BÀI 2 NHIỆM V CỦA NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU
2.1.
Những quan điểm khác nhau về nhiệm vụ của ngôn ngữ học đối chiếu
Tựu trung, 4 loại ý kiến khác nhau:
2.1.1.
Loại ý kiến thứ nhất: Chủ trương NNHĐC phải truy tìm những nét khác biệt giữa
các ngôn ngữ. Chủ trương này xuất phát từ 1 phạm vi rất hẹp: đó công tác giảng dạy học
tập ngoại ngữ. Chính những nét khác nhau giữa tiếng mẹ đẻ ngoại ngữ sẽ m cho người học
gặp phải những khó khăn nhất định; trong khi những giống nhau giữa ngoại ng tiếng m
đẻ s được tiếp thu một cách d dàng. Những nhà ngôn ngữ học ý kiến thuộc loại này là: A.
Refomaski (1962), R. Lado (1964)...
2.1.2.
Loại ý kiến thứ hai: Chủ trương NNHĐC phải truy tìm những nét khác biệt quan
trọng nhất giữa các ngôn ngữ. Như vậy, sở luận của chủ trương này sự phân biệt 2 kiểu
khác biệt: nét khác biệt thông thường nét khác biệt quan trọng. Thế nhưng, lấy làm sở
để nói rằng giữa 2 ngôn ngữ đối chiếu, đây nét khác biệt quan trọng nhất còn cái kia t
không? Điều này tùy thuộc vào các mục đích nghiên cứu khác nhau. Đại biểu cho ý kiến này
B.L.Wolf (1960)
2.1.3.
Loại ý kiến thứ ba: Chủ trương NNHĐC phải hướng tới cả những sự giống nhau
bên cạnh những nét khác biệt giữa c ngôn ngữ. Khuynh hướng này cho rằng: sự giống nhau
giữa các ngôn ngữ cái sở tối thiểu đảm bảo cho công việc đối chiếu tr nên kết quả.
Một loại giống nhau ngôn ngữ học so sánh - đối chiếu phải để m tới sự giống nhau về
chức năng và hoạt động ngôn ngữ. Đại biểu cho ý kiến này Akhmanova (1972), Quang
Thiêm (1983).
2.1.4.
Loại ý kiến thứ tư: Chủ trương bên cạnh những sự giống nhau khác nhau, việc
NCĐC cần phải lưu ý đến cả những sự tương ng bất tương ng giữa c ngôn ngữ; đồng
thời làm sáng tỏ những mối quan hệ nguyên nhân giữa các hiện ợng đó. Đại biểu cho ý kiến
này là V.M.Avramop (1965)
2.2.
Dựa vào phạm vi ứng dụng của ngôn ng học đối chiếu để xác định nhiệm v
cụ thể của ngôn ngữ học đối chiếu
1
Vấn đề phạm vi phân giới của nghiên cứu đối chiếu phải được giải quyết trên căn bản
mục đích đối chiếu. Phạm vi phân giới cụ thể của việc NCĐC phải được giải quyết trên căn bản
mục đích của ngành học. Trong đó cần phải xây dựng một hệ thống luận về các nét, các tiêu
chí, các đặc trưng quan trọng hơn cả phân định được các kiểu loại; các sự giống nhau
khác nhau; sự ơng ứng bất ơng ứng; tính chất, tỉ lệ, mức độ quan tâm đến chúng trong
những mục đích đối chiếu khác nhau. Nhiệm vụ c thể của NCĐC các ngôn ngữ chắc chắn sẽ
n nếu chú ý đến sự phân biệt và hợp nhất hai phạm vi ứng dụng của phân tích đối chiếu.
2.2.1.
Phạm vi ứng dụng thuyết ngôn ng học
phạm vi này cần chú ý đến những nhiệm vụ cụ thể của NCĐC đối với ngôn ngữ học
đại ơng, loại hình học, ngôn ng học so sánh - lịch sử, ngôn ng học so sánh - khu vực
(ngữ vực học).
a)
NNHĐC với ngôn ngữ học đại cương (phổ niệm học ngôn ngữ): Việc nghiên cứu đối
chiếu chỉ tập trung vào những sự giống nhau. Nhưng đây s giống nhau chung nhất giữa các
ngôn ngữ - những sự giống nhau mang tính chất phổ biến. Cái đơn vị nhận biết có tính chất
định hướng cho việc nghiên cứu phổ niệm những nét chung nhất của mọi ngôn ngữ.
b)
NNHĐC với loại hình học: Việc NCĐC v bản tập trung vào những sự giống
nhau đặc tính loại nh. Dựa vào những sự giống nhau như vậy mới thể tập hợp các ngôn
ngữ thành những kiểu loại hình nhất định. dụ: Từ đầu thế kỷ thứ XIX, F. Schlegel đã đối
chiếu tiếng Sancrit với tiếng Hy Lạp, tiếng La tinh, tiếng Thổ Nhĩ K để đi đến chỗ xác định
hai loại hình ngôn ngữ loại hình ngôn ngữ khuất chiết loại hình ngôn ngữ chắp dính. Việc
NCĐC thường tập trung vào:
1.
Những nét chung nhất cho mọi ngôn ngữ;
2.
Những nét chiếm ưu thế trong nhiều ngôn ngữ;
3.
Những nét ph biến một số ngôn ngữ;
4.
Những nét riêng của một ngôn ngữ.
Nhờ vậy, từ các ngôn ngữ cùng loại hình có thể xác định ra các tiểu loại hình. Bởi vì,
các ngôn ngữ những kiểu loại hình nhất định lại sự khu biệt lẫn nhau. Tóm lại, NNHĐC
cung cấp cho loại hình học nhiều liệu cụ thể về cấu trúc hoạt động của các ngôn ngữ cùng
khác loại hình, góp phần làm rõ đặc trưng của từng loại hình ngôn ngữ bổ sung cho loại
2
hình học những hướng nghiên cứu mới. Ngược lại, nhờ những kết quả nghiên cứu của loại hình
học NNHĐC có được s để giải thích các hiện tượng tương đồng dị biệt giữa các
ngôn ngữ. Đồng thời, kết quả phân loại loại hình các ngôn ngữ th giúp ích rất nhiều cho
việc miêu tả các ngôn ngữ mới lạ, vì chỉ cần biết được một vài đặc điểm nhất định của một
ngôn ngữ ta thể xác định thuộc loại hình ngôn ngữ nào, từ đó, dựa vào hiểu biết về loại
hình ngôn ngữ này để định hướng việc nghiên cứu ngôn ngữ đang xét. dụ: giai đoạn mở
đầu khi nghiên cứu tiếng Việt, Thái, Miến, nhờ biết chúng cùng loại hình với tiếng Hán nên
dựa vào kinh nghiệm nghiên cứu Hán ngữ học, các nhà nghiên cứu đã đẩy nhanh tiến độ
nghiên cứu các ngôn ngữ trên.
c)
NNHĐC với NNH so sánh lịch sử:
Nghiên cứu đối chiếu dựa vào việc truy tìm những sự giống nhau trên những hiện tượng
khác nhau. Đơn vị nhận biết nh chất định hướng cho việc so sánh- lịch s đây những
nét tương đồng lịch sử. Tìm hiểu xác lập những nét ơng đồng kiểu này sẽ giúp nhà NNH
chỉ ra được những mối quan hệ lịch s giữa các ngôn ngữ trong ng hệ, một nhóm ngôn ngữ...
thuộc cùng một gia đình.
d)
NNHĐC với ngữ vực học: NCĐC bản nhằm vào những sự giống nhau giữa các
ngôn ngữ trong ng một khu vực. Những sự giống nhau này vốn kết quả của quá trình tiếp
xúc lịch sử - văn hóa của các tộc người nói những ngôn ngữ trong khu vực. Đó những nét
giống nhau ngữ vực. dụ: Liên minh ngôn ngữ Ban ng tập hợp các ngôn ng không
quan hệ họ hàng nhưng lại cùng một khu vực địa (Hy lạp, Bungari, Rumani...). Những ngôn
ngữ quốc gia thuộc bán đảo này đã một số yếu tố chung trong vốn từ vựng thành ngữ,
các h thống biến cách, hệ thống âm vị nguyên âm phụ âm... Những nét giống nhau (hay
gần nhau) ngữ vực ng kết quả của các hiện tượng ngôn ngữ học nội tại: đồng quy ngôn
ngữ, giao thoa ngôn ngữ, tích hợp quy tụ trong quá trình hình thành các liên minh ngôn ngữ
khu vực. Giới Đông phương học cũng đang cố gắng chứng minh sự tồn tại của một liên minh
ngôn ngữ Đông Nam Á, bao gồm các ngôn ngữ quốc gia khu vựcĐông Nam Á.
e)
NNHĐC với đặc trưng học: Việc nghiên cứu đối chiếu về bản tập trung vào những
sự khác nhau. trong sự khác nhau được tìm thấy sẽ xuất hiện những gọi đặc trưng của
một ngôn ngữ. dụ: Tiếng Việt tiếng n cùng loại hình ngôn ngữ đơn lập nên nhiều
3
điểm tương đồng nhưng vẫn những điểm dị biệt. Chẳng hạn s khác biệt v vị trí của giới từ
trong tiếng Việt (đặt trước danh từ, danh ngữ) tiếng Hàn (đặt trước danh từ, danh ngữ)
điều y liên quan đến sự khác nhau về trật tự pháp bản (S-V-O của tiếng Việt và S-
O-V của tiếng Hàn).
2.2.2.
Phạm vi ứng dụng thực hành ngôn ngữ:
đây, NNHĐC ớng vào việc nâng cao hiệu qu của quá trình dạy học ngoại ngữ
công việc dịch thuật. Trong đó, NNHĐC đặc biệt hướng o khu vực dạy học ngoại ngữ.
a)
NNHĐC lĩnh vực dạy học ngoại ngữ phạm vi này, NCĐC thể giúp xác định
chính xác những thuận lợi khó khăn những học viên cùng tiếng mẹ đẻ gặp phải khi
học một ngoại ngữ o đó bằng ch phát hiện những điểm ơng đồng khác biệt giữa 2
ngôn ngữ. Đặc biệt nhờ biết được những điểm khác biệt giữa tiếng m đẻ của người học
ngoại ngữ dự đoán được những lỗi người học thể mắc phải để tìm cách phòng tránh
khắc phục. Trong lĩnh vực này xuất hiện mối quan hệ qua lại giữa người giảng, biên soạn
sách giáo khoa ngoại ngữ... người học. Về bản chất, đó mối quan hệ giữa việc "lập mã",
"truyền mã" 'tiếp nhận", "giải mã"... các sự kiện ngoại ngữ. Về phía người biên soạn sách
giáo khoa ngoại ngữ, người giảng dạy ngoại ng nhiệm vụ bắt buộc phải nắm vững các
quy tắc ngữ pháp của ngoại ngữ từ đó lọc ra những cần thiết nhất trong những quy tắc đó để
truyền đạt lại cho người học. Muốn vậy, phải xem xét đối tượng "truyền mã" người học. Học
một ngoại ngữ có đặc điểm ngoại hình gắn với tiếng mẹ đẻ sẽ dễ hơn là học một ngoại ngữ
khác xa về loại nh. Chẳng hạn, một người i tiếng n học tiếng Việt sẽ dễ dàng n là học
tiếng Anh. Đối với một người i tiếng Pháp thì ngược lại, học tiếng Anh sẽ dễ hơn nhiều so
với học tiếng Việt. Tiếng mẹ đẻ ảnh hưởng không nhỏ trong quá trình học ngoại ngữ.
NNHĐC dùng thuật ng chuyển di ngôn ngữ dùng để chỉ sự nh hưởng này.
Quá trình học một ngoại ngữ quá trình nắm bắt một hệ thống thói quen mới. Trong
quá trình đó, những thói quen sử dụng tiếng m đẻ đã ảnh hưởng đến ngoại ngữ. Thuật ng
khoa học để chỉ hiện tượng này "transfert" (chuyển di). Chuyển di ngôn ngữ thường được
hiểu nh hưởng của tiếng mẹ đẻ đối với quá trình học ngoại ngữ. Tuy nhiên, chuyển di
không phải bao giờ cũng ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ. Đôi khi chuyển di còn ảnh hưởng
4
của ngôn ngữ khác người học đã học trước đó. Sự ảnh hưởng y 2 khía cạnh: tích cực
tiêu cực.
*
Chuyển di ch cực: hiện tượng chuyển di những hiểu biết năng sử dụng tiếng
mẹ đẻ vào quá trình học ngoại ngữ, giúp cho việc học ngoại ngữ trở nên dễ dàng hơn do sự
giống nhau giữa tiếng mẹ đẻ ngôn ngữ cần học. thể i, đây loại ảnh hưởng lợi của
của tiếng m đẻ đối với việc nắm bắt những thói quen mới trong ngoại ngữ (hoặc tác động tích
cực của việc học tiếng này sang học tiếng khác những người biết nhiều ngoại ngữ). Hiện
tượng chuyển di tích cực thể hiện tất cả các bình diện ngôn ngữ cả những bình diện ngoài
ngôn ngữ n chữ viết, văn hóa.
*
Chuyển di tiêu cực: m cho việc học ngoại ngữ tr nên khó khăn hơn do áp dụng
không thích hợp những phương tiện, cấu trúc, quy tắc trong tiếng mẹ đ trong quá trình học
ngoại ngữ, làm cho việc sử dụng ngôn ngữ đó bị sai lệch. Nguyên nhân sâu xa của hiện tượng
này sự khác biệt giữa hai ngôn ngữ. thể định nghĩa: Chuyển di tiêu cực (giao thoa ngôn
ngữ) những thói quen s dụng tiếng mẹ đẻ ngoại ngữ (đã học) gây cản trở cho việc nắm
bắt những thói quen mới trong ngoại ngữ đang học. Trong thực tế, bao giờ người học ngoại ngữ
cũng bị chi phối bởi những khó khăn do tiếng mẹ để đưa lại. Sự khác nhau (và khi giống
nhau) giữa tiếng mẹ đẻ ngoại ngữ nguyên nhân trực tiếp gây ra hiện tượng giao thoa ngôn
ngữ trong học tập ngoại ngữ. Giao thoa ngôn ngữ xuất hiện như một vật chướng ngại của người
đang học ngoại ngữ thứ hai. Do vậy, người biên soạn sách, người giảng dạy ngoại ngữ cần phải
nắm được các chuyển di tiêu cực tìm cách khắc phục những lỗi sai thể đã từng xảy ra trong
thực tế. Qua đó, thể giúp người đọc nắm bắt ngoại ngữ một cách tối ưu nhất. Trong quá trình
đối chiếu c ngôn ngữ để khắc phục giao thoa, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ đã chủ trương
phân biệt 4 trường hợp sau:
(1)
Những nét giống nhau cần yếu: Đây những nét giống nhau giữa tiếng mẹ đẻ
ngoại ngữ thể giúp người học chuyển di tích cực thói quen trong tiếng m đẻ vào ngoại ngữ.
Nếu giữa tiếng mẹ đẻ ngoại ngữ đang học càng nhiều điểm giống nhau cần yếu thì quá
trình học ngoại ngữ càng diễn ra thuận lợi.
(2)
Những nét giống nhau không cần yếu: những t giống nhau giữa ngoại ngữ
tiếng mẹ đ không giá trị đối với quá trình chuyển di tích cực của người học (không hề y
5
ảnh hưởng gì cho người biên soạn giáo trình cũng như người học ngoại ngữ). Đây trường
hợp của những phổ niệm ngôn ngữ.
(3)
Những nét khác nhau cần yếu: Đây trường hợp đáng lưu ý nhất. Đó những điểm
khác nhau giữa các ngôn ngữ nhiều khả năng dẫn đến hiện tượng chuyển di tiêu cực (giao
thoa ngôn ngữ).
(4)
Những nét khác nhau không cần yếu: Đây những sự khác nhau không dẫn đến
hiện tượng giao thoa ngôn ng cho người học ngoại ngữ. Như vậy, (2) (4) thực chất sự lật
lại của (1) (3). Đặc điểm G.trị S giống nhau Sự khác nhau Cần yếu Không cần yếu
b)
NCĐC các ngôn ngữ trong quan hệ với lí thuyết phiên dịch
Xây dựng một thuyết phiên dịch nhờ vào việc đối chiếu các ngôn ngữ nghĩa là: chỉ
ra được cái chung về mặt nội dung những đơn vị ngôn ngữ khác nhau trong những ngôn
ngữ khác nhau biểu đạt . Đây sự đồng nhất về ngữ nghĩa của các đơn vị, c phưong tiện
biểu hiện khác nhau. Khi đối chiếu các ngôn ngữ theo mục đích phiên dịch cần phải chú ý đến
"tư cách" của các ngôn ngữ trong hoạt động đối chiếu cụ thể. Các ngôn ngữ trong hoạt động
đối chiếu không hề vai trò bình đẳng: một ngôn ngữ là ngôn ngữ gốc - điểm xuất phát của sự
phân tích đối chiếu; ngôn ngữ thứ hai là ngôn ngữ phiên dịch. Toàn bộ công việc đối chiếu theo
mục đích này thực chất miêu tả hệ thống ngôn ng gốc theo những thuật ng của hệ thống
ngôn ngữ phiên dịch.
c)
Nói thêm về giao thoa c1.
Lưu ý: * Trường hợp học liên tiếp 2 ngoại ng (A B) cũng thể xảy ra hiện ợng
giao thoa: - Nếu trình độ của A càng cao, thì giao thoa của A đối với B càng lớn. Trường hợp
này thường xảy ra giai đoạn đầu của việc học ngoại ngữ mới B. - Giao thoa của A đối với B
càng giảm nếu B ngày càng mạnh hơn. dụ: Người học tiếng Lào chuyển sang học tiếng Thái
hay người học tiếng Nga chuyển sang học tiếng Tiệp, Bun, Balan... * Ranh giới giữa tác động
tích cực tác động tiêu cực nhiều khi rất tế nhị: khi các thói quen trong học tập ngoại ngữ A
B tương tự nhau, d xuất hiện hiện tượng chuyển di tích cực. Khi các thói quen ấy chỉ giống
nhau bộ phận, từng phần một hoặc giống nhau trên đại thể mà phân biệt chi tiết thì dễ nảy
sinh chuyển di tiêu cực.
6
*
Chuyển di ngôn ngữ không xuất hiện một cách bừa bãi, tùy tiện. Chỗ dựa của hiện
tượng này những yếu tố tương đương (chung) o đó giữa tiếng mẹ đẻ ngoại ngữ, dẫn đến
hành vi áp đặt những yếu tố của tiếng mẹ đẻ vào ngoại ngữ. Ngoài ra còn nhiều yếu tố khác
dẫn đến, ảnh hưởng đến chuyển di tiêu cực:
-
Tình huống giao tiếp: nếu như người nói bắt buộc phải nói bằng một ngoại ngữ về một
vấn đ ch quen nói bằng một ngoại ngữ khác thì giao thoa thể xảy ra.
-
Tuổi tác năng lực ngoại ngữ ng những nhân tố đáng chú ý khi xem xét hiện
tượng giao thoa. (Tuổi càng trẻ thì tiếp thu ngoại ngữ càng nhanh, đặc biệt trẻ em, sẽ ít
giao thoa hơn người lớn). Tuy nhiên những kiến thức chuyển di người lớn lại ưu thế hơn
trẻ em.
-
Những người nhiều tuổi, nếu ng nhiều ngoại ngữ thì một phương diện nào đó,
càng khả năng thủ tiêu giao thoa hơn. Họ nhiều kinh nghiệm trong việc tiếp thu ngoại
ngữ, ý thức thể hiện những chuyển di (tích cực) trong quá trình nắm bắt một hệ thống "ký
mã" ngôn ngữ mới.
-
Tất cả những trạng thái bệnh tình cảm đều những nhân tố dễ tạo điều kiện cho
giao thoa ngôn ngữ xuất hiện. (ví dụ: sự đãng trí, m lí căng thẳng, bệnh tật, mệt nhọc...) c2)
Các loại giao thoa
*
Giao thoa ngôn ngữ xét trong đồ giao tiếp: Trong giao tiếp ngôn ngữ có thể xuất
hiện 2 kiểu giao thoa: giao thoa giải giao thoa mã. Người học tiếng nước ngoài, trong
giao tiếp, phải tiến hành những hành vi ngôn ngữ theo đồ sau: Hiểu (tiếp nhận - giải mã)
Ngoại ngữ (N2) Người học
Sản sinh (kiến thiết-lập mã) (thông báo) Giao thoa thể xảy ra khu vực hiểu sản
sinh thông báo N2. Tuy nhiên những tai nạn của loại giao thoa xảy ra lúc tiếp nhận giải
thông báo không nhất thiết phải đối xứng đều đặn với các loại giao thoa tác động đến việc kiến
thiết lập thông báo sai. Trong thực tế, với một thông báo N2, học sinh thể hiểu ràng
nội dung thông báo ấy nhưng lại khó khăn trong việc sản sinh ngược lại.
-
Giao thoa sản sinh thông o (giao thoa ): đối với việc sản sinh thông báo N2,
nếu như N1 (tiếng mẹ đẻ) xuất hiện những phạm trù, những hiện tượng đa nghĩa, thì lập tức
người học sẽ gặp trở ngại trong việc sản sinh những thông báo N2 ơng ứng: họ kh năng
7
áp dụng cấu trúc của tiếng m đẻ vào ngoại ngữ. dụ: "nhà tôi" -> my wife, my house - Giao
thoa tiếp nhận thông báo (giao thoa giải ): đối với việc hiểu thông báo N2, nh đa nghĩa của
các phạm trù, của những hiện ợng ngôn ng N2 dễ dàng gây ảnh hưởng đến việc tiếp nhận
giải thông báo N2. dụ1: He is making a speech. Thông thường người Việt ch nghĩ
đến thời hiện tại tiếp diễn quên mất nghĩa chỉ ơng lai gần của cấu trúc "to be + verb +
ing" dụ 2: Adj - N (attribute) Be - Adj (predicate) Cấu trúc này khác với tiếng Việt nên khi
người Việt học tiếng Anh thì thường có giao thoa.
*
Giao thoa ngôn ngữ xét trong chế hoạt động của nó: Học cả 2 thứ tiếng hoàn toàn
khác nhau, trên thực tế, không hẳn đã gây một số ợng giao thoa tối đa như nhiều người vẫn
nghĩ. Đôi khi tiếp cận 2 ngôn ngữ như vậy lại phần dễ dàng hơn học 2 thứ tiếng giống nhau.
Điều này cũng tương tự như việc học bơi không hề gây cản trở việc học đàn piano. Nhưng với
người lái xe Việt Nam đã quen với cách lái xe bên phải thì học lái xe bên trái đường điều khó
khăn. Cho nên những ngôn ngữ chúng ta tiếp cận càng giống nhau bao nhiêu càng dễ giao
thoa bấy nhiêu. Bởi sẽ không sự giống nhau hoàn toàn giữa 2 ngôn ngữ. Chính trên những
nét giống nhau thường tồn tại những điểm khác biệt tinh tế. Chúng những cái gây "tai nạn
tinh quái" trong giao thoa ngôn ngữ. Dựa trên chế hoạt động ngôn ngữ, các giao thoa thể
qui o những kiểu loại chung nhất sau đây:
*
Giao thoa hệ dọc giao thoa hệ ngang: Toàn bộ các đơn v ngôn ngữ hoạt động theo 2
trục: trục lựa chọn trục kết hợp. Ngôn ngữ o cũng vậy nhưng các ngôn ngữ đều khác nhau
hình thức lựa chọn cách thức sắp xếp, phân bố các hiệu trên 2 trục ấy. Do đó đã xuất
hiện giao thoa hệ dọc giao thoa hệ ngang khi ảnh hưởng bất lợi từ N1 đến N2.
dụ: Giao thoa hệ dọc vì đã lựa chọn từ không đúng trên trục dọc: (1) I ' ve been here
since Monday. -> I ' m here since Monday (người Việt). (2) Các động t đi với bổ ngữ trực tiếp:
give sb st - give st to sb -> give st for sb get married to s.o -> get married with s.o Giao thoa hệ
dọc thường xuất hiện trong phiên dịch khi chọn từ, người ta thường chọn từ sai trong bối cảnh
ngôn ngữ cụ thể do hiện tượng đa nghĩa, người dịch xu ớng gắn với yếu tố phiên dịch
không chú ý đến ng cảnh, đến ngữ dụng học. dụ: n tôi nửa cân thịt, cho thêm 2 lạng chả.
Giao thoa hệ ngang: sở của quan hệ tuyến tính. Các đơn vị ngôn ngữ lần lượt xuất hiện
trên trục ngang.
8
dụ: giữa tiếng Việt, tiếng Khơ me tiếng o đều hoàn toàn sự giống nhau về số
lượng các yếu tố cấu tạo đoản ngữ danh từ nhưng về trật tự sắp xếp các yếu tố trên hình tuyến
thì lại khác nhau về sự phân b các vị trí giữa yếu tố danh từ trung tâm đoản ngữ các yếu
tố phụ. So sánh: Ba con (Việt) Moan bây kôn (Khơme) Cày xảm (Lào) Do áp lực của
tiếng Việt, người Việt khi nói tiếng Khơ me tiếng o dễ sản sinh đoản ngữ giao thoa: Bây
kôn moan; xảm cày.
*
Giao thoa mặt biểu hiện giao thoa mặt được biểu hiện: hiệu ngôn ngữ thuộc tính
hai mặt: cái biểu hiện cái được biểu hiện. Do vậy, các giao thoa thể xảy ra theo 2 kiểu:
giao thoa mặt biểu hiện giao mặt được biểu hiện tất cả c ngôn ngữ. Giao thoa mặt biểu
hiện giao thoa mặt được biểu hiện có thể xảy ra tất c các loại hiệu ngôn ngữ. - Giao
thoa mặt được biểu hiện: giữa 2 ngôn ngữ đối chiếu những hiệu ơng đương cùng hình
thức biểu đạt nhưng nội dung hiệu lại không đồng nhất thì trường hợp này dễ gây ra giao
thoa mặt được biểu hiện (những ngôn ng tương đối gần nhau về khu vực địa lí, những ngôn
ngữ quan hệ họ hàng, những ngôn ngữ vay mượn nhau thường xảy ra giao thoa kiểu này).
Các hiệu (từ, ngữ, câu) đa nghĩa N2 thường bị những "áp lực tự nhiên" của N1 chi phối.
-
Giao thoa mặt biểu hiện: Giữa 2 ngôn ngữ đối chiếu, các hiệu có cùng nội dung biểu đạt
nhưng lại khu biệt nhau về hình thức biểu đạt. Hiện tượng này thường xảy ra các kết cấu
đồng nghĩa. -> He speaks that ' true. (s) ; He says that ' true. (đ)
*
Giao thoa tôn ti: Bên cạnh quan hệ ngang quan hệ dọc, giữa các đơn vị ngôn ngữ
còn quan hệ tôn ti. Đây quan hệ bao m nhau giữa các đơn vị ngôn ng c cấp độ
khác nhau. Giao thoa này xuất hiện do những nh hưởng của tiếng mẹ đẻ o ngoại ngữ.
dụ: áo dài, hoa hồng Người nước ngoài thường nhầm đơn vị nh vị với từ.
*
Giao thoa do yếu tố văn hóa c động: Trong giao tiếp, người Anh khi chào thường
gắn với hỏi thăm sức khỏe. Người Việt người Đông Nam Á i chung thường hỏi về gia
đình, ăn uống... vậy, người Đông Nam Á thường mắc lỗi: Where are you going?; Have you
got family of your own?; Have you got dinner yet?...
Tóm lại: Hiểu biết về những tương đồng khác biệt giữa ngoại ngữ tiếng mẹ đẻ
chắc chắn s đem lại những bổ ích để hạn chế những chuyển di tiêu cực, khắc sâu hơn những
9
kiến thức về ngoại ngữ đang học. Tuy nhiên, nhiều giáo viên ngoại ngữ không kiến thức u
rộng c về ngoại ngữ tiếng mẹ đẻ, đây điều đáng tiếc.
10

Preview text:

BÀI 2 NHIỆM VỤ CỦA NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU
2.1. Những quan điểm khác nhau về nhiệm vụ của ngôn ngữ học đối chiếu
Tựu trung, có 4 loại ý kiến khác nhau:
2.1.1. Loại ý kiến thứ nhất: Chủ trương NNHĐC phải truy tìm những nét khác biệt giữa
các ngôn ngữ. Chủ trương này xuất phát từ 1 phạm vi rất hẹp: đó là công tác giảng dạy và học
tập ngoại ngữ. Chính những nét khác nhau giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ sẽ làm cho người học
gặp phải những khó khăn nhất định; trong khi những gì giống nhau giữa ngoại ngữ và tiếng mẹ
đẻ sẽ được tiếp thu một cách dễ dàng. Những nhà ngôn ngữ học có ý kiến thuộc loại này là: A.
Refomaski (1962), R. Lado (1964). .
2.1.2. Loại ý kiến thứ hai: Chủ trương NNHĐC phải truy tìm những nét khác biệt quan
trọng nhất giữa các ngôn ngữ. Như vậy, cơ sở lý luận của chủ trương này là sự phân biệt 2 kiểu
khác biệt: nét khác biệt thông thường và nét khác biệt quan trọng. Thế nhưng, lấy gì làm cơ sở
để nói rằng giữa 2 ngôn ngữ đối chiếu, đây là nét khác biệt quan trọng nhất còn cái kia thì
không? Điều này tùy thuộc vào các mục đích nghiên cứu khác nhau. Đại biểu cho ý kiến này là B.L.Wolf (1960)
2.1.3. Loại ý kiến thứ ba: Chủ trương NNHĐC phải hướng tới cả những sự giống nhau
bên cạnh những nét khác biệt giữa các ngôn ngữ. Khuynh hướng này cho rằng: sự giống nhau
giữa các ngôn ngữ là cái cơ sở tối thiểu đảm bảo cho công việc đối chiếu trở nên có kết quả.
Một loại giống nhau mà ngôn ngữ học so sánh - đối chiếu phải để tâm tới là sự giống nhau về
chức năng và hoạt động ngôn ngữ. Đại biểu cho ý kiến này là Akhmanova (1972), Lê Quang Thiêm (1983).
2.1.4. Loại ý kiến thứ tư: Chủ trương bên cạnh những sự giống nhau và khác nhau, việc
NCĐC cần phải lưu ý đến cả những sự tương ứng và bất tương ứng giữa các ngôn ngữ; đồng
thời làm sáng tỏ những mối quan hệ nguyên nhân giữa các hiện tượng đó. Đại biểu cho ý kiến này là V.M.Avramop (1965)
2.2. Dựa vào phạm vi ứng dụng của ngôn ngữ học đối chiếu để xác định nhiệm vụ
cụ thể của ngôn ngữ học đối chiếu 1
Vấn đề phạm vi phân giới của nghiên cứu đối chiếu phải được giải quyết trên căn bản
mục đích đối chiếu. Phạm vi phân giới cụ thể của việc NCĐC phải được giải quyết trên căn bản
mục đích của ngành học. Trong đó cần phải xây dựng một hệ thống lí luận về các nét, các tiêu
chí, các đặc trưng và quan trọng hơn cả là phân định được các kiểu loại; các sự giống nhau và
khác nhau; sự tương ứng và bất tương ứng; tính chất, tỉ lệ, mức độ quan tâm đến chúng trong
những mục đích đối chiếu khác nhau. Nhiệm vụ cụ thể của NCĐC các ngôn ngữ chắc chắn sẽ
rõ hơn nếu chú ý đến sự phân biệt và hợp nhất hai phạm vi ứng dụng của phân tích đối chiếu.
2.2.1. Phạm vi ứng dụng lí thuyết ngôn ngữ học
Ở phạm vi này cần chú ý đến những nhiệm vụ cụ thể của NCĐC đối với ngôn ngữ học
đại cương, loại hình học, ngôn ngữ học so sánh - lịch sử, và ngôn ngữ học so sánh - khu vực (ngữ vực học).
a) NNHĐC với ngôn ngữ học đại cương (phổ niệm học ngôn ngữ): Việc nghiên cứu đối
chiếu chỉ tập trung vào những sự giống nhau. Nhưng đây là sự giống nhau chung nhất giữa các
ngôn ngữ - những sự giống nhau mang tính chất phổ biến. Cái đơn vị nhận biết có tính chất
định hướng cho việc nghiên cứu phổ niệm là những nét chung nhất của mọi ngôn ngữ.
b) NNHĐC với loại hình học: Việc NCĐC về cơ bản tập trung vào những sự giống
nhau có đặc tính loại hình. Dựa vào những sự giống nhau như vậy mới có thể tập hợp các ngôn
ngữ thành những kiểu loại hình nhất định. Ví dụ: Từ đầu thế kỷ thứ XIX, F. Schlegel đã đối
chiếu tiếng Sancrit với tiếng Hy Lạp, tiếng La tinh, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ để đi đến chỗ xác định
hai loại hình ngôn ngữ là loại hình ngôn ngữ khuất chiết và loại hình ngôn ngữ chắp dính. Việc
NCĐC thường tập trung vào:
1. Những nét chung nhất cho mọi ngôn ngữ;
2. Những nét chiếm ưu thế trong nhiều ngôn ngữ;
3. Những nét phổ biến ở một số ngôn ngữ;
4. Những nét riêng của một ngôn ngữ.
Nhờ vậy, từ các ngôn ngữ cùng loại hình có thể xác định ra các tiểu loại hình. Bởi vì,
các ngôn ngữ ở những kiểu loại hình nhất định lại có sự khu biệt lẫn nhau. Tóm lại, NNHĐC
cung cấp cho loại hình học nhiều tư liệu cụ thể về cấu trúc và hoạt động của các ngôn ngữ cùng
và khác loại hình, góp phần làm rõ đặc trưng của từng loại hình ngôn ngữ và bổ sung cho loại 2
hình học những hướng nghiên cứu mới. Ngược lại, nhờ những kết quả nghiên cứu của loại hình
học mà NNHĐC có được cơ sở để giải thích các hiện tượng tương đồng và dị biệt giữa các
ngôn ngữ. Đồng thời, kết quả phân loại loại hình các ngôn ngữ có thể giúp ích rất nhiều cho
việc miêu tả các ngôn ngữ mới lạ, vì chỉ cần biết được một vài đặc điểm nhất định của một
ngôn ngữ ta có thể xác định nó thuộc loại hình ngôn ngữ nào, từ đó, dựa vào hiểu biết về loại
hình ngôn ngữ này để định hướng việc nghiên cứu ngôn ngữ đang xét. Ví dụ: Ở giai đoạn mở
đầu khi nghiên cứu tiếng Việt, Thái, Miến, nhờ biết chúng cùng loại hình với tiếng Hán nên
dựa vào kinh nghiệm nghiên cứu Hán ngữ học, các nhà nghiên cứu đã đẩy nhanh tiến độ
nghiên cứu các ngôn ngữ trên.
c) NNHĐC với NNH so sánh lịch sử:
Nghiên cứu đối chiếu dựa vào việc truy tìm những sự giống nhau trên những hiện tượng
khác nhau. Đơn vị nhận biết có tính chất định hướng cho việc so sánh- lịch sử ở đây là những
nét tương đồng lịch sử. Tìm hiểu và xác lập những nét tương đồng kiểu này sẽ giúp nhà NNH
chỉ ra được những mối quan hệ lịch sử giữa các ngôn ngữ trong ngữ hệ, một nhóm ngôn ngữ. .
thuộc cùng một gia đình.
d) NNHĐC với ngữ vực học: NCĐC cơ bản nhằm vào những sự giống nhau giữa các
ngôn ngữ trong cùng một khu vực. Những sự giống nhau này vốn là kết quả của quá trình tiếp
xúc lịch sử - văn hóa của các tộc người nói những ngôn ngữ trong khu vực. Đó là những nét
giống nhau ngữ vực. Ví dụ: Liên minh ngôn ngữ Ban Căng là tập hợp các ngôn ngữ không có
quan hệ họ hàng nhưng lại cùng một khu vực địa lý (Hy lạp, Bungari, Rumani. .). Những ngôn
ngữ quốc gia thuộc bán đảo này đã có một số yếu tố chung trong vốn từ vựng và thành ngữ, ở
các hệ thống biến cách, ở hệ thống âm vị nguyên âm và phụ âm. . Những nét giống nhau (hay
gần nhau) ngữ vực cũng là kết quả của các hiện tượng ngôn ngữ học nội tại: đồng quy ngôn
ngữ, giao thoa ngôn ngữ, tích hợp và quy tụ trong quá trình hình thành các liên minh ngôn ngữ
khu vực. Giới Đông phương học cũng đang cố gắng chứng minh sự tồn tại của một liên minh
ngôn ngữ Đông Nam Á, bao gồm các ngôn ngữ quốc gia ở khu vựcĐông Nam Á.
e) NNHĐC với đặc trưng học: Việc nghiên cứu đối chiếu về cơ bản tập trung vào những
sự khác nhau. Vì trong sự khác nhau được tìm thấy sẽ xuất hiện những gì gọi là đặc trưng của
một ngôn ngữ. Ví dụ: Tiếng Việt và tiếng Hàn cùng loại hình ngôn ngữ đơn lập nên có nhiều 3
điểm tương đồng nhưng vẫn có những điểm dị biệt. Chẳng hạn sự khác biệt về vị trí của giới từ
trong tiếng Việt (đặt trước danh từ, danh ngữ) và tiếng Hàn (đặt trước danh từ, danh ngữ) và
điều này có liên quan đến sự khác nhau về trật tự cú pháp cơ bản (S-V-O của tiếng Việt và S- O-V của tiếng Hàn).
2.2.2. Phạm vi ứng dụng thực hành ngôn ngữ:
Ở đây, NNHĐC hướng vào việc nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học ngoại ngữ và
công việc dịch thuật. Trong đó, NNHĐC đặc biệt hướng vào khu vực dạy học ngoại ngữ.
a) NNHĐC và lĩnh vực dạy học ngoại ngữ Ở phạm vi này, NCĐC có thể giúp xác định
chính xác những thuận lợi và khó khăn mà những học viên có cùng tiếng mẹ đẻ gặp phải khi
học một ngoại ngữ nào đó bằng cách phát hiện những điểm tương đồng và khác biệt giữa 2
ngôn ngữ. Đặc biệt là nhờ biết được những điểm khác biệt giữa tiếng mẹ đẻ của người học và
ngoại ngữ mà dự đoán được những lỗi mà người học có thể mắc phải để tìm cách phòng tránh
và khắc phục. Trong lĩnh vực này xuất hiện mối quan hệ qua lại giữa người giảng, biên soạn
sách giáo khoa ngoại ngữ. . và người học. Về bản chất, đó là mối quan hệ giữa việc "lập mã",
"truyền mã" và 'tiếp nhận", "giải mã". . các sự kiện ngoại ngữ. Về phía người biên soạn sách
giáo khoa ngoại ngữ, người giảng dạy ngoại ngữ có nhiệm vụ bắt buộc là phải nắm vững các
quy tắc ngữ pháp của ngoại ngữ từ đó lọc ra những gì cần thiết nhất trong những quy tắc đó để
truyền đạt lại cho người học. Muốn vậy, phải xem xét đối tượng "truyền mã" là người học. Học
một ngoại ngữ có đặc điểm ngoại hình gắn với tiếng mẹ đẻ sẽ dễ hơn là học một ngoại ngữ
khác xa về loại hình. Chẳng hạn, một người nói tiếng Hán học tiếng Việt sẽ dễ dàng hơn là học
tiếng Anh. Đối với một người nói tiếng Pháp thì ngược lại, học tiếng Anh sẽ dễ hơn nhiều so
với học tiếng Việt. Tiếng mẹ đẻ có ảnh hưởng không nhỏ trong quá trình học ngoại ngữ.
NNHĐC dùng thuật ngữ chuyển di ngôn ngữ dùng để chỉ sự ảnh hưởng này.
Quá trình học một ngoại ngữ là quá trình nắm bắt một hệ thống thói quen mới. Trong
quá trình đó, những thói quen sử dụng tiếng mẹ đẻ đã ảnh hưởng đến ngoại ngữ. Thuật ngữ
khoa học để chỉ hiện tượng này là "transfert" (chuyển di). Chuyển di ngôn ngữ thường được
hiểu là ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ đối với quá trình học ngoại ngữ. Tuy nhiên, chuyển di
không phải bao giờ cũng là ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ. Đôi khi chuyển di còn là ảnh hưởng 4
của ngôn ngữ khác mà người học đã học trước đó. Sự ảnh hưởng này có 2 khía cạnh: tích cực và tiêu cực.
* Chuyển di tích cực: là hiện tượng chuyển di những hiểu biết và kĩ năng sử dụng tiếng
mẹ đẻ vào quá trình học ngoại ngữ, giúp cho việc học ngoại ngữ trở nên dễ dàng hơn do có sự
giống nhau giữa tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ cần học. Có thể nói, đây là loại ảnh hưởng có lợi của
của tiếng mẹ đẻ đối với việc nắm bắt những thói quen mới trong ngoại ngữ (hoặc tác động tích
cực của việc học tiếng này sang học tiếng khác ở những người biết nhiều ngoại ngữ). Hiện
tượng chuyển di tích cực thể hiện ở tất cả các bình diện ngôn ngữ và cả những bình diện ngoài
ngôn ngữ như chữ viết, văn hóa.
* Chuyển di tiêu cực: làm cho việc học ngoại ngữ trở nên khó khăn hơn do áp dụng
không thích hợp những phương tiện, cấu trúc, quy tắc trong tiếng mẹ đẻ trong quá trình học
ngoại ngữ, làm cho việc sử dụng ngôn ngữ đó bị sai lệch. Nguyên nhân sâu xa của hiện tượng
này là sự khác biệt giữa hai ngôn ngữ. Có thể định nghĩa: Chuyển di tiêu cực (giao thoa ngôn
ngữ) là những thói quen sử dụng tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ (đã học) gây cản trở cho việc nắm
bắt những thói quen mới trong ngoại ngữ đang học. Trong thực tế, bao giờ người học ngoại ngữ
cũng bị chi phối bởi những khó khăn do tiếng mẹ để đưa lại. Sự khác nhau (và có khi giống
nhau) giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ là nguyên nhân trực tiếp gây ra hiện tượng giao thoa ngôn
ngữ trong học tập ngoại ngữ. Giao thoa ngôn ngữ xuất hiện như một vật chướng ngại của người
đang học ngoại ngữ thứ hai. Do vậy, người biên soạn sách, người giảng dạy ngoại ngữ cần phải
nắm được các chuyển di tiêu cực tìm cách khắc phục những lỗi sai có thể đã từng xảy ra trong
thực tế. Qua đó, có thể giúp người đọc nắm bắt ngoại ngữ một cách tối ưu nhất. Trong quá trình
đối chiếu các ngôn ngữ để khắc phục giao thoa, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ đã chủ trương
phân biệt 4 trường hợp sau:
(1) Những nét giống nhau cần yếu: Đây là những nét giống nhau giữa tiếng mẹ đẻ và
ngoại ngữ có thể giúp người học chuyển di tích cực thói quen trong tiếng mẹ đẻ vào ngoại ngữ.
Nếu giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ đang học có càng nhiều điểm giống nhau cần yếu thì quá
trình học ngoại ngữ càng diễn ra thuận lợi.
(2) Những nét giống nhau không cần yếu: Là những nét giống nhau giữa ngoại ngữ và
tiếng mẹ đẻ không có giá trị đối với quá trình chuyển di tích cực của người học (không hề gây 5
ảnh hưởng gì cho người biên soạn giáo trình cũng như người học ngoại ngữ). Đây là trường
hợp của những phổ niệm ngôn ngữ.
(3) Những nét khác nhau cần yếu: Đây là trường hợp đáng lưu ý nhất. Đó là những điểm
khác nhau giữa các ngôn ngữ có nhiều khả năng dẫn đến hiện tượng chuyển di tiêu cực (giao thoa ngôn ngữ).
(4) Những nét khác nhau không cần yếu: Đây là những sự khác nhau không dẫn đến
hiện tượng giao thoa ngôn ngữ cho người học ngoại ngữ. Như vậy, (2) và (4) thực chất là sự lật
lại của (1) và (3). Đặc điểm G.trị Sự giống nhau Sự khác nhau Cần yếu Không cần yếu
b) NCĐC các ngôn ngữ trong quan hệ với lí thuyết phiên dịch
Xây dựng một lý thuyết phiên dịch nhờ vào việc đối chiếu các ngôn ngữ có nghĩa là: chỉ
ra được cái chung về mặt nội dung mà những đơn vị ngôn ngữ khác nhau trong những ngôn
ngữ khác nhau biểu đạt nó. Đây là sự đồng nhất về ngữ nghĩa của các đơn vị, các phưong tiện
biểu hiện khác nhau. Khi đối chiếu các ngôn ngữ theo mục đích phiên dịch cần phải chú ý đến
"tư cách" của các ngôn ngữ trong hoạt động đối chiếu cụ thể. Các ngôn ngữ trong hoạt động
đối chiếu không hề có vai trò bình đẳng: một ngôn ngữ là ngôn ngữ gốc - điểm xuất phát của sự
phân tích đối chiếu; ngôn ngữ thứ hai là ngôn ngữ phiên dịch. Toàn bộ công việc đối chiếu theo
mục đích này thực chất là miêu tả hệ thống ngôn ngữ gốc theo những thuật ngữ của hệ thống ngôn ngữ phiên dịch.
c) Nói thêm về giao thoa c1.
Lưu ý: * Trường hợp học liên tiếp 2 ngoại ngữ (A và B) cũng có thể xảy ra hiện tượng
giao thoa: - Nếu trình độ của A càng cao, thì giao thoa của A đối với B càng lớn. Trường hợp
này thường xảy ra ở giai đoạn đầu của việc học ngoại ngữ mới B. - Giao thoa của A đối với B
càng giảm nếu B ngày càng mạnh hơn. Ví dụ: Người học tiếng Lào chuyển sang học tiếng Thái
hay người học tiếng Nga chuyển sang học tiếng Tiệp, Bun, Balan. . * Ranh giới giữa tác động
tích cực và tác động tiêu cực nhiều khi rất tế nhị: khi các thói quen trong học tập ngoại ngữ A
và B tương tự nhau, dễ xuất hiện hiện tượng chuyển di tích cực. Khi các thói quen ấy chỉ giống
nhau bộ phận, từng phần một hoặc giống nhau trên đại thể mà phân biệt ở chi tiết thì dễ nảy sinh chuyển di tiêu cực. 6
* Chuyển di ngôn ngữ không xuất hiện một cách bừa bãi, tùy tiện. Chỗ dựa của hiện
tượng này là những yếu tố tương đương (chung) nào đó giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ, dẫn đến
hành vi áp đặt những yếu tố của tiếng mẹ đẻ vào ngoại ngữ. Ngoài ra còn có nhiều yếu tố khác
dẫn đến, ảnh hưởng đến chuyển di tiêu cực:
- Tình huống giao tiếp: nếu như người nói bắt buộc phải nói bằng một ngoại ngữ về một
vấn đề chỉ quen nói bằng một ngoại ngữ khác thì giao thoa có thể xảy ra.
- Tuổi tác và năng lực ngoại ngữ cũng là những nhân tố đáng chú ý khi xem xét hiện
tượng giao thoa. (Tuổi càng trẻ thì tiếp thu ngoại ngữ càng nhanh, đặc biệt là trẻ em, sẽ có ít
giao thoa hơn người lớn). Tuy nhiên những kiến thức chuyển di ở người lớn lại có ưu thế hơn trẻ em.
- Những người nhiều tuổi, nếu càng có nhiều ngoại ngữ thì ở một phương diện nào đó,
càng có khả năng thủ tiêu giao thoa hơn. Họ có nhiều kinh nghiệm trong việc tiếp thu ngoại
ngữ, có ý thức thể hiện những chuyển di (tích cực) trong quá trình nắm bắt một hệ thống "ký mã" ngôn ngữ mới.
- Tất cả những trạng thái bệnh lý và tình cảm đều là những nhân tố dễ tạo điều kiện cho
giao thoa ngôn ngữ xuất hiện. (ví dụ: sự đãng trí, tâm lí căng thẳng, bệnh tật, mệt nhọc. .) c2) Các loại giao thoa
* Giao thoa ngôn ngữ xét trong sơ đồ giao tiếp: Trong giao tiếp ngôn ngữ có thể xuất
hiện 2 kiểu giao thoa: giao thoa giải mã và giao thoa ký mã. Người học tiếng nước ngoài, trong
giao tiếp, phải tiến hành những hành vi ngôn ngữ theo sơ đồ sau: Hiểu (tiếp nhận - giải mã)
Ngoại ngữ (N2) Người học
Sản sinh (kiến thiết-lập mã) (thông báo) Giao thoa có thể xảy ra ở khu vực hiểu và sản
sinh thông báo N2. Tuy nhiên những tai nạn của loại giao thoa xảy ra lúc tiếp nhận và giải mã
thông báo không nhất thiết phải đối xứng đều đặn với các loại giao thoa tác động đến việc kiến
thiết và lập mã thông báo sai. Trong thực tế, với một thông báo N2, học sinh có thể hiểu rõ ràng
nội dung thông báo ấy nhưng lại khó khăn trong việc sản sinh nó và ngược lại.
- Giao thoa sản sinh thông báo (giao thoa kí mã): đối với việc sản sinh thông báo N2,
nếu như N1 (tiếng mẹ đẻ) xuất hiện những phạm trù, những hiện tượng đa nghĩa, thì lập tức
người học sẽ gặp trở ngại trong việc sản sinh những thông báo N2 tương ứng: họ có khả năng 7
áp dụng cấu trúc của tiếng mẹ đẻ vào ngoại ngữ. Ví dụ: "nhà tôi" -> my wife, my house - Giao
thoa tiếp nhận thông báo (giao thoa giải mã): đối với việc hiểu thông báo N2, tính đa nghĩa của
các phạm trù, của những hiện tượng ngôn ngữ ở N2 dễ dàng gây ảnh hưởng đến việc tiếp nhận
và giải mã thông báo N2. Ví dụ1: He is making a speech. Thông thường người Việt chỉ nghĩ
đến thời hiện tại tiếp diễn mà quên mất nghĩa chỉ tương lai gần của cấu trúc "to be + verb +
ing" Ví dụ 2: Adj - N (attribute) Be - Adj (predicate) Cấu trúc này khác với tiếng Việt nên khi
người Việt học tiếng Anh thì thường có giao thoa.
* Giao thoa ngôn ngữ xét trong cơ chế hoạt động của nó: Học cả 2 thứ tiếng hoàn toàn
khác nhau, trên thực tế, không hẳn đã gây một số lượng giao thoa tối đa như nhiều người vẫn
nghĩ. Đôi khi tiếp cận 2 ngôn ngữ như vậy lại có phần dễ dàng hơn học 2 thứ tiếng giống nhau.
Điều này cũng tương tự như việc học bơi không hề gây cản trở việc học đàn piano. Nhưng với
người lái xe Việt Nam đã quen với cách lái xe bên phải thì học lái xe bên trái đường là điều khó
khăn. Cho nên những ngôn ngữ mà chúng ta tiếp cận càng giống nhau bao nhiêu càng dễ giao
thoa bấy nhiêu. Bởi vì sẽ không có sự giống nhau hoàn toàn giữa 2 ngôn ngữ. Chính trên những
nét giống nhau thường tồn tại những điểm khác biệt tinh tế. Chúng là những cái gây "tai nạn
tinh quái" trong giao thoa ngôn ngữ. Dựa trên cơ chế hoạt động ngôn ngữ, các giao thoa có thể
qui vào những kiểu loại chung nhất sau đây:
* Giao thoa hệ dọc và giao thoa hệ ngang: Toàn bộ các đơn vị ngôn ngữ hoạt động theo 2
trục: trục lựa chọn và trục kết hợp. Ngôn ngữ nào cũng vậy nhưng các ngôn ngữ đều khác nhau
ở hình thức lựa chọn và cách thức sắp xếp, phân bố các ký hiệu trên 2 trục ấy. Do đó đã xuất
hiện giao thoa hệ dọc và giao thoa hệ ngang khi có ảnh hưởng bất lợi từ N1 đến N2.
Ví dụ: Giao thoa hệ dọc vì đã lựa chọn từ không đúng trên trục dọc: (1) I ' ve been here
since Monday. -> I ' m here since Monday (người Việt). (2) Các động từ đi với bổ ngữ trực tiếp:
give sb st - give st to sb -> give st for sb get married to s.o -> get married with s.o Giao thoa hệ
dọc thường xuất hiện trong phiên dịch khi chọn từ, người ta thường chọn từ sai trong bối cảnh
ngôn ngữ cụ thể do hiện tượng đa nghĩa, người dịch có xu hướng gắn với yếu tố phiên dịch mà
không chú ý đến ngữ cảnh, đến ngữ dụng học. Ví dụ: Bán tôi nửa cân thịt, cho thêm 2 lạng chả.
Giao thoa hệ ngang: cơ sở của nó là quan hệ tuyến tính. Các đơn vị ngôn ngữ lần lượt xuất hiện trên trục ngang. 8
Ví dụ: giữa tiếng Việt, tiếng Khơ me và tiếng Lào đều hoàn toàn có sự giống nhau về số
lượng các yếu tố cấu tạo đoản ngữ danh từ nhưng về trật tự sắp xếp các yếu tố trên hình tuyến
thì lại có khác nhau về sự phân bố các vị trí giữa yếu tố danh từ trung tâm đoản ngữ và các yếu
tố phụ. So sánh: Ba con gà (Việt) Moan bây kôn (Khơme) Cày xảm tô (Lào) Do áp lực của
tiếng Việt, người Việt khi nói tiếng Khơ me và tiếng Lào dễ sản sinh đoản ngữ giao thoa: Bây kôn moan; xảm tô cày.
* Giao thoa mặt biểu hiện và giao thoa mặt được biểu hiện: Ký hiệu ngôn ngữ có thuộc tính
hai mặt: cái biểu hiện và cái được biểu hiện. Do vậy, các giao thoa có thể xảy ra theo 2 kiểu:
giao thoa mặt biểu hiện và giao mặt được biểu hiện ở tất cả các ngôn ngữ. Giao thoa mặt biểu
hiện và giao thoa mặt được biểu hiện có thể xảy ra ở tất cả các loại kí hiệu ngôn ngữ. - Giao
thoa mặt được biểu hiện: giữa 2 ngôn ngữ đối chiếu những kí hiệu tương đương có cùng hình
thức biểu đạt nhưng nội dung kí hiệu lại không đồng nhất thì trường hợp này dễ gây ra giao
thoa mặt được biểu hiện (những ngôn ngữ tương đối gần nhau về khu vực địa lí, những ngôn
ngữ có quan hệ họ hàng, những ngôn ngữ có vay mượn nhau thường xảy ra giao thoa kiểu này).
Các kí hiệu (từ, ngữ, câu) đa nghĩa ở N2 thường bị những "áp lực tự nhiên" của N1 chi phối.
- Giao thoa mặt biểu hiện: Giữa 2 ngôn ngữ đối chiếu, các kí hiệu có cùng nội dung biểu đạt
nhưng lại khu biệt nhau về hình thức biểu đạt. Hiện tượng này thường xảy ra ở các kết cấu
đồng nghĩa. -> He speaks that ' true. (s) ; He says that ' true. (đ)
* Giao thoa tôn ti: Bên cạnh quan hệ ngang và quan hệ dọc, giữa các đơn vị ngôn ngữ
còn có quan hệ tôn ti. Đây là quan hệ bao hàm nhau giữa các đơn vị ngôn ngữ ở các cấp độ
khác nhau. Giao thoa này xuất hiện do những ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ vào ngoại ngữ.
Ví dụ: áo dài, hoa hồng Người nước ngoài thường nhầm đơn vị hình vị với từ.
* Giao thoa do yếu tố văn hóa tác động: Trong giao tiếp, người Anh khi chào thường
gắn với hỏi thăm sức khỏe. Người Việt và người Đông Nam Á nói chung thường hỏi về gia
đình, ăn uống. . Vì vậy, người Đông Nam Á thường mắc lỗi: Where are you going?; Have you
got family of your own?; Have you got dinner yet?. .
Tóm lại: Hiểu biết về những tương đồng và khác biệt giữa ngoại ngữ và tiếng mẹ đẻ
chắc chắn sẽ đem lại những bổ ích để hạn chế những chuyển di tiêu cực, khắc sâu hơn những 9
kiến thức về ngoại ngữ đang học. Tuy nhiên, nhiều giáo viên ngoại ngữ không có kiến thức sâu
rộng cả về ngoại ngữ và tiếng mẹ đẻ, đây là điều đáng tiếc. 10
Document Outline

  • BÀI 2 NHIỆM VỤ CỦA NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU
  • 1
    • 2.2.1.Phạm vi ứng dụng lí thuyết ngôn ngữ học
  • 2
  • 3
    • 2.2.2.Phạm vi ứng dụng thực hành ngôn ngữ:
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7
  • 8