Áp dụng pháp luật gì? Phân biệt với giải thích,
sử dụng pháp luật
1. Khái niệm áp dụng pháp luật
Áp dụng pháp luật loạt động thực hiện pháp luật mang tính tổ chức quyền
lực nhà nước, được thực hiện bởi quan n nước thẩm quyền, nhà
chức trách hoặc tổ chức hội được Nhà nước trao quyền, nhằm biệt hoá
quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể, đối với nhân, tổ chức cụ
thể (Xem thêm: Thực hiện pháp luật).
Áp dụng pháp luật được tiến hành trong các trường hợp sau:
1) Khi xảy ra tranh chấp giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật về quyền
nghĩa vụ tự họ không thể giải quyết được, phải nhờ quan nhà nước
(hoặc quan của t chức hội) thẩm quyền giải quyết;
2) Khi quyền nghĩa vụ của các chủ thể không mặc nhiên phát sinh nếu
thiếu sự can thiệp của Nhà nước;
3) Khi cần áp dụng chế i pháp luật đối với chủ th vi phạm pháp luật; 4) Khi
nhà nước thấy cần kiểm tra, giám sát hoạt động của các chủ thể quan hệ
pháp luật hoặc đ xác định sự tồn tại hay không tồn tại của sự kiện thực tế
ý nghĩa pháp lí như xác nhận di chúc, xác nhận n bằng, chứng chỉ, hợp
đồng viết tay, chữ của người thẩm quyền...
2. So sánh sự khác nhau giữa áp dụng pháp luật sử dụng
pháp luật:
Về khái niệm: S dụng pháp luật một hình thức thực hiện pháp luật, trong
đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền tự do pháp của mình (thực
hiện những hành vi pháp luật cho phép).
dụ: Người lao động hợp đồng lao động với chủ sử dụng lao động.
Còn khái niệm áp dụng pháp luật một hình thức thực hiện pháp luật, trong
đó nhà nước thông qua các quan nhà nước hoặc cán bộ, công chức
thẩm quyền tổ chức cho c chủ thể thực hiện những quy định của pháp luật,
hoặc tự mình căn cứ vào những quy định của pháp luật để quyết định làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể.
dụ: a án nhân dân huyện A ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn
giữa Ông X Bà Y.
- Phân biệt sự khác nhau giữa hai khái niệm kể trên:
Tiêu chí
Sử dụng pháp
luật
Áp dụng pháp luật
Chủ thể
thực hiện
Mọi chủ thể
được pháp luật
cho phép
Phải sự tham gia của quan nhà nước hoặc
người thẩm quyền
Trường
hợp phát
sinh
Được quy định
trong các văn
bản quy phạm
pháp luật
- Khi xảy ra tranh chấp về quyền nghĩa vụ
pháp giữa các bên tham gia vào quan hệ pháp
luật các bên đó không tự giải quyết được.
dụ: tranh chấp về quyền thừa kế, tranh chấp về
hợp đồng,…
- Khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà
đối với những chủ thể hành vi vi phạm. dụ:
xử phạt người vi phạm luật an toàn giao thông,
người hành vi làm hàng giả,…
- Trong một số quan h pháp luật nhà nước
thấy cần thiết phải tham gia để kiểm tra, giám sát
hoạt động của các bên tham gia quan hệ đó
hoặc nhà nước xác nhận tồn tại hay không tồn
tại một số vụ việc, sự kiện thực tế. dụ: công
chứng hợp đồng mua bán nhà, toà tuyên bố một
người mất tích, hủy bỏ quyết định tuyên bố một
người đã chết,…
- Khi những quyền nghĩa vụ pháp của ch
thể không mặc nhiên phát sinh hoặc chấm dứt
nếu không sự can thiệp của nhà nước. Ví dụ:
đăng kết hôn
Bản chất
Chủ thể
quyền thực hiện
hoặc không thực
hiện, không
mang tính chất
bắt buộc
Bắt buộc đối với ch thế bị áp dụng chủ thể
liên quan
Hình
thức thể
hiện
Các quy phạm
pháp luật thể
hiện quyền tự
do pháp của
chủ thể
Văn bản áp dụng pháp luật
3. Phân tích sự khác biệt của khái niệm giải thích pháp luật
áp dụng pháp luật
Dựa trên những đặc điểm đã phân tích kể trên thể đưa ra một số nhận
định về khái niệm giải thích pháp luật như sau:
3.1 Khái niệm giải thích pháp luật
Pháp luật muốn được thực thi cần được nhận thức đầy đủ chính xác. Do
đó mục đích của giải thích pháp luật làm sáng tỏ về mặt nội dung, quy trình
thủ tục pháp để quá trình thực hiện pháp luật được thống nhất, đúng đắn
hợp pháp.hơn nữa do h thống các loại văn bản quy phạm pháp luật rất
nhiều nên kh năng thiếu thống nhất nhận thức về các quy định pháp luật
khó tránh khỏi.
=> Định nghĩa: Giải thích pháp luật hoạt động làm sáng tỏ nội dung các quy
phạm pháp luật hoặc các sự kiện pháp biệt nhằm đảm bảo nh thống
nhất về nhận thức thực thi pháp luật trên thực tế.
3.2 Chủ thể giải thích pháp luật
Việc xác định chủ thể giải thích pháp luật phụ thuộc vào các hình thức giải
thích pháp luật.
+ Với hình thức giải thích pháp luật chính thức: chỉ quan Nhà nước
hoặc… quyền hoặc được trao quyền mới được tiến hành hoạt động này.
Về nguyên tắc, chủ thể thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật
đều quyền giải thích văn bản do chính mình ban hành ra. Thực tế, chủ
thể ủy quyền cho người khác giải thích.
+ Với hình thức giải thích pháp luật không chính thức: bất chủ thể nào cũng
thể thực hiện nhưng phải sự hiểu biết pháp luật sâu sắc trình độ
nhất định.
3.3 Hình thức giải thích pháp luật
Phụ thuộc vào nhiều yếu tổ như chủ thể, nội dung u cầu của từng vấn
đề đặt ra dựa vào phương thức thể hiện: giải thích bằng lời nói(văn nói)
văn bản (văn viết) dựa vào ch thể tiến hành giá trị văn bản giải thích:
chính thức không chính thức.
3.3.1 Giải thích chính thức: hoạt độg của các chủ thể nhân danh Nhà
nước để làm sáng tỏ về nội dung, ý nghĩa của các quy phạm pháp luật hoặc
một sự kiện pháp cụ thể nhằm đảo bảo cho quá trình nhận thức, thực thi
pháp luật thống nhất hiệu quả. Việc được pháp luật quy định sự đảm
bảo của Nhà nước làm cho loại giải thích này mang nh bắt buộc hiệu lực
pháp
+ Do các quan Nhà nước hoặc…tiến hành. V nguyên tắc (như trên) . Về
hình thức, giải thích chính thức thể giải thích mang tính quy phạm hoặc
tính biệt cụ thể.
- Tính quy phạm: hoạt động của quan Nhà nước hoặc nhân được trao
quyền ban hành ra một n bản luật nhằm hướng dẫn, giải thích cho một
văn bản quy phạm pháp luật khác.
- Tính biệt: …..trao quyền làm ng tỏ một nội dung, sự kiện pháp nào
đó thuộc thẩm quyền giải quyết của ch thể đó.
+ Trình tự th tục giải thích chính thức do pháp luật quy định. Đây hoạt
động nhân danh Nhà nước, nh pháp lý.
+ Kết quả việc giải thích hiệu lực giá trị pháp lý.
3.3.2 Giải thích không chính thức: hoạt động không nhân danh Nhà
nước, được tiến hành bởi bất nhân, tổ chức nào những mục đích
khác nhau. Đặc điểm bản:
+ Được tiến hành bởi bất loại chủ thể nào è thực hiện một phần quyền t
do ngôn luận của các chủ thể được pháp luật ghi nhận đảm bảo. Về ND,
không mang tính quy phạm. Trên thực tế, không sự đồng nhất giữa các
chủ thể.
+ Hoàn toàn không nhân danh Nhà nước: không mag tính bắt buộc, không
hàm chứa quyền lực Nhà nước.
+ Hoạt động này kết quả của hoàn toàn không hiệu lực pháp bắt
buộc.
3.4 Phương pháp giải thích pháp luật
- Phương pháp lôgíc: đặc trưng xem t mối liên hệ, sự tương tác, kết cấu
về nội dung của các vấn đề thuộc đối tượng giải thích, nhằm ch ra những
mâu thuẫn, sự phủ định lẫn nhau hoặc khẳng định về tính hợp về các vấn
đề đó.
- Phương pháp giải thích chính tr lịch sử: nhằm làm sáng tỏ điều kiện, hoàn
cảnh lịch sử thực tế c quy phạm pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật
được ban hành hoặc một sự kiện pháp đã xuất hiện.
- Phương pháp giải thích ngôn ngữ, văn phạm: để giải thích về các quy phạm
pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật.
- Phương pháp giải thích, so sánh, đối chiếu: nhằm kiến giải về mức độ
tương đồng, khác biệt đối với quy định pháp luật hoặc c cách điều chỉnh,
giải quyết các vấn đ pháp thực tiễn giữa các hệ thống pháp luật khác
nhau.
- Phương pháp giải thích hệ thống: làm sáng tỏ nội dung, nhiệm vụ của quy
phạm đó trong mối tương quan với quy phạm khác của quá trình điều chỉnh
pháp luật.
3.5 Nguyên tắc của giải thích pháp luật
Nguyên tắc khách quan trung thực: giải thích pháp luật không hoạt động
lập pháp hỗ trợ cho quá trình lập pháp đ các n bản quy phạm pháp
luật được hiệu lực trên thực tế. Việc giải thích phải xuất phát từ yêu cầu
chung; cần tôn trọng nội dung của các quy phạm pháp luật hoặc các sự kiện
biệt với tính cách đối tượng cần giải thích.
Nguyên tắc pháp chế: tôn trọng tính tối cao của hiến pháp về mặt nội dung,
hình thức đối với các văn bản quy phạm pháp luật được giải thích các văn
bản giải thích. Cần đảm bảo sự tương thích giữa quy định của hiến pháp với
văn bản được giải thích văn bản giải thích. Điều y đòi hỏi việc đảm bảo
đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục yêu cầu về hình thức hết sức quan
trọng đòi hỏi cả việc từ chối không giải thích khi yêu cầu cũng phải đưa ra
sở pháp của việc từ chối đó trả lời cụ thể bằng văn bản.
4. Phân tích việc áp dụng pháp luật đối với bộ luật dân sự
Với tính chất một đạo luật quan trọng, Bộ luật dân sự m 2015 đã xác
định một cách nhất quán tưởng ch đạo của các nguyên tắc bản được
quy định tại Điều 3 khẳng định: “Bộ luật này luật chung điều chỉnh các
quan hệ dân sự”. Với nguyên tắc này, BLDS sẽ điều chỉnh toàn bộ các quan
hệ tài sản giữa các chủ thể trong hội mang tính chất hàng hóa tiền tệ
các quan hệ nhân thân phi vật chất, trong đó c chủ thể tham gia bình đẳng
về mặt pháp lý, tự chịu trách nhiệm về tài sản[6]. Hay nói cách khác, BLDS sẽ
điều chỉnh tất cả những vấn đề thuộc “pháp luật dân sự”, tức những ng
xử, quan hệ được điều chỉnh bởi luật khác nhưng thuộc trong lĩnh vực “pháp
luật dân sự”[7].
BLDS không quy định cụ thể xử mối quan hệ giữa BLDS các luật
chuyên ngành. Do đó, trong thực tế, đã phát sinh vướng mắc về việc ADPL
khi các quy định của BLDS khác với quy định của các luật chuyên ngành.
Để khắc phục bất cập trên, BLDS năm 2015 đã quy định cụ thể nguyên tắc áp
dụng BLDS tại Điều 4. Theo đó, trong trường hợp các quy định của luật khác
vi phạm nguyên tắc bản của BLDS năm 2015 hoặc trường hợp luật khác
liên quan không quy định hoặc quy định nhưng trái với quy định của
BLDS thì phải áp dụng các quy định của BLDS.
Đối với các quan hệ cùng bản chất pháp lý, luật chuyên ngành thể khác
với BLDS do đặc thù của quan hệ chuyên ngành nhưng không được trái với
các nguyên tắc chung của luật dân sự. Một số quy định của BLDS như quy
định về cách pháp nhân, về sở hữu chung hợp nhất, sở hữu chung theo
phần, những quy định mang tính xác định một khái niệm pháp lý… ý nghĩa,
giá trị pháp chung cho toàn bộ hệ thống pháp luật. Không thể pháp nhân
riêng cho luật dân sự, riêng cho luật thương mại, luật hợp tác xã, mặc các
loại hình công ty hợp tác quy chế riêng về việc thành lập, hoạt động,
giải thể. Đối với một tài sản nào đó, nếu chủ sở hữu trực tiếp chiếm hữu, sử
dụng thì sẽ phải tuân theo quy định của chế định tài sản vật quyền. Tuy nhiên,
nếu tài sản đó đưa vào quá trình giao lưu dân sự, kinh tế thông qua hợp đồng
vay, cho thuê, đầu kinh doanh như lập công ty… thì phải áp dụng theo c
quy định của các loại hợp đồng, giao dịch tương ứng, theo quy chế trái quyền.
Việc điều chỉnh các quan hệ dân sự trong các lĩnh vực cụ thể phải tuân thủ
nguyên tắc không được trái với các nguyên tắc bản của pháp luật dân sự
được quy định tại Điều 3 của BLDS.
dụ, liên quan đến vấn đề lãi suất, Điều 468 BLDS năm 2015 đã quy định
loại trừ việc áp dụng mức trần i suất vay 20% trong “trường hợp luật khác
liên quan quy định khác”. “Luật khác” đây được hiểu pháp luật chuyên
ngành. Theo quy định tại Điều 12 Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010
khoản 2, 3 Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2010, trong điều
kiện bình thường, lãi suất trong hoạt động ngân hàng sẽ thực hiện theo
chế tự thỏa thuận, không trần lãi suất. Chỉ trong điều kiện đặc biệt cần
sự can thiệp của Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước mới quy định chế xác
định lãi suất trong quan hệ giữa TCTD khách hàng, chế xác định lãi
suất này thể bao gồm trần lãi suất cho vay trong quan hệ cấp tín dụng
giữa TCTD với khách hàng. Như vậy, BLDS năm 2015 đã loại trừ việc áp
dụng mức trần lãi suất vay 20%/năm đối với hoạt động cho vay của các
TCTD, lúc đó pháp luật về tín dụng, ngân hàng sẽ cho phép các bên trong
quan hệ tín dụng TCTD khách hàng được tự thoả thuận.
5. Phân tích một số sai sót trong áp dụng pháp luật hành chính
Một số sai sót thường gặp khi áp dụng pháp luật nội dung trong việc giải
quyết án hành chính:
Áp dụng pháp luật nội dung trong quá trình giải quyết vụ án hành chính một
quá trình phức tạp của Tòa án (mà cụ thể của Hội đồng xét xử). Để thể
được bản án hành chính đúng pháp luật, khách quan, bảo vệ quyền lợi
ích hợp pháp của các đương sự trong vụ án thì quá trình áp dụng pháp luật
nội dung vào giải quyết vụ án hành chính cần tuân thủ triệt để chính xác
theo các bước (giai đoạn) sau:
- Phân tích, đánh giá các nh tiết, các tài liệu, chứng cứ của vụ án một cách
toàn diện, khách quan, chính xác trong mối liên hệ mật thiết với nhau;
- Lựa chọn quy phạm pháp luật nội dung phù hợp phân tích làm nội
dung, ý nghĩa của quy phạm pháp luật đối với trường hợp cần áp dụng;
- Ban hành bản án, quyết định hành chính.
Nghiên cứu các bản án hành chính của các Tòa án nhân dân các cấp, đặc
biệt các bản án hành chính đã hiệu lực pháp luật b khiếu nại theo thủ
tục giám đốc thẩm, tái thẩm, thấy rằng việc áp dụng không đúng pháp luật nội
dung trong việc giải quyết vụ án hành chính trong thực tiễn liên quan đến việc
không tuân th triệt để, chính xác các giai đoạn của quá trình áp dụng pháp
luật nội dung đã nêu trên thể hiện các mặt như sau: căn cứ pháp
ban hành quyết định hành chính nhưng a án đánh giá không căn cứ
pháp lý; Không (hoặc chưa đủ) căn cứ pháp ban hành quyết định
nhưng Tòa án đánh giá căn cứ pháp lý; Tòa án đánh giá không đúng về
trình tự, thủ tục hoặc thẩm quyền ban hành quyết định hành chính Tòa án
ban hành phần quyết định trong bản án hành chính không đúng pháp luật.
5.1 Sai t liên quan đến việc phân tích, đánh giá các tình tiết khách
quan của vụ án
Những tình tiết khách quan của vụ án hành chính được phản ánh qua hệ
thống chứng cứ, tài liệu do các bên đương sự, Viện Kiểm sát cung cấp hoặc
do Tòa án xác minh, thu thập. Hệ thống chứng cứ này bao gồm những chứng
cứ trong hồ vụ án các chứng cứ mới được xuất trình tại phiên tòa.
Theo quy định pháp luật tố tụng hành chính (các Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các vụ án hành chính Luật tố tụng hành chính năm 2010) thì khi xét xử,
Hội đồng xét xử xác định đầy đủ các tình tiết của vụ án bằng cách nghe ý
kiến của người khởi kiện, người bị kiện, người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan hoặc người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, đối chiếu các ý kiến
này với các i liệu, chứng cứ đã thu thập được kết qu hỏi tại phiên tòa.
Trên sở các tài liệu, chứng cứ thu thập được, Tòa án xem xét, đánh giá
các tài liệu, chứng cứ nội dung các n bản pháp luật quan nhà
nước hoặc người thẩm quyền của quan hành chính nhà nước ng
làm căn cứ ban hành các quyết định hành chính hoặc để thực hiện (hoặc
không thực hiện) hành vi hành chính bị khởi kiện phù hợp với thực tế
khách quan đúng pháp luật hay không, từ đó để n cứ quyết định chấp
nhận (một phần hay toàn bộ) yêu cầu của người khởi kiện hay bác yêu cầu
khởi kiện. Những tình tiết đã được chứng minh, những chứng cứ, căn cứ
pháp luật để giải quyết vụ án phải được thể hiện trong bản án. Phần quyết
định của bản án phải phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án. Nếu
phần quyết định trong bản án mang tính chất phiến diện một chiều, chỉ
nghiêng về người khởi kiện hoặc người bị kiện, chỉ dựa vào suy luận chủ
quan không dựa vào các chứng cứ đã được chứng minh, xem xét tại
phiên tòa thì không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án, làm
cho bản án, quyết định của Tòa án không đúng pháp luật.
Thực tế xét xử thời gian qua cho thấy, những vụ án hành chính do Thẩm
phán xem xét, đánh giá chứng cứ không đầy đủ, khách quan, toàn diện nên
trường hợp căn cứ pháp ban hành quyết định hành chính nhưng Tòa
án đánh giá không căn cứ pháp lý; ngược lại trường hợp không
hoặc chưa đủ căn cứ pháp ban hành quyết định hành chính nhưng Tòa
án lại đánh giá đủ căn cứ pháp lý.
- Ví dụ 1 (về trường hợp căn cứ pháp ban hành quyết định hành chính
nhưng Tòa án đánh giá không căn cứ pháp lý):
Thửa đất số 77, tờ bản đồ số 8 (theo Nghị định số 64/NĐ-CP ngày 27/9/1993
của Chính phủ), diện tích 1.225m2 tại DN, huyện DX, tỉnh QN (theo Ch
thị 299/TTg ngày 10/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ thửa số 455, tờ
bản đ số 6) đất thổ nguồn gốc của gia đình ông Phạm Ngọc H quản
lý, sử dụng từ trước năm 1975. Cuối năm 1986, gia đình ông H chuyển sang
thị HA sinh sống, nhưng vẫn thường xuyên về chăm sóc cây trồng mới
một số loại cây trên thửa đất này.
Phạm Thị T chủ hộ ng con ông Phạm Văn B nhà ổn định từ
năm 1975 đến nay tại thửa đất số 84, tờ bản đồ số 8, DN diện tích
1.515m2 đất thổ (theo Nghị định 64/NĐ-CP ngày 27/9/1993 của Chính
phủ). Thời điểm thực hiện khai, đăng ruộng đất theo Chỉ thị 299/TTg
ngày 10/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ, thửa đất số 84 này của gia đình
T thửa đất số 456, tờ bản đồ số 6, DN. m 1994-1995, thực hiện
Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ, T khai diện tích
1.225m2 đất T thuộc thửa 77, tờ bản đồ số 8, DN (nguyên thửa đất của
gia đình ông H sử dụng nêu trên), còn ông Phạm Văn B (con trai T
cùng chung h khẩu với T) khai đăng quyền sử dụng thửa đất số
84, tờ bản đồ số 8, diện tích 1.515m2 đất thổ (thửa đất của T nêu trên).
Ngày 10/8/1995, Ủy ban nhân dân huyện DX cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số G695365 cho hộ T diện tích 1.617m2 đất, trong đó
1.225m2 đất T thuộc thửa 77, tờ bản đ số 8 392m2 đất lúa màu thuộc
thửa 83, tờ bản đồ số 8, DN.
Ngày 26/12/2006, Ủy ban nhân dân huyện DX ban hành Quyết định số
1827/QĐ-UBND thu hồi của hộ T 1.225m2 đất thuộc thửa 77, tờ bản đồ
số 8. do thu hồi: Do giao quyền sử dụng đất sai đối tượng sử dụng tại Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số G695365 ngày 10/8/1995. Cùng ngày, y
ban nhân dân huyện DX ban hành Quyết định số 1828/QĐ-UBND công nhận
quyền sử dụng 1.225m2 đất trên cho ông H ngày 03/01/2007, Ủy ban
nhân dân huyện DX cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 977327
cho hộ ông H.
Ngày 19/5/2008, Phạm Thị T đơn khiếu nại.
Ngày 16/12/2008, Ủy ban nhân dân huyện DX ban hành Quyết định số
2372/QĐ-UBND về việc hủy Quyết định số 1827/QĐ-UBND ngày 26/12/2006,
điều chỉnh cho hộ T được sử dụng thửa số 77, tờ bản đ số 8, DN.
Ngày 16/01/2009, ông H khiếu nại việc y ban nhân dân huyện DX cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 1.225m2 cho hộ T.
Ngày 13/10/2009, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện DX ban hành Quyết định
số 2233/QĐ-UBND về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông H, nội dung:
việc cấp 1.225m2 đất cho hộ T là không đúng đối tượng, không đúng
nguồn gốc; việc công nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông H chưa đ
sở.
Ngày 10/11/2009, ông Phạm Ngọc H đơn đề nghị Ủy ban nhân dân huyện
DX xem xét lại Quyết định số 2233/QĐ-UBND ngày 13/10/2009 của Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân huyện DX.
Ngày 01/12/2009, Uỷ ban nhân dân huyện DX ban hành Quyết định số
2936/QĐ-UBND về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
G695365 ngày 10/8/1995 của hộ T cấp không đúng đối tượng đối với
diện tích 1.225m2; giao diện tích đất nêu trên cho Uỷ ban nhân dân DN
quản lý, sử dụng.
Ông B (con trai T) đơn khiếu nại, sau đó khởi kiện tại Tòa án nhân dân
huyện DX yêu cầu xử hủy Quyết định số 2936/QĐ-UBND ngày 01/12/2009
của Uỷ ban nhân dân huyện DX.
Ngày 04/6/2010, Uỷ ban nhân dân huyện DX ban hành Quyết định số
1123/QĐ-UBND về việc điều chỉnh Quyết định số 2936/QĐ-UBND, nội
dung: hủy b điểm 2 Điều 1 quyết định số 2936/QĐ-UBND (có nội dung "giao
diện tích đất nêu trên cho UBND DN quản lý, sử dụng theo đúng quy định
của pháp luật”) Uỷ ban nhân dân huyện DX chưa thu hồi diện tích 1.225m2
nên việc giao diện tích đất nêu trên cho Uỷ ban nhân dân DN quản lý, sử
dụng không đúng trình tự quy định của pháp luật; các nội dung khác của
quyết định 2936/QĐ-UBND vẫn hiệu lực pháp luật.
Tại Bản án hành chính thẩm, Toà án nhân dân huyện DX, tỉnh QN quyết
định: Bác yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn B.
Ông Phạm Văn B đơn kháng cáo.
Tại Bản án hành chính phúc thẩm, Toà án nhân dân tỉnh QN quyết định:
Chấp nhận kháng cáo của ông Phạm Văn B, xử sửa bản án thẩm, hủy
Quyết định số 2936/QĐ-UBND ngày 01/12/2009 của UBND huyện DX.
Tòa án cấp phúc thẩm hủy Quyết định số 2936/QĐ-UBND ngày 01/12/2009
của UBND huyện DX đã xem xét, đánh giá chứng cứ không đúng về nguồn
gốc quá trình sử dụng đất của các đương sự, cụ thể:
Về nguồn gốc quá trình sử dụng diện ch 1.225m2 đất thửa số 77, tờ bản
đồ số 8, DN, huyện DX, tỉnh QN: ông B ông H đều lời khai thống
nhất đất nguồn gốc của cha mẹ ông H quản lý, sử dụng từ trước năm
1975, sau đó gia đình ông H tiếp tục sử dụng. Đến năm 1986, do hoàn cảnh
công tác phải chuyển về thị HA nên ông H đã nhờ T trông coi h (có sự
chứng kiến của nhiều người). Tại ‘‘Đơn xin chuyển giao quyền sử dụng đất’’
do T lập ngày 22/10/2006, T cũng thừa nhận chỉ người trông coi,
quản đứng n đăng thửa đất hộ cho vợ chồng ông H, đồng thời T
cũng cam kết không tranh chấp về thửa đất này.
Mặt khác, các tài liệu trong hồ vụ án cũng thể hiện rằng trong thời gian
đi vắng, gia đình ông H vẫn thường xuyên về chăm sóc, khai thác trồng
cây, hiện trên đất vẫn còn cây lâu năm do gia đình ông H trồng. Như vậy, gia
đình ông H người sử dụng thửa đất số 77, tờ bản đ số 8, DN, huyện
DX liên tục, ổn định từ năm 1975 đến nay. Tuy nhiên, tại thời điểm Nhà nước
chủ trương tiến hành khai đăng quyền sử dụng đất, do xa
không được thông báo nên hộ ông H đã không tiến hành khai diện tích đất
nêu trên hộ T khai được Uỷ ban nhân dân huyện DX cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 10/8/1995.
Theo quy định tại Điều 99 Điều 101 Luật Đất đai năm 2013 quy định người
sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận thì
được quan Nhà nước thẩm quyền xét cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất’.
Theo quy định nêu trên thì gia đình T không phải người sử dụng thửa
đất số 77, tờ bản đồ số 8, DN, huyện DX liên tục, ổn định tại thời điểm
được t cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1995. Do vậy, trong
quá trình quản khai, đăng sử dụng đất, Uỷ ban nhân dân DN xác
nhận T đối tượng đang sử dụng đất để Uỷ ban nhân dân huyện DX cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích 1.225m2 đất thửa số 77, tờ bản đồ
số 8, DN, huyện DX, không đúng nguồn gốc đối tượng sử dụng đất.
Tại Báo cáo số 52/BC-UBND ngày 16/6/2009 gửi Uỷ ban nhân n huyện DX,
Uỷ ban nhân dân DN đã xác nhận điều này. Do đó, U ban nhân dân
huyện DX đã ban hành Quyết định số 2936/QĐ-UBND ngày 01/12/2009
(được sửa đổi bằng Quyết định số 1123/QĐ-UBND ngày 04/6/2010) nội
dung thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho h T đúng
pháp luật.
5.2 Sai sót của bản án hành chính liên quan đến việc lựa chọn quy phạm
pháp luật phù hợp việc phân tích nội dung, ý nghĩa của quy phạm
pháp luật cần áp dụng
Khi giải quyết vụ án hành chính, căn cứ để xem xét quyết định hành chính,
hành vi hành chính đúng hay sai văn bản quy phạm pháp luật giá trị
pháp cao nhất quy định về lĩnh vực đó đang hiệu lực thi hành tại thời
điểm ra quyết định hành chính hay hành vi hành chính bị khiếu kiện. vậy,
để việc giải quyết vụ án được đúng pháp luật, Tòa án phải c minh tại thời
điểm ra quyết định hành chính hay hành vi hành chính bị khởi kiện bao
nhiêu văn bản quy phạm pháp luật của những quan nào quy định về lĩnh
vực đó đang hiệu lực thi hành để xác định đúng văn bản quy phạm pháp
luật giá trị pháp cao nhất. Đồng thời, các văn bản quy phạm pháp luật
của quan thẩm quyền cấp dưới hướng dẫn thi hành các văn bản pháp
luật cao hơn cũng giá trị quan trọng trong việc áp dụng pháp luật khi giải
quyết vụ án hành chính.
Thực tiễn giải quyết vụ án hành chính cho thấy, bản án của Tòa án không
đúng pháp luật nội dung thể xuất phát từ việc áp dụng sai lầm pháp luật,
thể do việc không chú ý tới văn bản ớng dẫn thi hành của quan
thẩm quyền; hoặc thể do cách hiểu máy móc, không đúng của Thẩm phán
đối với các văn bản pháp luật nội dung.
- Việc không xác định đầy đ chính xác các văn bản pháp luật hoặc n
bản pháp luật giá trị pháp cao nhất làm sở giải quyết vụ án hành
chính nguyên nhân dẫn đến việc áp dụng sai lầm pháp luật khi giải quyết
vụ án hành chính.
5.3 Sai sót liên quan đến việc ban nh phần quyết định của bản án
hành chính
Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, nhiều Thẩm phán không chú ý
trong việc xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính bị khiếu kiện; khi
tuyên án ra bản án nhiều sai sót trong phần quyết định của bản án
trong nhiều trường hợp phải kháng nghị giải quyết lại vụ án theo thủ tục
giám đốc thẩm.
dụ: Do sự tranh chấp quyền sử dụng đất, Uỷ ban nhân dân huyện T đã
ra Quyết định số 758/QĐ-UB thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
ông P, H, N. Ông P ông N đơn khiếu nại quyết định trên. Uỷ ban nhân
dân huyện T đã các quyết định giải khiếu nại của ông P ông N.
Ông P ông N đều đơn khởi kiện vụ án hành chính, u cầu T án huỷ
với Quyết định số 758/QĐ-UB.
Toà án cấp thẩm đã thụ 02 vụ án hành chính đối với đơn khởi kiện của
ông P ông N.
Đối với trường hợp khởi kiện của ông P: Tại bản án hành chính thẩm số
07, T án cấp thẩm quyết định bác đơn khởi kiện; giữ nguyên Quyết định
số 758/QĐ-UB của Uỷ ban nhân dân huyện T.
Đối với trường hợp khởi kiện của ông N: tại bản án nh chính thẩm s 08,
Toà án cấp thẩm quyết định bác đơn khởi kiện; giữ nguyên Quyết định số
758/QĐ-UB của Uỷ ban nhân dân huyện T.
Tuy nhiên, sau khi ông H khiếu nại, Uỷ ban nhân dân huyện T thấy rằng việc
thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông H không đúng pháp
luật, nên muốn hủy bỏ một phần của Quyết định số 758/QĐ-UB; nhưng do
các bản án hành chính thẩm đã hiệu lực pháp luật, nên Uỷ ban nhân
dân huyện T phải khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm.
Tại Điều 1 Quyết định số 758/QĐ-UB, Uỷ ban nhân dân huyện T đã quyết
định riêng đối với ông P, ông N ông H. Ông P ông N cùng khởi kiện vụ
án hành chính yêu cầu huỷ Quyết định số 758/QĐ-UB của Uỷ ban nhân dân
huyện T đối với phần liên quan đến quyền lợi của mỗi người. Lẽ ra, khi giải
quyết, T án cấp thẩm chỉ đánh giá tính hợp pháp của phần quyết định
liên quan đến ông P hoặc ông N đ quyết định đúng pháp luật. Nhưng,
Toà án cấp thẩm đã quyết định giữ nguyên quyết định bị khiếu kiện
không đúng.
6. Câu hỏi thường gặp về áp dụng pháp luật
6.1 Áp dụng pháp luật đặc trưng gì?
- Áp dụng pháp luật hoạt động thể hiện tính tổ chức, quyền lực nhà nước;
- Áp dụng pháp luật hoạt động biệt hoá các quy phạm pháp luật hiện
hành vào những trường hợp cụ thể, đối với các nhân, tổ chức cụ thể;
- Áp dụng pháp luật hoạt động thể hiện tính sáng tạo.
6.2 Khái niệm bản về áp dụng pháp luật?
Áp dụng pháp luật loạt động thực hiện pháp luật mang tính tổ chức quyền
lực nhà nước, được thực hiện bởi quan n nước thẩm quyền, nhà
chức trách hoặc tổ chức hội được Nhà nước trao quyền, nhằm biệt hoá
quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể, đối với nhân, tổ chức cụ
thể.
6.3 Nguyên tắc áp dụng pháp luật?
+ Thứ nhất, ưu tiên lựa chọn văn bản tại thời điểm hiệu lực của văn bản
quy phạm pháp luật
+ Thứ hai, áp dụng văn bản hiệu lực pháp cao hơn
+ Thứ ba, áp dụng quy định của văn bản được ban hành sau
+ Thứ tư, áp dụng văn bản quy phạm pháp luật mới không quy định trách
nhiệm pháp hoặc quy định trách nhiệm pháp nhẹ hơn đối với hành vi xảy
ra trước ngày văn bản hiệu lực
+ Thứ năm, áp dụng quy định của điều ước quốc tế trong trường hợp văn
bản quy phạm pháp luật trong nước điều ước quốc tế Cộng hòa hội
chủ nghĩa Việt Nam thành viên quy định khác nhau về cùng một vấn đề,
trừ Hiến pháp.
Việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật đúng nguyên tắc, phù hợp sẽ dẫn
đến kết quả xử công việc được chính xác ngược lại, nếu áp dụng văn
bản quy phạm pháp luật sai nguyên tắc thì sẽ dẫn đến sai sót, làm nh
hưởng đến đối tượng bị áp dụng văn bản quy phạm pháp luật. Hệ thống pháp
luật hiện hành nước ta vẫn còn tồn tại nhiều văn bản nội dung chồng chéo,
mâu thuẫn nhau.
6.4 Văn bản áp dụng pháp luật được hiểu như thế nào?
Văn bản áp dụng pháp luật (còn được gọi văn bản pháp biệt) n
bản do các quan, t chức hoặc nhân thẩm quyền áp dụng pháp luật
ban nh trên sở các quy phạm pháp luật, trong đó c định quyền
nghĩa vụ pháp cụ th hoặc các hình thức khen thưởng cụ th hoặc các biện
pháp cưỡng chế cụ thể đối với nhân hoặc tổ chức cụ thể. (Quyết định
công nhận tốt nghiệp do Trường Đại học Luật Nội cấp cho sinh viên A
một văn bản áp dụng pháp luật).

Preview text:

Áp dụng pháp luật là gì? Phân biệt với giải thích, sử dụng pháp luật
1. Khái niệm áp dụng pháp luật
Áp dụng pháp luật là loạt động thực hiện pháp luật mang tính tổ chức quyền
lực nhà nước, được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà
chức trách hoặc tổ chức xã hội được Nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hoá
quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể, đối với cá nhân, tổ chức cụ
thể (Xem thêm: Thực hiện pháp luật).
Áp dụng pháp luật được tiến hành trong các trường hợp sau:
1) Khi xảy ra tranh chấp giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật về quyền
và nghĩa vụ mà tự họ không thể giải quyết được, phải nhờ cơ quan nhà nước
(hoặc cơ quan của tổ chức xã hội) có thẩm quyền giải quyết;
2) Khi quyền và nghĩa vụ của các chủ thể không mặc nhiên phát sinh nếu
thiếu sự can thiệp của Nhà nước;
3) Khi cần áp dụng chế tài pháp luật đối với chủ thể vi phạm pháp luật; 4) Khi
nhà nước thấy cần kiểm tra, giám sát hoạt động của các chủ thể quan hệ
pháp luật hoặc để xác định sự tồn tại hay không tồn tại của sự kiện thực tế có
ý nghĩa pháp lí như xác nhận di chúc, xác nhận văn bằng, chứng chỉ, hợp
đồng viết tay, chữ kí của người có thẩm quyền...
2. So sánh sự khác nhau giữa áp dụng pháp luật và sử dụng pháp luật:
Về khái niệm: Sử dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong
đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền và tự do pháp lý của mình (thực
hiện những hành vi mà pháp luật cho phép).
Ví dụ: Người lao động ký hợp đồng lao động với chủ sử dụng lao động.
Còn khái niệm áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong
đó nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước hoặc cán bộ, công chức có
thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể thực hiện những quy định của pháp luật,
hoặc tự mình căn cứ vào những quy định của pháp luật để quyết định làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể.
Ví dụ: Tòa án nhân dân huyện A ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn giữa Ông X và Bà Y.
- Phân biệt sự khác nhau giữa hai khái niệm kể trên: Sử dụng pháp Tiêu chí Áp dụng pháp luật luật Mọi chủ thể Chủ thể
Phải có sự tham gia của cơ quan nhà nước hoặc được pháp luật thực hiện người có thẩm quyền cho phép
- Khi xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ
pháp lý giữa các bên tham gia vào quan hệ pháp
luật mà các bên đó không tự giải quyết được. Ví
dụ: tranh chấp về quyền thừa kế, tranh chấp về hợp đồng,…
- Khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà
đối với những chủ thể có hành vi vi phạm. Ví dụ:
xử phạt người vi phạm luật an toàn giao thông,
người có hành vi làm hàng giả,… Được quy định Trường
- Trong một số quan hệ pháp luật mà nhà nước trong các văn hợp phát
thấy cần thiết phải tham gia để kiểm tra, giám sát bản quy phạm sinh
hoạt động của các bên tham gia quan hệ đó pháp luật
hoặc nhà nước xác nhận tồn tại hay không tồn
tại một số vụ việc, sự kiện thực tế. Ví dụ: công
chứng hợp đồng mua bán nhà, toà tuyên bố một
người mất tích, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người đã chết,…
- Khi những quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ
thể không mặc nhiên phát sinh hoặc chấm dứt
nếu không có sự can thiệp của nhà nước. Ví dụ: đăng ký kết hôn Chủ thể có quyền thực hiện
hoặc không thực Bắt buộc đối với chủ thế bị áp dụng và chủ thể Bản chất hiện, không có liên quan mang tính chất bắt buộc Các quy phạm Hình pháp luật thể
thức thể hiện quyền và tự Văn bản áp dụng pháp luật hiện do pháp lý của chủ thể
3. Phân tích sự khác biệt của khái niệm giải thích pháp luật và áp dụng pháp luật
Dựa trên những đặc điểm đã phân tích kể trên có thể đưa ra một số nhận
định về khái niệm giải thích pháp luật như sau:
3.1 Khái niệm giải thích pháp luật
Pháp luật muốn được thực thi cần được nhận thức đầy đủ và chính xác. Do
đó mục đích của giải thích pháp luật là làm sáng tỏ về mặt nội dung, quy trình
thủ tục pháp lý để quá trình thực hiện pháp luật được thống nhất, đúng đắn
và hợp pháp.hơn nữa do hệ thống các loại văn bản quy phạm pháp luật là rất
nhiều nên khả năng thiếu thống nhất nhận thức về các quy định pháp luật là khó tránh khỏi.
=> Định nghĩa: Giải thích pháp luật là hoạt động làm sáng tỏ nội dung các quy
phạm pháp luật hoặc các sự kiện pháp lý cá biệt nhằm đảm bảo tính thống
nhất về nhận thức và thực thi pháp luật trên thực tế.
3.2 Chủ thể giải thích pháp luật
Việc xác định chủ thể giải thích pháp luật phụ thuộc vào các hình thức giải thích pháp luật.
+ Với hình thức giải thích pháp luật chính thức: chỉ có cơ quan Nhà nước
hoặc… có quyền hoặc được trao quyền mới được tiến hành hoạt động này.
Về nguyên tắc, chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật
đều có quyền giải thích văn bản do chính mình ban hành ra. Thực tế, có chủ
thể ủy quyền cho người khác giải thích.
+ Với hình thức giải thích pháp luật không chính thức: bất kì chủ thể nào cũng
có thể thực hiện nhưng phải có sự hiểu biết pháp luật sâu sắc và có trình độ nhất định.
3.3 Hình thức giải thích pháp luật
Phụ thuộc vào nhiều yếu tổ như chủ thể, nội dung và yêu cầu của từng vấn
đề đặt ra dựa vào phương thức thể hiện: giải thích bằng lời nói(văn nói) và
văn bản (văn viết) dựa vào chủ thể tiến hành và giá trị văn bản giải thích:
chính thức và không chính thức.
3.3.1 Giải thích chính thức: là hoạt độg của các chủ thể nhân danh Nhà
nước để làm sáng tỏ về nội dung, ý nghĩa của các quy phạm pháp luật hoặc
một sự kiện pháp lý cụ thể nhằm đảo bảo cho quá trình nhận thức, thực thi
pháp luật thống nhất và hiệu quả. Việc được pháp luật quy định và sự đảm
bảo của Nhà nước làm cho loại giải thích này mang tính bắt buộc và hiệu lực pháp lý
+ Do các cơ quan Nhà nước hoặc…tiến hành. Về nguyên tắc (như trên) . Về
hình thức, giải thích chính thức có thể là giải thích mang tính quy phạm hoặc tính cá biệt cụ thể.
- Tính quy phạm: hoạt động của cơ quan Nhà nước hoặc cá nhân được trao
quyền là ban hành ra một văn bản luật nhằm hướng dẫn, giải thích cho một
văn bản quy phạm pháp luật khác.
- Tính cá biệt: …..trao quyền là làm sáng tỏ một nội dung, sự kiện pháp lý nào
đó thuộc thẩm quyền giải quyết của chủ thể đó.
+ Trình tự thủ tục giải thích chính thức do pháp luật quy định. Đây là hoạt
động nhân danh Nhà nước, có tính pháp lý.
+ Kết quả việc giải thích có hiệu lực và giá trị pháp lý.
3.3.2 Giải thích không chính thức: là hoạt động không nhân danh Nhà
nước, được tiến hành bởi bất kì cá nhân, tổ chức nào và vì những mục đích
khác nhau. Đặc điểm cơ bản:
+ Được tiến hành bởi bất kì loại chủ thể nào è thực hiện một phần quyền tự
do ngôn luận của các chủ thể được pháp luật ghi nhận và đảm bảo. Về ND,
không mang tính quy phạm. Trên thực tế, không có sự đồng nhất giữa các chủ thể.
+ Hoàn toàn không nhân danh Nhà nước: không mag tính bắt buộc, không
hàm chứa quyền lực Nhà nước.
+ Hoạt động này và kết quả của nó hoàn toàn không có hiệu lực pháp lý bắt buộc.
3.4 Phương pháp giải thích pháp luật
- Phương pháp lôgíc: đặc trưng là xem xét mối liên hệ, sự tương tác, kết cấu
về nội dung của các vấn đề thuộc đối tượng giải thích, nhằm chỉ ra những
mâu thuẫn, sự phủ định lẫn nhau hoặc khẳng định về tính hợp lý về các vấn đề đó.
- Phương pháp giải thích chính trị lịch sử: nhằm làm sáng tỏ điều kiện, hoàn
cảnh lịch sử thực tế mà các quy phạm pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật
được ban hành hoặc một sự kiện pháp lý đã xuất hiện.
- Phương pháp giải thích ngôn ngữ, văn phạm: để giải thích về các quy phạm
pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật.
- Phương pháp giải thích, so sánh, đối chiếu: nhằm kiến giải về mức độ
tương đồng, khác biệt đối với quy định pháp luật hoặc các cách điều chỉnh,
giải quyết các vấn đề pháp lý thực tiễn giữa các hệ thống pháp luật khác nhau.
- Phương pháp giải thích hệ thống: làm sáng tỏ nội dung, nhiệm vụ của quy
phạm đó trong mối tương quan với quy phạm khác của quá trình điều chỉnh pháp luật.
3.5 Nguyên tắc của giải thích pháp luật
Nguyên tắc khách quan trung thực: giải thích pháp luật không là hoạt động
lập pháp mà nó hỗ trợ cho quá trình lập pháp để các văn bản quy phạm pháp
luật được có hiệu lực trên thực tế. Việc giải thích phải xuất phát từ yêu cầu
chung; cần tôn trọng nội dung của các quy phạm pháp luật hoặc các sự kiện
cá biệt với tính cách là đối tượng cần giải thích.
Nguyên tắc pháp chế: tôn trọng tính tối cao của hiến pháp về mặt nội dung,
hình thức đối với các văn bản quy phạm pháp luật được giải thích và các văn
bản giải thích. Cần đảm bảo sự tương thích giữa quy định của hiến pháp với
văn bản được giải thích và văn bản giải thích. Điều này đòi hỏi việc đảm bảo
đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục và yêu cầu về hình thức là hết sức quan
trọng đòi hỏi cả việc từ chối không giải thích khi có yêu cầu cũng phải đưa ra
cơ sở pháp lý của việc từ chối đó và trả lời cụ thể bằng văn bản.
4. Phân tích việc áp dụng pháp luật đối với bộ luật dân sự
Với tính chất là một đạo luật quan trọng, Bộ luật dân sự năm 2015 đã xác
định một cách nhất quán tư tưởng chỉ đạo của các nguyên tắc cơ bản được
quy định tại Điều 3 và khẳng định: “Bộ luật này là luật chung điều chỉnh các
quan hệ dân sự”. Với nguyên tắc này, BLDS sẽ điều chỉnh toàn bộ các quan
hệ tài sản giữa các chủ thể trong xã hội mang tính chất hàng hóa – tiền tệ và
các quan hệ nhân thân phi vật chất, trong đó các chủ thể tham gia bình đẳng
về mặt pháp lý, tự chịu trách nhiệm về tài sản[6]. Hay nói cách khác, BLDS sẽ
điều chỉnh tất cả những vấn đề thuộc “pháp luật dân sự”, tức là những ứng
xử, quan hệ được điều chỉnh bởi luật khác nhưng thuộc trong lĩnh vực “pháp luật dân sự”[7].
BLDS cũ không quy định cụ thể xử lý mối quan hệ giữa BLDS và các luật
chuyên ngành. Do đó, trong thực tế, đã phát sinh vướng mắc về việc ADPL
khi các quy định của BLDS cũ khác với quy định của các luật chuyên ngành.
Để khắc phục bất cập trên, BLDS năm 2015 đã quy định cụ thể nguyên tắc áp
dụng BLDS tại Điều 4. Theo đó, trong trường hợp các quy định của luật khác
vi phạm nguyên tắc cơ bản của BLDS năm 2015 hoặc trường hợp luật khác
có liên quan không quy định hoặc có quy định nhưng trái với quy định của
BLDS thì phải áp dụng các quy định của BLDS.
Đối với các quan hệ có cùng bản chất pháp lý, luật chuyên ngành có thể khác
với BLDS do đặc thù của quan hệ chuyên ngành nhưng không được trái với
các nguyên tắc chung của luật dân sự. Một số quy định của BLDS như quy
định về tư cách pháp nhân, về sở hữu chung hợp nhất, sở hữu chung theo
phần, những quy định mang tính xác định một khái niệm pháp lý… có ý nghĩa,
giá trị pháp lý chung cho toàn bộ hệ thống pháp luật. Không thể có pháp nhân
riêng cho luật dân sự, riêng cho luật thương mại, luật hợp tác xã, mặc dù các
loại hình công ty và hợp tác xã có quy chế riêng về việc thành lập, hoạt động,
giải thể. Đối với một tài sản nào đó, nếu chủ sở hữu trực tiếp chiếm hữu, sử
dụng thì sẽ phải tuân theo quy định của chế định tài sản vật quyền. Tuy nhiên,
nếu tài sản đó đưa vào quá trình giao lưu dân sự, kinh tế thông qua hợp đồng
vay, cho thuê, đầu tư kinh doanh như lập công ty… thì phải áp dụng theo các
quy định của các loại hợp đồng, giao dịch tương ứng, theo quy chế trái quyền.
Việc điều chỉnh các quan hệ dân sự trong các lĩnh vực cụ thể phải tuân thủ
nguyên tắc không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự
được quy định tại Điều 3 của BLDS.
Ví dụ, liên quan đến vấn đề lãi suất, Điều 468 BLDS năm 2015 đã có quy định
loại trừ việc áp dụng mức trần lãi suất vay 20% trong “trường hợp luật khác
có liên quan quy định khác”. “Luật khác” ở đây được hiểu là pháp luật chuyên
ngành. Theo quy định tại Điều 12 Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 và
khoản 2, 3 Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2010, trong điều
kiện bình thường, lãi suất trong hoạt động ngân hàng sẽ thực hiện theo cơ
chế tự thỏa thuận, không có trần lãi suất. Chỉ trong điều kiện đặc biệt cần có
sự can thiệp của Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước mới quy định cơ chế xác
định lãi suất trong quan hệ giữa TCTD và khách hàng, cơ chế xác định lãi
suất này có thể bao gồm trần lãi suất cho vay trong quan hệ cấp tín dụng
giữa TCTD với khách hàng. Như vậy, BLDS năm 2015 đã loại trừ việc áp
dụng mức trần lãi suất vay 20%/năm đối với hoạt động cho vay của các
TCTD, lúc đó pháp luật về tín dụng, ngân hàng sẽ cho phép các bên trong
quan hệ tín dụng là TCTD và khách hàng được tự thoả thuận.
5. Phân tích một số sai sót trong áp dụng pháp luật hành chính
Một số sai sót thường gặp khi áp dụng pháp luật nội dung trong việc giải quyết án hành chính:
Áp dụng pháp luật nội dung trong quá trình giải quyết vụ án hành chính là một
quá trình phức tạp của Tòa án (mà cụ thể là của Hội đồng xét xử). Để có thể
có được bản án hành chính đúng pháp luật, khách quan, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các đương sự trong vụ án thì quá trình áp dụng pháp luật
nội dung vào giải quyết vụ án hành chính cần tuân thủ triệt để và chính xác
theo các bước (giai đoạn) sau:
- Phân tích, đánh giá các tình tiết, các tài liệu, chứng cứ của vụ án một cách
toàn diện, khách quan, chính xác và trong mối liên hệ mật thiết với nhau;
- Lựa chọn quy phạm pháp luật nội dung phù hợp và phân tích làm rõ nội
dung, ý nghĩa của quy phạm pháp luật đối với trường hợp cần áp dụng;
- Ban hành bản án, quyết định hành chính.
Nghiên cứu các bản án hành chính của các Tòa án nhân dân các cấp, đặc
biệt là các bản án hành chính đã có hiệu lực pháp luật bị khiếu nại theo thủ
tục giám đốc thẩm, tái thẩm, thấy rằng việc áp dụng không đúng pháp luật nội
dung trong việc giải quyết vụ án hành chính trong thực tiễn liên quan đến việc
không tuân thủ triệt để, chính xác các giai đoạn của quá trình áp dụng pháp
luật nội dung đã nêu trên và thể hiện ở các mặt như sau: Có căn cứ pháp lý
ban hành quyết định hành chính nhưng Tòa án đánh giá không có căn cứ
pháp lý; Không có (hoặc chưa có đủ) căn cứ pháp lý ban hành quyết định
nhưng Tòa án đánh giá có căn cứ pháp lý; Tòa án đánh giá không đúng về
trình tự, thủ tục hoặc thẩm quyền ban hành quyết định hành chính và Tòa án
ban hành phần quyết định trong bản án hành chính không đúng pháp luật.
5.1 Sai sót liên quan đến việc phân tích, đánh giá các tình tiết khách quan của vụ án
Những tình tiết khách quan của vụ án hành chính được phản ánh qua hệ
thống chứng cứ, tài liệu do các bên đương sự, Viện Kiểm sát cung cấp hoặc
do Tòa án xác minh, thu thập. Hệ thống chứng cứ này bao gồm những chứng
cứ có trong hồ sơ vụ án và các chứng cứ mới được xuất trình tại phiên tòa.
Theo quy định pháp luật tố tụng hành chính (các Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các vụ án hành chính và Luật tố tụng hành chính năm 2010) thì khi xét xử,
Hội đồng xét xử xác định đầy đủ các tình tiết của vụ án bằng cách nghe ý
kiến của người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan hoặc người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, đối chiếu các ý kiến
này với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được và kết quả hỏi tại phiên tòa.
Trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ thu thập được, Tòa án xem xét, đánh giá
các tài liệu, chứng cứ và nội dung các văn bản pháp luật mà cơ quan nhà
nước hoặc người có thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước dùng
làm căn cứ ban hành các quyết định hành chính hoặc để thực hiện (hoặc
không thực hiện) hành vi hành chính bị khởi kiện có phù hợp với thực tế
khách quan và đúng pháp luật hay không, từ đó để có căn cứ quyết định chấp
nhận (một phần hay toàn bộ) yêu cầu của người khởi kiện hay bác yêu cầu
khởi kiện. Những tình tiết đã được chứng minh, những chứng cứ, căn cứ
pháp luật để giải quyết vụ án phải được thể hiện trong bản án. Phần quyết
định của bản án phải phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án. Nếu
phần quyết định trong bản án mang tính chất phiến diện một chiều, chỉ
nghiêng về người khởi kiện hoặc người bị kiện, chỉ dựa vào suy luận chủ
quan mà không dựa vào các chứng cứ đã được chứng minh, xem xét tại
phiên tòa thì không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án, làm
cho bản án, quyết định của Tòa án không đúng pháp luật.
Thực tế xét xử thời gian qua cho thấy, có những vụ án hành chính do Thẩm
phán xem xét, đánh giá chứng cứ không đầy đủ, khách quan, toàn diện nên
có trường hợp có căn cứ pháp lý ban hành quyết định hành chính nhưng Tòa
án đánh giá không có căn cứ pháp lý; ngược lại có trường hợp không có
hoặc chưa có đủ căn cứ pháp lý ban hành quyết định hành chính nhưng Tòa
án lại đánh giá có đủ căn cứ pháp lý.
- Ví dụ 1 (về trường hợp có căn cứ pháp lý ban hành quyết định hành chính
nhưng Tòa án đánh giá không có căn cứ pháp lý):
Thửa đất số 77, tờ bản đồ số 8 (theo Nghị định số 64/NĐ-CP ngày 27/9/1993
của Chính phủ), có diện tích 1.225m2 tại xã DN, huyện DX, tỉnh QN (theo Chỉ
thị 299/TTg ngày 10/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ là thửa số 455, tờ
bản đồ số 6) là đất thổ cư có nguồn gốc của gia đình ông Phạm Ngọc H quản
lý, sử dụng từ trước năm 1975. Cuối năm 1986, gia đình ông H chuyển sang
thị xã HA sinh sống, nhưng vẫn thường xuyên về chăm sóc cây và trồng mới
một số loại cây trên thửa đất này.
Bà Phạm Thị T là chủ hộ và cùng con là ông Phạm Văn B có nhà ở ổn định từ
năm 1975 đến nay tại thửa đất số 84, tờ bản đồ số 8, xã DN có diện tích
1.515m2 đất thổ cư (theo Nghị định 64/NĐ-CP ngày 27/9/1993 của Chính
phủ). Thời điểm thực hiện kê khai, đăng ký ruộng đất theo Chỉ thị 299/TTg
ngày 10/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ, thửa đất số 84 này của gia đình
bà T là thửa đất số 456, tờ bản đồ số 6, xã DN. Năm 1994-1995, thực hiện
Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ, bà T kê khai diện tích
1.225m2 đất T thuộc thửa 77, tờ bản đồ số 8, xã DN (nguyên là thửa đất của
gia đình ông H sử dụng nêu trên), còn ông Phạm Văn B (con trai bà T và
cùng chung hộ khẩu với bà T) kê khai và đăng ký quyền sử dụng thửa đất số
84, tờ bản đồ số 8, diện tích 1.515m2 đất thổ cư (thửa đất của bà T nêu trên).
Ngày 10/8/1995, Ủy ban nhân dân huyện DX cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số G695365 cho hộ bà T diện tích 1.617m2 đất, trong đó có
1.225m2 đất T thuộc thửa 77, tờ bản đồ số 8 và 392m2 đất lúa màu thuộc
thửa 83, tờ bản đồ số 8, xã DN.
Ngày 26/12/2006, Ủy ban nhân dân huyện DX ban hành Quyết định số
1827/QĐ-UBND thu hồi của hộ bà T 1.225m2 đất ở thuộc thửa 77, tờ bản đồ
số 8. Lý do thu hồi: Do giao quyền sử dụng đất sai đối tượng sử dụng tại Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số G695365 ngày 10/8/1995. Cùng ngày, Ủy
ban nhân dân huyện DX ban hành Quyết định số 1828/QĐ-UBND công nhận
quyền sử dụng 1.225m2 đất trên cho ông H và ngày 03/01/2007, Ủy ban
nhân dân huyện DX cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 977327 cho hộ ông H.
Ngày 19/5/2008, bà Phạm Thị T có đơn khiếu nại.
Ngày 16/12/2008, Ủy ban nhân dân huyện DX ban hành Quyết định số
2372/QĐ-UBND về việc hủy Quyết định số 1827/QĐ-UBND ngày 26/12/2006,
điều chỉnh cho hộ bà T được sử dụng thửa số 77, tờ bản đồ số 8, xã DN.
Ngày 16/01/2009, ông H khiếu nại việc Ủy ban nhân dân huyện DX cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 1.225m2 cho hộ bà T.
Ngày 13/10/2009, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện DX ban hành Quyết định
số 2233/QĐ-UBND về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông H, có nội dung:
việc cấp 1.225m2 đất cho hộ bà T là không đúng đối tượng, không đúng
nguồn gốc; việc công nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông H là chưa có đủ cơ sở.
Ngày 10/11/2009, ông Phạm Ngọc H có đơn đề nghị Ủy ban nhân dân huyện
DX xem xét lại Quyết định số 2233/QĐ-UBND ngày 13/10/2009 của Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân huyện DX.
Ngày 01/12/2009, Uỷ ban nhân dân huyện DX ban hành Quyết định số
2936/QĐ-UBND về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
G695365 ngày 10/8/1995 của hộ bà T vì cấp không đúng đối tượng đối với
diện tích 1.225m2; giao diện tích đất nêu trên cho Uỷ ban nhân dân xã DN quản lý, sử dụng.
Ông B (con trai bà T) có đơn khiếu nại, sau đó khởi kiện tại Tòa án nhân dân
huyện DX yêu cầu xử hủy Quyết định số 2936/QĐ-UBND ngày 01/12/2009
của Uỷ ban nhân dân huyện DX.
Ngày 04/6/2010, Uỷ ban nhân dân huyện DX ban hành Quyết định số
1123/QĐ-UBND về việc điều chỉnh Quyết định số 2936/QĐ-UBND, có nội
dung: hủy bỏ điểm 2 Điều 1 quyết định số 2936/QĐ-UBND (có nội dung "giao
diện tích đất nêu trên cho UBND xã DN quản lý, sử dụng theo đúng quy định
của pháp luật”) vì Uỷ ban nhân dân huyện DX chưa thu hồi diện tích 1.225m2
nên việc giao diện tích đất nêu trên cho Uỷ ban nhân dân xã DN quản lý, sử
dụng là không đúng trình tự quy định của pháp luật; các nội dung khác của
quyết định 2936/QĐ-UBND vẫn có hiệu lực pháp luật.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm, Toà án nhân dân huyện DX, tỉnh QN quyết
định: Bác yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn B.
Ông Phạm Văn B có đơn kháng cáo.
Tại Bản án hành chính phúc thẩm, Toà án nhân dân tỉnh QN quyết định:
Chấp nhận kháng cáo của ông Phạm Văn B, xử sửa bản án sơ thẩm, hủy
Quyết định số 2936/QĐ-UBND ngày 01/12/2009 của UBND huyện DX.
Tòa án cấp phúc thẩm hủy Quyết định số 2936/QĐ-UBND ngày 01/12/2009
của UBND huyện DX vì đã xem xét, đánh giá chứng cứ không đúng về nguồn
gốc và quá trình sử dụng đất của các đương sự, cụ thể:
Về nguồn gốc và quá trình sử dụng diện tích 1.225m2 đất thửa số 77, tờ bản
đồ số 8, xã DN, huyện DX, tỉnh QN: ông B và ông H đều có lời khai thống
nhất là đất có nguồn gốc của cha mẹ ông H quản lý, sử dụng từ trước năm
1975, sau đó gia đình ông H tiếp tục sử dụng. Đến năm 1986, do hoàn cảnh
công tác phải chuyển về thị xã HA nên ông H đã nhờ bà T trông coi hộ (có sự
chứng kiến của nhiều người). Tại ‘ Đơn xin chuyển giao quyền sử dụng đất’
do bà T lập ngày 22/10/2006, bà T cũng thừa nhận bà chỉ là người trông coi,
quản lý và đứng tên đăng ký thửa đất hộ cho vợ chồng ông H, đồng thời bà T
cũng cam kết không tranh chấp gì về thửa đất này.
Mặt khác, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng thể hiện rằng trong thời gian
đi vắng, gia đình ông H vẫn thường xuyên về chăm sóc, khai thác và trồng
cây, hiện trên đất vẫn còn cây lâu năm do gia đình ông H trồng. Như vậy, gia
đình ông H là người sử dụng thửa đất số 77, tờ bản đồ số 8, xã DN, huyện
DX liên tục, ổn định từ năm 1975 đến nay. Tuy nhiên, tại thời điểm Nhà nước
có chủ trương tiến hành kê khai đăng ký quyền sử dụng đất, do ở xa và
không được thông báo nên hộ ông H đã không tiến hành kê khai diện tích đất
nêu trên mà hộ bà T kê khai và được Uỷ ban nhân dân huyện DX cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 10/8/1995.
Theo quy định tại Điều 99 và Điều 101 Luật Đất đai năm 2013 quy định người
sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận thì
được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất’.
Theo quy định nêu trên thì gia đình bà T không phải là người sử dụng thửa
đất số 77, tờ bản đồ số 8, xã DN, huyện DX liên tục, ổn định tại thời điểm
được xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1995. Do vậy, trong
quá trình quản lý kê khai, đăng ký sử dụng đất, Uỷ ban nhân dân xã DN xác
nhận bà T là đối tượng đang sử dụng đất để Uỷ ban nhân dân huyện DX cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích 1.225m2 đất thửa số 77, tờ bản đồ
số 8, xã DN, huyện DX, là không đúng nguồn gốc và đối tượng sử dụng đất.
Tại Báo cáo số 52/BC-UBND ngày 16/6/2009 gửi Uỷ ban nhân dân huyện DX,
Uỷ ban nhân dân xã DN đã xác nhận điều này. Do đó, Uỷ ban nhân dân
huyện DX đã ban hành Quyết định số 2936/QĐ-UBND ngày 01/12/2009
(được sửa đổi bằng Quyết định số 1123/QĐ-UBND ngày 04/6/2010) có nội
dung thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho hộ bà T là đúng pháp luật.
5.2 Sai sót của bản án hành chính liên quan đến việc lựa chọn quy phạm
pháp luật phù hợp và việc phân tích nội dung, ý nghĩa của quy phạm pháp luật cần áp dụng
Khi giải quyết vụ án hành chính, căn cứ để xem xét quyết định hành chính,
hành vi hành chính đúng hay sai là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị
pháp lý cao nhất quy định về lĩnh vực đó đang có hiệu lực thi hành tại thời
điểm ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính bị khiếu kiện. Vì vậy,
để việc giải quyết vụ án được đúng pháp luật, Tòa án phải xác minh tại thời
điểm ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính bị khởi kiện có bao
nhiêu văn bản quy phạm pháp luật của những cơ quan nào quy định về lĩnh
vực đó đang có hiệu lực thi hành để xác định đúng văn bản quy phạm pháp
luật có giá trị pháp lý cao nhất. Đồng thời, các văn bản quy phạm pháp luật
của cơ quan có thẩm quyền cấp dưới hướng dẫn thi hành các văn bản pháp
luật cao hơn cũng có giá trị quan trọng trong việc áp dụng pháp luật khi giải quyết vụ án hành chính.
Thực tiễn giải quyết vụ án hành chính cho thấy, bản án của Tòa án không
đúng pháp luật nội dung có thể xuất phát từ việc áp dụng sai lầm pháp luật,
có thể do việc không chú ý tới văn bản hướng dẫn thi hành của cơ quan có
thẩm quyền; hoặc có thể do cách hiểu máy móc, không đúng của Thẩm phán
đối với các văn bản pháp luật nội dung.
- Việc không xác định đầy đủ và chính xác các văn bản pháp luật hoặc văn
bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất làm cơ sở giải quyết vụ án hành
chính là nguyên nhân dẫn đến việc áp dụng sai lầm pháp luật khi giải quyết vụ án hành chính.
5.3 Sai sót liên quan đến việc ban hành phần quyết định của bản án hành chính
Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, nhiều Thẩm phán không chú ý
trong việc xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính bị khiếu kiện; khi
tuyên án và ra bản án có nhiều sai sót trong phần quyết định của bản án mà
trong nhiều trường hợp phải kháng nghị và giải quyết lại vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm.
Ví dụ: Do có sự tranh chấp quyền sử dụng đất, Uỷ ban nhân dân huyện T đã
ra Quyết định số 758/QĐ-UB thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
ông P, H, N. Ông P và ông N có đơn khiếu nại quyết định trên. Uỷ ban nhân
dân huyện T đã có các quyết định giải khiếu nại của ông P và ông N.
Ông P và ông N đều có đơn khởi kiện vụ án hành chính, yêu cầu Toà án huỷ
với Quyết định số 758/QĐ-UB.
Toà án cấp sơ thẩm đã thụ lý 02 vụ án hành chính đối với đơn khởi kiện của ông P và ông N.
Đối với trường hợp khởi kiện của ông P: Tại bản án hành chính sơ thẩm số
07, Toà án cấp sơ thẩm quyết định bác đơn khởi kiện; giữ nguyên Quyết định
số 758/QĐ-UB của Uỷ ban nhân dân huyện T.
Đối với trường hợp khởi kiện của ông N: tại bản án hành chính sơ thẩm số 08,
Toà án cấp sơ thẩm quyết định bác đơn khởi kiện; giữ nguyên Quyết định số
758/QĐ-UB của Uỷ ban nhân dân huyện T.
Tuy nhiên, sau khi ông H khiếu nại, Uỷ ban nhân dân huyện T thấy rằng việc
thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông H là không đúng pháp
luật, nên muốn hủy bỏ một phần của Quyết định số 758/QĐ-UB; nhưng do
các bản án hành chính sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật, nên Uỷ ban nhân
dân huyện T phải khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm.
Tại Điều 1 Quyết định số 758/QĐ-UB, Uỷ ban nhân dân huyện T đã quyết
định riêng đối với ông P, ông N và ông H. Ông P và ông N cùng khởi kiện vụ
án hành chính yêu cầu huỷ Quyết định số 758/QĐ-UB của Uỷ ban nhân dân
huyện T đối với phần có liên quan đến quyền lợi của mỗi người. Lẽ ra, khi giải
quyết, Toà án cấp sơ thẩm chỉ đánh giá tính hợp pháp của phần quyết định
có liên quan đến ông P hoặc ông N để có quyết định đúng pháp luật. Nhưng,
Toà án cấp sơ thẩm đã quyết định giữ nguyên quyết định bị khiếu kiện là không đúng.
6. Câu hỏi thường gặp về áp dụng pháp luật
6.1 Áp dụng pháp luật có đặc trưng gì?
- Áp dụng pháp luật là hoạt động thể hiện tính tổ chức, quyền lực nhà nước;
- Áp dụng pháp luật là hoạt động cá biệt hoá các quy phạm pháp luật hiện
hành vào những trường hợp cụ thể, đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể;
- Áp dụng pháp luật là hoạt động thể hiện tính sáng tạo.
6.2 Khái niệm cơ bản về áp dụng pháp luật?
Áp dụng pháp luật là loạt động thực hiện pháp luật mang tính tổ chức quyền
lực nhà nước, được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà
chức trách hoặc tổ chức xã hội được Nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hoá
quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể, đối với cá nhân, tổ chức cụ thể.
6.3 Nguyên tắc áp dụng pháp luật?
+ Thứ nhất, ưu tiên lựa chọn văn bản tại thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật
+ Thứ hai, áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn
+ Thứ ba, áp dụng quy định của văn bản được ban hành sau
+ Thứ tư, áp dụng văn bản quy phạm pháp luật mới không quy định trách
nhiệm pháp lý hoặc quy định trách nhiệm pháp lý nhẹ hơn đối với hành vi xảy
ra trước ngày văn bản có hiệu lực
+ Thứ năm, áp dụng quy định của điều ước quốc tế trong trường hợp văn
bản quy phạm pháp luật trong nước và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề, trừ Hiến pháp.
Việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật đúng nguyên tắc, phù hợp sẽ dẫn
đến kết quả xử lý công việc được chính xác và ngược lại, nếu áp dụng văn
bản quy phạm pháp luật sai nguyên tắc thì sẽ dẫn đến sai sót, làm ảnh
hưởng đến đối tượng bị áp dụng văn bản quy phạm pháp luật. Hệ thống pháp
luật hiện hành ở nước ta vẫn còn tồn tại nhiều văn bản nội dung chồng chéo, mâu thuẫn nhau.
6.4 Văn bản áp dụng pháp luật được hiểu như thế nào?
Văn bản áp dụng pháp luật (còn được gọi là văn bản pháp lý cá biệt) là văn
bản do các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền áp dụng pháp luật
ban hành trên cơ sở các quy phạm pháp luật, trong đó xác định rõ quyền và
nghĩa vụ pháp lý cụ thể hoặc các hình thức khen thưởng cụ thể hoặc các biện
pháp cưỡng chế cụ thể đối với cá nhân hoặc tổ chức cụ thể. (Quyết định
công nhận tốt nghiệp do Trường Đại học Luật Hà Nội cấp cho sinh viên A là
một văn bản áp dụng pháp luật).
Document Outline

  • Áp dụng pháp luật là gì? Phân biệt với giải thích,
    • 1. Khái niệm áp dụng pháp luật
    • 2. So sánh sự khác nhau giữa áp dụng pháp luật và
    • 3. Phân tích sự khác biệt của khái niệm giải thích
      • 3.1 Khái niệm giải thích pháp luật
      • 3.2 Chủ thể giải thích pháp luật
      • 3.3 Hình thức giải thích pháp luật
      • 3.4 Phương pháp giải thích pháp luật
      • 3.5 Nguyên tắc của giải thích pháp luật
    • 4. Phân tích việc áp dụng pháp luật đối với bộ luậ
    • 5. Phân tích một số sai sót trong áp dụng pháp luậ
    • 6. Câu hỏi thường gặp về áp dụng pháp luật
      • 6.1 Áp dụng pháp luật có đặc trưng gì?
      • 6.2 Khái niệm cơ bản về áp dụng pháp luật?
      • 6.3 Nguyên tắc áp dụng pháp luật?
      • 6.4 Văn bản áp dụng pháp luật được hiểu như thế nà