qua đã trở thành tâm điểm của giới truyền thông và chính trị trên toàn thế  giới. 
Động thái trên được đưa ra trong bối cảnh ngày 26/9/2018, Tổng thống Mỹ 
Donald Trump bày tỏ mong muốn một giải pháp hai nhà nước để giải quyết cuộc 
xung đột Israel-Palestine, đồng thời cho biết sẽ đưa ra kế hoạch hòa bình Trung 
Đông trong những tháng tới. Đây là lần đầu tiên Tổng thống Donald Trump tuyên 
bố ủng hộ giải pháp 2 nhà nước, theo đó, thành lập một nhà nước Palestine độc  lập. 
Tuy nhiên, phía Palestine cho rằng các chính sách của Nhà Trắng đang phá 
vỡ hy vọng hòa bình, và việc Tổng thống Trump mới chỉ đưa ra tuyên bố là chưa 
đủ để đưa Palestine quay lại bàn đàm phán. Đáp lại thông điệp trên của Tổng 
thống Trump, Tổng thống Palestine Mahmoud Abbas nêu rõ người Palestine sẽ 
không chấp nhận Mỹ đóng vai trò là trung gian hòa giải duy nhất trong tiến trình  hòa bình Trung Đông. 
Với cáo buộc chính phủ “đầy thành kiến” của Tổng thống Mỹ Donald 
Trump đang hủy hoại giải pháp hai nhà nước, Tổng thống Palestine chỉ trích "ông 
chủ Nhà Trắng" nghiêng hẳn về Israel kể từ khi lên nắm quyền, xóa bỏ mọi cam 
kết của các chính phủ Mỹ tiền nhiệm, và không thực sự quan tâm tới vấn đề nhân 
đạo của người dân Palestine. 
Ông đặc biệt lên án quyết định của nhà lãnh đạo Mỹ công nhận Jerusalem 
là thủ đô của Israel, đóng cửa văn phóng phái bộ ngoại giao của Tổ chức Giải 
phóng Palestine (PLO) tại Washington và cắt viện trợ cho Palestine, gây ảnh 
hưởng tới hàng triệu người tị nạn Palestine.  10   
3. Nội dung tranh chấp tranh chấp được đề trịnh của Palestine  
Theo Công ước Vienna về quan hệ ngoại giao năm 1961, nhiệm vụ của nhà 
nước khi gửi đại diện ngoại giao phải nằm trong lãnh thổ của đất nước tiếp nhận 
đại diện đó. Do đó, quan điểm của Palestine thể hiện rõ "việc di dời Đại sứ quán 
Mỹ tại Israel từ Tel Aviv đến Jerusalem là vi phạm Công ước Vienna" 
Với quan điểm này, Palestine yêu cầu Tòa án Tư pháp quốc tế thấy rõ sự 
vi phạm của Mỹ và đưa ra quyết định buộc Mỹ phải triệu hồi Đại sứ ngoại giao 
của mình ra khỏi Jerusalem nhằm tuân thủ các nghĩa vụ quốc tế theo Công ước  Vienna. 
Trong đơn kiện của mình, Palestine dẫn hai công hàm gửi đến Mỹ liên quan 
đến việc di chuyển đại sứ quán đến Jerusalem có nhắc đến Công ước Viên năm 
1961. Công hàm ngày 14/05/2018 của Palestine gửi Bộ Ngoại giao Mỹ xem hành 
động của Mỹ là vi phạm Công ước Viên năm 1961. Công hàm ngày 04/07/2018 
thông báo cho Bộ Ngoại giao Mỹ về việc đang có tranh chấp giữa hai nước theo 
Điều I và II của Nghị định thư tùy chọn liên quan đến giải thích và áp dụng Công  ước Viên. 
Palestine đã có thông báo gửi trực tiếp đến Mỹ đề cập đế tranh chấp liên 
quan đến giải thích và áp dụng Công ước Viên năm 1961. Đặc biệt là công hàm 
ngày 04/07/2018 thông báo rõ ràng, không mập mờ về sự tồn tại một tranh chấp 
như thế. Nội dung tranh chấp theo đơn kiện mà Palestine đệ trình liên quan đến 
nội hàm của các quy định của Công ước Viên năm 1961 – nội hàm của cụm từ “ở 
nước tiếp nhận” sử dụng trong Công ước có được hiểu là đại sứ quán của một 
nước phải ở trong lãnh thổ của nước tiếp nhận hay không. 
Palestine cho rằng Jerusalem có quy chế pháp lý quốc tế đặc biệt theo các 
nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc. Nghị quyết 181(II) năm 1947 khẳng 
định “Thành phố Jerusalem được xác lập như một thực thể riêng biệt với quy chế 
quốc tế đặc biệt.” Điều đó có nghĩa là Jerusalem không là một phần lãnh thổ của 
Israel. Do đó, việc Mỹ di chuyển đại sứ quán của mình tại Israel đến Jerusalem 
đã vi phạm các quy định của Công ước Viên năm 1961.  11   
Các quy định của Công ước Viên năm 1961 sử dụng cụm từ “ở quốc gia 
tiếp nhận” (in the receiving State) ở nhiều điều khoản, ví dụ như Điều 3 về chức 
năng của phái đoàn ngoại giao là đại diện cho quốc gia ở quốc gia tiếp nhận. Theo 
đó, rõ ràng rằng chức năng đại diện của phái đoàn ngoại giao (và hai chức năng 
khác trong năm chức năng theo Điều 3 phải được thực hiện trên lãnh thổ của quốc 
gia tiếp nhận. Điều 3 nêu trên quy định nguyên văn rằng: 
“1. Các chức năng của một phái đoàn ngoại giao bao gồm : 
+ Đại diện quốc gia gửi ở quốc gia tiếp nhận; 
+ Bảo vệ lợi ích của quốc gia gửi và của công dân của mình ở quốc 
gia tiếp nhận trong khuôn khổ cho phép của luật quốc tế; 
+ Đàm phán với Chính phủ quốc gia tiếp nhận; 
+ Thu thập bằng các biện pháp hòa bình các điều kiện và tình hình 
phát triển ở quốc gia tiếp nhận, và báo cáo về cho Chính phủ quốc gia gửi; 
+ Thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa quốc gia gửi và quốc gia tiếp 
nhận, và phát triển quan hệ kinh tế, văn hóa và khoa học giữa hai nước.” 
Theo Palestine, cụm từ “ở quốc gia tiếp nhận” còn được sử dụng ở 12 điều 
khoản khác của Công ước, và điều này cho thấy phái đoàn ngoại giao của một 
quốc gia phải được thành lập trên lãnh thổ của quốc gia tiếp nhận. Hơn nữa, Điều 
21 cũng quy định quốc gia tiếp nhận sẽ tạo điều kiện cho phái đoàn ngoại giao 
mua trụ sở trên lãnh thổ của mình (on its territory). Tóm lại, Palestine cho rằng 
Jerusalem không phải là lãnh thổ của Israel, mà Công ước Viên năm 1961 lại yêu 
cầu phái đoàn ngoại giao của một nước phải được thành lập trên lãnh thổ của 
quốc gia tiếp nhận, do đó, việc Mỹ di chuyển đại sứ quán của mình tại Israel đến 
Jerusalem đã vi phạm Công ước trên.      12   
III. Tháng 7/2014, Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị tới thăm 
Mỹ và đã tặng Thượng Nghị sĩ John Mccain món quà đặc biệt (tấm ảnh ghi 
lại tấm bia tại đường Thanh Niên bên hồ Trúc Bạch, Hà Nội). 
1.Tổng quan về quà tặng trong lễ tân ngoại giao 
1.1. Ý nghĩa của việc tặng quà trong ngoại giao 
Quà tặng là sự kết tinh của một mối quan hệ, thay cho bao điều muốn nói, 
thể hiện tấm lòng cũng như văn hóa, thái độ của người tặng. Tặng quà không hẳn 
chỉ là vấn đề tuân theo những quy ước của phép lịch sự. “Một hình ảnh có giá trị 
bằng cả ngàn lời nói, một đồ vật có giá trị không kém một bài diễn văn” 
Trong ngoại giao, một môi trường luôn đòi hỏi tính tuyệt đối, quà tặng 
cũng trở thành một thứ không thể thiếu. Đó là thông điệp cuối cùng người nhận 
mang về, là một thứ vũ khí kỳ diệu, kéo dài những giây phút đẹp đẽ và tạo bệ 
phóng cho mối quan hệ bền chặt trong tương lai. Cho đến nay, câu ngạn ngữ “Quà 
tặng duy trì tình bạn” vẫn còn nguyên giá trị của nó. 
1.2. Cách thức chọn quà, tặng quà 
Để quà tặng được lưu giữ lâu dài, để lại ấn tượng trong lòng người nhận 
thì người tặng phải hết sức khéo léo từ chọn quà, thời gian tặng, cách tặng, đến 
cả cách đóng gói quà. Quà tặng ý nghĩa không nhất thiết phải cầu kỳ và đắt tiền, 
mà quan trọng hơn hết, người tặng phải đủ tinh tế để hiểu người nhận. Món quà 
vừa phải hợp với lòng người nhận, vừa thể hiện lòng người tặng. 
Trong ngoại giao, việc tặng quà thường phải được nghiên cứu kỹ. Theo 
Mary Mel French – Phụ trách Lễ tân của Bộ Ngoại giao Mỹ, thì để lựa chọn được 
một món quà phù hợp, cần chú ý các nguyên tắc sau: 
- “Occasion”: tặng nhân dịp gì 
- “Background”: tìm hiểu kỹ lý lịch của người nhận 
- “Sources”: tìm hiểu qua các nguồn khác nhau: sách, báo, internet, chánh 
văn phòng, thứ trưởng, cơ quan đại diện ngoại giao, thư ký riêng... 
- “Elegance”: cần đảm bảo yếu tố tinh tế  13   
- “Creativity”: có tính sáng tạo 
Có hai cách tặng quà: trực tiếp và gián tiếp. Cách thức tặng quà kín đáo 
nhất là gửi quà đến phòng khách sạn hoặc tại nơi ở của khách trước khi khách tới. 
Khi đến, khách cũng có thể gửi quà cho chủ nhà theo cách thức như vậy. Sau đó, 
trong buổi tiếp kiến đầu tiên, cả khách và chủ cảm ơn lẫn nhau một cách nhẹ  nhàng. 
Khi tặng quà, nên tặng vào đầu chuyến thăm để ý nghĩa tặng quà được vẹn 
nguyên. Nếu việc tặng quà diễn ra vào cuối chuyến thăm, khi đã có những sự cố 
không mong muốn, người nhận quà rất dễ có suy nghĩ rằng, người tặng muốn làm 
mình quên đi những phiền toái hoặc để xin lỗi đối với những sai lầm trước đó. 
Mỗi quốc gia, mỗi nền văn hóa lại có những cái nhìn khác nhau về văn hóa 
tặng quà. Độ chênh về văn hóa buộc chúng ta phải luôn cẩn trọng trong việc tặng 
quà. Khi tặng quà bằng cả sự chân thành, mong muốn hiểu biết văn hóa nước bạn, 
món quà sẽ thực sự trở thành nét đẹp trong ngoại giao. Người phát ngôn Bộ Ngoại 
giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng từng chia sẻ: "Trong lĩnh vực ngoại giao, tặng 
quà là văn hóa, là nghệ thuật vô cùng công phu và nhất định phải chuyển tải một 
thông điệp đối ngoại. Món quà còn mang giá trị văn hóa truyền thống, là cơ hội 
quảng bá cho đất nước, văn hóa con người Việt Nam.” 
1.3. Một số lưu ý về quà tặng trong hoạt động ngoại giao 
- Quà tặng phải mang sắc thái dân tộc. 
- Quà tặng phải truyền tải một thông điệp nào đó. 
- Cần lựa chọn quà tặng đúng tâm lý và sở thích của người nhận. 
- Cần chú ý đến chất lượng sản phẩm làm quà tặng. 
- Phải chú ý đến phong tục, tập quán của mỗi dân tộc khi lựa chọn quà  tặng, cách tặng. 
- Quà tặng ý nghĩa không nhất thiết phải cầu kỳ và đắt tiền, mà quan trọng 
hơn hết, người tặng phải đủ tinh tế để hiểu người nhận. Món quà vừa phải hợp 
với lòng người nhận, vừa thể hiện lòng người tặng. 
- Người phụ trách/Trưởng đoàn nhất thiết phải kiểm tra quà tặng.  14   
- Phải xác định cách thức trao tặng quà, cũng như thời điểm thuận lợi nhất  để trao. 
- Không nên lựa chọn quà tặng một cách qua loa, đại khái hoặc để nước  đến chân mới nhảy. 
2.Phân tích, đánh giá sự việc 
a.Cuộc đời Thượng nghị sĩ John McCain 
Ông sinh năm 1936, trong một gia đình danh giá với cả cha và ông nội đều 
là Đô đốc hải quân 4 sao, John McCain ngay từ nhỏ đã được hưởng một nền giáo 
dục toàn diện và chịu ảnh hưởng của gia đình giàu truyền thống binh nghiệp. 
John McCain có tuổi thơ đầy đủ và bình yên bên gia đình, song ông lại 
được đánh giá là người cá tính, ưa mạo hiểm. Khi trưởng thành, McCain quyết 
định theo học Học viện Hải quân Mỹ. Ông tốt nghiệp trường này vào năm 1958 
và trở thành phi công hải quân sau 2 năm. 
John McCain cùng đồng đội bên một chiếc chiến cơ trong chiến tranh Việt Nam  15   
Sau khi phục vụ quân đội Mỹ chưa lâu, ông đã sang Việt Nam tham chiến 
với tư cách là một phi công hải quân. Ngày 26-10-1967, khi John McCain điều 
khiển chiếc A-4E Skyhawk, được coi là niềm tự hào của Mỹ, từ một hàng không 
mẫu hạm đậu trên Thái Bình Dương, bay vào vùng trời Hà Nội nhắm tới các mục 
tiêu trọng yếu, thì máy bay của ông ta đã bị bắn trúng. 
John McCain sau đó đã kịp thời bung dù khỏi chiếc máy bay đang bốc cháy 
và rơi xuống hồ Trúc Bạch. Dù bị nhiều mảnh kim loại do vụ nổ gây ra găm vào 
người nhưng John McCain đã được lực lượng bộ đội, Công an cứu vớt khỏi hồ 
Trúc Bạch, chăm sóc y tế. 
McCain cùng nhiều tù binh Mỹ khác được trao trả ngày 14-3-1973, hai 
tháng sau khi Hiệp định Paris được ký kết và 6 năm từ ngày được đưa vào “Khách 
sạn vỡ tim” (tên gọi nhà tù Hoả Lò do chính những tù binh phi công Mỹ đặt) 
Sau khi trở về Mỹ, John McCain vẫn tiếp tục phục vụ trong quân ngũ. Tuy 
nhiên, những gì mà ông nhận được từ Việt Nam sau quãng thời gian dài vừa tham 
chiến, vừa ngồi tù đã khiến McCain thay đổi hoàn toàn suy nghĩ về chiến tranh  cũng như về Việt Nam. 
Song song với những nỗ lực không ngừng nghỉ của Việt Nam trong việc 
tìm kiếm các mối quan hệ tốt đẹp với tất cả các nước trên thế giới, trong đó có 
Mỹ, ông McCain cũng là người có vai trò tích cực trong việc phát triển mối quan 
hệ giữa Hà Nội và Washington. 
Cùng với Thượng nghị sĩ John Kerry (Ngoại trưởng Mỹ trong chính quyền 
cựu Tổng thống Obama), người từng phản đối cuộc chiến tranh Việt Nam trong 
những thập niên 60-70 của thế kỷ trước, John McCain đã tác động, thúc đẩy chính 
quyền Tổng thống Clinton dỡ bỏ hoàn toàn cấm vận nhằm vào Việt Nam để tiến 
tới bình thường hóa quan hệ.  16   
Bà Tôn Nữ Thị Ninh, nguyên Phó chủ nhiệm uỷ ban đối ngoại Quốc hội 
và là nhà ngoại giao lâu năm của Việt Nam, khi nói về quá trình bình thường hóa 
quan hệ Việt – Mỹ từng nhận định: “Trong bình thường hoá, chúng ta may mắn 
có hai anh bạn John. Đó là Thượng nghị sĩ John Kerry và Thượng nghị sĩ John 
McCain. Một người là phe Cộng hoà, một người là phe Dân chủ, chúng ta có sự 
ủng hộ quan trọng từ cả lưỡng đảng”. 
2.Cuộc gặp gỡ đặc biệt giữa Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị 
Thượng Nghị sĩ John Mccain  
Nhận lời mời của Bộ Ngoại giao Mỹ, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành 
ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội Hà Nội, đã thăm  Mỹ từ ngày 21/7. 
Tại thủ đô Washington DC, Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị đã 
có các cuộc làm việc với Thượng nghị sỹ John McCain. Cuộc làm việc hôm đó 
kéo dài hơn dự kiến. Những tưởng với vẻ bận rộn ban đầu, ngài thượng nghị sĩ sẽ 
sớm kết thúc câu chuyện, chào khách để chia tay. Thượng nghị sĩ John McCain 
cất tiếng hỏi: “Thưa ngài Phạm Quang Nghị, sau đây ngài có còn bận gì không?”. 
- Không, thưa ngài, sau cuộc gặp này là tôi đã hoàn thành chương trình làm 
việc trong ngày. Tôi có thể cùng ngài tiếp tục cuộc nói chuyện. Nhưng, trước khi 
kết thúc, tôi muốn tặng ngài một tấm ảnh. Thật tình, tôi không biết ngài có muốn 
có nó hay không? Nếu ngài không thích thì ngài có thể không công bố cho bất kỳ 
ai được biết. Còn ngài thích, thì tùy ngài. 
Trong cuộc gặp đó, ông Phạm Quang Nghị tặng ông John McCain bức ảnh 
chụp tấm bia bên hồ Trúc Bạch. Đó là hai tấm ảnh, lớn bằng khổ giấy A4, vừa 
mới chụp trước ngày đoàn lên đường, ghi lại tấm bia tại đường Thanh Niên bên 
hồ Trúc Bạch. Chính nơi đây 47 năm về trước vị thiếu tá phi công hải quân John 
McCain đã bị quân và dân Việt Nam bắt làm tù binh. Và sau đó, nhân dân thủ đô  17   
Hà Nội đã dựng lên tấm bia với kích cỡ khá là khiêm tốn nên không mấy gây chú 
ý cho những người qua lại. 
Hai tấm hình chụp tấm bia, ghi hình ảnh viên phi công đang giơ tay đầu 
hàng, cạnh đó là những thanh thiếu niên đang thong dong đi dạo ven hồ đã làm 
cho ngài thượng nghị sĩ thật sự hào hứng và xúc động. Nó gợi lại cho con người 
nhớ lại quá khứ - một quá khứ thật khốc liệt và đầy ý nghĩa với cả người “từ trên 
trời rơi xuống” theo đúng nghĩa đen, và những người “từ dưới đất xông lên”, vít 
cổ chiếc máy bay của vị thiếu tá phi công năm xưa, bây giờ là một thượng nghị 
sĩ có thâm niên và uy tín lớn trong chính giới Hoa Kỳ. 
Thượng nghị sĩ John McCain nhận bức ảnh chụp bia chứng tích bên hồ Trúc Bạch từ 
Bí thư Thành ủy Phạm Quang Nghị 
Lý do Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị tặng Thượng Nghị 
sĩ John Mccain Bức ảnh đặc biệt:  
 Trước ngày lên đường, ông Phạm Quang Nghị nghe một đồng chí lãnh 
đạo của ta đã được ông John McCain và ông John Kerry tiếp ở Mỹ. Trong cuộc  18   
tiếp đó, ông John McCain có nói vui với ông John Kerry rằng: “Tôi và ông đều 
trải qua cuộc chiến tranh Việt Nam, nhưng chỉ có tôi mới có bia kỷ niệm ở hồ 
Trúc Bạch, ông cũng đi chiến tranh Việt Nam nhưng ông không có bia”. Ông rất 
lấy làm tự hào về dấu ấn mà ông đã tham gia cuộc chiến tranh Việt Nam. Dấu ấn 
ông muốn nói với mọi người chính là tấm bia ở hồ Trúc Bạch, nơi máy bay ông 
bị bắn rơi. Sau khi nói vui câu đó với ông John Kerry, ông cũng nói với vị chính 
khách của ta là nhờ ngài về nói với TP Hà Nội giúp giữ gìn tấm bia của tôi được  sạch sẽ.   
Chính vì vậy, trước ngày lên đường, ông Phạm Quang Nghị đã cho chụp 2 
bức ảnh về tấm bia đó với ý rằng nhân dân Việt Nam rất trân trọng tấm bia và 
đang giữ bia đó sạch sẽ. Việc tặng quà cho ông John McCain đã được Bí thư 
Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị nghiên cứu kỹ lưỡng: ông tìm hiểu qua món 
quà thông qua một đồng chí lãnh đạo khác. Bức ảnh phù hợp với lý lịch của người 
nhận, ông John McCain đã trải qua cuộc chiến tranh Việt Nam, ông bị bắn rơi 
máy bay ở hồ Trúc Bạch. 
Khi nhận món quà, ông John McCain mở tấm ảnh ra và rất phấn khởi. Ông 
giơ lên cho mọi người xem và cùng chụp ảnh, chứ không phải ông McCain có 
điều gì mặc cảm về quá khứ như có người suy nghĩ. 
Lúc đó, ông cũng nói bia này ghi không đúng quân chủng, ông là phi công 
hải quân, không phải phi công không quân Hoa Kỳ. Nghe vậy, ông Phạm Quang 
Nghị giải thích: “Thưa ngài, những năm chiến tranh, ở đất nước chúng tôi bất cứ 
người nào lái máy bay trên trời thì chúng tôi đều nghĩ là của lực lượng không 
quân. Nhưng dù sao ý kiến của ngài tôi cũng lưu ý và tôi sẽ cho sửa lại tấm bia 
này.” Ý tứ sâu xa của việc không hài lòng này là vì ông McCain luôn rất tự hào 
là người đã được sinh ra trong một gia đình có ông nội và cha đều là đô đốc hải 
quân. Đến lượt ông ấy cũng là phi công hải quân. Và cả con trai của Thượng nghị 
sĩ McCain cũng đang ở trong lực lượng hải quân.  19